Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của hồ chí minh vào xây dựng tinh thần đoàn kết trong sinh viên đại học bách khoa hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.52 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

BÁO CÁO TIỂU LUẬN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài : Vận dụng tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh vào xây dựng tinh thần đoàn kết trong sinh viên
Đại học Bách Khoa Hà Nội.
GVHD :

PHẠM THỊ MAI DUYÊN

Sinh viên

MSSV

Nguyễn Thành Đạt

20185754

Bùi Văn Mạnh

20185857

Đào Duy Nam

20185867


MỞ ĐẦU 
     


  I, Lý do chọn đề tài. 
 Hồ Chí Minh được tổ chức UNESCO ghi nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam,
nhà văn hóa kiệt xuất. Ngay từ lúc ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới một
xã hội mới tự do, hạnh phúc, khơng có áp bức, bóc lột, bất cơng. Trên cơ sở truyền thống
tốt đẹp của nền văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiếp thu,
chắt lọc tinh hoa văn hóa phương Đơng, phương Tây, văn hóa mácxít, từng bước xây dựng
lý luận văn hóa.  
 Tháng 8-1943, khi cịn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh nêu ra
một định nghĩa về văn hóa:"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" 
 Hồ Chủ tịch đã để lại cho dân tộc và nhân loại một di sản đồ sộ, vơ cùng q báu. Đó là cuộc
đời, sự nghiệp, tư tưởng, và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong kho tàng ấy, Tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ một vị trí đặc biệt. Cùng với Chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
trở thành “kim chỉ nam cho hành động” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đó là thứ vũ
khí lý luận vơ cùng sắc bén, là ngọn hải đăng soi đường chỉ lối cho dân tộc Việt Nam tiến về
phía trước. 
 Việc  nghiên  cứu  về Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng  Hồ Chí Minh nói riêng đã được  tiến 
hành  từ mấy  chục năm  nay  với  sự góp  mặt  của đơng đảo  các  nhà  nghiên  cứu trong và
ngồi nước. Trong q trình nghiên cứu ấy, các nhà lý luận một mặt làm rõ khái niệm, các
nội dung cụ thể của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Một trong số ấy khơng thể khơng nói tới giá trị
của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Tư tưởng của Người về văn hóa khơng chỉ đúng trong
giai đoạn nước ta thời kì kháng chiến mà còn là kim chỉ Nam cho mọi hướng đi của Đảng và
nhà nước trong công cuộc xây dựng văn hóa hiện nay.
II, Mục đích nghiên cứu. 
 Việc lựa chọn đề tài này nhằm  mục đích nghiên cứu học tập sâu  về Tư tưởng Hồ Chí Minh,
về cơ sở hình thành tư tưởng văn hóa qua các thời kỳ, về giá trị tư tưởng trong giai đoạn

kháng chiến và giai đoạn hiện nay. Trong đó chú trọng về giá trị tư tưởng đối với cơng cuộc
xây dựng văn hóa trong thời đại mới. 
      III, Phạm vi nghiên cứu. 
Vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhằm hình thành và phát triển những yếu


tố hiện đại của văn hoá dân tộc phù hợp với những đặc điểm mới của đất nước và thời đại,
Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện 5 điểm cơ bản:  
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 
4. Xây dựng chính trị: dân quyền. 
5. Xây dựng kinh tế. 
 Đây là những nhiệm vụ quan trọng, đồng thời là những tiêu chí căn bản để xây dựng một nền
văn hoá mới mà Người đã tiên liệu từ khi cịn phải sống trong gơng xiềng của nhà tù Tưởng Giới
Thạch. 
 


NỘI DUNG 
Chương 1: Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa 
I. Những đặc trưng cơ bản của nền văn hoá Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 
1. Thấm đẫm tính dân tộc, hiện đại và nhân văn 
 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Quan
điểm này tiếp tục tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “xây dựng một nền văn hố Việt
Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”. Theo Hồ Chí Minh, nền văn hố Việt Nam
là nền văn hố có gốc rễ, cội nguồn từ truyền thống văn hố dân tộc, thể hiện tâm hồn, cốt
cách, bản sắc của con người Việt Nam. Nền văn hoá ấy kế thừa truyền thống văn hoá của

dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống u nước
thương nịi, tinh thần đồn kết, cố kết cộng đồng; tinh thần nhân ái khoan dung, trọng
nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất; tinh thần dũng cảm,
kiên cường bất khuất, mưu trí, gan dạ trong chống giặc ngoại xâm... Những truyền thống ấy
khơng những phải được giữ gìn mà cịn phải được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây
dựng nền văn hố hiện nay. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác giáo dục truyền
thống lịch sử dân tộc. Người căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà
Việt Nam”. Đồng thời Người yêu cầu “phải phát huy hết cốt cách dân tộc, phải lột cho hết
tinh thần dân tộc, để cổ vũ đồng bào ta, để giáo dục con cháu ta”. Người phê phán mọi biểu
hiện tơn sùng văn hố ngoại. Theo Người, càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin bao nhiêu
càng phải coi trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ơng bấy nhiêu. Người địi
hỏi phải giữ gìn và phát huy những vốn văn hố q báu của dân tộc, loại bỏ những yếu tố
tiêu cực trong đời sống tinh thần của nhân dân vừa kế thừa những truyền thống tốt đẹp
vừa phê phán, loại bỏ các tập tục cổ hủ lạc hậu. Với quan điểm dân tộc hiện đại, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hố phải xã hội
chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”; “Con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng
một nền văn hoá nghệ thuật xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức. Nền văn
hố mà chúng ta xây dựng là một nền văn hố “mở”. Một mặt, nó kế thừa và phát huy
những giá trị trong truyền thống dân tộc, mặt khác nó tự làm giàu mình bằng việc tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hố nhân loại, làm cho nền văn hoá mới ở Việt Nam vừa mang
những đặc trưng phản ánh cốt cách, bản sắc và truyền thống văn hoá dân tộc, vừa bắt nhịp
được với hơi thở của cuộc sống hiện đại, phù hợp với trình độ khoa học và trình độ văn
minh mà nhân loại đã đạt được.  
2. Gắn chặt với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và là một bộ phận của sự nghiệp cách
mạng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh 
Văn hố khơng tách rời kinh tế và chính trị, một mặt, nó chịu sự chi phối của kinh tế và
chính trị nhưng mặt khác, văn hố có tác động trở lại to lớn đến kinh tế và chính trị. Chính vì


thế Người coi văn hoá nghệ thuật cũng là mặt trận, và anh chị em nghệ sỹ là những chiến

sỹ trên mặt trận ấy. Người khẳng định: “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức thì văn nghệ sĩ cũng
mất tự do. Văn nghệ sĩ muốn có tự do thì phải tham gia cách mạng”. Để làm tròn nhiệm vụ,
chiến sỹ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng... Về sáng tác, thì cần thấu hiểu,
liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân. Như thế, mới bày tỏ được cái tinh thần anh
dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần
ấy”. Người viết tiếp: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta, văn hoá
gánh một phần rất quan trọng”. “Văn hố cũng như chính trị, kinh tế và tín ngưỡng, đạo
đức đều được phát triển tự do. Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp phị chính trừ tà, mà anh chị em văn hố và trí thức phải làm cũng như là những
chiến sỹ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập
cho Tổ quốc”. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh ln coi trọng sự nghiệp xây dựng văn hoá của
nước nhà, và nhiều lần Người đã nói rằng: “Trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn
đề phải chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hố”. Tư
tưởng đó của Người thể hiện rõ quan điểm duy vật, phát triển toàn diện đất nước trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.       
       3. Sâu sắc tính nhân dân (tính đại chúng) 
 Hồ Chí Minh cho rằng: “Cái văn hố mới này cần phải có tính khoa học, tính đại chúng, thì
mới thuận với trào lưu tiến hoá của tư tưởng hiện đại. Nay nước ta đã được độc lập, tinh
thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hoá hợp với khoa học và hợp với cả nguyện
vọng của nhân dân”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nền văn hố mới bắt nguồn từ trong nhân
dânsẽ “ln ln tìm tịi những con đường để làm sao có thể kể một cách chân thật hơn,
chân thành hơn cho nhân dân nghe về những mối lo âu và suy nghĩ của nhân dân”. Người
luôn uốn nắn, phê bình lối nói, lối viết và lối sáng tác xa rời nhân dân, khơng phù hợp với
trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân. Đồng thời, Người đề cao vai trị sáng tạo văn
hố nghệ thuật của nhân dân và coi những sáng tác của nhân dân như “những viên ngọc
quý”. Người thường căn dặn những người làm công tác văn hoá, nghệ thuật phải đi sâu vào
thực tế cuộc sống, hiểu được tâm tư tình cảm, nguyện vọng, thị hiếu... của nhân dân để từ
đó các sáng tác của mình phục vụ được nhân dân một cách tốt nhất. Tư tưởng đó của Người
thể hiện quan điểm vì con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế- xã hội đất nước. 

II. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. 
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề văn hố ln có một vị trí quan trọng. Những quan
điểm của Người về văn hoá là kim chỉ nam để Đảng ta hoạch định đường lối, sách lược phát
triển văn hoá qua các giai đoạn cách mạng. Những quan điểm và hoạt động văn hố của
Người khơng những làm phong phú thêm kho tàng văn hố của dân tộc, mà cịn góp phần
vào sự tiến bộ và phát triển nền văn minh của nhân loại. Công lao to lớn này đã được
UNESCO khẳng định trong Nghị quyết về tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người: "Sự
đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hố, giáo dục, nghệ thuật là kết
tinh truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người
là hiện thân của các dân tộc, tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Người là vị
anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là nhà văn hoá kiệt xuất" 
1. Định nghĩa về văn hóa. 


Tháng 8 năm 1943, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa về văn hóa, định nghĩa này
có nhiều quan điểm gần với quan niệm hiện đại về văn hóa. 
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chũ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm mục đích thích ứng
những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn. 
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa 
a)  Quan điểm về vị trí, vai trị của văn hóa trong đời sống xã hội 
- Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. 
- Văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong nền kinh tế chính trị, phải phục vụ nhiệm
vụ chính trị, thúc đẩy nền kinh tế và xây dựng xã hội mới 
b)  Quan điểm về tính chất của nền văn hóa 
- Tính dân tộc: là đặc tính, cái “cốt cách”, cái tinh túy bên trong, là bản chất đặc trưng của
nền văn hóa dân tộc; phải biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt

đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với những điều kiện
lịch sử mới của đất nước 
- Tính khoa học: là tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hóa của tư tưởng hiện đại:
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã họi 
- Tính đại chúng: là phục vụ nhân dân, hợp với nguyện vọng của nhân dân, đậm đà tính
nhân văn, do đại chúng nhân dân xây dựng 
c) Quan điểm về chức năng của văn hóa 
- Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp 
- Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí 
- Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh; hướng con
người tới chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân 
3.  Quan niệm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa 
a)  Văn hóa giáo dục 
Mục tiêu của văn hóa giáo dục: là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa thông qua việc dạy
và học 
Phải tiến hành cải cách giáo dục: để xây dựng một hệ thống trường lớp với chương trình và
nội dung dạy và học thật khoa học, phù hợp với những bước phát triển của nước ta. 
Nội dung giáo dục phải toàn diện: bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học-kỹ thuật, chun
mơn nghề nghiệp, lao động và phải luôn luôn gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam,
theo nguyên lý: học đi đôi với hành, lý luậ phải liên hệ với thực tiễn, nhà trường gắn liền với
gia đình và xã họi 
b)  Văn hóa văn nghệ 
Hồ Chí Minh đưa ra ba quan điểm chủ yếu về văn hóa văn nghệ: 
Một là, văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Tác phẩm văn nghệ là vũ
khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. 
Hai là, văn nghệ phải gắn liền với thực tiễn của đời sống nhân dân 
Ba là, phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân
tộc. 



c)  Văn hóa đời sống 
Thực chất là xây dựng đời sống mới, bao gồm: đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới 
- Đạo đức mới: theo Người, để xây dựng đời sống mới trước hết phải xây dựng đạo đức
mới: “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính từ là nhen lửa cho đời sống mới” 
- Lối ống mới: là lối ống có lý tưởng, có đạo đức, là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài
hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại 
- Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống văn minh, làm cho lối sống mới dần trở thành thói
quen, thành phong tục tập quán tốt đẹp, tiếp thu, kế thừa và phát triển những thuần phong
mỹ tục của dân tộc một cách biện chứng; “Phải cấm hẳn say sưa, cờ bạc, hút sách, trộm cắp;
phải tìm cách làm cho khơng có một lời đánh chửi nhau, kiện cáo nhau, làm cho làng mình
thành một làng phong thuần tục mỹ”. 
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí minh về văn hóa vào xây dựng và phát triển nền
văn hóa và con người Việt Nam hiện nay 
I. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam theo đường lối tư tưởng Hồ Chí Minh 
1. Vai trị của văn hóa trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam 
Đảng, Nhà nước Việt Nam rất coi trọng vai trị của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước, điều đó khơng chỉ bắt nguồn từ truyền thống lịch sử dân tộc, mà còn ở
sự khẳng định trên thực tế vai trò, ảnh hưởng to lớn của văn hóa Việt Nam trong q trình
dựng nước và giữ nước qua hàng ngàn năm lịch sử. Tại Hội nghị văn hóa tồn quốc tháng
11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày một quan niệm giản dị nhưng mang tính ngun
lý, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài là: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, với nội hàm hết sức
sâu sắc, gồm các yếu tố: (1) Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập, tự cường. (2) Xây dựng luân
lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. (3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên
quan đến phúc lợi nhân dân trong xã hội. (4) Xây dựng chính trị: dân quyền. (5) Xây dựng
kinh tế. Điều này cho thấy phạm vi rộng lớn, tầm ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa đối với tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, càng làm nổi bật hơn các mối quan hệ cơ bản giữa văn
hóa với kinh tế, văn hóa với chính trị và văn hóa với sự phát triển xã hội. 
Với tư cách là nền tảng tinh thần xã hội, là bộ lọc, định hướng giá trị và điều tiết hoạt động
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và phát triển văn hóa suy cho cùng là
hướng tới xây dựng con người. Con người làm nên lịch sử và quyết định tương lai của chính

mình, trong đó có văn hóa, các đặc trưng văn hóa cộng đồng, dân tộc. Văn hóa định hình
các giá trị chuẩn mực của con người, phù hợp với điều kiện lịch sử, các giai đoạn phát triển
của mỗi quốc gia. Đó cũng là cơ sở để phân biệt sự khác nhau về văn hóa giữa các dân tộc,
cũng như sự thấm sâu của văn hóa trong hoạt động của con người, trong sự vận hành của
chế độ xã hội. Ở trong nước, mỗi khi kinh tế lâm vào khó khăn, chính trị xa rời tính nhân
văn, xã hội khủng hoảng niềm tin, đạo đức xuống cấp, khi đó văn hóa đóng vai trị điều
chỉnh trực tiếp, thơng qua các giá trị cốt lõi như niềm tin, đạo đức, giá trị thẩm mỹ, truyền
thống dân tộc, là động lực để giúp cho đất nước vượt qua những khó khăn đó. Khi quốc gia,
dân tộc, Tổ quốc bị xâm lăng, văn hóa lại chính là chất keo kết dính, cố kết cộng đồng, sức
mạnh nội sinh để đánh bại kẻ thù xâm lược. 
2. Tính quy luật của phát triển văn hóa trong q trình đi lên CNXH ở Việt Nam 


Khi xác định đặc điểm nổi bật của thời đại trong giai đoạn hiện nay, Cương lĩnh 2011 của
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức,
nhưng sẽ có bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến
tới chủ nghĩa xã hội”, và “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử”. Tư tưởng chỉ đạo này là sự phản ánh quy luật tiến hóa khách quan của lịch sử nhân
loại, qua các hình thái kinh tế - xã hội, được thực tiễn khẳng định. Ở Việt Nam, quá trình
đi lên CNXH được xác định với nhiều bước đi, nhiều giai đoạn phân kỳ phát triển, phải trải
qua thời kỳ quá độ với những cải biến xã hội sâu sắc. Trong q trình đó, từng chặng đều
xác định rõ mục tiêu, phương hướng, các mối quan hệ phải giải quyết và đặc biệt là mục
tiêu tổng quát, đặc trưng về xã hội XHCN mà Việt Nam hướng tới. Theo đó, Cương lĩnh
2011, cũng chỉ rõ “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng
được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng,
văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh,
hạnh phúc”. Tương ứng với mục tiêu tổng quát đó, 8 đặc trưng về mơ hình xã hội XHCN,
cũng được chỉ ra cụ thể, là những vấn đề mang tính quy luật, có mối quan hệ khăng khít hữu

cơ với nhau, trong đó “có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. 
Tính quy luật được thể hiện, phản ánh sự phát triển của văn hóa trong mối quan hệ với kinh
tế, chính trị, xã hội mà cịn trực tiếp đóng góp chung vào sự phát triển đất nước, văn hóa
thực sự gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần của
xã hội, từng bước phản ánh rõ hơn tính chất của nền văn hóa tiến bộ, văn minh, khoa học,
kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hướng đến hiện đại, theo xu thế phát
triển của thời đại và văn minh nhân loại. Vai trị của văn hóa trong dẫn dắt, điều tiết sự phát
triển kinh tế, xã hội bằng mục tiêu nhân văn, giá trị truyền thống và hiện đại, trở thành nền
tảng tinh thần, tự hào dân tộc, gắn kết cộng đồng, tạo nên sức mạnh nội sinh, khát vọng
vươn lên vì một nước Việt Nam XHCN phát triển theo hướng hiện đại. 
Tính quy luật của xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc trong quá trình đi lên CNXH ở Việt Nam cịn được thể hiện ở sự gắn bó hữu cơ,
khơng thể tách rời giữa Việt Nam và thế giới, giữa yêu cầu phát triển văn hóa và đóng góp
của văn hóa trong từng bước đi, từng giai đoạn phát triển từ thấp đến cao và cuối cùng là
CNXH. Theo tiến trình phát triển của lịch sử, văn minh của nhân loại, xét trên tổng thể, thế
hệ sau phải hơn thế hệ trước, đó là vấn đề mang tính quy luật. Đối với mỗi quốc gia, tùy
theo đặc điểm riêng có, khả năng vận dụng quy luật mà tạo ra sự phát triển cao thấp khác
nhau trên các lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Thơng thường, đối với mỗi một chế độ xã hội,
một quốc gia, các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều có sự tương đồng, gắn kết
hữu cơ về trình độ phát triển, về sự tác động tương hỗ lẫn nhau giữa các lĩnh vực. Có thể vì
nhiều lý do, ở quốc gia nào đó, lĩnh vực này phát triển nhanh hoặc chậm hơn lĩnh vực kia,
nếu biết phát huy yếu tố văn hóa với tư cách là “hệ điều tiết”, “bộ lọc văn hóa”, quốc gia đó
vẫn có thể tạo ra bước phát triển nhanh, đột phá. Thế giới ngày nay, khoa học, công nghệ
phát triển nhanh như vũ bão, tạo nên các giá trị văn minh vật chất và văn minh tinh thần,
mà đỉnh cao là văn minh tinh thần. CNXH là giai đoạn phát triển cao của xã hội loài người
trên các lĩnh vực, Việt Nam đi lên CNXH từ điểm xuất phát thấp, phải trải qua nhiều giai
đoạn, đến năm 2030, 2045 và xa hơn nữa, với mục tiêu hướng tới xã hội XHCN. Trong quá


trình đó, bản thân văn hóa sẽ cùng phát triển và là sức mạnh nội sinh, động lực, thậm trí là

khâu đột phá, nền tảng tinh thần sẽ đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, đó là
vấn đề mang tính quy luật. 
3. Định hướng giải pháp phát triển nền văn hóa Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh 
Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền,
các tổ chức xã hội và người dân về vị trí, vai trị của văn hóa đối với sự phát triển đất nước;
tuyên tuyền gương người tốt, việc tốt, xây dựng gia đình văn hóa, mơi trường văn hóa xã
hội lành mạnh; coi trọng giáo dục truyền thống, tự hào, tự tôn dân tộc; phát triển văn hóa
cũng là để xây dựng con người có nhân cách và xây dựng con người cũng là để phát triển
văn hóa bền vững, tiếp tục cụ thể hóa đặc trưng văn hóa, đặc tính con người Việt Nam
trong điều kiện mới, hoàn thiện hệ giá trị chuẩn mực văn hóa, con người; phát huy tốt vai
trị của văn hóa với tư cách là hệ điều tiết phát triển xã hội. 
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, coi trọng xây dựng
luật pháp, hoàn thiện thể chế phát triển văn hóa phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế; bổ sung, hồn thiện một số cơ chế, chính sách mang tính
đặc thù của văn hóa, nghệ thuật, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số; một số quy định
pháp luật về những vấn đề liên quan đến quyền tác giả và các quyền liên quan phù hợp với
luật pháp quốc tế; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế xã hội. Hồn chỉnh hệ tiêu chí về văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, cụ thể hóa
nội dung văn hóa trong chính trị và kinh tế, coi trọng việc đánh giá các tác động của các
chính sách kinh tế đối với văn hóa và ngược lại xây dựng tiêu chí văn hóa cho cấp ủy đảng
các cấp. Tăng cường đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. 
Ba là, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nâng cao khả
năng dự báo, định hướng phát triển văn hóa, con người. Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế
về văn hóa theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả; khuyến khích hình thành các
quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật,
đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân và giới thiệu văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc
tế. 
Huy động các nguồn lực xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa; coi trọng bảo
tồn các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, các giá trị văn hóa của dân tộc thiểu số. Có các
chính sách mới, phù hợp nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, hưởng thụ văn hóa ở các

vùng khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Phát triển các thiết chế văn hóa, đảm bảo tính
hiệu quả trong sử dụng, phù hợp với vùng miền, tập quán dân tộc. Đầu tư có trọng tâm,
trọng điểm, minh bạch, cơng khai và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển văn hóa,
đầu tư cho văn hóa phải tương đương với tăng trưởng kinh tế. Phát triển cơng nghiệp văn
hóa. 
Bốn là, quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm văn hóa phù hợp với yêu cầu mới, đến năm
2030 và tầm nhìn đến 2045. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ làm cơng tác văn hóa, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, nhất là cán bộ đầu đàn, chuyên
gia đầu ngành, doanh nhân trong lĩnh vực văn hóa, nghệ nhân. Có chính sách phù hợp
thu hút cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực văn hóa ở cơ sở. Quy hoạch lại
hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó vừa đảm bảo nhu cầu đào tạo các
lĩnh vực văn hóa quần chúng, vừa chú trọng đào tạo chuyên sâu. Xây dựng một số trường


đại học nghiên cứu về văn hóa mang tầm khu vực. Tiếp tục hồn thiện chính sách tơn vinh,
đãi ngộ, trọng dụng những người tài, đặc biệt là những lĩnh vực văn hóa đặc thù. 
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, con người.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, đề cao vai trò nêu gương của
người đứng đầu trong thực hiện các quy định về văn hóa, đạo đức, lối sống. Đẩy mạnh và
đưa vào chiều sâu việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi
trọng hiệu quả, chất lượng; thực hiện phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở. Cụ thể hóa nội dung xây dựng văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị, hồn thiện
các tiêu chí đánh giá cán bộ chủ chốt các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược về các nội dung
liên quan đến đạo đức, văn hóa. 
Gắn kết ngay từ đầu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển văn hóa. Triển khai
thực hiện có lộ trình đặt ngang hàng văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội về nhiệm vụ, đầu
tư kinh phí, trách nhiệm chính trị của các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức xã hội và người
dân; phát huy vai trò các phương tiện truyền thống đại chúng trong xây dựng, phát triển
văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn mới. 
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng con người Việt Nam mới hiện

nay 
      1. Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống 
- Bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. 
Thế giới quan và phương pháp luận ln thống nhất với nhau. Các quy luật, nguyên lý, quan
điểm trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa thế giới quan vừa có ý
nghĩa phương pháp luận. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta xác định: "Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng
và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội" . 
Vì vậy, quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phải coi trọng nhiệm vụ trang bị, giáo
dục thế giới quan cách mạng và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có
như vậy, con người mới có được cơng cụ để nhận thức và hoạt động thực tiễn, giải thích, cải
tạo và làm chủ thế giới. Thực chất đó chính là những nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, và chủ nghĩa duy vật lịch sử. 
Nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật giúp cho con người khi xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan một cách đúng đắn, tránh cho ta mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí tùy tiện
trong hoạt động thực tiễn. Yêu cầu khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nhận thức đó là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cần vận dụng và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác hàng ngày của mỗi tổ chức và cá nhân. 
- Nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên trong lao động, học tập,
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 
Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là sức mạnh vơ
địch để chiến thắng lũ cướp nước và lũ bán nước. Con người Việt Nam mới phải nuôi dưỡng
được tinh thần yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt
Nam. Trước hết phải nhận thức sâu sắc chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam với những
nội dung cơ bản: Yêu quê hương, xứ sở, xóm làng; gắn bó và cố kết cộng đồng, hướng về dân,
lấy dân làm gốc; tự hào lịch sử và văn hóa ơng cha; ý thức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; ý
thức sâu sắc về độc lập dân tộc. 



Đảng ta nhấn mạnh: "Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị
truyền thống sẽ làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của
người khác, của dân tộc khác". 
Hiện nay, yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội là một; kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội; đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng tiên tiến của thời đại. Trong xây dựng đất
nước hiện nay, yêu nước đồng nghĩa với sự vươn lên khắc phục nghèo nàn lạc hậu, có ý chí,
vươn lên thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. 
- Biết giữ gìn đạo đức, nhân phẩm, lương tâm, danh dự. 
Phải ln thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đạo đức cách mạng là gốc; đức gắn với tài;
trong đức có tài, trong tài có đức; tài càng cao, đức càng phải lớn. Chỉ có như vậy mới phục vụ
được nhiệm vụ chính trị, mới đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi. 
Nâng cao trí tuệ trước hết phải nắm vững và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; những thành tựu của thời đại và thế giới vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đạt hiệu quả cao. 
Giữ gìn đạo đức trong tình hình mới trước hết phải quán triệt tư tưởng và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Phải thấy được mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế, trong đó có quan điểm phát
triển kinh tế là điều kiện thiết yếu, là cơ sở để xây dựng một xã hội văn minh, phát triển văn hóa,
đạo đức. Con người có đạo đức, có văn hóa lại là động lực để phát triển kinh tế. Phải thấy được
đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay vừa có hội
nhập, hợp tác vừa có đấu tranh. Biết phát huy, vận dụng mặt tích cực và đề phịng, hạn chế mặt
tiêu cực của kinh tế thị trường. Xây dựng đạo đức mới trong tình hình hiện nay là biết khai thác
mặt tích cực, đấu tranh kiên quyết loại bỏ mặt tiêu cực; phải chống khát vọng làm giàu bằng mọi
cách, tâm lý chạy theo đồng tiền, lấy đồng tiền làm giá trị cao nhất; chạy theo quyền lực với thói
ích kỷ, dối trá, lừa lọc, xu nịnh... 

       2. Học tập và vận dụng tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh 
Xây dựng một xã hội nhân văn theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh là phải bảo đảm cơng
bằng xã hội, trong đó có sự quan tâm tới lợi ích của cá nhân, tập thể và cộng đồng; bảo đảm

bình đẳng của các thành phần kinh tế trên cơ sở khẳng định vị trí chủ đạo của nền kinh tế nhà
nước. Muốn vậy, tất cả đều phải được thể chế hóa bằng pháp luật và công bằng xã hội cũng
phải được bảo đảm bằng pháp luật. 
Tư tưởng nhân văn cách mạng, xét đến cùng, là phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh phúc, công
bằng, dân chủ của con người, dân tộc và nhân loại. Nói cách khác, tất cả vì con người, do con
người. Hồ Chí Minh thường nói tới "văn minh thắng bạo tàn". Văn minh ở đây được hiểu cả trình
độ phát triển của đời sống tinh thần và trình độ phát triển của khoa học - kỹ thuật. Xã hội
văn minh là xã hội có những con người nhân văn, tức là những con người phát triển toàn diện
cả đức, cả tài; cả lý trí và tình cảm cách mạng; có lòng nhân ái và khoan dung. Muốn thế, phải
coi trọng và phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo. Bởi vì giáo dục - đào tạo (gia đình, nhà
trường, xã hội) góp phần tích cực nhất trong việc hình thành, phát triển và hồn thiện nhân cách
con người mới. 

      3. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa 
Nhiệm vụ hàng đầu trong q trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc là xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những
nội dung sau: 
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có
ý chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đồn kết với nhân dân thế giới trong
sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. 
- Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. 
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần, kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ
cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện mơi trường sinh thái. 
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích
của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. 
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ thẩm mỹ và thể lực 


Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú
thêm nền văn hóa của nhân loại trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế. Phải nhận thức giao

lưu, hội nhập là một xu thế tất yếu khách quan hiện nay, nhưng chứa đựng trong đó cả mặt tích
cực và tiêu cực. Mở rộng giao lưu, hội nhập trên cơ sở lấy bản sắc dân tộc làm nền tảng. Cần
nhìn nhận văn hóa trong mối quan hệ với phát triển. 
Phải đấu tranh chống sự xâm nhập của những yếu tố phản văn hóa. Chống khuynh hướng hịa
tan giá trị, áp đặt giá trị văn hóa ngoại lai, từng bước hủy hoại nhân cách con người, đầu độc
nhân dân, trước hết là lớp trẻ. 

 
 
 
 
  
 
KẾT LUẬN 
Tư tưởng về bảo tồn văn hoá dân tộc của Hồ Chí Minh khơng phủ nhận sự tác động, ảnh hưởng
lẫn nhau của văn hoá các dân tộc mà ngược lại, khẳng định sự giao hoà giữa các nền văn hoá
của các dân tộc khác nhau, coi đó như một động lực thúc đẩy sự phát triển văn hố của mỗi
dân tộc, làm cho nó hồn thiện hơn, phong phú hơn. Người cho rằng, "... văn hoá Việt Nam là
ảnh hưởng lẫn nhau của văn hố Đơng phương và Tây phương chung đúc lại... Tây phương hay
Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh
nghiệm tốt của văn hoá xưa và văn hoá nay, trau dồi cho văn hố Việt Nam thật có tinh thần
thuần tuý Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ". Với hơn 30 năm bôn ba ở các nước khắp
năm châu, hơn ai hết, Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc các trào lưu nghệ thuật trên thế giới, nhận
dạng chính xác và đánh giá đúng từng nền văn hố của nhân loại. Vì vậy, Người kêu gọi phải học
cái hay trong từng nền văn hoá của các dân tộc trên thế giới. Ở đâu cũng vậy, với phong cách
ung dung của một nhà văn hố lớn, Hồ Chí Minh có thể đàm luận hết sức chi tiết, cụ thể về các
danh nhân tiêu biểu của từng nền văn hoá của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Người khâm
phục nền văn hoá phát triển của các dân tộc khác, khơng kể đó là những dân tộc mà chế độ
chính trị của họ đang là kẻ thù xâm lược của nhân dân Việt Nam. Một nhà báo Mỹ đã nhận xét
rằng, Cụ Hồ Chí Minh là một con người yêu mến văn hoá Pháp trong khi chống thực dân Pháp,

một con người biết coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ, khi Mỹ phá hoại đất nước cụ. 
Quan điểm văn hố của Hồ Chí Minh chống lại mọi biểu hiện kỳ thị, độc tơn về văn hố; chủ
trương kế thừa truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc phải đi đôi với việc học tập và tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa văn hố nhân loại. Những tư tưởng lớn của Người về văn hoá là kim chỉ
nam cho chúng ta trong việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trên
cơ sở đó, hội nhập và giao lưu với các nền văn hoá khác trên thế giới, cùng nhau phát triển. 
Xu hướng phát triển chung của văn hoá nhân loại trong tương lai là kết hợp hài hoà nền văn
minh khoa học, công nghiệp phương Tây với tinh hoa văn hố nhân bản phương Đơng. Cả hai
ưu thế này đã được đúc kết trong nhân cách vĩ đại và tư tưởng sâu rộng về văn hố của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Đúng như cảm nhận của nhà thơ Xô viết, Ôxíp Mandenxtam, khi tiếp xúc với
Người cuối năm 1923: "Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một nền văn hoá, khơng phải văn hố
châu Âu, mà có lẽ là văn hoá của tương lai" 
 


 
 
 
 

                                                      MỤC LỤC  

 MỞ ĐẦU
 
 NỘI DUNG 
 Chương 1: Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa 
 I. Những đặc trưng cơ bản của nền văn hoá Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 
 II. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. 
 Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng và phát triển nền   văn
hóa và con người Việt Nam hiện nay 

 I. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam theo đường lối tư tưởng Hồ Chí Minh 
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng con người Việt Nam mới hiện nay 
KẾT LUẬN 
 

 Các nguồn tham khảo. 


1. Nghị quyết của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Báo
Nhân dân 
2. Hồ Chí Minh. Tồn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. 
3. Hồ Chí Minh. Văn hố nghệ thuật cũng là một mặt trận. Nxb Văn học, Hà Nội. 
4. Trang thông tin điện tử, hội đồng lý luận Trung ương. PGS.TS Phạm Văn Linh 
5. Tạp chí Xây Dựng Đảng. 
6. Bài giảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb Giáo dục. 
 
 
 
 



×