Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Khóa luận CCLLCT: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 48 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
HỒN CHỈNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI HIỆN NAY

Họ và tên học viên

: Phạm Sỹ Nguyên

Lớp, khóa học

: Hoàn chỉnh CCLLCT K71-C07


HÀ NỘI - 2021


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
HỒN CHỈNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆN KIỂM SÁT


NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI HIỆN NAY

Họ và tên học viên
: Phạm Sỹ Nguyên
Mã số học viên
: FF200520
Chức vụ, cơ quan cơng tác : Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
Lớp, khóa học

huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội
: Hoàn chỉnh CCLLCT K71-C07

HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đúng quy định. Đề tài khóa luận này phù hợp với vị trí, chức vụ, đơn
vị công tác của tôi và chưa được công bố trước đây.
Tác giả

Phạm Sỹ Nguyên


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Phạm trù đạo đức
1.2. Phạm trù “đạo đức cách mạng” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.3. Đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cán bộ
1.4. Những nội dung cơ bản về đạo đức cách mạng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Khái quát chung về Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì,
thành phố Hà Nội
2.2. Thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên Viện kiểm sát nhân dân
huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
2.3. Nguyên nhân của sự suy thoái đạo đức cách mạng
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Phương hướng
3.2. Giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong các nhà lãnh đạo cách mạng trên thế giới, Hồ Chí Minh là người
bàn nhiều đến đạo đức, Người đặc biệt chú ý vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân ta. Tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh do đó rất sâu sắc và phong phú, đã trở thành một sức mạnh to lớn,
một nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sơng nước: Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hồn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn
thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo
được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết
định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều
do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng
có nghĩa là tuyệt đối hố mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà
khơng có đức là người vơ dụng nhưng có đức mà khơng có tài thì làm việc gì
cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để
hồn thành nhiệm vụ cách mạng.
Hồ Chí Minh không chỉ là người chiến đấu cho dân tộc mình mà
cịn cho cả nhân loại, khơng chỉ quan tâm đến nhiệm vụ hơm nay mà cịn
mang hồi bão to lớn đối với xã hội ngày mai. Vì thế, tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh khơng chỉ phát huy sức mạnh ở chặng đường trước mắt mà
cịn có ý nghĩa lâu dài, tiếp tục soi sáng, cổ vũ chúng ta trên con đường đi
tới tương lai.


2
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận văn hóa của dân tộc,
sẽ sống mãi trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, trong

thời kỳ hội nhập kinh tế, xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
những yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ, Đảng viên đòi hỏi phải được tăng
cường rèn luyện, tu dưỡng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Có đạo đức
cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng khơng sợ sệt, rụt rè, lùi
bước.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, hiện đang hoạt động trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập
quốc tế, vấn đề cơ bản là làm sao giữ cho Đảng luôn kiên định với mục tiêu lý
tưởng của mình, khơng biến chất, ln là một đảng thực sự cộng sản, một
đảng thực sự cách mạng chân chính, tất cả vì lợi ích của giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Và cốt lõi của vấn đề chính là phải xây
dựng Đảng cầm quyền với đội ngũ đảng viên ngày càng trong sạch, vững
mạnh, ngày càng xứng đáng là người lãnh đạo, là người “đầy tớ” thật trung
thành của nhân dân.
Với âm mưu diễn biến hịa bình, các thế lực thù địch đánh vào kinh tế,
chính trị và văn hóa. Đánh vào sự sa ngã của một số cán bộ, đảng viên, đánh
vào lòng tham, vào sự ham chuộng công danh, tham cuộc sống sa hoa của
một số cán bộ, đảng viên. Và làm tha hóa phẩm chất đạo đức của một bộ phận
cán bộ, công chức của ta. Do vậy, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức là vấn đề rất cần thiết và cấp bách hiện nay để nhằm
giáo dục cán bộ, đảng viên. Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài “Vận dụng
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên ở Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố
Hà Nội hiện nay” để làm khóa luận tốt nghiệp lớp Hồn chỉnh cao cấp lý
luận chính trị.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu


3
Cho đến nay, tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

nói riêng và tư tưởng đạo đức nói chung mới chỉ đạt thành tựu bước đầu. Do
vậy tôi chọn đề tài để cùng tham gia vào việc giáo dục đạo đức cho mỗi cán
bộ, đảng viên.
Khóa luận này góp phần làm sáng tỏ những chuẩn mực, nguyên tắc cơ
bản của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Từ đó vận dụng vào thực tiễn
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm từng bước nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng
viên góp phần nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tư tưởng cho đội ngũ cán bộ đảng
viên trong đơn vị Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì để góp phần đẩy
mạnh công cuộc đổi mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ, đảng viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì,
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Với giới hạn của một bài khóa
luận nên học viên trình bày đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở
mức độ hiểu biết của mình.
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, khóa luận sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử logic,
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt
ra trong đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú
thêm lý luận về công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ
đảng viên trong các cơ quan đơn vị.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao
nhận thức về đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng trong đơn vị Viện


4

kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì cũng như các đơn vị Viện kiểm sát nhân
dân trong toàn thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liều tham khảo, nội dung
khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương 2: Thực trạng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên Viện
kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay.


5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. PHẠM TRÙ ĐẠO ĐỨC

Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, là toàn bộ những
quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử
của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, nhằm đảm bảo
quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Đạo đức là những chuẩn mực, những phương thức cơ bản điều tiết hành
vi của con người, là một hình thái ý thức xã hội, là đối tượng của đạo đức học.
1.2. PHẠM TRÙ “ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG” TRONG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH

Nội hàm xuyên suốt phạm trù “đạo đức cách mạng”, hay “đạo đức
mới” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: “Suốt đời đấu tranh cho hạnh phúc của

dân tộc, của nhân dân”, “Suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người”, “Trung với nước, hiếu với dân, cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”.
Từ các chuẩn mực đạo đức cách mạng chung đó, Hồ Chí Minh xây
dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng riêng, phù hợp với từng đối tượng và
tiến hành giáo dục đạo đức cho các đối tượng ấy như đạo đức cách mạng đối
với cán bộ, đảng viên.
1.3. ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG LÀ GỐC, LÀ NỀN TẢNG CỦA NGƯỜI
CÁN BỘ

Xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã
đánh giá rất cao vai trò của đạo đức cách mạng. Người luôn quan tâm giáo
dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.


6
Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng mà chúng ta đang tiến hành
là sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Đó là
một sự nghiệp lâu dài, gian khổ và vơ cùng vẻ vang. Theo Người sự nghiệp
cách mạng đó nhất định sẽ thành cơng. Đó là một điều chắc chắn nhưng thời
gian nhanh hay chậm, một phần quan trọng tuỳ thuộc vào đạo đức cách mạng:
Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ
vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất
phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành
được nhiệm vụ vẻ vang.
Đạo đức cách mạng được xem như là yếu tố tinh thần trong sự nghiệp
cách mạng.
Đạo đức cách mạng phải là phẩm chất cách mạng đầu tiên, phải được coi
là “gốc” để giải quyết mọi công việc cách mạng, là nguồn nước làm cho tinh

thần cách mạng không bao giờ cạn.
Cũng như sơng có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn, cây
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
khơng có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân.
Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc
to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hư hỏng
xấu xa thì khơng làm nổi việc gì.
Con đường cách mạng không bằng phẳng, lắm chông gai, nhiều thác
ghềnh. Đạo đức cách mạng giúp người cách mạng vững tin trên con đường đi
tới mục tiêu của mình. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất
bại cũng khơng sợ sệt, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng,
của giai cấp, của dân tôc và của lồi người mà khơng ngần ngại hy sinh tất cả
lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của
bản thân.


7
Đạo đức cách mạng không phải là của cán bộ, đảng viên, mà đạo đức
cách mạng còn là động lực mạnh mẽ để người cách mạng “đi đến cái trí”. Và
khi đã đi đến cái trí, hiểu biết về khoa học, chủ nghĩa Mác, phương pháp cách
mạng...thì đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ
nghĩa mà mình giác ngộ, lý tưởng mình đã theo, con đường mình đã chọn.
Nói đạo đức cách mạng là “gốc”, “nền tảng” của người cán bộ, đảng
viên khơng có nghĩa là Người xem nhẹ những nhân tố khách quan, nhất là vấn
đề tài năng của người cán bộ, đảng viên. Mà trong quan hệ giữa tài và đức,
Người xem đức là “gốc”. Người chỉ rõ, người cán bộ, đảng viên phải có đức
và tài, đó chính là những phẩm chất thống nhất của con người. Bởi “có tài mà
khơng có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến
thụt két thì chẳng những khơng làm được gì lợi ích cho xã hội, mà cịn có hại
cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như ơng Bụt khơng làm hại gì,

nhưng cũng khơng lợi ích gì cho lồi người”. Do đó mỗi người cán bộ, đảng
viên phải tự phấn đấu vươn lên để hồn thiện hơn về trình độ cũng như về
nhân cách của mình. Qua đây chúng ta thấy rằng, Hồ Chí Minh khi xem xét
vai trị của đạo đức cách mạng, Người ln đặt nó trong mối quan hệ biện
chứng giữa đức và tài. Đức là “gốc”là “nền tảng”, nhưng tài phát triển lâu bền
trên nền tảng của đức.
Mặt khác, nói đạo đức cách mạng là “cái gốc” nhưng Người khơng xa
vào chủ nghĩa duy tâm vì Người bao giờ cũng gắn đạo đức với con người cụ
thể, với hành động thực tiễn. Để thực hiện sứ mệnh cải tạo xã hội, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặt niền tin vào việc cải tạo đạo đức, thực hiện đạo đức, bởi
Người nhận thức rằng chúng ta muốn có chủ nghĩa xã hội, phải có con người
xã hội chủ nghĩa - con người xã hội chủ nghĩa phải thấm nhuần đạo đức cách
mạng. Từ đó Người ln ln đề cao vị trí vai trị đạo đức cách mạng của
người cán bộ đảng viên. Như vậy, đạo đức ở đây gắn liền với chủ thể cách
mạng là nười cán bộ, đảng viên, là toàn thể nhân dân Việt Nam. Đây là triết lý


8
đạo đức thể hiện sự đoàn kết tất cả mọi người cần lao, nhằm thực hiện sứ
mệnh cách mạng cao cả là giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, khỏi
nghèo nàn lạc hậu để xây dựng một xã hội tiến bộ. Đó là chủ nghĩa xã hội
hiện thực. Bởi vậy mà Đảng ta cho rằng việc giữ vững đạo đức cách mạng, tư
cách người cán bộ, đảng viên làm cho mỗi cán bộ, đảng viên trở thành tấm
gương sáng trong nhân dân là điều kiện để Đảng ta hồn thành sứ mệnh lịch
sử của mình trong giai đoạn mới.
Ngồi việc khẳng định vai trị của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh cịn
chỉ ra những chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên nói riêng
và các tầng lớp nhân dân nói chung.
1.4. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


1.4.1. Trung với nước hiếu với dân
Đây là phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng nhất chi phối các phẩm
chất khác, là điểm xuất phát mang tính cách mạng trong quan niệm về đạo
đức,là chuẩn mực đạo đức bao trùm của con người Việt Nam, là định hướng
chính trị - đạo đức lớn nhất cho mỗi người, là khát vọng vươn lên tự hồn
thiện mình của tất cả chúng ta theo ngọn cờ, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
“Trung” và “Hiếu” là hai khái niệm cơ bản, đứng đầu trong “ tam cương” và
“ngũ luân” của đạo đức Nho giáo. Ở đây, Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa
truyền thống yêu nước của người Việt Nam, giữ lại ý nghĩa trách nhiệm, bổn
phận của người dân, của con người trong khái niệm “trung, hiếu” để đưa vào
đấy nội dung mới, hồn tồn mang tính cách mạng, “trung với nước, hiếu với
dân”. “Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và
xây dựng đất nước của nhân dân và của Đảng. “Hiếu với dân” là đem lại cuộc
sống “ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân”, thương dân, gần dân, gắn bó
với dân, kính trọng lễ phép với dân và học tập dân, dựa vào dân, lấy dân làm
gốc.


9
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao hơn là “tận
trung với nước, tận hiếu với dân”, vì cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo,
người “dẫn dắt”, nhưng lại “ là đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Trung
với nước, hiếu với dân có quan hệ chặt chẽ với nhau, càng “trung với nước”
bao nhiêu thì lại càng “hiếu với dân” bấy nhiêu và càng “hiếu với dân” bao
nhiêu sẽ thể hiện được “trung với nước” cao bấy nhiêu.
Suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội phải trở thành phẩm chất của con người mới, đồng thời phải được hiện
thực hoá trong hành vi, trong hoạt động thực tiễn để “hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng”. Nghĩa là, phẩm chất này phải trở thành bản lĩnh, lý tưởng, lẽ

sống, niềm tin của mỗi người dân Việt Nam để “tranh thủ thời cơ, vượt qua
thách thức”, quyết tâm thực hiện cho được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” trong thời kỳ mới. Nhằm “phát huy sức
mạnh đoàn kết toàn dân tộc” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
trong phát triển kinh tế cũng như xây dựng chế độ mới. Phẩm chất này đã và
đang hồ nhập với dịng chảy chung của ý thức đạo đức cao đẹp của nhân loại
và nhân loại cũng đã cổ vũ nó, tiếp nhận nó như là chính phẩm chất và giá trị
của mình.
1.4.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Phẩm chất này ln gắn liền với hoạt động thực tiễn mỗi người sống
trong xã hội, nó tiềm ẩn trong tầng sâu của ý thức nhưng lại chứa đựng mặt
biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi đạo đức có thể cảm nhận được, gắn bó
chặt chẽ giữa lời nói và việc làm, giữa suy nghĩ và hành động. Phẩm chất này
có quan hệ mật thiết với phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là những khái niệm quen thuộc
của truyền thống đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam. Những khái niệm này được Hồ Chí Minh cải biến nội dung, đưa
vào nó những yêu cầu, nội dung mới trên cơ sở kế thừa, giữ lại những yếu tố


10
tinh túy, tốt đẹp, phù hợp và lọc bỏ những yếu tố lạc hậu, lỗi thời khơng cịn
phù hợp với điều kiện lịch sử, thời đại mới. Về điểm này, Người đã giải thích
rõ: Bọn phong kiến ngày xưa đưa ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng khơng bao
giờ làm, nhưng lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho
chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm
gương cho nhân dân theo để lợi ích nước cho dân.
“Cần” tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai; phải lao động cần
cù, siêng năng, có kế hoạch, sáng tạo và có năng suất chất lượng cao, với tinh
thần tự lực cánh sinh là chính, hay như ngày nay ta thường nói “phát huy nội

lực”.
“Kiệm” là khơng lãng phí thời gian, của cải của mình và của nhân dân là
tiết kiệm sức lao động, sử dụng sức người, sức của một cách hợp lý nhằm tạo
ra nhiều sản phẩm cho xã hội phục vụ cuộc sống của mình và của nhân dân;
kiệm là tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, khơng phơ trương, hình thức, xa xỉ,
hoang phí.
“Liêm” là “ln tôn trọng của công, của dân”, luôn liêm khiết trong mọi
hồn cảnh, “khơng tham địa vị, khơng tham tiền tài, khơng tham sung sướng,
khơng ham người tâng bốc mình”.
“Chính” là khơng tà, thẳng thắn, đúng đắn đối với mình, đối với người
và đối với việc, tức là quang minh chính đại, khơng giả dối. Việc thiện thì dù
nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh hay việc phải làm thì dù
nhỏ cũng làm, việc trái dù nhỏ cũng tránh.
“Chí cơng vơ tư” - mình vì mọi người là đem lịng chí cơng, vơ tư của
mình mà đối xử với người, với việc. Phải ham muốn làm những việc ích quốc,
lợi dân, khơng ham địa vị cơng danh phú q. Chí cơng, vơ tư là chăm lo việc
nước như chăm lo việc nhà; chăm lo việc tập thể như chăm lo việc gia đình
mình, nghĩ đến việc nước, việc tập thể, việc chung trước việc riêng, việc nhà;


11
làm trước hưởng sau. Bác căn dặn: Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ
đến mình mà phải nghĩ đến đồng bào, đến tồn dân đã.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là những phẩm chất đạo đức,
những “đức tính” cao đẹp cần phải có đối với mỗi người trong xã hội mới, nó
là tiêu chí, là cơ sở, là chuẩn mực để điều chỉnh ý thức hành vi đạo đức của
mỗi người trong các mối quan hệ với tập thể, đồng chí, đồng đội, người khác,
nhà nước và nhân dân một cách đúng đắn nhất. Cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên hệ thống chuẩn mực đạo đức
của con người sống trong chế độ xã hội mới, là thước đo sức mạnh, sự tiến bộ

về tinh thần của một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một
dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.
Theo Hồ Chí Minh: Cần, kiệm, liêm, chính tốt sẽ dẫn tới chí cơng vơ tư mình vì mọi người, một lịng vì dân, vì nước nhất định sẽ thực hiện được cần,
kiệm, liêm, chính. Chí cơng vơ tư - mình vì mọi người là chủ nghĩa tập thể đối
lập với chủ nghĩa cá nhân, thực hiện chí cơng vơ tư - mình vì mọi người địi
hỏi phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, vì chủ nghĩa cá nhân là một trở
ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá
nhân.
Tuy nhiên đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân khơng có nghĩa là “giày
xéo” lên lợi ích cá nhân, mà giữa lợi ích chung của tập thể và lợi ích riêng của
cá nhân ln thống nhất, biện chứng với nhau; mỗi người đều có tính cách
riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình. Nếu
những lợi ích cá nhân đó khơng trái với lợi ích của tập thể thì khơng phải là
xấu. Tất nhiên, khi giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể có mâu thuẫn thì lợi
ích cá nhân phải phục tùng lợi ích tập thể. Về điểm này, Người đã từng cảnh
báo: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người hơm qua là vĩ đại, có sức hấp


12
dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư - mình vì mọi người là
u cầu, địi hỏi, là tiêu chuẩn rất cao đối với mỗi người cán bộ cách mạng. Vì
vậy, vấn đề rèn luyện, tu dưỡng để có được những phẩm chất này phải được
tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, gian khổ.
1.4.3. Yêu thương, q trọng con người sống có nghĩa có tình
Khơng có tình u “thương người như thể thương thân” thì khơng thể là
người cách mạng, người có lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Tình u thương, q
trọng con người ln gắn liền với thái độ tôn trọng con người, biết cách nâng

đỡ con người, rộng lượng và khoan dung với người, nhưng lại phải nghiêm
khắc với bản thân mình.
Yêu thương, quý trọng con người khơng phải là tình thương chung
chung trừu tượng, phi giai cấp mà phải gắn với cuộc đấu tranh giải phóng,
giành độc lập tự do cho dân tộc và tiến lên CNXH. Chỉ khi nào con người
được sống trong một đất nước độc lập, trở thành chủ nhân thật sự của đất
nước, được “ấm no, tự do, hạnh phúc” thì mới có tình “u thương, q trọng
con người” thật sự. Chủ tịch Hồ Chí Minh là mẫu mực về tình u thương,
q trọng con người. Người khơng chỉ nói mà cịn suốt cuộc đời mình thực
hiện, thể hiện tình “yêu thương, quý trọng con người”.
1.4.4. Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Đây là yêu cầu cao về đạo đức cách mạng ở tầm quan hệ rộng lớn, vượt
ra ngồi khn khổ quốc gia, dân tộc vì phẩm chất này được hình thành trên
cơ sở bản chất quốc tế của giai cấp vô sản và được hun đúc lên bởi chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại.
Theo Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước phải gắn liền với tinh thần quốc
tế trong sáng, chân chính. Nếu chỉ có tinh thần u nước mà khơng có tinh
thần quốc tế trong sáng, chân chính thì sẽ dẫn đến hoặc là kỳ thị dân tộc,


13
chủng tộc sôvanh nước lớn hoặc là dân tộc hẹp hịi. Tinh thần quốc tế trong
sáng, chân chính là tinh thần quốc tế vơ sản, đồn kết các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vơ sản tồn thế giới trong cuộc đấu tranh cho tiến bộ, hịa bình, độc
lập dân tộc, hữu nghị và cơng lý, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Đây là phẩm chất đạo đức hồn tồn mới nên địi hỏi phải có sự quyết
tâm cao của mỗi người, mỗi dân tộc và loài người tiến bộ trong cuộc đấu
tranh chung lâu dài, gian khổ trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin chân
chính, sự tiến bộ của văn minh nhân loại, sự giác ngộ giai cấp và sự phát triển
cao của nền sản xuất xã hội.

Cùng với những nội dung khái quát của các chuẩn mực đạo đức mà mỗi
người cán bộ cần phải có, phải giữ vững trên đây, Hồ Chí Minh lại đề ra
những yêu cầu, những tiêu chuẩn đạo đức phù hợp với từng đối tượng, từng
lĩnh vực hoạt động, trong các mối quan hệ đạo đức của con người và tùy theo
phạm vi trách nhiệm công việc của mỗi người, phù hợp với mỗi giai đoạn của
cách mạng. Đó là sự quán triệt phương pháp biện chứng và lịch sử, cụ thể của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào lĩnh vực đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh.


14
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN THANH
TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN
THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì nằm trên địa bàn huyện Thanh
Trì, thành phố Hà Nội. Đơn vị có tổng số 22 cán bộ - cơng nhân viên chức.
Trong tổ chức hoạt động, thực hiện chuyên môn nghiệp vụ, Viện kiểm sát
nhân dân huyện Thanh Trì ln nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, của Thường trực Huyện uỷ, Hội
đồng nhân dân và sự phối hợp của các cơ quan, ban, ngành, đồn thể, chính
quyền địa phương. Trong thực tiễn hoạt động, các cán bộ, Đảng viên Viện
kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì ln đồn kết, đồng lịng quyết tâm hồn
thành nhiệm vụ được giao.
Chi bộ Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì trực thuộc Đảng bộ
huyện Thanh Trì. Tính đến ngày 01/6/2021, Chi bộ có tổng số là 20 Đảng
viên; trong đó Đảng viên chính thức 17, dự bị 03; về giới tính Đảng viên nam
là 11, Đảng viên nữ là 09. Trình độ chun mơn: Có 12 đồng chí có trình độ

Thạc sỹ, 07 đồng chí có trình độ Cử nhân luật; Trình độ lý luận: Cao cấp
chính trị 01 đồng chí; Trung cấp lý luận 06 đồng chí, sơ cấp 13 đồng chí.
Những điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hố - xã hội đã tác động trực
tiếp đến tình hình tội phạm và cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm, cũng
như công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Trong những năm qua Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì cịn gặp nhiều
khó khăn, song tình hình kinh tế - xã hội của thành phố tiếp tục phát triển; an


15
ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội được ổn định và giữ vững, khơng để xẩy
ra các tình huống xấu, bất ngờ, mất ổn định.
Thông qua công tác Thực hành quyền công tố ở các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh
Trì với số lượng và các vụ án đã khởi tố cho thấy ở từng lĩnh vực tội phạm
còn nhiều diễn biến phức tạp, đáng chú ý là: Tội phạm ma tuý, tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, tội phạm về sở hữu, tội phạm xâm
phạm trật tự an toàn xã hội tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định chính trị, trật
tự an tồn xã hội. Cụ thể: Theo các báo cáo tổng kết công tác của Viện Kiểm
sát nhân dân thành phố Hà Nội, trong 5 năm (giai đoạn 2016 - 2020), Viện
kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì thực hành quyền cơng tố kiểm sát điều tra
1569 vụ án hình sự; Tiến hành kiểm sát việc giải quyết 3473 vụ việc thuộc
lĩnh vực Dân sự, Hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, Hành chính, Lao
động và thực hiện các cơng tác kiểm sát khác.
Trong công tác xây dựng Đảng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh
Trì ln nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự Đảng Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, của Thường trực Huyện uỷ và sự phối
hợp của các cơ quan trong khối nội chính, giúp đỡ hiệu quả của các cơ quan,
ban, ngành, đồn thể, chính quyền địa phương và sự đồng tình ủng hộ của

quần chúng nhân dân.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” với nhiều chủ đề đã tác động tích cực đến tư tưởng, tâm lý của cán bộ,
Đảng viên, đã tạo ra sự phấn khởi, đồn kết, đồng lịng trong đơn vị quyết tâm
hồn thành nhiệm vụ chính trị được giao.
2.2. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY


16
2.2.1. Mặt tích cực của đạo đức cách mạng của cán bộ, Đảng viên
Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội
Thực hiện cơng tác tun truyền kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2020) và các ngày lễ lớn, tổ chức các
đợt phát động thi đua trong đơn vị lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ XIII của Đảng; Chỉ thị của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” cho cán bộ,
Đảng viên.
Cán bộ, Đảng viên đầu tầu gương mẫu thực hiện, chấp hành tốt quy
định và xây dựng nếp sống văn minh nơi cư chú; làm tốt công tác uống nước
nhớ nguồn, cơng tác từ thiện, nhân đạo; tổ chức đón xn tại đơn vị vui vẻ tiết
kiệm, an toàn ...
Làm theo Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ thành
phố Hà Nội, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì ln đề cao và chú
trọng việc giữ gìn, giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc như lòng
yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần nhân đạo cao cả, cần kiệm,
sáng tạo trong lao động, tinh thần đoàn kết cộng đồng sâu sắc như truyền
thống "lá lành đùm lá rách" hay "thương người như thể thương thân" đồng
thời xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới, giáo dục đạo đức cho người

cộng sản: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, hay giáo dục những giá trị
đạo đức tiên tiến phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố như: sự
hiểu biết về lý luận chính trị, về quan điểm đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước. Khích lệ và nâng cao ý thức phấn đấu trong học tập
và rèn luyện, xây dựng tính năng động và tự chủ: tự giác và tự tin, dám nghĩ,
dám làm, có tình bạn và tình u trong sáng, sống có lý tưởng, ước mơ và
hồi bão lớn lao.
- Có tinh thần trách nhiệm với công việc được giao, tuyệt đối trung
thành với sự nghiệp cách mạng và kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng,


17
chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà
nước. Luôn nêu cao tinh thần kiên quyết chống tham ơ, lãng phí, quan liêu,
chống chủ nghĩa cá nhân, luôn thực hành dân chủ, thực hành tiết kiệm.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Việc bồi dưỡng, nâng cao đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên trong Đảng bộ Viện Kiểm sát nhân
dân huyện Thanh Trì theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính ngun
tắc, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng
viên thật sự mẫu mực, tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, năng lực, xây dựng
Đảng bộ Học viện vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực về cách ứng xử của con
người trong các quan hệ giữa người với người, với tổ chức trong xã hội; là giá
trị cốt lõi tạo nên phẩm chất nhân cách của con người. “Đạo đức cách mạng là
bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm cơng việc gì, đều khơng sợ khó, khơng sợ
khổ, đều một lịng, một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân,
đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đạo đức cách mạng là đạo
đức tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân” . “Đạo đức đó

khơng phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng
phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,
của loài người”.
Đạo đức cách mạng là “gốc” của cán bộ, đảng viên; đạo đức cách
mạng thực sự là giá trị cốt lõi trong bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng
viên. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng
viên vừa phản ánh những yêu cầu chung của nhiệm vụ cách mạng, vừa phản
ánh đặc điểm, yêu cầu riêng. Đạo đức cách mạng của người cán bộ, Đảng
viên nói chung và trong Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Thanh Trì nói riêng
khơng phải là cái gì trừu tượng, cao xa mà được thể hiện rất cụ thể trong ba


18
mối quan hệ cơ bản: đối với người, đối với việc, đối với tự mình và được khái
quát thành các đặc trưng tiêu biểu đó là:
Trung với nước, Trung với Đảng, Hiếu với dân. Đây là biểu hiện cao nhất
ý thức đạo đức người cán bộ, Đảng viên, định hướng cho mọi hoạt động thực
tiễn của họ. Tư tưởng: Trung- Hiếu ở đây đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát
triển lên tầm cao mới. Người nói: “Ngày xưa Trung là trung với vua, Hiếu là
hiếu với cha mẹ mình thơi”; cịn ngày nay, “Trung là trung với Tổ quốc, Hiếu
là hiếu với nhân dân”. Người chỉ rõ yêu cầu của “Trung” là: “Trung thành
tuyệt đối với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng”. Trung với
nước đối với người cán bộ luôn gắn liền với Trung với Đảng, Hiếu với dân.
Bởi vì, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng, lãnh đạo đất nước nên "Trung với nước” trước hết và tập trung nhất
phải là “Trung với Đảng”.
Mặt khác, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nước với dân hoà làm một.
Nước là của dân và dân là chủ nhân của đất nước. Do đó, Trung với nước
khơng tách rời Hiếu với dân. Người nói: “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của
bộ đội. Cán bộ phải dạy cho đội viên biết kính trọng dân, thương yêu dân,

giúp đỡ dân”. Trung với nước, Trung với Đảng, Hiếu với dân trở thành phẩm
chất đạo đức hàng đầu định hướng hoạt động cách mạng của mỗi cán bộ,
chiến sĩ.
Đạo đức của người cán bộ, Đảng viên tại Đảng bộ Viện Kiểm sát Nhân
dân huyện Thanh Trì theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở đức tính:
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
theo Hồ Chí Minh là phẩm chất nền tảng của đạo đức cách mạng mà mỗi cán
bộ, đảng viên phải ln qn triệt, thực hiện. Nó phản ánh mối quan hệ “tự
mình đối với mình”, đó là nhu cầu “tự thân”, tức là tự lấy chính bản thân
mình làm đối tượng để tu dưỡng, rèn luyện trong hoạt động hằng ngày. Người
nói, mỗi người đều phải trong sạch, khơng tham lam, không đem của công


19
dùng vào việc tư, cho nên phải liêm. Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào cán
bộ, Đảng viên phải rèn luyện toàn diện các phẩm chất đạo đức trong nhân
cách người cán bộ, đảng viên, đó là: Trí - Tín - Nhân - Dũng - Liêm - Trung.
Đây là những phẩm chất quan trọng, đặc biệt, cần thiết, giúp cho người cán
bộ, Đảng viên ln sáng suốt, bình tĩnh, quyết đốn xử trí các tình huống một
cách kịp thời, chính xác.
Đạo đức của người cán bộ, đảng viên Viện Kiểm sát nhân dân huyện
Thanh Trì theo tư tưởng Hồ Chí Minh cịn được thể hiện ở tinh thần quốc tế
vô sản cao cả, trong sáng, thuỷ chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
chú ý giáo dục, hướng dẫn cán bộ, đảng viên thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao. Những tư tưởng sâu sắc về tinh thần quốc tế vô sản vô tư, trong sáng của
Người đã trở thành giá trị, chuẩn mực đạo đức cách mạng để cán bộ, đảng
viên trong Đảng bộ Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì ln ghi nhớ
thực hiện. Theo Hồ Chí Minh: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp
mình”. Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh thần quốc tế
vô sản cao cả, nhiều cán bộ, Đảng viên đã không quản ngại hy sinh, gian khổ,

vượt mọi khó khăn, viết nên những trang sử truyền thống sáng ngời về đạo
đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Trong đó, đội ngũ cán bộ, Đảng
viên tại Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì là những người luôn đi tiên
phong trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao đẹp đó.
Để nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên trong
Đảng bộ Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, Đảng viên
Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Thanh Trì về giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng
Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, bởi vì nhận thức là cơ sở của
hành động. Nhận thức đúng sẽ giúp cho mỗi cán bộ, Đảng viên có hành động


20
đúng đắn. Do đó, các cấp uỷ, tổ chức đảng phải tăng cường cơng tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, qua đó giúp cho cán bộ, Đảng viên nâng cao nhận
thức, rèn luyện bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng; củng cố vững chắc
nền tảng tư tưởng; xác định tốt ý thức trách nhiệm, tạo sự chuyển biến tích
cực trong nhận thức về rèn luyện đạo đức cách mạng, hoàn thành tốt các
nhiệm vụ được giao.
Thường xuyên giáo dục cho cán bộ, Đảng viên tuyệt đối trung thành với
Tổ quốc, với Đảng và Nhân dân, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; hết
lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân; sẵn sàng hy sinh để bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Luôn nêu cao tinh thần yêu nước, có
nhận thức và thái độ chính trị đúng đắn, khắc phục vượt qua mọi khó khăn
thử thách, gương mẫu đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ, sẵn sàng nhận và hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Hai là, thường xuyên bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, Đảng viên có
phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh, khiêm tốn,

giản dị; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Thường xuyên quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII và các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ln lạc quan, tự tin; nói đi đơi với làm, nói ít,
làm nhiều, ứng xử có văn hố. nêu cao tự phê bình và phê bình, ln “tự soi,
tự sửa”, gương mẫu thực hành cần, kiệm, liêm, chính trong cơng tác, sinh
hoạt. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng,
không để lợi ích cá nhân chi phối, không chạy theo thành tích, giấu giếm
khuyết điểm; tích cực bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người
tốt, phê phán, đẩy lùi cái xấu.
Ba là, khơng ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức về chính trị,
học vấn, chun mơn, nghiệp vụ, kiến thức văn hoá, xã hội đáp ứng yêu cầu
thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao


×