Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vai trò của ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.11 KB, 7 trang )

Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng cơng nghệ”– DCFB 2020

VAI TRỊ CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM Ở VIỆT NAM
Nguyễn Thị Thiều Quang, Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Khoa Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng

TÓM TẮT
Tăng trưởng kinh tế được coi là mục tiêu quan trọng của các nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước đang
phát triển. Ở Việt Nam, từ thời kỳ đổi mới đến nay, hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt, là kênh
cơ bản cung ứng vốn cho nền kinh tế để thực hiện các chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Nghiên cứu này đánh
giá vai trò của hệ thống ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn từ quí 2/2012 đến q
4/2019. Sử dụng mơ hình tự hồi quy phân phối trễ, kết quả nghiên cứu cho thấy trong ngắn hạn, ngành
ngân hàng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Tác động tiêu cực này giảm dần qua các quí. Kết
quả là, trong dài hạn, ngành ngân hàng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Do đó, việc đẩy mạnh
phát triển hệ thống ngân hàng ở các nước phát triển như Việt Nam là rất cần thiết. Tuy nhiên, bên cạnh hệ
thống ngân hàng, các nhân tố khác như chỉ số giá tiêu dùng và cung tiền cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế. Do đó, việc phát triển hệ thống ngân hàng cần đi cùng với các chính sách vĩ mơ khác, đặc biệt là
các chính sách tiền tệ.
Từ khóa: Phát triển ngân hàng, Tăng trưởng kinh tế, Mơ hình tự hồi quy phân phối trễ, Việt Nam.
1. Mở đầu
Tăng trưởng kinh tế được coi là mục tiêu quan trọng của các nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước
đang phát triển. Các quốc gia ln tìm cách duy trì tăng trưởng kinh tế để tăng thu nhập quốc dân và tạo thêm
cơ hội việc làm, cải thiện mức sống của người dân. Thực tế, ngành tài chính ngân hàng đang đóng một vai trị
quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế cho rằng các tổ chức tài
chính, đặc biệt là ngân hàng, được xem là một cơng cụ hữu ích để cải thiện năng lực sản xuất của nền kinh tế
và là nguồn vốn nội bộ quan trọng cho bất kỳ quốc gia nào đặc biệt trong thời kỳ khai sinh của tăng trưởng
kinh tế (Schumpeter, 1911). Rõ ràng, hệ thống ngân hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế thông qua khả
năng huy động tiết kiệm, cung cấp các khoản vay để khuyến khích đầu tư và sản xuất, giảm chi phí về thơng
tin, giao dịch và kiểm sốt, tạo điều kiện cho trao đổi hàng hóa và dịch vụ, hình thành vốn ban đầu cho các dự


án đầu tư, từ đó đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế (Greenwood & Jovanovic, 1990).
Ở Việt Nam, từ thời kỳ đổi mới đến nay, hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt, là kênh cơ bản
cung ứng vốn cho nền kinh tế để thực hiện các chỉ tiêu vĩ mơ của nền kinh tế. Ngồi cho vay thương mại đối
với các tổ chức và cá nhân, hệ thống ngân hàng cịn là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng và Chính phủ như cho vay đối với hộ nghèo, vùng sâu, vùng xa, góp phần hạn chế đáng
kể sự chênh lệch phát triển giữa các nhóm thu nhập và giữa các vùng trong nước, từng bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong điều kiện thị trường tài chính cịn sơ khai ở Việt Nam, tín dụng ngân hàng là kênh chủ yếu cung
ứng vốn cho chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào
xem xét vai trò của ngành ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Các nghiên cứu trước đây (cả
phạm vi quốc tế và trong nước) tập trung xem xét mối quan hệ giữa sự phát triển của thị trường tài chính (sau
đây gọi tắt là "phát triển tài chính") và tăng trưởng kinh tế, nhưng cho đến nay kết quả nghiên cứu về mối quan
hệ này vẫn chưa có sự thống nhất. Thơng qua các nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng
trưởng kinh tế, các nhà nghiên cứu cũng thảo luận về mối liên kết giữa sự phát triển của ngành ngân hàng và
tăng trưởng kinh tế, nhưng chưa có nghiên cứu nào xem xét tác động trực tiếp của ngành ngân hàng đến sự
phát triển của nền kinh tế. Nghiên cứu của Tongurai và Vithessonthi (2018) mặc dù tập trung đánh giá tác
374


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

động của ngành ngân hàng nhưng chỉ xem xét tác động vào từng lĩnh vực kinh tế (cụ thể, công nghiệp và nông
nghiệp) chứ không đánh giá tổng thể nền kinh tế. Do đó, bài nghiên cứu này lấp vào khoảng trống nghiên cứu
trên bằng việc xem xét tác động trực tiếp của sự phát triển ngành ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam.
Sử dụng mơ hình tự hồi quy phân phối trễ (ARDL) với nguồn dữ liệu kinh tế vĩ mô Việt Nam giai đoạn
từ quí 2 năm 2012 đến quí 4 năm 2019, kết quả nghiên cứu cho thấy rằng trong ngắn hạn, ngành ngân hàng có
tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Song, tác động tiêu cực này giảm dần qua các quí, và trong dài hạn,
ngành ngân hàng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.

2. Tổng quan nghiên cứu
Cho đến nay, mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế đã được nghiên cứu rộng rãi
về cả mặt lý thuyết lẫn thực nghiệm. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu vẫn chưa có kết luận thống nhất. Một
luồng nghiên cứu cho rằng phát triển tài chính có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế (King & Levine,
1993; McKinnon, 1973; Rajan & Zingales, 1996). Chẳng hạn, King và Levine (1993) đã chỉ ra mối quan hệ tỉ
lệ thuận giữa các chỉ số phát triển tài chính và tăng trưởng GDP bình quân đầu người khi nghiên cứu mẫu số
hơn 80 quốc gia. Thông qua các nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế,
các nhà nghiên cứu cũng đã thảo luận về mối liên kết giữa sự phát triển của ngành ngân hàng và tăng trưởng
kinh tế. (McKinnon, 1973)cho thấy các ngân hàng thương mại thống trị cơ cấu tài chính trong giai đoạn phát
triển đầu tiên của thị trường tài chính. King và Levine (1993) lập luận rằng hệ thống ngân hàng cung cấp nhiều
tiền hơn cho nền kinh tế, kích thích sự chuyển động của bánh xe kinh tế. Các nghiên cứu trước đây đã ghi nhận
tác động tích cực của sự phát triển ngành ngân hàng đến tăng trưởng sản lượng quốc gia. Chẳng hạn, Beck,
Levine, và Loayza (2000) cho thấy rằng tín dụng tư nhân (tín dụng của các trung gian tài chính cho khu vực
tư nhân) có liên quan chặt chẽ với sự phát triển của nền kinh tế. Sử dụng dữ liệu bảng của 138 quốc gia trong
năm 2002 - 2009, Gimet và Lagoarde-Segot (2012) nhận thấy rằng cạnh tranh liên ngân hàng, sự phát triển thị
trường vốn, quyền dân sự đảm bảo và hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp có thể giúp tăng cường mối liên kết giữa
hệ thống ngân hàng và phát triển kinh tế. Đây cũng là những yếu tố quan trọng để cải thiện khả năng của các
ngân hàng trong việc cung cấp dịng tín dụng gia tăng cho khu vực tư nhân và để tăng cường thu nhập tài chính
cho người nghèo. Gần đây, nghiên cứu của Prochniak và Wasiak (2017) về phân tích tác động của phát triển
tài chính đến tăng trưởng kinh tế từ 28 nền kinh tế EU và 34 nền kinh tế OCED từ năm 1993 đến năm 2013,
đã xác minh mối quan hệ có ý nghĩa tích cực giữa hệ thống ngân hàng và tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, luồng nghiên cứu chỉ ra mối tương quan âm giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế
cũng cho thấy tác động tiêu cực của hệ thống ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế. Zhao (2017) đã nghiên cứu
tác động của sự phát triển tài chính đến sản lượng kinh tế của 286 thành phố của Trung Quốc giữa năm 2007
- 2014. Bằng mô hình hồi quy cắt ngang để tiến hành các kết quả, nghiên cứu phát hiện rằng phát triển tài
chính khơng có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế Trung Quốc, và các biến số ngân hàng đều có tác
động tiêu cực đến tăng trưởng. Imoughele (2014) chỉ ra rằng tiền gửi có kỳ hạn và tỷ giá hối đối có ảnh hưởng
đáng kể đến đầu ra của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nigeria; nhưng tín dụng của các ngân hàng thương mại
lại khơng có tác động đến sản lượng đầu ra của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước này. Mới đây, nghiên cứu
của Tongurai và Vithessonthi (2018) xem xét tác động trực tiếp của ngành ngân hàng đến các lĩnh vực trong

nền kinh tế, đã chỉ ra rằng ngành ngân hàng có tác động tiêu cực đến sự phát triển ngành nông nghiệp nhưng
lại khơng có bất kỳ tác động nào đến sự phát triển ngành công nghiệp. Và tác động tiêu cực của ngành ngân
hàng đối với sự phát triển ngành nông nghiệp chỉ được quan sát đối với các nước có hệ thống ngân hàng phát
triển ở cấp độ cao. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Khoa P.T. Pham (2019) tập trung vào mối quan hệ giữa phát
triển tài chính và tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn từ quý I/2000 đến quý IV/2015. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, phát triển tài chính có tác động tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế.
Nhìn chung, thơng qua các nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế,
các nhà nghiên cứu cũng thảo luận về mối liên kết giữa sự phát triển của ngành ngân hàng và tăng trưởng kinh
tế, nhưng đến nay vẫn chưa có những kết luận thống nhất. Hơn thế nữa, xem xét tổng quan các nghiên cứu
trước đây, nhóm tác giả nhận thấy cũng chưa có nghiên cứu nào đánh giá tác động trực tiếp của ngành ngân
375


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

hàng đến sự phát triển của nền kinh tế. Nghiên cứu của Tongurai và Vithessonthi (2018) mặc dù tập trung đánh
giá tác động của ngành ngân hàng nhưng chỉ xem xét tác động vào từng lĩnh vực kinh tế (cụ thể, công nghiệp
và nông nghiệp) chứ khơng đánh giá tổng thể nền kinh tế. Do đó, bài nghiên cứu này thực hiện đánh giá tác
động trực tiếp của sự phát triển ngành ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng mơ hình tự hồi quy phân phối trễ (ARDL) để đánh giá mối quan hệ dài hạn giữa sự
phát triển của ngân hàng và tăng trưởng kinh tế. Mơ hình ARDL phù hợp hơn các mơ hình nghiên cứu dựa
trên phần dư như thủ tục hai bước Engle-Granger hay vectơ tự hồi qui (VAR) do dữ liệu nghiên cứu là các
chuỗi tích hợp bậc 0 và bậc 1. Bên cạnh đó, mơ hình ARDL cung cấp các ước lượng hiệu quả và không chệch
đối với các mô hình dài hạn, đặc biệt là các mẫu dữ liệu nhỏ (Harris & Sollis, 2003; Pesaran & Shin, 1998).
Mơ hình ARDL có dạng như sau:
𝑝
𝑞
𝐺𝐷𝑃𝑡 = 𝛼 + ∑𝑖=1 𝛽1𝑖 𝐺𝐷𝑃𝑡−𝑖 + ∑𝑖=0 𝛽2𝑖 𝐵𝐴𝑁𝑡−𝑖 + ∑𝑙𝑖=0 𝛽𝑘𝑖 𝑋𝑘,𝑡−𝑖 + 𝜀𝑖𝑡


(1)

Trong đó: GDP là tổng sản phẩm quốc nội; BAN là sự phát triển ngân hàng, được đo lường bằng logarit
của dư nợ tín dụng (CREDIT), X là các biến kiểm soát; 𝛼 là hằng số; 𝛽1 , 𝛽2 , 𝛽𝑘 là các hệ số ước lượng, p, q, l
lần lượt là độ trễ của các biến GDP, BAN và các biến kiểm soát X; t, i là thời gian và số độ trễ; 𝜀 là sai số của
mơ hình.
Tương tự các nghiên cứu của Adeniyi, Oyinlola, Omisakin, và Egwaikhide (2015); Ruiz (2018); Seven
và Yetkiner (2016), các biến kiểm soát của mơ hình bao gồm cung tiền (M2GDP) (được đo lường bằng hệ số
của tổng phương tiện thanh toán trên GDP) và lạm phát (CPI) (được đo lường bằng chỉ số giá tiêu dùng).
Trước khi ước lượng mơ hình (1), nhóm tác giả thực hiện kiểm định tính dừng của các biến của mơ hình
bằng kiểm định Augmented Dickey-Fuller và Phillips-Perron để đảm bảo rằng khơng có biến nào khơng dừng
ở bậc 2 (I(2)). Sau đó, xác định độ trễ thích hợp của các biến dựa vào chỉ tiêu Akaike Information Criterion
(AIC). Một bước quan trọng trong ước lượng mô hình ARDL là xem xét có sự tồn tại của mối quan hệ dài hạn
giữa các biến hay không bằng phương pháp kiểm định đường bao (Pesaran, Shin, & Smith, 2001). Phương
pháp này ước lượng mơ hình ARDL bằng OLS. Sau đó, tính trị số thống kê F-statistic cho giả thuyết hệ số của
tất cả các biến trễ đồng thời bằng 0 và so sánh trị số này với các giá trị tới hạn biên trên và biên dưới. Nếu Fstatistic nhỏ hơn giá trị tới hạn biên dưới, ta chấp nhận giả thuyết H0 và kết luận khơng có mối quan hệ dài hạn
giữa các biến. Nếu F-statistic lớn hơn giá trị tới hạn biên trên, ta từ chối giả thuyết H0 và kết luận có mối quan
hệ dài hạn giữa các biến. Khi đó, các hệ số của mơ hình ARDL được hiệu chỉnh và mối quan hệ dài hạn của
các biến được ước lượng bởi mơ hình sai số hiệu chỉnh (ECM) như sau:
𝑝
𝑞
∆𝐺𝐷𝑃𝑡 = 𝛼 + ∑𝑖=1 𝛽1𝑖 ∆𝐺𝐷𝑃𝑡−𝑖 + ∑𝑖=0 𝛽2𝑖 ∆𝐵𝐴𝑁𝑡−𝑖 + ∑𝑙𝑖=0 𝛽𝑘𝑖 ∆𝑋𝑘,𝑡−𝑖 − 𝜆(𝐺𝐷𝑃𝑡−1 − 𝜃1 𝐵𝐴𝑁𝑡−1 −

𝜃𝑘 𝑋𝑘,𝑡−1 ) + 𝜀𝑖𝑡

(2)

Trong đó: 𝜆 là hệ số sai số hiệu chỉnh, phản ánh tốc độ điều chỉnh về trạng thái cân bằng; 𝜃1 , 𝜃𝑘 là các
hệ số dài hạn của mơ hình.

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu kinh tế vĩ mơ Việt Nam giai đoạn từ q 2 năm 2012 đến quí 4 năm 2019.
Dữ liệu nghiên cứu được trích xuất từ cơ sở dữ liệu Fiinpro.
4. Kết quả nghiên cứu
Thống kê mơ tả
Bảng 1 tóm tắt các biến sử dụng trong mơ hình. Có thể thấy Việt Nam thuộc nhóm nước có mức thu
nhập trung bình thấp với mức GDP danh nghĩa trung bình đạt 2.616.889 tỷ đồng. Mức GDP cao nhất đạt được
vào quí 4 năm 2019 là 6.037.348 tỷ đồng. Dư nợ tín dụng tương đối cao và lớn hơn nhiều so với mức GDP,
cho thấy tín dụng và ngành ngân hàng đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế. Tỷ trọng dư nợ tín dụng trên
GDP (CREDIT/GDP) trung bình đạt 265%. Trong giai đoạn 2012-2019, Việt Nam kiểm soát lạm phát tương
đối tốt. Chỉ số giá tiêu dùng trung bình CPI ở mức thấp 0,30. Tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế
tương đối cao, chiếm trung bình 332% so với GDP.
376


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

Bảng 1 – Thống kê mô tả
Biến

Quan sát

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất


GDP

31

2.616.889

1.485.989

683.668

6.037.348

CREDIT

31

5.092.555

1.669.958

2.887.697

8.004.063

CREDIT/GDP

31

2,65


1,75

0,95

6,66

CPI

31

0,30

0,24

0,01

0,60

M2GDP

31

3,32

2,33

0,17

8,48


Kiểm định nghiệm đơn vị
Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ở bảng 2 cho thấy các biến GDP và M2GDP dừng ở bậc 0 với mức ý
nghĩa 1% trong khi các biến BAN và CPI dừng ở bậc 1. Như vậy, mơ hình gồm chuỗi hỗn hợp các biến tích
hợp bậc 0 và bậc 1 nên mơ hình ARDL là phù hợp.
Bảng 2: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị
Kiểm định Augmented Dickey-Fuller (p-value)

Kiểm định Phillips-Perron
(p-value)

Biến

Bậc 0

Bậc 1

Bậc 0

Bậc 1

GDP

<0,001

<0,001

<0,001

<0,001


BAN

0,926

<0,001

0,925

<0,001

CPI

0,674

<0,001

0,655

<0,001

M2GDP

<0,001

<0,001

<0,001

<0,001


Kiểm định đường bao
Các giá trị thống kê lựa chọn độ trễ dựa vào các tiêu chí FPE (Final Prediction Error), Akaike (AIC),
Schwarz's Bayesian (SBIC), và Hannan và Quinn (HQIC) đều cho thấy độ trễ tối đa của các biến trong mơ
hình là 4. Với độ trễ tối đa là 4, sử dụng tiêu chuẩn AIC và BIC để lựa chọn độ trễ cho mơ hình ARDL, kết
quả cho thấy mơ hình ARDL có cấu trúc độ trễ (4,4,0,4) cho các biến lần lượt là GDP, BAN, CPI và M2GDP
có giá trị AIC và BIC nhỏ nhất. Do đó, mơ hình ARDL (4,4,0,4) là mơ hình được lựa chọn.
Kết quả kiểm định đường bao ở bảng 3 cho thấy F-statistic có giá trị 23,925, lớn hơn giá trị tới hạn biên
trên ở tất cả các mức ý nghĩa thống kê. Do đó, tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa các biến trong mơ hình.

377


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

Bảng 3 – Kết quả kiểm định đường bao
k

Fstatistic

Giá trị tới hạn theo Kripfganz và
Schneider (2019)
90%

23,925

3

95%


97.5%

99%

Biên
dưới

Biên
trên

Biên
dưới

Biên
trên

Biên
dưới

Biên trên

Biên
dưới

Biên
trên

2,72

3,77


3,23

4,35

3,69

4,89

4,29

5,61

Kết quả hồi qui
Bảng 4 thể hiện mối quan hệ ngắn hạn và dài hạn của các biến của mô hình đến tăng trưởng kinh tế. Có
thể thấy, trong ngắn hạn, ngành ngân hàng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Tác động tiêu cực này
giảm dần qua các quí. Kết quả là, trong dài hạn, ngành ngân hàng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh
tế.
Bên cạnh hệ thống ngân hàng, tăng trưởng kinh tế Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của tăng trưởng kinh
tế và cung tiền trong ngắn cũng như lạm phát và cung tiền trong dài hạn. Cụ thể là, tăng trưởng kinh tế ở 2 đến
4 quí trước sẽ làm giảm mức tăng trưởng kinh tế hiện tại. Hệ số sai số hiệu chỉnh là -1,628 cho thấy tốc độ
điều chỉnh về mức tăng trưởng cân bằng dài hạn là tương đối nhanh. Trong khi đó, cung tiền ở hiện tại và các
q trước lại có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Tác động này giảm dần qua các quí dẫn đến tác động
tiêu cực trong dài hạn do cung tiền trong nền kinh tế kéo theo sự gia tăng lạm phát. Tuy nhiên, giá cả hàng hóa
tăng lên (do tác động của lạm phát) lại thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong dài hạn.
Các kiểm định sau hồi qui (cuối bảng 4) cho thấy mơ hình khơng có hiện tượng tự tương quan phần dư
và phương sai có sai số thay đổi. Bên cạnh đó, kết quả kiểm định CUSUM cho thấy, tổng tích lũy của phần dư
nằm trong dải cộng trừ 5% nên các hệ số ước lượng của mơ hình có độ tin cậy cao và mơ hình là phù hợp.
Bảng 4 - Kết quả hồi qui ARDL
Các biến


Hệ số

t-statistic

-1,628***

-8,14

BAN

0,880***

8,61

CPI

0,047**

2,97

-0,183**

-2,91

∆GDPt-1

0,195

1,31


∆GDPt-2

-0,236**

-2,22

∆GDPt-3

-0,553***

-8,32

∆BANt

-1,015**

-2,58

∆BANt-1

-1,163***

-3,55

Sai số hiệu chỉnh (λ)
Tác động dài hạn

M2GDP
Tác động ngắn hạn


378


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

∆BANt-2

-1,641***

-3,35

∆BANt-3

-0,970**

-2,85

∆M2GDPt

0,296**

2,34

∆M2GDPt-1

0,216**

2,36


∆M2GDPt-2

0,133*

2,12

∆M2GDPt-3

0,079*

2,16

2,844

1,37

Hằng số
Số quan sát

27

R-squared

0,9999

Adj R-squared

0,9998


F-statistic (p-value)

7437,88 (<0,001)

Kiểm định tự tương quan
Thống kê Durbin-Watson statistic (p-value)

2,462 (0,409)

Thống kê Breusch-Godfrey LM (p-value)

1,723 (0,189)

Kiểm định phương sai sai số thay đổi
Kiểm định White: Chi-squared (p-value)

27 (0,271)

Kiểm định Breusch-Pagan / Cook-Weisberg: Chi-squared (p-value)

0,01 (0,911)

*, **, *** thể hiện mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 10%, 5% và 1%.
5. Kết luận
Nghiên cứu này đánh giá vai trò của hệ thống ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai
đoạn từ quí 2/2012 đến quí 4/2019. Sử dụng mơ hình tự hồi quy phân phối trễ, kết quả nghiên cứu cho thấy sự
phát triển của hệ thống ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Kết quả này phù hợp
với nghiên cứu của Hassan, Sanchez, và Yu (2011) và Seven và Yetkiner (2016) đối với các nước đang phát
triển. Điều này khẳng định vai trò của ngân hàng trong việc làm giảm những rào cản của thị trường và giảm
tác động của thông tin bất đối xứng đối với huy động vốn và phân bổ các nguồn lực cho các hoạt động của nền

kinh tế. Từ đó, thúc đẩy kinh tế phát triển (Boot & Thakor, 1997; Coval & Thakor, 2005). Trong khi thị trường
chứng khốn khó có thể thúc đẩy nền kinh tế trong dài hạn ở các nước đang phát triển do nó tạo ra các nguồn
lợi nhuận ngắn hạn và đòi hỏi hệ thống giám sát hiệu quả để có thể làm tốt vai trị của mình thì hệ thống ngân
hàng tạo ra mối quan hệ dài hạn với các nhà đầu tư, và cung cấp nguồn tài chính ổn định cho tăng trưởng kinh
tế (Singh & Weisse, 1998). Do đó, việc đẩy mạnh phát triển hệ thống ngân hàng ở các nước phát triển như
Việt Nam là rất cần thiết. Tuy nhiên, bên cạnh hệ thống ngân hàng, các nhân tố khác như chỉ số giá tiêu dùng
và cung tiền cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Do đó, việc phát triển hệ thống ngân hàng cần đi cùng
với các chính sách vĩ mơ khác, đặc biệt là các chính sách tiền tệ.

379


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Adeniyi, O., Oyinlola, A., Omisakin, O., & Egwaikhide, F. O. (2015). Financial development and
economic growth in Nigeria: Evidence from threshold modelling. Economic Analysis and Policy, 47, 1121.
[2] Beck, T., Levine, R., & Loayza, N. (2000). Finance and the Sources of Growth. Journal of financial
economics, 58(1-2), 261-300.
[3] Boot, A. W., & Thakor, A. V. (1997). Financial system architecture. The Review of Financial Studies,
10(3), 693-733.
[4] Coval, J. D., & Thakor, A. V. (2005). Financial intermediation as a beliefs-bridge between optimists and
pessimists. Journal of Financial Economics, 75(3), 535-569.
[5] Gimet, C., & Lagoarde-Segot, T. (2012). Financial sector development and access to finance. Does size
say it all? Emerging Markets Review, 13(3), 316-337.
[6] Greenwood, J., & Jovanovic, B. (1990). Financial development, growth, and the distribution of income.
Journal of political Economy, 98(5, Part 1), 1076-1107.
[7] Harris, R., & Sollis, R. (2003). Applied time series modelling and forecasting: Wiley.
[8] Hassan, M. K., Sanchez, B., & Yu, J.-S. (2011). Financial development and economic growth: New

evidence from panel data. The Quarterly Review of economics and finance, 51(1), 88-104.
[9] Imoughele, L. E. I. (2014). The impact of commercial bank credit on the growth of small and medium
scale enterprises: An econometric evidence from Nigeria (1986-2012). Journal of Educational Policy and
Entrepreneurial Research, 1(2), 251-261.
[10] Khoa P.T. Pham, H. T. K. D., Van H. Nguyen, Thanh T Le, Hoa T.T. Phan. (2019). Mối quan hệ giữa
phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Tạp chí Tài chính, Kỳ 2(Tháng 10/2019).
[11] King, R. G., & Levine, R. (1993). Finance and growth: Schumpeter might be right. The quarterly journal
of economics, 108(3), 717-737.
[12] Kripfganz, S., & Schneider, D. C. (2019). Response surface regressions for critical value bounds and
approximate p-values in equilibrium correction models.
[13] McKinnon, R. (1973). Money and capital in economic development. Washington, D.C. : Brookings
Institution.
[14] Pesaran, M. H., & Shin, Y. (1998). An autoregressive distributed-lag modelling approach to cointegration
analysis. Econometric Society Monographs, 31, 371-413.
[15] Pesaran, M. H., Shin, Y., & Smith, R. J. (2001). Bounds testing approaches to the analysis of level
relationships. Journal of applied econometrics, 16(3), 289-326.
[16] Prochniak, M., & Wasiak, K. (2017). The impact of the financial system on economic growth in the
context of the global crisis: empirical evidence for the EU and OECD countries. Empirica, 44(2), 295337.
[17] Rajan, R. G., & Zingales, L. (1996). Financial dependence and growth (0898-2937): National bureau of
economic research.
[18] Ruiz, J. L. (2018). Financial development, institutional investors, and economic growth. International
Review of Economics & Finance, 54, 218-224.
[19] Schumpeter, J., &. (1911). The theory of economic development. Harvard Economic Studies. Vol. XLVI:
Cambridge, MA: Harvard University Press.
[20] Seven, Ü., & Yetkiner, H. (2016). Financial intermediation and economic growth: Does income matter?
Economic Systems, 40(1), 39-58.
[21] Singh, A., & Weisse, B. A. (1998). Emerging stock markets, portfolio capital flows and long-term
economie growth: Micro and macroeconomic perspectives. World development, 26(4), 607-622.
[22] Tongurai, J., & Vithessonthi, C. (2018). The impact of the banking sector on economic structure and
growth. International Review of Financial Analysis, 56, 193-207.

[23] Zhao, S. (2017). Does financial development necessarily lead to economic growth? Evidence from
China’s cities, 2007–2014EDP Sciences. Symposium conducted at the meeting of the MATEC Web of
Conferences
380



×