Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc tày ở vùng đông bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.75 KB, 26 trang )

1

Mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ
hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày
ở vùng Đông Bắc

Hà Xuân Hương

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Khoa Văn học
Chuyên ngành: Văn học dân gian; Mã số: 60.22.36
Người hướng dẫn: GS. TS. Nguyễn Xuân Kính
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Khái quát về dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc. Nghiên cứu truyền thuyết dân
gian và lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở Đông Bắc. Phân tích vai trò
qua lại và sự biến đổi của mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội về người
anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc.

Keywords. Văn hóa dân gian; Truyền thuyết dân gian; Lễ hội; Dân tộc Tày; Anh hùng
lịch sử

Content.

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hóa dân gian bao gồm nhiều thành phần có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Truyền thuyết và lễ hội là hai vi hệ của văn hóa dân gian. Mối quan hệ giữa hai vi hệ
văn hóa này đã được các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu ở phạm vi văn học dân gian
và lễ hội của người Việt. Vấn đề đó ít và hầu như chưa được quan tâm thỏa đáng ở phạm
vi văn học dân gian và lễ hội của các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Tày.


Người Tày có số dân đông nhất trong số các dân tộc thiểu số ở nước ta, cư trú chủ
yếu ở các tỉnh vùng Đông Bắc. Dân tộc Tày được coi là chủ thể văn hóa ở vùng Đông
Bắc.
2

Dân tộc Tày có đời sống văn hóa vô cùng đặc sắc, trong đó phải kể đến các
truyền thuyết dân gian và lễ hội về người anh hùng lịch sử. Vậy, có mối quan hệ nào
giữa hai thành phần văn hóa này không? Đó là vấn đề mà chúng tôi quan tâm.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành tìm hiểu mối quan hệ giữa
truyền thuyết và lễ hội về các anh hùng lịch sử của người Tày ở vùng Đông Bắc.
2. Lịch sử vấn đề
Trong khi chúng tôi tìm hiểu mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về các anh
hùng lịch sử của người Tày ở vùng Đông Bắc, những công trình, bài viết của các tác giả
đi trước rất quý báu đối với tác giả luận văn. Có thể tổng thuật ý kiến của họ theo từng
cụm vấn đề và theo trình tự thời gian như sau:
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội nói
chung
Năm 1971, trong cuốn Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự
sự dân gian do Viện Văn học tổ chức biên soạn, GS. Kiều Thu Hoạch công bố bài viết
“Truyền thuyết anh hùng trong thời kì phong kiến”. Tác giả có nhận xét: “Một đặc điểm
của truyền thuyết anh hùng chống xâm lược của ta là thường gắn liền với các cuộc hội
mùa và nghi lễ tế thần ở các đình chùa, đền miếu [17; tr 63].
Năm 1973, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương đăng bài “Tìm hiểu quan hệ
giữa thần thoại, truyền thuyết và diễn xướng phong tục” trên Tạp chí Văn học. Trong bài
viết này, tác giả quan niệm diễn xướng là một bộ phận của hội làng. Quan hệ giữa thần
thoại, truyền thuyết và diễn xướng giống như quan hệ giữa tích và trò. Tác giả đã phân
loại các hình thức diễn xướng tín ngưỡng đa dạng thành ba nhóm chính: diễn xướng
canh tác sản xuất và tín ngưỡng phồn thực, diễn xướng sinh hoạt văn hóa phong tục,
diễn xướng lịch sử. Cuối cùng, tác giả khẳng định: “Diễn xướng tín ngưỡng hội làng còn
là một phương tiện bảo lưu thần thoại, truyền thuyết có hiệu lực” [45; tr 107].

Năm 1996, trong công trình Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội
lễ về các anh hùng, TS. Lê Văn Kì đã chỉ ra rằng trong quá trình lịch sử của dân tộc,
nhiều hội lễ cầu mùa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước đã dần được bổ sung thêm
lớp ý nghĩa ca ngợi các anh hùng chống ngoại xâm. “Truyền thuyết và hội lễ cùng phản
3

ánh nhiều nhân vật, nhiều sự kiện lịch sử” [11; tr 70]. Trong việc phản ánh người anh
hùng, mỗi thành phần văn hóa này lại có ưu thế riêng.
Như thế, mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội nói chung đã có khá nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt, mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ
về các anh hùng đã được TS. Lê Văn Kì khảo cứu một cách công phu, hệ thống.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian Tày và lễ
hội về các anh hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc
Mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội về người anh hùng lịch sử của
dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu. Cụ thể, có
thể kể đến các công trình như:
- Nguyễn Thị Hồng Nhung, 2007, Khảo sát nhóm truyền thuyết Nùng Trí Cao và
lễ hội đền Kì Sầm ở Hòa An - Cao Bằng, Luận văn thạc sĩ, Thư viện trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Vv – m 267.52.
- Trần Duy Phương, 2008, Truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả - Lục Ngạn,
Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ, Trung tâm học liệu – Đại học Thái Nguyên. 398.2/ PHU,
NC.0000001488.
- Sở Văn hóa – Thông tin Thái Nguyên, 2001, Núi Đuổm và Dương Tự Minh, Tái
bản lần thứ nhất.
Ở cả ba công trình này, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu mối quan
hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về từng vị anh hùng lịch sử cụ thể của dân tộc Tày ở từng
địa phương cụ thể mà chưa đưa ra được những nhận định có tính quy luật về mối quan
hệ giữa truyền thuyết và lễ hội của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc nói chung.
Như vậy, qua tổng thuật ý kiến của các nhà khoa học như trên, chúng tôi nhận
thấy mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội về người anh hùng lịch sử của

dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc đã được quan tâm giới thiệu và nghiên cứu. Tuy nhiên, sự
nghiên cứu đó mới chỉ dừng ở mức độ cụ thể, chưa được khảo cứu một cách hệ thống và
khoa học.


4

3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích nghiên cứu mối quan hệ
giữa truyền thuyết và lễ hội về các anh hùng lịch sử của người Tày ở vùng Đông Bắc
trên các phương diện: vai trò qua lại và sự biến đổi của mối quan hệ giữa hai vi hệ văn
hóa này theo thời gian.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà đề tài hướng tới là mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ
hội về các anh hùng lịch sử của người Tày ở vùng Đông Bắc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi dành sự quan tâm cho đối tượng nghiên cứu ở:
- Truyền thuyết dân gian của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc.
- Lễ hội về các anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc.
Tuy nhiên, để có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về vấn đề nghiên cứu, khi
có điều kiện, chúng tôi sẽ liên hệ đến một số truyền thuyết và lễ hội khác của dân tộc
Tày và của các dân tộc khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp điều tra xã hội học
5.2. Phương pháp hệ thống
5.3. Phương pháp loại hình
5.4. Phương pháp lịch sử văn hóa
5.5. Phương pháp phân tâm học
6. Đóng góp của đề tài

- Về mặt tư liệu: Tập hợp nguồn tư liệu về truyền thuyết và lễ hội về người anh
hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc.
- Về mặt nội dung: Góp phần làm rõ mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và
lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc ở các phương diện
vai trò qua lại và sự biến đổi của mối quan hệ giữa hai vi hệ văn hóa này.

5

7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo và phụ lục, bản luận văn gồm
ba chương như sau:
Chương 1: Khái quát về dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc
Chương 2: Truyền thuyết dân gian và lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân
tộc Tày ở Đông Bắc
Chương 3: Vai trò qua lại và sự biến đổi của mối quan hệ giữa truyền thuyết dân
gian và lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc.
NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC TÀY Ở VÙNG ĐÔNG BẮC
1.1. Nguồn gốc lịch sử và quá trình hình thành
Dân tộc Tày là một cộng đồng tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Thời
Chu Tần, các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái và nhiều dân tộc khác nữa ở
miền nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam được gọi chung là Bách Việt. Bách Việt
gồm nhiều nhóm: Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt, Lạc Việt, Điền Việt… Đến những
thiên kỉ cuối cùng trước công nguyên, miền Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam đã
là địa bàn cư trú của người Tây Âu, Lạc Việt. Người Tây Âu – Lạc Việt chính là tổ tiên
của người Thái ở Vân Nam, người Choang ở Quảng Tây, người Lê ở đảo Hải Nam,
người Chủng Chá, Bố Y ở Quý Châu, người Tày, Nùng, Kinh ở Việt Nam. Như thế,
người Tày cổ vốn là cư dân bản địa lâu đời, xuất hiện ở vùng Đông Bắc Việt Nam từ rất
sớm, thuộc ngành Tày – Thái phía đông.
Người Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay chủ yếu là sự kết hợp của ba

nhóm Tày bản địa, Tày gốc Kinh và Tày gốc Nùng. Xét từ nguồn gốc, dễ nhận thấy đặc
điểm nổi bật trong văn hóa của người Tày ở vùng Đông Bắc là sự giao thoa của các yếu
tố văn hóa Kinh – Tày – Nùng. Điểm khác biệt của người Tày Đông Bắc với người Tày
ở các khu vực khác là sự tiếp thu yếu tố Kinh trong văn hóa của họ.
Về tên gọi, tộc danh Tày đã xuất hiện từ lâu đời.Tày được dùng làm tên gọi chính
thức cho dân tộc Tày ở Việt Nam từ sau năm 1945. Ngoài ra, dân tộc Tày còn có tên gọi
khác là Thổ.
6

Dân tộc Tày có số dân đông nhất trong số các dân tộc thiểu số ở nước ta. Người
Tày có địa bàn cư trú ở hầu khắp các địa phương trong cả nước nhưng chủ yếu ở vùng
Đông Bắc Việt Nam, tập trung đông nhất ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang,
Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên.
1.2. Địa bàn cư trú và truyền thống đấu tranh
Người Tày cư trú chủ yếu ở vùng Đông Bắc. Đây là vùng có vị trí chiến
lược quan trọng trong việc củng cố an ninh quốc phòng của Việt Nam. Vùng dân tộc
Tày trước đây là địa bàn chính chống xâm lăng dưới nhiều triều đại phong kiến. Nhiều
lần các thế lực xâm lược phương Bắc đã thâm nhập vùng này trước tiên. Là chủ nhân
sớm nhất của vùng Đông Bắc, người Tày giữ vai trò quan trọng trong đấu tranh chống
ngoại xâm. Lịch sử ghi nhận nhiều trận đánh lớn giữa nước ta và quân xâm lược tại nơi
đây như các trận Như Nguyệt, trận Bạch Đằng, trận Chi Lăng trong các cuộc kháng
chiến chống quân Tống thời nhà Lí, chống quân Nguyên Mông thời nhà Trần, chống
quân Minh thời nhà Lê… Trong các cuộc kháng chiến ấy, dân tộc Tày đã sản sinh nhiều
người con anh hùng như Nùng Trí Cao, Dương Tự Minh, Thân Cảnh Phúc, Lưu Nhân
Chú, Nông Đắc Thái… Đồng bào Tày dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh địa phương đã
sát cánh bên các dân tộc anh em để chung tay xây dựng nước Việt Nam thống nhất.
1.3. Văn hóa
1.3.1. Văn hóa vật chất
1.3.1.1. Làng bản, nhà cửa
Ở Đông Bắc, người Tày thường sống ở ven suối hay ven các thung lũng và chân

núi ở vùng trung du. Người Tày sống thành bản. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều
bản có tới hàng trăm nóc nhà. Bản lớn chia ra nhiều xóm nhỏ. Làng bản thường dựa
lưng vào sườn núi hoặc được dựng trên những đồi thấp dọc khe suối, có khi được dựng
ở giữa đồng. Tên làng của người Tày thường gắn với một câu chuyện cổ nhất định, tạo
nên những huyền thoại hợp lí.
Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo
bốn, năm, sáu hoặc bảy hàng cột. Ngoài ra, người Tày còn ở nhà đất. Ở một số vùng
giáp biên giới, người Tày ở nhà phòng thủ. Ngày nay, ngôi nhà sàn được dựng theo
7

hướng thông thoáng và tiết kiệm gỗ hơn. Ở nhiều nơi, đồng bào chuyển sang làm nhà
đất hoặc nhà xây giống như người miền xuôi.
1.3.1.2. Ẩm thực
Người Tày sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp trồng trọt lúa nước, rau xanh,
cây ăn quả, cây thuốc, chăn nuôi gia súc, gia cầm và săn bắn những sản vật của núi
rừng. Nền kinh tế này là cơ sở cho văn hóa ẩm thực của người Tày. Nguồn lương thực,
thực phẩm chính của người Tày là những sản phẩm thu được từ hoạt động sản xuất ở
vùng có rừng, sông, suối, đồi núi bao quanh. Kĩ thuật chế biến thức thức ăn dựa trên
kinh nghiệm là chính. Ngoài ra, trong quá trình cộng cư, người Tày có tiếp thu kĩ thuật
chế biến của các tộc người lân cận nhưng Kinh, Nùng, Dao.
Trước kia, ở một số nơi, người Tày có thói quen ăn nếp là chính. Trong các ngày
lễ tết, người Tày thường làm nhiều loại xôi, bánh trái làm từ gạo nếp.
Hầu hết thịt gia súc thu được từ nghề chăn nuôi và săn bắn đều được đồng bào
Tày đem nướng, sấy khô hoặc ướp muối, ngâm rượu. Đến khi cần sử dung, đồng bào
mới đem những thực phẩm đã sấy hoặc ngâm đó ra chế biến thành món ăn.
Về đồ uống, người Tày uống nước đun sôi với lá hoặc vỏ cây rừng. Nhưng khi đi
rừng, lên nương, người dân thường uống nước khe, nước suối. Người Tày hay uống
rượu. Rượu của người Tày được làm từ các sản phẩm của nghề nông và núi rừng như:
rượu nếp, rượu ngô men lá, rượu vạng, rượu tông, rượu mật mía…
1.3.2. Văn hóa tinh thần

1.3.2.1. Tín ngưỡng dân gian
Người Tày quan niệm thế giới đa tầng và vạn vật hữu linh. Tín ngưỡng dân gian
của người Tày bao gồm các tín ngưỡng dân gian bản địa và các tín ngưỡng du nhập từ
bên ngoài vào.
Các tín ngưỡng dân gian bản địa của người Tày về cơ bản cũng giống tín ngưỡng
của người Kinh, thể hiện tư duy của người dân làm nông nghiệp lúa nước.
Các tín ngưỡng du nhập từ bên ngoài vào văn hóa Tày gồm có các yếu tố Đạo
giáo và Phật giáo. Các yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo này dau khi du nhập đã được bản địa
hóa. Điều đó đã taọ nên sự đa dạng và phức tạp trong đối tượng thờ cúng của người Tày.
8

Tín ngưỡng dân gian của người Tày thể hiện rất rõ sự giao lưu văn hóa Kinh –
Tày – Nùng. Những tín ngưỡng này có ảnh hưởng nhất định tới việc sáng tạo các tác
phẩm văn học dân gian và hình thành các lễ hội dân gian của người Tày.
1.3.2.2. Lễ tết
Hàng năm, người Tày có nhiều dịp lễ tết với những ý nghĩa khác nhau. Các dịp
tết của người Tày cơ bản trùng với các dịp tết của người Kinh. Sự khác nhau về tết của
hai dân tộc này chủ yếu ở quy mô và cách thức tổ chức. Ngoài các dịp tết, đời sống văn
hóa tinh thần của người Tày phong phú với những lễ hội cổ truyền và những trò chơi
dân gian, những điệu hát then, sli, lượn độc đáo thể hiện trong các lễ hội ấy. Đặc sắc
nhất phải kể đến lễ hội Lồng tồng, lễ hội Nàng Hai…
1.3.2.3. Văn học dân gian
Trong quá trình phát triển của lịch sử, người Tày đã sáng tạo và bảo lưu được vốn
văn học dân gian khá đa dạng và phong phú, góp phần tạo nên diện mạo, sắc thái độc
đáo về văn hóa của dân tộc mình. Văn học dân gian Tày thể hiện sự giao lưu văn hóa
giữa các sắc tộc vùng núi rừng Đông Bắc, đặc biệt là sự giao thoa văn hóa Kinh – Tày –
Nùng thể hiện qua sự xuất hiện của các type, motif và các hình tượng; đồng thời vẫn thể
hiện được tinh thần, bản sắc dân tộc. Chủ đề tư tưởng lớn của văn học dân gian Tày là
người lao động chăm chỉ, hiển lành phải chiến thắng thiên nhiên, thắng các loài dã thú
và những con người độc ác để xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc; kẻ gian ác,

giai cấp bóc lột nham hiểm sẽ bị trừng phạt ở ngay thế gian này hay ở cõi trời, ở âm phủ.
Văn học dân gian Tày có số lượng lớn tác phẩm thuộc hầu hết các thể loại như
trong văn học dân gian người Việt: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao – dân
ca… Bên cạnh đó, văn học dân gian Tày còn đặc biệt nổi bật ở một số thể loại như
truyện thơ, dân ca (sli, lượn, then…).
Tiểu kết
Là một dân tộc bản địa, có lịch sử cư trú lâu đời ở vùng Đông Bắc nước ta, dân tộc
Tày đã đoàn kết cùng dân tộc Kinh và các dân tộc anh em khác trong công cuộc mở
nước và giữ nước. Từ rất sớm, người Tày đã khẳng định được bản sắc văn hóa của dân
9

tộc mình. Đặc điểm cơ bản của nền văn hóa Tày là sự giao thoa của các yếu tố văn hóa
Tày – Nùng – Kinh, thể hiện rõ trên cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Chương 2: TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VÀ LỄ HỘI VỀ NGƯỜI ANH HÙNG
LỊCH SỬ Ở VÙNG ĐÔNG BẮC
2.1. Truyền thuyết dân gian về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng
Đông Bắc
2.1.1. Tình hình sưu tầm, biên soạn và nghiên cứu truyền thuyết dân gian Tày
2.1.1.1. Tình hình sưu tầm, biên soạn
Dân tộc Tày có số lượng truyền thuyết khá phong phú và ít nhiều đã được
quan tâm sưu tầm. Truyền thuyết của dân tộc Tày được tập trung trong các sách sưu tầm
truyện cổ khá dày dặn. Đó có thể là tập sách về truyện cổ các dân tộc ít người Việt Nam,
hoặc tập sách về truyện cổ của từng địa phương khác nhau. Việc sưu tầm, biên soạn
truyền thuyết Tày có bốn hạn chế lớn:
Thứ nhất, các truyền thuyết của dân tộc Tày lại được sưu tầm khá muộn (khoảng
giữa thế kỉ XX) so với truyền thuyết của dân tộc Kinh.
Thứ hai, truyền thuyết dân gian Tày chưa được các tác giả sưu tầm, biên soạn
phân loại ở cấp độ thể loại một cách rõ ràng. Truyền thuyết còn bị xếp chung với thần
thoại, truyện cổ tích hoặc bị gọi chung với các thể loại tự sự dân gian khác bằng danh từ
“truyện cổ”.

Thứ ba, khi tập hợp truyền thuyết Tày vào các tập sách truyện cổ, một số tác giả
đã có sự nhầm lẫn giữa truyền thuyết Tày với truyền thuyết của các dân tộc khác.
Thứ tư, những truyền thuyết dân gian Tày được tập hợp vào các công trình sưu
tầm, biên soạn hầu hết mới chỉ có bản dịch ra tiếng Việt. Do vậy, chúng chưa thật đảm
bảo tính chính xác khoa học của tác phẩm sưu tầm. Hiện nay, mới chỉ có duy nhất công
trình Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số (Tập 16 – Truyện cổ tích, Truyền
thuyết) [41] là có bản dịch song ngữ. Tuy nhiên, số lượng truyền thuyết dân gian Tày
được tập hợp vào đây lại chiếm số lượng quá khiêm tốn (năm truyện).


10

2.1.1.2. Tình hình nghiên cứu
Do việc sưu tầm, biên soạn truyền thuyết dân gian Tày chưa được quan tâm, chú
ý thỏa đáng nên việc nghiên cứu truyền thuyết cũng còn nhiều hạn chế. Đến nay, vẫn
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về truyền thuyết Tày. Truyền thuyết Tày
mới chỉ được tác giả của các bài báo, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về một số vấn đề, ở
một vài trường hợp cụ thể.
2.1.2. Đặc điểm của truyền thuyết dân gian Tày về người anh hùng lịch sử của dân
tộc Tày ở vùng Đông Bắc
2.1.2.1. Đặc điểm nội dung
Truyền thuyết dân tộc Tày thường quan tâm tới đề tài lịch sử cộng đồng, gắn với
cảm hứng lí giải lịch sử. Cụ thể, trong kho tàng truyền thuyết Tày, số lượng truyền
thuyết về các anh hùng lịch sử chiếm tới 70%. Điều đó cho thấy truyền thống tinh thần,
tư tưởng nổi bật của người Tày là ngợi ca, tôn vinh các nhân vật anh hùng. Đồng thời,
sự phát triển mạnh mẽ của truyền thuyết còn là minh chứng cho ý chí kiên cường của
dân tộc Tày trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Truyền thuyết về các anh hùng lịch sử của người Tày gắn bó chặt chẽ với lịch sử
đất nước Việt Nam, chủ yếu là thời Lí, Trần và Lê sơ. Ở những giai đoạn lịch sử này,
dân tộc Tày đã sản sinh ra nhiều người con anh hùng đứng lên chống giặc ngoại xâm.

Bên cạnh ý nghĩa suy tôn các anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc,
truyền thuyết còn có thêm ý nghĩa giải thích các địa danh như ngọn núi, cánh đồng, tên
bản làng. Điều này đặc biệt rõ trong các chuỗi truyền thuyết về Nùng Trí Cao, Dương
Tự Minh, Lưu Nhân Chú…
2.1.2.2. Đặc điểm nghệ thuật
Trong truyền thuyết dân gian Tày, các nhân vật anh hùng được kể đều có tên tuổi,
lai lịch rõ ràng, gắn với địa phương, thời đại nhất định. Song, đó không hẳn là sự thật
lịch sử đích thực. Sự hư cấu lịch sử đóng vai trò bối cảnh trần tục cho sự thể hiện quan
điểm của nhân dân về lịch sử và nhằm tạo niềm tin cho người nghe đối với nội dung
truyện.
11

Truyền thuyết dân gian Tày thường chú ý nhiều hơn đến những nhân vật có xuất
thân nông dân hoặc gần dân. Vì thế, bên cạnh các nhân vật được nhắc tới cả trong chính
sử và truyền thuyết như Thục Phán, Nùng Trí Cao, Dương Tự Minh, Bế Khắc Thiệu….
còn có những nhân vật không được sử sách ghi lại nhiều nhưng trong truyền thuyết, các
nhân vật ấy lại có vị trí quan trọng, chẳng hạn như bà A Nồng, phó tướng quân Nông
Đắc Thái…; có những nhân vật không được chính sử ngợi ca nhiều như Nùng Tồn Phúc,
Nùng Trí Cao, A Nồng… thì truyền thuyết lại ngợi ca, tôn vinh họ. Sở dĩ có điều đó là
bởi tư tưởng, hành động của các nhân vật anh hùng này có thể bị coi là phi chính thống
đối với nhà nước phong kiến bấy giờ nhưng nó lại phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của
chính dân tộc mà anh hùng đó xuất thân.
Sự tôn vinh và ngợi ca các nhân vật anh hùng lịch sử trong truyền thuyết dân gian
Tày được thể hiện bằng nhiều cách: đặt nhân vật anh hùng vào một không gian, thời
gian mang tính lịch sử để đưa nhân vật từ tầm địa phương lên tầm quốc gia và thuyết
phục lòng tin của người nghe; sử dụng các motif, các yếu tố hư cấu của những thể loại
khác như thần thoại, truyện cổ tích và của truyền thuyết các dân tộc khác để đưa nhân
vật vào những không gian riêng, mang sắc màu kì ảo; nêu ra những sắc phong của triều
đình phong kiến đối với nhân vật và những di tích, lễ hội thờ cúng nhân vật anh hùng
đó. Có thể nói, trong truyền thuyết Tày, tác giả dân gian đã khéo sắp đặt các yếu tố hư

và thực, khiến cho người nghe cảm nhận rất rõ tính chất lịch sử của truyền thuyết mà
vẫn hiểu đó không phải sự phản ánh lịch sử đơn giản. Đó chỉ là một cách để nhân dân
thể hiện sự lí giải lịch sử và lòng tôn vinh các anh hùng dân tộc.
Tuy số lượng tác phẩm khiêm tốn hơn nhiều so với kho tàng truyền thuyết của
người Kinh nhưng truyền thuyết dân gian Tày cũng có kiểu dựng truyện theo kết cấu
chuỗi. Trong đó, đáng chú ý là các chuỗi truyền thuyết về các nhân vật anh hùng Nùng
Trí Cao, Dương Tự Minh, Lưu Nhân Chú… Số lượng truyền thuyết tương đối lớn trong
một chuỗi truyền thuyết về người anh hùng Tày cũng phản ánh các vị anh hùng này
được nhân dân yêu quý không kém gì các vị vua hiền, tướng tài trong lịch sử Việt Nam.
Truyền thuyết về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc chịu
ảnh hưởng của lối biên soạn thần tích của người Việt. Các truyền thuyết được ghi chép
12

nhiều nhất trong sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn [43], các
sách địa phương chí, thần tích ở các đền, miếu và gia phả của các dòng họ. Do chịu ảnh
hưởng của lối biên soạn thần tích của người Việt nên truyền thuyết về các anh hùng lịch
sử của người Tày có cốt truyện tương đối ổn định.
Qua phân tích các đặc điểm thi pháp của truyền thuyết dân gian Tày về các anh
hùng lịch sử như trên, chúng tôi nhận thấy năng lực sáng tạo truyền thuyết của người
Tày trong lịch sử đã đạt đến trình độ cao có tính đặc thù.
2.2. Lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc
2.2.1. Tình hình giới thiệu và nghiên cứu lễ hội của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc
Lễ hội của người Tày ở vùng Đông Bắc khá đa dạng và phong phú. Theo
thống kê của chúng tôi từ các sách giới thiệu về lễ hội, dân tộc Tày ở Đông Bắc có
gần 200 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp địa bàn vùng Đông Bắc trong bốn
mùa xuân, hạ, thu, đông.
Trong các sách có tính chất là từ điển lễ hội hay cẩm nang du lịch, các lễ hội của
người Tày mới chỉ được giới thiệu khái quát về thời gian, địa điểm diễn ra lễ hội, đối
tượng thờ cúng, các trò chơi.
Nằm trong xu hướng bảo tồn và phát huy văn hóa lễ hội của các dân tộc thiểu

số, một số lễ hội của người Tày ở Đông Bắc đã được khảo sát, nghiên cứu sâu hơn
như lễ hội Lồng tồng, lễ hội Nàng Hai, lễ hội đền Kì Sầm, lễ hội đền Từ Hả, lễ hội
đền Đuổm… Tuy nhiên, số lượng lễ hội được nghiên cứu còn khá khiêm tốn. Trên
thực tế, hệ thống lễ hội của người Tày phong phú hơn thế rất nhiều. Việc nghiên cứu,
giới thiệu và phục dựng các lễ hội của người Tày ở Đông Bắc là việc làm hết sức cần
thiết để góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
2.2.2. Phân loại lễ hội của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc
Dựa vào chủ đề của lễ hội, có thể phân lễ hội của dân tộc Tày ở Đông Bắc ra
thành ba nhóm chính như sau:
- Lễ hội nông nghiệp: tái hiện cuộc sống canh tác sản xuất nông nghiệp của người
Tày.
13

- Lễ hội về các anh hùng lịch sử: tái hiện lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước, gắn liền với các nhân vật anh hùng lịch sử là người Tày.
- Lễ hội phong tục, tín ngưỡng: tái hiện đời sống tín ngưỡng của người Tày.
2.2.3. Đặc điểm của lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông
Bắc
Hầu hết các lễ hội về người anh hùng lịch sử dân của dân tộc Tày ở Đông Bắc
đều được tổ chức vào mùa xuân. Ngoài ra, đồng bào Đông Bắc còn tổ chức lễ hội về
người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày vào mùa thu. Điều này phản ánh tính chất
nông nghiệp của lễ hội trước khi lễ hội được bồi đắp lớp ý nghĩa ca ngợi người anh
hùng.
Các lễ hội về người anh hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc đều mang tính chất lễ
hội nông nghiệp, quy mô hội làng. Tính chất nông nghiệp và quy mô hội làng của lễ
hội về người anh hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc thể hiện không chỉ ở chỗ các lễ hội
tập trung ở thôn bản, một số lễ hội được tổ chức cả vào mùa thu, mà còn trong quy
cách thờ cúng, sinh hoạt lễ hội.
Ở vùng Đông Bắc, người Tày đã xây dựng được những quần thể kiến trúc dành
làm nơi thờ cúng mở lễ hội. Đó là hệ thống các đình, đền, miếu ở các địa phương như

Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Giang Các công trình kiến trúc đình, đền,
miếu ở Đông Bắc tuy không đồ sộ, khang trang như các quần thể kiến trúc cùng loại ở
miền xuôi, nhưng chúng cũng mang đầy đủ tính chất của các nơi thờ cúng thần thánh.
Mỗi lễ hội về người anh hùng lịch sử của người Tày ở Đông Bắc bao giờ cũng
hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng
chống ngoại xâm, bảo vệ làng bản, dân tộc… Điều cần lưu ý là những vị anh hùng
lịch sử được thờ cúng đó đều là những người con của dân tộc Tày ở vùng đất Đông
Bắc.
Lễ hội gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, với tư tưởng uống nước nhớ
nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây. Trong một số lễ hội, ở phần lễ có diễn ra các cảnh
diễn xướng lại sự tích, công trạng của các anh hùng.
14

Tuy nhiên, ở các lễ hội về người anh hùng lịch sử của người Tày, các hình thức
diễn xướng truyền thuyết không phổ biến như trong lễ hội của người Kinh. Các hình
thức diễn xướng chỉ có ở một số lễ hội và nếu có cũng khá đơn giản. Hầu hết các lễ
hội được tổ chức ở đình, miếu và chỉ thuần túy lễ bái, không có diễn xướng. Một số lễ
hội có cảnh diễn lại các sự tích về người anh hùng thường là lễ hội ở Bắc Giang.
Nội dung chính của lễ hội là tưởng nhớ người anh hùng, giao lưu tình cảm, vui
chơi giải trí và cầu mong dân khang vật thịnh. Lễ vật dâng cúng đơn giản. Phần hội
thường lấn át phần lễ. Các trò vui chơi giải trí thu hút đông đảo mọi người đến dự hội.
Điều này phản ánh tính tổ chức của lễ hội về người anh hùng lịch sử ở Đông Bắc đơn
giản hơn nhiều so với các lễ hội cùng loại của người Kinh ở miền xuôi.
Ở lễ hội về người anh hùng của người Tày ở Đông Bắc, các trò vui chơi thường
mang tính chất đặc thù, thể hiện tinh thần thượng võ của người dân miền núi. Đặc
biệt, các trò chơi phù hợp với mục đích tôn vinh sức mạnh của người anh hùng của lễ
hội.
Quy mô tổ chức lễ hội về người anh hùng lịch sử của người Tày ở Đông Bắc
nhỏ hơn so với lễ hội của người Kinh. Phạm vi ảnh hưởng cũng nhỏ hẹp hơn. Nhưng
cùng với thời gian, sự phát triển của lễ hội đã thu hút đồng bào nhiều dân tộc khác, ở

nhiều địa phương khác cùng tham gia. Trong xu hướng phục dựng các lễ hội cổ
truyền nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vùng miền, một số lễ hội về
người anh hùng lịch sử của người Tày đã được nâng cấp tổ chức, từ quy mô làng xã
lên cấp huyện, tỉnh. Chẳng hạn như ở tỉnh Thái Nguyên, trước đây lễ hội đền Đuổm
nhân dân xã Động Đạt, huyện Phú Lương tổ chức, nay do huyện đứng ra tổ chức.
Tiểu kết
Chịu ảnh hưởng của những đặc trưng của vùng đất Đông Bắc và con người dân
tộc Tày, truyền thuyết dân gian Tày và lễ hội về các anh hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc
mang những nét riêng biệt, độc đáo.
Truyền thuyết về các anh hùng lịch sử có nội dung chính là ngợi ca, suy tôn
những vị anh hùng anh hùng dân tộc Tày đã có công trong việc dựng nước, giữ nước,
bảo vệ bờ cõi của đất nước, bảo vệ dân tộc. Chủ đề ca ngợi nhân vật anh hùng thường
15

được lồng ghép với việc giải thích địa danh, phong tục, sản vật của địa phương. Nhằm
suy tôn các anh hùng, tác giả dân gian Tày thường đặt nhân vật anh hùng vào không
gian, thời gian mang tính lịch sử để đưa nhân vật từ tầm địa phương lên tầm quốc gia;
đồng hóa các motif của những thể loại tự sự dân gian khác, của các dân tộc khác vào
truyền thuyết Tày. Truyền thuyết dân gian Tày chịu ảnh hưởng của lối biên soạn thần
tích của người Việt nên có cốt truyện tương đối ổn định.
Lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở Đông được tổ chức cả vào
mùa xuân và mùa thu, ở các đình, đền, miếu với quy mô kiến trúc nhỏ bé hơn nhiều so
với các quần thể kiến trúc cùng loại ở miền xuôi. Quy mô, tính tổ chức của lễ hội khá
đơn giản; ít lễ hội có các cảnh diễn xướng truyền thuyết. Hầu hết các lễ hội chỉ thuần túy
lễ bái, với mục đích cầu mong ấm no, hạnh phúc của người dân miền núi. Do đó, lễ hội
về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở Đông Bắc còn bảo lưu được nhiều giá trị
nguyên sơ, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa vùng miền.
Chương 3: VAI TRÒ QUA LẠI GIỮA TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI VÀ SỰ
BIẾN ĐỔI CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VÀ LỄ
HỘI VỀ NGƯỜI ANH HÙNG LỊCH SỬ CỦA DÂN TỘC TÀY Ở VÙNG ĐÔNG

BẮC
3.1. Vai trò của truyền thuyết dân gian đối với lễ hội về người anh hùng lịch sử của
dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc
Truyền thuyết và hậu thân của nó là các thần tích, là cơ sở quan trọng để nảy nở
và ổn định hóa lễ hội về người anh hùng lịch sử.
Các lễ hội đều có nguồn gốc là các nghi lễ nông nghiệp, phát triển thành hội làng.
Sau đó, lớp ý nghĩa ca ngợi các vị anh hùng chống ngoại xâm được lồng ghép vào và
chiếm vị trí nổi bật.
Truyền thuyết ca ngợi người anh hùng lịch sử, bồi đắp lòng tự hào dân tộc về lịch
sử của cộng đồng. Việc mở các lễ hội dân gian để tôn vinh người anh hùng lịch sử dân
tộc Tày là một cách để người dân vùng Đông Bắc làm giỗ chung để ca ngợi, nhớ ơn các
vị tổ tiên dân tộc đã có công giữ nước, an dân. Đó là lí do để lễ hội về người anh hùng
xuất hiện ngày càng nhiều.
16

Có thời gian, nhà nước phong kiến Việt Nam cấm mở lễ hội với các ý nghĩa mua
vui, tranh giành ảnh hưởng chốn đình trung… Những lúc ấy, chức sắc địa phương và
dân làng đã xin mở hội với lí do tưởng nhớ công lao của các anh hùng lịch sử. Đây là lí
do hoàn toàn chính đáng mà nhà cầm quyền khó có thể từ chối.
Ban đầu, lễ hội về người anh hùng có thể còn rất đơn giản, chưa đạt tới quy mô
và tính tổ chức cao như thời gian sau. Chính truyền thuyết, hay thần tích được lưu ở các
đình, đền, miếu là cái sườn, cái khung để ổn định, cố định hóa lễ hội. Đối với lễ hội,
truyền thuyết đóng vai trò là xương sống, dẫn dắt tiến trình lễ hội, là sự minh giải cho lễ
hội (mở hội vào ngày nào, sau bao nhiêu năm lại mở lại một lần, tại sao kéo dài từng ấy
ngày, rước từ đâu đến đâu, lễ vật dâng cúng gồm những gì, phải kiêng kị những gì…).
Như thế, với vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển của lễ hội ở
vùng Đông Bắc, có thể nói, các truyền thuyết dân gian Tày có mối quan hệ gắn bó hữu
cơ, chặt chẽ với lễ hội. Khởi đầu, truyền thuyết là cái nền cơ bản để hình thành các lễ
hội có mục đích suy tôn người anh hùng. Trải qua các thời kì lịch sử xã hội khác nhau,
lễ hội có lúc phát triển rực rỡ, có lúc lại bị kìm hãm sự phát triển. Chính truyền thuyết

với cảm hứng tôn vinh và lí giải lịch sử cộng đồng là lí do để lễ hội phát triển trở lại.
Truyền thuyết giúp cố định hóa tính tổ chức của lễ hội. Với sự phát triển của lễ hội và
tình hình lưu truyền, những đóng góp của truyền thuyết về các anh hùng lịch sử đối với
lễ hội ở vùng Đông Bắc từ trước tới nay, có thể thấy rằng quan hệ giữa truyền thuyết và
lễ hội mang tính lâu dài, tất yếu và tương tác lẫn nhau.
3.2. Vai trò của lễ hội đối với truyền thuyết dân gian về người anh hùng lịch sử của
dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc
Lễ hội giúp lưu giữ, phổ biến truyền thuyết tới quần chúng dự hội. Vị trí của nhân
vật anh hùng được phụng thờ trong lễ hội, những cảnh diễn xướng truyền thuyết và các
hoạt động kể truyền thuyết trên loa hoặc kể theo từng nhóm nhỏ, bán các loại văn hóa
phẩm liên quan đến truyền thuyết về người anh hùng như sách, băng đĩa của ban tổ chức
và các cụ già ở địa phương hiện nay là một trong những điều kiện thuận lợi để truyền
thuyết tồn tại qua nhiều thế hệ. Cùng với thời gian, việc thờ cúng người anh hùng lịch sử
dân tộc Tày như những vị thánh – vị phúc thần tại các đình, đền, miếu ở vùng Đông Bắc
17

đã khắc sâu và bồi đắp niềm ngưỡng vọng thiêng liêng của nhân dân đối với những
người con ưu tú của mảnh đất này. Nhờ thế, truyền thuyết về các anh hùng người Tày từ
những đời Lý, đời Minh… như Nùng Trí Cao, Dương Tự Minh, Thân Cảnh Phúc, Lưu
Nhân Chú, Nông Đắc Thái… vẫn luôn tồn tại trong lòng người dân nơi đây.
Trong lễ hội, niềm tin về người anh hùng lịch sử trong truyền thuyết được hiện
thực hóa. Sự hiện thực hóa đó được bộc lộ ở các phương diện: quy định nghi thức thờ
cúng, lễ vật, sự kiêng kị, lễ rước Các nghi thức sinh động, phong phú nhưng mang tính
cố định, tính tổ chức của lễ hội đã thể hiện niềm tin trong truyền thuyết về người anh
hùng lịch sử.
3.3. Sự phản ánh người anh hùng lịch sử
Truyền thuyết và lễ hội cùng phản ánh người anh hùng dân tộc Tày và các sự kiện
lịch sử. Song, mỗi vi hệ văn hóa này lại phản ánh người anh hùng theo một cách riêng.
Truyền thuyết đã sử dụng ngôn từ văn học theo đặc trưng, thi pháp thể loại để xây
dựng nên hình tượng người anh hùng. So với lễ hội, truyền thuyết có khả năng kể về cả

cuộc đời của nhân vật, từ nguồn gốc, chiến công đến sự hóa thân, hiển linh, âm phù với
nhiều chi tiết mang tính gợi cảm cao, giàu sức tưởng tượng.
Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian mang tính tổng hợp với sự tham gia của
nhiều yếu tố. Lễ hội đã thiêng hoá một biểu tượng người anh hùng để từ đó làm chỗ dựa
tinh thần, quy tụ cộng đồng. Lễ hội gắn với nghi lễ nên có tính trang nghiêm (không
gian và thời gian thiêng), là cơ sở để thể hiện bản chất tôn vinh các anh hùng của truyền
thuyết. Lễ hội ca ngợi người anh hùng bằng tín ngưỡng, nghi lễ cúng bái, sự kiêng kị,
vật phẩm dâng cúng, bằng việc diễn lại các sự tích, bằng trò chơi dân gian, bằng đám
rước… Nhân vật người anh hùng lại là hình tượng được “vật chất hóa” thông qua nghi
lễ, vật phẩm dâng cúng… Hệ thống lễ thức với các thao tác mang tính nghệ thuật và tính
biểu tượng cao có tác dụng tái hiện mối quan hệ nhiều chiều giữa địa phương, dân tộc và
đất nước, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và ảo, giữa
thiêng liêng và trần tục.
18

Đặc biệt, cuối phần lễ của các lễ hội dân gian Tày về người anh hùng lịch sử luôn
có một bữa cơm cộng cảm. Bữa cơm cộng cảm được coi là chất keo kết dính sự gắn bó,
đồng cảm của người dân trong lễ hội tôn vinh người anh hùng lịch sử.
Mỗi lễ hội thường chỉ phản ánh một phần hành trạng, một vài giai đoạn của cuộc
đời người anh hùng. Xem xét diễn trình của lễ hội, dễ dàng nhận thấy so với truyền
thuyết, lễ hội có ưu thế trong việc diễn tả một cách sinh động hình tượng người anh
hùng và các sự kiện lịch sử. Hình tượng người anh hùng sẽ tác động trực tiếp, trực quan
đến nhân dân nhờ có sự tham gia của các yếu tố cấu thành lễ hội như: quần chúng tham
gia, âm nhạc, diễn xuất…
Sự phản ánh người anh hùng và các sự kiện lịch sử trong lễ hội ở vùng Đông Bắc
so với lễ hội ở một số vùng miền khác có phần đơn giản hơn nhiều. Điều đó xuất phát từ
hai lí do. Thứ nhất, sự phong phú của lễ hội phụ thuộc vào quá trình ảo hóa nhân vật
người anh hùng lịch sử đạt đến mức độ nào. Thứ hai, điều dễ nhận thấy là các lễ hội về
người anh hùng lịch sử ở Đông Bắc bên cạnh mục đích suy tôn người anh hùng thì
người dân đến với lễ hội thuần túy là giao lưu tình cảm, vui chơi giải trí và cầu mong

mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi. Do đó, các yếu tố liên quan đến lễ hội thường
không cầu kỳ. Vật tế trong lễ hội là những sản vật do nhân dân tự nuôi trồng được như
con dê, con lợn, con vịt, lúa nếp…
So với truyền thuyết, lễ hội có điều kiện hơn trong việc mở rộng sự hiểu biết về
người anh hùng cho nhân dân trong vùng và nhân dân các vùng khác đến dự hội thông
qua việc xem các nghi lễ dâng hương, tế lễ, nghe kể các truyền thuyết, nghe hát thờ thần,
xem các màn diễn xướng sự tích về người anh hùng, thăm thú các di tích trong quần thể
đình, đền.
3.4. Sự biến đổi của mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội về người anh
hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc
Các lễ hội về người anh hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc đã tạo cho vùng miền một
không gian văn hóa giàu tính truyền thống. Cùng với thời gian, nhiều truyền thống tốt
đẹp trong lễ hội vẫn được giữ gìn, thể hiện sức đề kháng của các vi hệ văn hóa của vùng
miền trước những đổi thay của lịch sử xã hội.
19

Nhưng, trong thời đại ngày nay, khi những yếu tố lịch sử đã có sự thay đổi nhiều
so với thời kì trước, kéo theo đó là sự đổi thay của tâm lí tập thể, mối quan hệ giữa
truyền thuyết dân gian Tày và lễ hội về người anh hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc cũng
có sự chuyển biến.
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã điền dã và điều tra xã hội học về
mối quan hệ giữa các truyền thuyết dân gian Tày với lễ hội về người anh hùng lịch sử ở
vùng Đông Bắc trong đời sống ngày nay. Chúng tôi đã gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn và
phát phiếu điều tra đến người dân ở các độ tuổi khác nhau, thuộc các địa phương: xã Thị
Trấn, xã Văn Yên (huyện Đại Từ - Thái Nguyên), xã Động Đạt (huyện Phú Lương –
Thái Nguyên), Thị Trấn Quảng Uyên (huyện Quảng Uyên – Cao Bằng), trong các lễ hội
khác nhau như lễ hội núi Văn núi Võ, lễ hội đền Đuổm, lễ hội pháo hoa Quảng Uyên.
Từ kết quả điều tra, chúng tôi rút ra những kết luận như sau:
Điều đáng tiếc là tuy vẫn bảo lưu được những yếu tố truyền thống của phần lễ
nhưng những lễ hội về người anh hùng lịch sử ở Đông Bắc đang có sự mất dần yếu tố

thiêng. Truyền thuyết về các anh hùng – nền tảng thiêng liêng của lễ hội đang rơi vào
tình trạng bị quên lãng hoặc biến tướng không còn mang đậm những giá trị văn hoá
truyền thống.
Người dân đi xem hội là nhiều. Điều đó cho thấy truyền thuyết – nội dung thiêng
liêng của lễ hội đang ngày càng được ít người biết đến, thay vào đó là tính chất du lịch,
giải trí của lễ hội. Một số lễ hội chạy theo xu hướng vui chơi, giải trí kết hợp với mục
đích kinh doanh mà ít chú ý tới những yếu tố tạo nên bản sắc văn hoá và tính truyền
thống của nó. Ở những lễ hội này, ta thường bắt gặp nhan nhản sản phẩm hàng hoá hiện
đại hay các trò vui chơi ăn tiền thiếu tính giáo dục như các trò đánh cờ, đánh bài ăn
tiền… Người dự hội cũng ít ai mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình. Hầu hết
các trang phục đã được Âu hóa. Sự hiện diện của trang phục truyền thống có chăng chỉ ở
những người được phân công thực hiện các nghi thức trong buổi lễ như rước lễ, rước
kiệu…
Do không nhớ được các truyền thuyết – cơ sở cho tính thiêng của lễ hội và mục
đích đến lễ hội là để vui chơi, giải trí nên ít người còn hiểu được ý nghĩa của các nghi
20

thức thờ cúng, vật phẩm dâng cúng, các màn diễn xướng sự tích về người anh hùng, hay
nói cách khác, là hiểu được sự gắn bó của truyền thuyết và lễ hội. Vì mức độ hiểu biết
về truyền thuyết của thế hệ trẻ còn nhiều hạn chế nên họ chưa nhận thức được rõ ràng sự
liên hệ giữa các nghi thức của lễ hội với nội dung truyền thuyết. Nhóm đối tượng từ 50
tuổi trở lên có vốn sống, vốn văn hóa phong phú nên mức độ hiểu biết của họ về truyền
thuyết, sự đánh giá người anh hùng sẽ sâu sắc hơn. Do vậy, họ nhận thức được quan hệ
giữa truyền thuyết dân gian Tày và lễ hội về người anh hùng lịch sử ở địa phương cũng
rõ ràng hơn.
Như thế, có thể thấy rằng, hiện nay mối quan hệ giữa truyền thuyết về người anh
hùng lịch sử và lễ hội ở vùng Đông Bắc đang ngày càng bị lu mờ trong tâm thức người
dân. Nhưng, dù thế, việc tôn vinh người anh hùng của cả truyền thuyết và lễ hội nơi đây
vẫn giữ nguyên ý nghĩa tốt đẹp ban đầu của nó, chưa bị biến tướng như trong lễ hội ở
nhiều vùng miền khác. Niềm tin của người dân về sự hiển linh của người anh hùng rất

trong sáng. Vì thế, sự thiêng liêng của người anh hùng không hề bị lợi dụng. Những mục
đích mang tính thực dụng như vay tiền, xin tiền đức thánh, xin nhà lầu xe hơi, xin được
làm quan chức… hầu như không có. Vì thế, những lễ lạt người dân đem đến lễ thánh rất
đơn giản, có khi chỉ là nắm hương, nhiều hơn thì có gói bánh, đĩa xôi, con gà… Những
mâm lễ lớn hàng chục triệu đồng với toàn vật phẩm thờ cúng sang trọng như voi giấy,
ngựa giấy, nhà cao tầng, xe hơi…; những dịch vụ hầu bóng thâu đêm suốt sáng như ở
một số lễ hội vùng đồng bằng Bắc Bộ hầu như không có.
Tiểu kết
Từ việc tìm hiểu mối quan hệ giữa truyền thuyết về các anh hùng lịch sử và lễ hội
dân gian của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc ở vai trò qua lại giữa truyền thuyết đối và lễ
hội ở các thời kì khác nhau, ở sự phản ánh người anh hùng và các sự kiện lịch sử, chúng
tôi nhận thấy truyền thuyết và lễ hội có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó là
quan hệ mang tính vĩnh viễn và là quan hệ tương tác, bổ sung cho nhau. Ngày nay, cùng
với sự phát triển của xã hội, mối quan hệ giữa truyền thuyết về người anh hùng lịch sử
và lễ hội ở vùng Đông Bắc cũng có sự biến đổi. Nó không còn đậm nét như trước đây
nữa, nhưng niềm tin, mục đích suy tôn người anh hùng của cả truyền thuyết và lễ hội thì
21

vẫn giữ nguyên, ít bị biến tướng theo chiều hướng mê tín dị đoan như lễ hội ở nhiều
vùng miền khác.
KẾT LUẬN
Qua ba chương của luận văn, chúng tôi đã đi từ những hiểu biết về đặc điểm lịch
sử - xã hội, địa bàn cư trú và truyền thống đấu tranh, văn hóa của dân tộc Tày ở vùng
Đông Bắc để góp phần lí giải những đặc điểm của truyền thuyết dân gian Tày và lễ hội
về người anh hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc.
Chúng tôi tổng kết kết quả nghiên cứu đạt được trong quá trình thực hiện luận
văn như sau:
1. Dân tộc Tày cư trú chủ yếu ở vùng Đông Bắc nước ta. Người Tày ở đây là sự
tập hợp của ba thành phần chính: bộ phận người Tày bản địa, bộ phận người Kinh hóa
Tày và bộ phận người Nùng hóa Tày. Vì thế, văn hóa của dân tộc Tày ở Đông Bắc mang

đậm sự ảnh hưởng của văn hóa Kinh và văn hóa Hán. Điều đó thể hiện rõ ở các đặc
điểm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, trong đó có truyền thuyết và lễ hội.
2. Nội dung chủ yếu của truyền thuyết dân gian về các anh hùng lịch sử của dân
tộc Tày là ngợi ca, tôn vinh các nhân vật anh hùng dân tộc Tày như Dương Tự Minh,
Thân Cảnh Phúc, Nùng Trí Cao, Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái, bốn anh em Hoàng
Đại Huề, cô Thắm…, gắn liền với cảm hứng lí giải lịch sử cộng đồng. Bên cạnh đó,
truyền thuyết Tày còn giải thích địa danh, phong vật địa phương. Về nghệ thuật, đặc
điểm nổi bật của các truyền thuyết về người anh hùng lịch sử là sự đồng hóa các motif
của các thể loại tự sự dân gian khác, của các dân tộc khác. Xung quanh mỗi nhân vật anh
hùng luôn có nhiều truyền thuyết, lưu truyền ở nhiều địa phương khác nhau. Điều đó tạo
nên kết cấu chuỗi của truyền thuyết Tày. Truyền thuyết Tày có cốt truyện tương đối ổn
định do chịu ảnh hưởng lối biên soạn thần tích của người Việt.
Lễ hội về các anh hùng lịch sử của dân tộc Tày được tổ chức tại các đình, đền,
miếu – những quần thể kiến trúc không to lớn, khang trang như các quần thể kiến trúc
cùng loại ở miền xuôi nhưng vẫn luôn đảm bảo tính trang nghiêm của nơi thờ cúng các
vị nhân thần. Quy mô, tính tổ chức của các lễ hội về người anh hùng lịch sử vùng Đông
Bắc nhỏ bé, đơn giản hơn nhiều so với các lễ hội cùng loại ở miền xuôi. Điều đó được
22

thể hiện rõ nhất ở ba đặc điểm: số lượng người tham gia lễ hội ít, các cảnh diễn xướng
truyền thuyết về các anh hùng không phổ biến và không đồng đều giữa các lễ hội ở các
tỉnh biên giới và các tỉnh giáp vùng đồng bằng sông Hồng, phần hội thường lấn át phần
lễ. Các trò chơi trong lễ hội về người anh hùng lịch sử ở Đông Bắc mang đậm tinh thần
thượng võ, phóng khoáng, phù hợp với mục đích tự hào, tôn vinh truyền thống anh hùng
của lễ hội.
3. Truyền thuyết dân gian Tày và lễ hội về người anh hùng lịch sử ở vùng Đông
Bắc có mối quan hệ tương tác hai chiều và mang tính vĩnh viễn. Điều đó được chứng
minh bằng thực tế lịch sử. Truyền thuyết là cái có trước. Chính truyền thuyết đã bồi đắp
lớp ý nghĩa ca ngợi các anh hùng và sự kiện lịch sử cho các lễ hội nông nghiệp, giúp
hình thành loại lễ hội về người anh hùng lịch sử. Trong quá trình phát triển của lễ hội,

nội dung của truyền thuyết lại góp phần ổn định, cố định hóa tính tổ chức của lễ hội. Có
thời gian, lễ hội bị cấm mở. Lúc đó, nội dung suy tôn người anh hùng, lí giải lịch sử
cộng đồng của truyền thuyết có vai trò là lí do để lễ hội được mở trở lại.
Đến lượt mình, lễ hội với các trình tự nghi thức, sự kiêng kị, vật phẩm dâng cúng,
các cảnh diễn xướng… lại giúp cho việc khắc sâu truyền thuyết vào tâm trí quần chúng
dự hội được rõ nét và sinh động hơn, thu hút sự gắn bó và đồng cảm của cả tập thể. Lễ
hội giúp lưu giữ truyền thuyết và hiện thực hóa niềm tin về các anh hùng lịch sử, các sự
kiện lịch sử trong truyền thuyết.
Truyền thuyết và lễ hội cùng phản ánh người anh hùng và các sự kiện lịch sử.
Tuy nhiên, mỗi vi hệ văn hóa này lại có một thế mạnh riêng trong việc phản ánh. Truyền
thuyết với tư cách là nghệ thuật ngôn từ có thể kể được trọn vẹn về cuộc đời người anh
hùng, đem đến cái nhìn toàn diện về người anh hùng cho người nghe. Ngược lại, lễ hội
không phản ánh toàn bộ xuất thân, hành trạng của người anh hùng mà chỉ phản ánh một
phần cuộc đời. Với tư cách là một vi hệ văn hóa có sự tham gia của nhiều yếu tố: tín
ngưỡng, phong tục, nghệ thuật biểu diễn, quần chúng dự hội…, lễ hội có ưu thế trong
việc phản ánh sinh động, cụ thể, trực quan về người anh hùng.
Ngày nay, mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian Tày và lễ hội về người anh
hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc không còn đậm nét như trước. Tuy thế, trong các lễ hội ở
23

Đông Bắc, quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội ít bị lợi dụng cho những mục đích mê tín
dị đoan như nhiều lễ hội ở các vùng miền khác.
Như vậy, có thể thấy rằng, truyền thuyết dân gian Tày và lễ hội về người anh
hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc có rất nhiều điểm độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa dân
tộc, vùng miền. Mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian Tày và lễ hội về người anh
hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc vừa mang những điểm chung của mối quan hệ giữa
truyền thuyết và lễ hội nói chung, vừa mang những điểm riêng biệt. Đó là kết quả của sự
chi phối của những đặc trưng về vùng đất, con người.

References.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị An, 2009, “Nhận diện truyền thuyết các dân tộc thiểu số Việt Nam”, Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 6, tr 54 – 70.
2. Toan Ánh, 1992, Hội hè Việt Nam (quyển thượng và quyển hạ), NXB Thành phố Hồ
Chí Minh.
3. Triều Ân, 2010, Huyền thoại dân tộc Tày (Toẹn vửa đía gần Tày), NXB Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội.
4. Cao Huy Đỉnh, 2003, Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
5. Đỗ Thị Hảo, 1984, “Một số truyền thuyết xung quanh nhân vật Nùng Trí Cao”, Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 2, tr 31 – 32.
6. Nguyễn Thị Huế, 1995, “Văn hóa lễ hội truyền thống Việt Nam – Hàn Quốc”, Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 1, tr 17 – 19.
7. Hồ Thị Mai Hương, 2009, Khảo sát về truyền thuyết Lưu Nhân Chú ở vùng Đại Từ -
Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
8. Vũ Ngọc Khánh, 2006, Danh nhân các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội.
9. Đinh Gia Khánh, 2000, “Hội lễ dân gian và sự phản ánh những truyền thống của dân
tộc”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, tr 7 – 11.
24

10. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn, 1997, Văn học dân gian Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
11. Lê Văn Kì, 1996, Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh
hùng, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
12. Phan Huy Lê, 2004, “Tổng kết hội thảo họ Thân trong lịch sử Việt Nam”,

13. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư, 1984, Văn hóa Tày Nùng, NXB Văn hóa, Hà Nội.
14. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn, 1968, Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày,
Nùng, Thái ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

15. Hoàng Lương, 2002, Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt
Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
16. Hoàng Trọng Miên, 1960, Việt Nam văn học toàn thư II (Văn chương truyền khẩu –
Cổ tích), Văn hữu Á Châu xuất bản, Sài Gòn.
17. Nhiều tác giả, 1971, Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
18. Nhiều tác giả, 1979, Văn học dân gian (tập I phần I), NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Nhiều tác giả, 2003, Việt Nam những sự kiện lịch sử, , NXB Giáo dục.
20. Nguyễn Thị Hồng Nhung, 2007, Khảo sát nhóm truyền thuyết Nùng Trí Cao với lễ
hội đền Kì Sầm ở Hòa An - Cao Bằng, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội.
21. Lê Trường Phát, 1993, “Sắc thái truyền thuyết trong folkore xứ Lạng”, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, tr 19 – 21.
22. Trần Duy Phương, 2008, Truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả Lục Ngạn - Bắc
Giang, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
23. Lê Chí Quế, 2001, Văn hóa dân gian – Khảo sát và nghiên cứu, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
24. Hoàng Quyết (sưu tầm, biên soạn và chú giải), 1974, Truyện cổ Tày Nùng, NXB
Văn hóa, Hà Nội.
25. Hoàng Quyết, 1995, Dũng tướng miền biên ải, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
25

26. Hoàng Quyết – Hoàng Thao – Mai Sơn – Đỗ Thiên – An Ly (biên soạn), 1963,
Truyện cổ Việt Bắc, NXB Văn hóa – Viện Văn học.
27. Bùi Quang Thanh, 1982, “Truyền thuyết dân gian với tâm lí cộng đồng người
Việt”, Tạp chí Văn học, số 2, tr 68 – 75.
28. Hà Đình Thành (chủ biên), 2010, Văn hóa dân gian Tày, Nùng ở Việt Nam, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
29. Phạm Minh Thảo, 2009, Kể chuyện lịch sử Việt Nam thời Lý, NXB Văn hóa Thông
tin.

30. Nguyễn Hữu Thiên (chủ biên), 2008, Đông Bắc – Vùng đất, con người, NXB Quân
đội Nhân dân, Hà Nội.
31. Mai Thu Thủy, 2005, Khảo sát những đặc điểm truyền thuyết của người Tày Bắc
Kạn, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
32. Tổng cục thống kê, 2001, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam (kết quả điều tra
toàn bộ), NXB Thống kê, Hà Nội.
33. Sở Văn hóa – Thông tin Thái Nguyên, 2001, Núi Đuổm và Dương Tự Minh, Tái
bản lần thứ nhất.
34. Đoàn Huyền Trang, 2009, Lễ hội văn hóa và Du lịch Việt Nam, NXB Lao động, Hà
Nội.
35. Vũ Anh Tuấn, 1984, “Suy nghĩ về một số biểu tượng đặc thù trong truyện cổ miền
núi”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, tr 63 – 66.
36. Vũ Anh Tuấn, Lâm Xuân Đình, Bàn Tuấn Năng (biên soạn và chỉnh lí), 2000,
Truyện cổ Bắc Kạn, tập 1, Sở Văn hóa – Thông tin – Thể thao Bắc Kạn.
37. Vũ Anh Tuấn, Lâm Xuân Đình, Bàn Tuấn Năng (biên soạn và chỉnh lí), 2002,
Truyện cổ Bắc Kạn, tập 3, Sở Văn hóa – Thông tin – Thể thao Bắc Kạn.
38. Đặng Nghiêm Vạn, 2001, Dân tộc – Văn hóa – Tôn giáo, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
39. Đặng Nghiêm Vạn - Đặng Văn Lung – Tăng Kim Ngân (biên soạn), 1994, Truyện
cổ các dân tộc ít người Việt Nam, tập 4 – Dòng Nam Á (Tày – Thái và Cơ Lao), NXB
Văn học, Hà Nội.

×