LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Viêt Nam nói riêng đang đối mặt với
những biến động khó lường. Dịch vụ kiểm toán được coi là một trong những dịch vụ
mang tính chuyên nghiệp cao và có ý nghĩa rất to lớn trong việc tạo lập môi trường
kinh doanh minh bạch và có hiệu quả. Trong tiến trình hội nhập chất lượng kiểm toán
là vấn đề cơ bản có tính chất sống còn đối với kiểm toán Việt Nam. Đặc biệt khi kiểm
toàn nước ngoài hội nhập vào thị trường Việt Nam thì việc khẳng định chất lượng kiểm
toán trở nên quan trọng, đòi hỏi Công ty kiểm toán phát triển những kỹ thuật kiểm toán
vừa hiệu quả vừa tiết kiệm được chi phí. Các Công ty kiểm toán Việt Nam không
ngừng nâng cao chất lượng kiểm toán để đáp ứng nhu cầu đặt ra. Qua bốn tháng thực
tập tại Công ty TNHH dịch vụ kiểm toán và tư vấn UHY (UHY LTD) đây là cơ hội để
em tiếp cận thực tế vận dụng kiến thức đã học trong nhà trường. Qua đó em nhận thấy
đối với bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hay cung cấp dịch vụ thì khoản mục
Nợ phải thu là một khoản mục lớn trên BCTC ảnh hưởng trọng yếu tới tính trung
thực và hợp lý của BCTC. Vì vậy kiểm toán khoản mục Nợ phải thu đặc biệt quan
trọng trong mọi cuộc kiểm toán. Nên em chọn đề tài: ‘Hoàn thiện kiểm toán khoản
mục phải thu trong kiểm toán BCTC do Công ty TNHH dịch vụ Kiểm toán và
Tư vấn UHY thực hiện’. Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm tiếp cận lý luận về
kiểm toán BCTC nói chung cũng như kiểm toán khoản mục phải thu nói riêng, mô tả
thực tế kiểm toán khoản mục phải thu Công ty UHY LTD thực hiện, từ đó đưa ra giải
pháp nhằm hoàn thiện chu trình kiểm toán khoản mục phải thu.
Khoá luận tốt nghiệp của em gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận về khoản phải thu trong kiểm toán BCTC
Chương 2: Thực trạng kiểm toán khoản mục phải thu trong kiểm toán
BCTC do Công ty UHY LTD thực hiện
Chương 3: Nhận xét và một số giải pháp hoàn thiện quy trình kiểm toán
khoản mục phải thu trong kiểm toán BCTC do UHY LTD thực hiện
1
Em xin chân thành cám ơn tới tập thể ban lãnh đạo Công ty UHY đã tạo điều
kiện cung cấp các tài liệu của Công ty cho em trong quá trình thực tập cũng như các
anh chị trong phòng Tư vấn và đào tạo đã nhiệt tình hướng dẫn. Và em cũng xin gửi
lời cám ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn Th.S Đinh Thế Hùng đã tận tình giúp đỡ
em hoàn thành bài khoá luận này.
2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN KHOẢN PHẢI THU
TRONG KIỂM TOÁN BCTC
1.1 Khái quát về kiểm toán BCTC
1.1.1 Khái niệm và đối tượng của kiểm toán BCTC
‘Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động
cần kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm
toán ngoài chứng từ do các KTV có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ
sở hệ thống pháp lý có hiệu lực’.[1,40]
Kiểm toán BCTC là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán. Kiểm toán BCTC là
hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về tính trung thực và hợp lý của các thông tin
được trình bày trên BCTC do các KTV có trình độ tiến hành theo luật định.
Đối tượng trực tiếp của kiểm toán tài chính là bảng khai tài chính mà bộ phận
quan trọng của bảng khai tài chính là các BCTC và các bảng kê khai có tính pháp lý
khác như các bảng dự toán và các quyết toán ngân sách nhà nước, các bảng quyết
toán và dự toán các công trình cơ bản... BCTC bao gồm các loại sau:
BCĐKT
BCKQKD
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Thuyết minh BCTC
1.1.2 Mục tiêu và phương pháp tiếp cận của kiểm toán BCTC
Mục tiêu của kiểm toán BCTC là xác minh tính trung thực và hợp lý của các thông
tin được trình bày trên các BCTC nghĩa là xác minh xem các các thông tin được đưa
ra có phản ánh đúng tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị
kiểm toán trên khía cạnh trọng yếu hay không, và BCTC có được lập theo đúng
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hay không.
Trong mỗi cuộc kiểm toán BCTC KTV có thể tiếp cận bảng khai tài chính theo hai
cách như sau:
Một là: Phân chia BCTC theo khoản mục là cách phân chia máy móc từng khoản mục
hoặc nhóm khoản mục trên BCTC vào một phần hành. Cách chia này tuy đơn giản dễ
3
làm song lại không thấy được mối liên hệ kinh tế giữa các khoản mục có liên hệ với
nhau. Ví dụ kiểm toán các khoản phải thu ( 131, 138, 136 )
Hai là: Phân chia theo chu trình là cách phân chia căn cứ vào mối liên hệ chặt chẽ lẫn
nhau giữa các khoản mục giữa các quá trình cấu thành và các yêu tố trong một chu
trình. Cách phân chia này có ưu điểm là thấy được mối liên hệ giữa các khoản mục.
Nhược điểm là khó thực hiện, một tài khoản có liên quan tới nhiều nên dẫn tới trùng
tài khoản kiểm toán làm mất thời gian và chi phí kiểm toán. Ví dụ kiểm toán chu
trình bán hàng thu tiền ( 155, 331, 511, 111, 112 ..)
1.2 Khái quát chung về khoản phải thu
1.2.1 Đặc điểm các khoản phải thu
Các khoản phải thu là khoản mục chiếm tỷ lệ lớn trên BCĐKT bao gồm các khoản
phải thu khách hàng, phải thu nội bộ và các khoản phải thu khác. Đây là nguồn tài
sản của doanh nghiệp đang bị các đối tượng khác chiếm dụng nó thể hiện nguồn tiền
mà doanh nghiệp sẽ thu trong tương lai. Vì vậy kế toán công nợ phải theo dõi chặt
chẽ từng khoản nợ phải thu và có biện pháp thu hồi tránh tình trạng bị chiếm dụng
vốn và mất khả năng thu hồi.
Các khoản công nợ theo dõi theo từng đối tượng, nội dung kinh tế và thời hạn
thanh toán để dễ theo dõi và quản lý. Đối với khách hàng truyền thống và có số dư
lớn kế toán phải thực hiện đối chiếu số dư với khách hàng định kỳ. Trường hợp các
khoản phải thu thanh toán bằng hàng hoá hoặc bù trừ công nợ thì phải có chứng từ
hợp lệ. Do các khoản công nợ luôn chứa đựng rủi ro là không có khả năng thu hồi vì
vậy kế toán thanh toán phải theo dõi tình hình và khả năng thanh toán của khách hàng
để làm căn cứ cho việc trích lập dự phòng phải thu khó đòi.
Các khoản phải thu được trình bày bên Nợ của BCĐKT, trường hợp doanh nghiệp
nhận trước tiền đặt cọc hoặc số tiền nhận được nhiều hơn số phải thu thì xuất hiện số
dư bên Có. Cuối kỳ để thuận tiện cho việc theo dõi công nợ kế toán thường bù trừ số
dư bên Nợ và bên Có của cùng một đối tượng.
1.2.2 Phân loại các khoản phải thu
Khi phát sinh khoản phải thu, căn cứ vào đối tượng và nội dung kinh tế của
khoản phải thu kế toán hoạch toán thành các khoản mục sau:
4
Một là Khoản phải thu khách hàng ( TK 131 ): Phản ánh nợ phải thu và tình
hình thanh toán nợ phải thu của doanh nghiệp với khách hàng về việc bán hàng hoá
hay cung cấp dịch vụ.
Hai là khoản phải thu nội bộ ( TK 136 ): Phản ánh nợ phải thu và tình hình
thanh toán công nợ giữa các bộ phận trong cùng một doanh nghiệp. Giữa đơn vị cấp
trên với đơn vị trực thuộc, giữa các thành viên trong cùng một công ty về các khoản
chi trả, thanh toán, thu hộ chi hộ hoặc các khoản cấp dưới phải nộp cho cấp trên, cấp
trên phải cấp cho cấp dưới.
Ba là khoản phải thu khác (TK 138 ): Phản ánh nợ và tình hình thanh toán nợ
phải thu của doanh nghiệp với các đối tượng phát sinh trong quá trình hoạt động trừ
TK 131. Ví dụ khoản phải thu do phát hiện thấy tài sản thừa chờ xử lý.
Trong ba khoản phải thu nêu trên thì phải thu khách hàng là khoản chiếm tỷ
trọng lớn và quan trọng nhất. Phản ánh số tiền phải thu của người mua do độ trễ của
quá trình bán hàng thu tiền. Khoản phải thu khách hàng liên quan mật thiết với việc
trích lập dự phòng phải thu khó đòi, ghi nhận doanh thu xác định kết quả kinh doanh
và nghĩa vụ với nhà nước.
1.3 Một số vấn đề trong kiểm toán khoản phải thu trong kiểm toán BCTC
1.3.1 Tầm quan trọng của kiểm toán khoản phải thu trong kiểm toán BCTC
Trong nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ, mỗi doanh nghiệp không
thể tồn tại độc lập mà phải hợp tác quan hệ với nhau cũng phát triển. Vì vậy các giao
dịch mua bán, các nghiệp vụ kinh tế trao đổi giữa các chủ thể kinh tế được mở rộng.
Do đó các khoản phải thu và phải trả của các doanh nghiệp ngày càng được đa dạng
hoá về đối tượng và quy mô. Các khoản phải thu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và
việc quản lý, thu hồi chúng càng phức tạp. Hơn nữa các khoản phải thu hết sức nhạy
cảm ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thanh toán và sức mạnh tài chính của các
doanh nghiệp. Chính vì vậy việc theo dõi và quản lý tốt khoản phải thu hết sức quan
trọng cần thiết đối với các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể tránh được những
rủi ro như: Bị khách hàng chiếm dụng vốn giảm tốc độ quay vòng vốn tăng chi phí tài
chính, nhân viên lợi dụng vốn, ghi nhận doanh thu và trích lập dư phòng khoản phải
thu không phù hợp.
5
Thêm vào đó sự thay đổi liên tục của chế độ tài chính nên kế toán có thể chưa cập
nhật thông tin và làm không đúng với chế độ quy định. Để ngăn ngừa những vấn đề
nêu trên các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ kiểm toán khoản mục phải thu phát hiện
nhưng sai sót, yếu kém trong công tác kế toán và kiểm soát nội bộ đồng thời đưa ra
các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thông kế toán nói chung và khoản phải thu nói
riêng đảm bảo BCTC trình bày trung thực hợp lý về tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
1.3.2 Mục tiêu kiểm toán trong kiểm toán khoản phải thu
Tương tự mọi hoạt động có ý thức của con người kiểm toán cũng có mục đích
cũng như các chuẩn mực cần hướng tới. Theo chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số
200, khoản 11xác định ‘Mục tiêu của kiểm toán BCTC là giúp cho KTV và công ty
kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng BTCT có được lập trên cơ sở chuẩn mực và
chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, có tuân thủ pháp luật liên quan và có
phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không. Mục tiêu kiểm
toán còn giúp cho đơn vị kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm
nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị’. Vậy mục tiêu kiểm toán là hệ
thống các tiêu điểm cần hướng tới trong mỗi cuộc kiểm toán do đó việc xác định hệ
thống mục tiêu kiểm toán khoa học sẽ giúp KTV thực hiện đúng hướng và có hiệu
quả trong hoạt động kiểm toán. Các mục tiêu kiểm toán được xây dựng trên cơ sở
bản chất đặc điểm và chứ năng của đối tượng kiểm toán.
Trong hệ thống mục tiêu kiểm toán bao gồm cả mục tiêu kiểm toán chung và mục
tiêu kiểm toán đặc thù. Các mục tiêu chung lại được chia thành hai loại cụ thể là sự
trung thực hợp lý chung và các mục tiêu chung khác. Tính hợp lý chung giúp KTV
đánh giá các số dư tài khoản có trung thực hợp lý hay không xét theo tất cả các thông
tin mà KTV có về công việc kinh doanh của khách hàng. Nếu mục tiêu về tính trưng
thực, hợp lý chung chưa được thoả mãn thì một hay nhiều mục tiêu chung khác sẽ
được quan tâm nhiều hơn. Các mục tiêu chung khác được đặt ra tương ứng với cam
kết của nhà quản lý là hiệu lực, tính trọn vẹn quyền và nghĩa vụ, phân loại và trình
bày, tính giá, tính chính xác cơ học.
6
Hiểu được mục tiêu chung của kiểm toán mới chỉ là bước đầu, kế tiếp theo đó là
cụ thể hoá các mục tiêu chung này vào các phần hành cụ thể các mục tiêu đặc thù.
Mục tiêu kiểm toán đặc thù được xác định dựa trên mục tiêu chung và đặc điểm của
hệ thống kế toán, HTKSNB của từng phần hành, khoản mục cụ thể. Vì vậy mỗi mục
tiêu chung đều có ít nhất một mục tiêu đặc thù. Đối với khoản mục phải thu, hệ thống
mục tiêu đặc thù được cụ thể hoá như sau:
Bảng 1.1 Hệ thống các mục tiêu đặc thù trong kiểm toán khoản phải thu
Mục tiêu Nội dung
Tính hợp lý
chung
- Cần tách biệt giữa bán hàng và thu tiền
- Các khoản phải thu được ghi nhận đúng đắn có căn cứ hợp lý
đảm bảo không có sai sót trọng yếu.
Tính hiệu lực Các khoản phải thu được ghi nhận đều có thực tại thời điểm lập
BCTC:
- Việc bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ thực tế đã phát sinh
trong kỳ
- Các khoản đã thu phát sinh là có thật
Tính đầy đủ Các khoản phải thu phát sinh trong kỳ đã được ghi nhận đầy đủ:
- Các nghiệp vụ bán hàng và cung cấp dịch vụ, các khoản thu
nội bộ, và các khoản phải thu khác được ghi sổ đầy đủ
Quyền và nghĩa
vụ
Các khoản phải thu, giá trị tài sản đem cầm cố, ký cược ký quỹ
đều được phản ánh và thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
Phân loại và trình
bày
Các khoản phải thu được phân loại và trình bày theo từng đối
tượng, nội dung và được thuyết minh đầy đủ
Tính giá Khoản phải thu được tính giá đúng đắn:
- Các nghiệp vụ bán hàng đã được ghi sổ đúng về số lượng,
chủng loại và đơn giá của doanh nghiệp
- Các khoản phải thu đều được tính giá đúng theo giá trị thuần
có thể thực hiện được
Tính chính xác cơ
học
Các khoản phải thu được tính toán đúng:
- Các nghiệp vụ bán hàng thu tiền được ghi nhận đúng đắn và
chính xác
- Nợ phải thu được ghi nhận đúng số tiền công gộp trên BCTC
7
khớp với sổ chi tiết và sổ cái các khoản phải thu
- Các bút toán cộng sổ, chuyển sổ, sang trang đều chính xác,
trùng khớp
Tính đúng kỳ - Các nghiệp vụ bán hàng và thu tiền được ghi sổ đúng kỳ
phát sinh.
- Các khoản phải thu được ghi nhận kịp thời
Tính được phép - Các nghiệp vụ bán hàng chịu được phê chuẩn ở cấp có thẩm
quyền phù hợp
- Những nghiệp vụ bán chịu, việc tiếp nhận hàng bán bị trả lại
phải có sự xét duyệt phê chuẩn của người có thầm quyền
( Nguồn: [7,10]
1.3.3 Quy trình kiểm toán khoản phải thu
Theo nguyên lý chung, trình tự kiểm toán khoản phải thu cũng trải qua ba giai
đoạn là: Lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán, hoàn thành và công bố Báo
cáo kiểm toán. Thông qua các giai đoạn này KTV thu thập bằng chứng kiểm toán là
căn cứ cho việc đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của khoản mục phải thu.
1.3.3.1 Lập kế hoạch kiểm toán
Đây là bước công việc đầu tiên nhưng có ý nghĩa quyết định tới chất lượng của
cuộc kiểm toán vì nó chuẩn bị những điều kiện tiền đề cuộc kiểm toán diễn ra thuận
lợi đặc biệt khi kiểm toán ở Việt Nam còn khá mới mẻ. Trong chuẩn mực kiểm toán
Việt Nam số 300 quy định rõ ‘KTV và công ty kiểm toán phải lập kế hoạch kiểm toán
để đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả’. Lập kế hoạch
kiểm toán chính xác hợp lý giúp KTV có thể thu thập được bằng chứng có giá trị và
đầy đủ cho ý kiến kiểm toán ở mức chi phí thấp nhất đồng thời tránh những bất đồng
với khách hàng kiểm toán. Trình tự lập kế hoạch kiểm toán diễn ra như sau:
Sơ đồ 1.1. Trình tự lập kế hoạch kiểm toán
8
Chuẩn bị kế hoạch
Trước khi tiếp nhận kiểm toán cho một khách hàng, KTV và công ty kiểm toán phải
chuẩn bị kế hoạch kiểm toán bao gồm: xem xét khả năng chấp nhận kiểm toán, xác
định mục tiêu kiểm toán, chuẩn bị về nhận sự cũng như các yếu tố cần thiết và ký
hợp đồng kiểm toán.
Thứ nhất đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán là một vấn đề rất quan trọng hàng
đầu trong việc xây dựng uy tín, thương hiệu cho công ty kiểm toán. Thông thường
các công ty kiểm toán chia khách hàng thành hai đối tượng là khách hàng thường
xuyên và khách hàng tiềm năng. Để đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán phải căn
cứ vào tình hình thực tế của khách hàng và khả năng cung cấp dịch vụ của công ty
kiểm toán. Trước tiên là xem xét tính độc lập của KTV, khả năng phục vụ tốt yêu cầu
Chuẩn bị kế hoạch
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin về quyền và
nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
Thực hiện thủ tục phân tích, đáng
giá trọng yếu và rủi ro
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nộ bộ
và đánh giá rủi ro kiểm soát
Lập kế hoạch kiểm toán và thiết
kế chương trình kiểm toán
9
của khách hàng, và việc chấp nhận cuộc kiểm toán này có ảnh hưởng tới uy tín của
công ty kiểm toán hay không.
Đối với khách hàng truyền thống: Công ty kiểm toán đã từng tiến hành kiểm toán
nên đã có nhiều thông tin về khách hàng rồi nhưng KTV vẫn phải thường xuyên cập
nhật những thay đổi có thể ảnh hưởng tới rủi ro kiểm toán khiến phải ngừng cuộc
kiểm toán. Trường hợp phải ngừng cung cấp dịch vụ khi có những mâu thuẫn sau đây
giữ công ty kiểm toán và khách hàng kiểm toán: Giới hạn về phạm vi cuộc kiểm toán,
loại báo cáo kiểm toán hoặc KTV nghi ngờ về tính liêm chính của thành viên ban
giám đốc
Đối với khách hàng năm đầu: KTV phụ trách có thể tìm hiểu thông tin về khách
hàng thông qua việc trao đổi với KTV tiền nhiệm, qua tạp chí, internet và các bên có
liên quan như nhà cung cấp, Ngân hàng. KTV cần tìm hiểu: tại sao khách hàng lại
thay đổi Công ty kiểm toán, tính liêm chính của ban giám đốc, đặc điểm ngành nghề
kinh doanh, các yếu tố về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
Thứ hai: Nhận diện lý do kiểm toán để xác định phạm vi, mục tiêu của người sử
dụng BCTC làm cơ sở cho việc xác định số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu
thập. Đối với những khách hàng kiểm toán cần nhằm mục đích kiểm tra tình hình
hoạt động tình hình tài chính kế toán và hiệu quả của HTKSNB thì khi thực hiện
kiểm toán khoản phải thu KTV thường xem xét việc phê chuẩn cho các nghiệp vụ
bán hàng, xét duyệt bán chịu, chiết khấu giảm giá, hàng bán bị trả lại và việc tổ chức
hoạch toán kế toán đã tuân thủ theo quy định của chế độ kế toán hiện hành chưa? Từ
đó đưa ra những biện pháp hoàn thiện công tác kế toán và HTKSNB đối với khoản
phải thu.
Đối với những khách hàng đang có nhu cầu vay vốn, thu hút đầu tư mở rộng sản
xuất, hoặc xác nhập vào tập đoàn mới thì mục đích kiểm toán là để minh bạch hoá
tình hình tài chính và tạo niềm tin thì khi tiến hành kiểm toán khoản phải thu KTV
quan tâm tới việc xác minh tính có thực và khả năng thu hồi của các khoản phải thu
từ đó đưa ra ý kiến rằng các khoản phải thu có phản ánh đúng quyền của khách hàng
kiểm toán hay không.
10
Thứ ba: Chuẩn bị về nhân sự và cơ sở vật chất cho cuộc kiểm toán. Việc lựa chọn
KTV thích hợp có đủ năng lực trình độ và kinh nghiệm làm việc về ngành nghề lĩnh
vực kinh doanh của khách hàng đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán. Khi lựa
chọn đoàn kiểm toán cho khách hàng truyền thống cần lựa chon cả KTV đã tiến hành
kiểm toán và cả KTV chưa thực hiện kiểm toán để trách tư duy theo một lối mòn
nhưng cũng đảm bảo trong nhóm có người am hiểu có khả năng giám sát các nhân
viên chưa có kinh nghiệm. Ngoài ra các điều kiện vật chất cần được chuẩn bị đầy đủ
như văn phòng phẩm máy tính và các công cụ hỗ trợ khác cần thiết. Công ty kiểm
toán yêu cầu khách hàng chuẩn bị những tài liệu sau đây:
• Báo cáo tổng hợp công nợ của khách hàng
• Bảng kê chi tiết công nợ của các khoản phải thu khách hàng, phải thu nội bộ,
phải thu khác theo từng đối tượng, từng nội dung kinh tế cũng như thời hạn
thanh toán
• Chính sách, quy chế của khách hàng kiểm toán về việc phê chuẩn nghiệp vụ
bán hàng, bán chịu về quản lý và thu hồi các khoản nợ, trích lập dự phòng
phải thu khó đòi
• Giử thư xác nhận cho một số đối tượng theo yêu cầu của công ty kiểm toán.
• Các chứng từ hoá đơn kèm theo.
Thứ tư: Ký kết hợp đồng kiểm toán đây là sự ký kết thoả hiệp chính thức giữa
công ty kiểm toán và khách hàng của mình về việc cung cấp dịch vụ kiểm toán và tư
vấn. Đây là cơ sở cho quyền và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia ký hợp đồng. Trong
hợp đồng quy định rõ phạm vi giới hạn trách nhiệm của KTV, sự hợp tác giúp đỡ của
khách hàng trong quá trình thu thập chứng từ. Việc ký kết hợp đồng kiểm toán được
quy định rất cụ thể trong chuẩn mực kiểm toán số 210. Khi hợp đồng kiểm toán được
ký kết là dấu hiệu chứng tỏ cuộc kiểm toán chính thức bắt đầu.
Thu thập thông tin cơ sở
Đây là những thông tin cơ bản phản ánh khái quát về lĩnh vự kinh doanh cũng
như tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Thứ nhất là thu thập thông tin về ngành nghề và công việc kinh doanh của
khách hàng làm cơ sở cho việc cho việc đánh giá rủi ro tiềm tàng có thể gặp phải
11
cũng như vận dụng thủ tục kiểm toán cho phù hợp. Ví dụ tại một doanh nghiêp kinh
doanh thương mại các nghiệp vụ bán hàng với số lượng lớn và thanh toán sau nên khi
kiểm toán khoản phải thu chứa đựng rủi ro hơn với những doanh nghiệp sản xuất bán
với số lượng nhỏ và thường thanh toán ngay.Vì vậy, khi kiểm toán khoản phải thu tại
doanh nghiệp thương mại tiến hành cẩn thận, mở rộng phạm vi kiểm toán thu thập
nhiều bằng chứng hơn so với công ty sản xuất bán với số lượng nhỏ. Việc thu thập
thông tin cơ sở được quy định trong chuẩn mục kiểm toán Viết Nam số 300 như sau:
‘Khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV phải biết về hoạt động kinh doanh của khách hàng
để nhận biết các sự kiện, nghiệp vụ nào có thể ảnh hưởng trọng yếu tới BCTC’. Các
thông tin cần thu thập trong giai đoạn này như sau:
• Đặc điểm về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh… và những ảnh hưởng của
đặc điểm này tới khoản phải thu như quy mô, tính chất thời điểm thu hồi và
rủi ro có thể sảy ra đối với khoản phải thu. Ví dụ như doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực xây lắp lắp đặt thì khoản phải thu phát sinh lớn và thời
hạn thanh toán dài.
• Ảnh hưởng của ngành nghề hoạt động kinh doanh tới cơ cấu tổ chức và công
tác hoạch toán kế toán của khách hàng. Ví dụ như đơn vị EVN - Telecom
kinh doanh mạng, điện thoại Điện lực….. thì có nhiều đơn vị điện lực khắp
cả nước nên việc hoạch toán thu thập chứng từ không tập trung, còn một
doanh nghiệp sản xuất thông thường các phát sinh trong quá trình hoạt động
chỉ tập trung một nơi nên dễ dàng hoạch toán kế toán theo kiểu tập trung.
KTV còn phải xem xét những khác biệt của khách hàng kiểm toán với những
đơn vị trong cùng ngành nghề ảnh hưởng tới công tác kế toán nói chung và
hoạch toán khoản phải thu nói riêng.
Việc thu thập thông tin cơ sở có thể thực hiện bằng cách: đối với khách hàng
truyền thồng thì xem xét hồ sơ kiểm toán các năm trước và phỏng vấn khách hàng...
Đối với khách hàng năm đầu tiền KTV có thể tham khảo sách báo tài liệu, hỏi ý kiến
KTV tiền nhiệm, các chuyên gia, phỏng vấn ban giám đốc, tham quan nhà xưởng
hoặc xem xét lại các chính sách của công ty...
12
Thứ hai: Nhận diện các bên liên quan
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 550 nêu rõ: ‘các bên liên quan được
hiểu là các bộ phận trực thuộc các chủ sở hữu chín thức của công ty khách hàng hay
bất cứ công ty chi nhánh, một tổ chức hay cá nhân nào mà công ty khách hàng có
quan hệ và các tổ chức cá nhân đó có khả năng điều hành, kiểm soát và có ảnh hưởng
đáng kể tới các chính sách kinh doanh hoặc chính sách quản trị của công ty khách
hàng’. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh giữa các bên liên quan thường là quá trình
mua và bán giữa một công ty mẹ với các công ty con của nó, các khoản thu hộ chi hộ
giữa các chi nhánh của một tổng công ty, các khoản tiền cho các công nhân viên chức
vay. Vì vậy các nghiệp vụ này thường liên quan tới khoản phải thu nội bộ cần được
thu thập trong giai đoạn thu thập thông tin về khách hàng.
Thứ ba là thu thập thông tin về quyền và nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
• Giấy phép thành lập và điều lệ công ty: Việc thu thập và nghiên cứu những
tài liệu này giúp KTV hiểu được quá trình hình thành, hoạt động và phát
triển cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ các phòng ban, bộ phận
trong công ty.
• Các BCTC của năm hiện hành, báo cáo kiểm toán thanh tra của các năm
trước: tài liệu này giúp KTV có những đánh giá ban đầu về việc tổ chức
hoạch toán và quản lý những điểm còn hạn chế và rủi ro khi kiểm toán
khoản phải thu. Đồng thời giúp KTV nhận biết được tình hình tài chính, kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp làm cơ sở để KTV thực hiện các thủ tục
phân tích.
• Biên bản các cuộc họp (nếu có): Là tài liệu cho biết những vấn đề quan
trọng đã được thảo luận và quyết định trong các cuộc họp của ban giám đốc
hội đồng quản trị có ảnh hưởng tới việc hình thành và trình bày trung thực
các thông tin trên BCTC. KTV phải xem xét các quy định của đơn vị về phê
chuẩn các nghiệp vụ bán chịu, chính sách quản lý và thu hồi phải thu, phân
công trách nhiệm cụ thể đối với từng cá nhân, phòng ban có liên quan.
• Các hợp đồng và cam kết quan trọng: Giúp KTV tiếp cận với các hoạt động
chính của khách hàng. Trong kiểm toán khoản phải thu KTV cần xem xét
13
dấu hiệu của việc xét duyệt bán chịu, điều khoản về thời hạn, phương thức
thanh toán; tiền phạt bồi thường nếu vi phạm hợp đồng.
Tìm hiểu HTKSNB và đánh giá rủi ro kiểm soát
Kiểm tra, kiểm soát là một chức năng của quản lý, nó không chỉ là một giai
đoạn của quản lý mà nó được thực hiện ở tất cả các khâu của quá trình này. Chức
năng kiểm tra kiểm soát được thực hiện chủ yếu bởi HTKSNB của doanh nghiệp.
Theo liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), HTKSNB là hệ thống chính sách và thủ
tục được thiết lập nhằm đạt được bốn mục tiêu sau: bảo vệ tài sản của đơn vị; đảm
bảo độ tin cậy của các thông tin; đảm bảo việc thực hiện các chế độ pháp lý và đảm
bảo hiệu quả của hoạt động.
Khi tìm hiểu HTKSNB của khách hàng KTV cần nhận thức rằng mỗi
HTKSNB dù được thiết kế hoàn hảo tới đâu cũng không thể ngăn ngừa hay phát
hiện hết sai phạm có thể sảy ra đó chính là hạn chế cố hữu của HTKSNB. Phần lớn
công tác kiểm soát nội bộ thường chú ý tới các nghiệp vụ lặp đi lặp lại mà không
tác động tới các nghiệp vụ bất thường. Hơn nữa còn có các rủi ro do sai sót xuất
phát từ sự thiếu chú ý của con người hoặc do thiếu kinh nghiệm…
HTKSNB được cấu thành bởi ba bộ phận chủ yếu sau:
Một là môi trường kiểm soát: Nó bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong và bên
ngoài đơn vị có tính môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và sử lý dữ
liệu của các loại hình kiểm soát nội bộ. Khi kiểm toán khoản phải thu cần xem xét
quan điểm thái độ và nhận thức của ban quản tri và ảnh hưởng của yếu tố môi
trường đến việc quản lý, kiểm soát và thu hồi nợ phải thu.
Thứ hai là hệ thống kế toán: Hệ thống kế toán của đơn vị bao gồm hệ thống
chứng từ kế toán, hệ thống sổ sách kế toán, hệ thống tài khoản kế toán và hệ thống
bảng tổng hợp và cân đối kế toán. Trong đó quá trình lập và luân chuyển chứng từ
đóng vai trò quyết định trong công tác kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Đối với
kiểm toán khoản phải thu KTV cần xem xét việc hoạch toán khoản phải thu có tuân
thủ chế độ kế toán hiện hành và phù hợp với đặc trưng của doanh nghiệp hay
không. Các chứng từ có được lập và phê duyệt đúng thẩm quyền không, các nghiệp
vụ mua bán thu tiền có được thu thập phân loại và ghi sổ đúng đắn không.
14
Thứ ba là các thủ tục kiểm soát: Chúng được xây dựng bởi nhà quản lý dựa
trên ba nguyên tắc cơ bản là bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân công phân nhiệm và
chế đ uỷ quyền. KTV cần xác định khách hàng có xét duyệt các nghiệp vụ bán chịu;
phê chuẩn đầy đủ với hàng bán bị trả lại, giảm giá hàng bán, trích lập dự phòng; có
phân công phân nhiệm cho từng cá nhân, phòng ban cụ thể để quản lý và thu hồi nợ
không.
Sau khi tìm hiểu HTKSNB của khách hàng kiểm toán KTV phải thực hiện
đánh giá rủi ro ban đầu về rủi ro kiểm soát cho số dư của mỗi khoản mục trọng yếu
làm cơ sở cho việc xác định rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện.
Thực hiện thủ tục phân tích
Thủ tục phân tích là một trong những thủ tục quan trọng trong cả cuộc kiểm
toán nói chung và khâu lập kế hoạch nói riêng. Nó được quy định rất cụ thể trong
chuẩn mục kiểm toán Việt Nam số 520 ‘Việc phân tích các số liệu thông tin, các tỷ
suất quan trọng, qua đó tìm ra xu hướng biến động và tìm ra những mối liên hệ có
mâu thuẫn với thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị dự
kiến’. Thủ tục phân tích giúp KTV phát hiện những biến động bất thường và mỗi
quan hệ lôgíc giữa các chỉ tiêu của BCTC và giảm bớt quy mô kiểm tra chi tiết.
Khoản phải thu là khoản mục lớn và ảnh hưởng trọng yếu tới BCĐKT của đơn vị
do đó thủ tục phân tích không thể thiếu trong kiểm toán khoản phải thu. Thủ tục
phân tích gồm:
Thứ nhất là phân tích ngang: là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh trị số của
cùng một chỉ tiêu trên BCTC. Khi kiểm toán khoản phải thu cần so sánh số dư
khoản phải thu kỳ này với kỳ trước hoặc giữa các kỳ với nhau, đầu kỳ với cuối kỳ,
số thực tế với số kế hoạch hay ước tính chủ quan của KTV, so sánh số liệu của
khách hàng với số liệu chung của ngành, của các đơn vị có cùng quy mô….
Thứ hai là phân tích dọc: là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các tỷ lệ
tương quan của các chỉ tiêu của các khoản mục trên BCTC. Các tỷ suất tài chính
dùng trong phân tích dọc khi kiểm toán khoản phải thu là: Tỷ suất số vòng quay
khoản phải thu, tỷ lệ nợ khó đòi so với tổng số nợ phải thu và tổng tài sản..
Đánh giá trọng yếu và rủi ro
15
Đây là bước công việc hết sức quan trọng đối với việc lập kế hoạch và thiết
kế chương trình kiểm toán. Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 ‘Trọng
yếu là khái niệm chỉ quy mô hay tầm cỡ và bản chất của các sai phạm của các của
các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc là từng nhóm mà trong bối cảnh cụ thể
nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì không thể chính xác hoặc sẽ rút ra
kết luận sai lầm’. Trên góc độ người sử dụng thông tin một cách đơn giản là một
thông tin quan trọng và cần phải được trình bày nếu nó có khả năng ảnh hưởng tới
các quyết định của người sử dụng. Nhiệm vụ của KTV là xác định xem các BCTC
có sai phạm trọng yếu hay không. Vì vậy đánh giá trọng yếu rất quan trọng nhất là
trong giai đoạn lập kế hoạch KTV phải đánh giá mức trọng yếu để ước lượng mức
độ sai sót có thể chấp nhận được, xác định phạm vị, quy mô các thử nghiệm. Mức
trọng yếu chỉ là tương đối phụ thuộc vào ước tính chủ quan của KTV một sai phạm
có thể trọng yếu với đơn vị này nhưng lại không trọng yếu với đơn vị khác.
Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu là ước lượng tối đa mà KTV tin rằng ở
mức độ đó BCTC có thể chứa đựng các sai phạm nhưng không ảnh hưởng tới quyết
định đúng đắn của người sử dụng thông tin tài chính. Mức trọng yếu ban đầu quyết
định tới số lượng và chất lượng của bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Mức trọng
yếu ban đầu không cố định mà có thể thay đổi tuỳ thuộc và những phát hiện của
KTV trong quá trình thực hiện kiểm toán. Dù ước lượng ban đầu vè mức trọng yếu
là một xét đoán chủ quan song các công ty kiểm toán thường đưa ra những phương
pháp cho các KTV ước lượng ban đầu về mức trọng yếu. Sau đây là bảng ví dụ về
quy định về mức trọng yếu:
Bảng 1.2 Bảng quy định về mức trọng yếu
Vị trí của khoản
mục
Không trọng yếu Có thể trọng yếu Chắc chắn trọng
yếu
BCKQKD Dưới 5% Lãi trước
thuế
Từ 5% - 10% Lãi
trước thuế
Trên 10% Lãi trước
thuế
BCĐKT Dưới 10% giá trị
tài sản
Từ 10% - 15% Giá
trị tài sản
Trên 15% Giá trị
tài sản
(Nguồn: [2, 122])
16
Sau khi KTV đã ước lượng ban đầu về mức trọng yếu, bước công việc tiếp theo
là phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho từng khoản mục trên BCTC làm
cơ sở cho việc xác định số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập trên mỗi khoản
mục với mức chi phí kiểm toán là thấp nhất. Việc phân bổ mức trọng yếu căn cứ vào
bản chất của mỗi khoản mục cũng như xét đoán nghề nghiệp của KTV. Khoản phải
thu là khoản mục khá lớn lại rất phức tạp thường chứa đựng nhiều sai phạm nên việc
phân bổ mức trọng yếu cho khoản mục này phải được xem xét cẩn thận. Các thủ tục
kiểm toán thường tập trung vào các tài khoản trên BCĐKT nên KTV thường phân bổ
ước lượng về mức trọng yếu cho các khoản mục trên BCĐKT hơn là BCKQKD.
Bước tiếp theo là KTV đánh giá rủi ro kiểm toán. KTV dựa trên cơ sở mức trọng
yếu được xác định cho toàn bộ BCTC và phân bổ cho từng khoản mục KTV đánh giá
khả năng sảy ra sai phạm trọng yếu đối với toàn bộ BCTC cũng như từng khoản mục
để lập kế hoạch và thiết kế chương trình kiểm toán cho phù hợp.
Rủi ro kiểm toán là rủi ro mà KTV có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần về
những BCTC trình bày sai lệnh trọng yếu. Rủi ro kiểm toán có thể dẫn đến các vụ
kiện hoặc bồi thường vật chất của các công ty khách hàng cũng như người sử dụng
thông tin. Rủi ro xuất phát từ sai lệch tiềm ẩn trong BCTC đã vượt quá HTKSNB của
đơn vị mà không bị thử nghiệm cơ bản trong quá trình kiểm toán phát hiện.
Rủi ro kiểm toán nằm trong khoảng từ 0 đến 1 ( 0 đến 100% ). Khi xác định rủi ro
bằng 0 tức là đảm bảo hoàn toàn về tính chính xác của BCTC là không thực hành tiết
kiệm. Ngược lại nếu rủi ro kiểm toán là 1 nghĩa là bất kỳ cuộc kiểm toán nào KTV
đều đưa ra nhận xét sai lệch trong yếu. Khi đánh giá rủi ro kiểm toán KTV cần đánh
giá ba loại rủi ro như sau:
Rủi ro tiềm tàng: là khả năng tồn tại các sai phạm trong yếu trong bản thân các
đối tượng kiểm toán khi chưa tính tới tác động của bất cứ hoạt động kiểm soát nào.
Một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới rủi ro tiềm tàng là; Bản chất công việc
kinh doanh của khách hàng, tính liêm chính của ban quản trị. động cơ của khách hàng
kiểm toán, kết qủa của lần kiểm toán trước, khách hàng lần đầu hay khách hàng
17
quen thuộc, các nghiệp vụ không thường xuyên, Số lượng tiền của số dư tài khoản,
trình độ ban giám đốc và các nhân viên
Rủi ro kiểm soát (CR) là khả năng HTKSNB của đơn vị kiểm toán không phát
hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm trọng yếu. KTV không tạo ra rủi
ro kiểm soát và cũng không kiểm soát được chúng. Họ chỉ có thể đánh giá HTKSNB
của đơn vị được kiểm toán và từ đó đưa ra mức rủi ro kiểm soát dự kiến. Nếu cơ cấu
kiểm soát nội bộ hoàn toàn không hiểu quả đối với việc ngăn ngừa hoặc phát hiện sai
sót, do đó KTV sẽ phân bổ 100% yếu tố rủi ro cho rủi ro kiểm soát. Cơ cấu kiểm soát
nọi bộ càng hiệu quả thì yếu tố rủi ro kiểm soát được phân bổ càng thấp.
Trước khi các kiểm toán có thể sử dụng một mức rủi ro kiểm soát thấp hơn mức
tối đa 100%, họ phải làm ba việc: có một sự hiểu biết về cơ cấu kiểm soát nội bộ của
khách hàng đánh giá nó sẽ hành sự như thế nào căn cứ theo sự hiểu biết đó, và khảo sát
các hệ thống kiểm soát trong cơ cấu kiểm soát nội bộ về tính hiệu quả. Việc đầu tiên
trong số này là yêu cầu về sự hiểu biết có liên quan đến tất cả các cuộc kiểm toán. Sau đó
là các bước đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức thấp hơn mức tối đa.
Rủi ro phát hiện (DR) là khả năng mà các thủ tục kiểm toán không phát hiện
được các sai phạm trọng yếu. Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV
phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục để thu nhập các bằng chứng kiểm toán
nhằm quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện. Chẳng hạn thủ tục phân tích,
thường hợp KTV phân tích sai, sử dụng mô hình phân tích không phù hợp hoặc thập
chí là do các điều kiện khách quan cũng có thể dẫn tới rủi ro phát hiện cao. Rủi ro
phát hiện xác định bằng chứng mà kiểm toán viến có kế hoạch thu thập. Khi rủi ro
phát hiện thấp KTV sẽ không chấp nhận nhiêu rủi ro bằng chứng không phát hiện ra
sai sót: Do đó cần thu thập một số lượng bằng chứng đáng kể. Khi KTV sẵn sàng
chấp nhận thêm rủi ro, thì bằng chứng cần sẽ ít hơn.
Trong ba thành phần của rủi ro kiểm toán là rủi ro tiềm tàng rủi ro kiểm soát
và rủi ro phát hiện thì rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát luôn tồn tại độc lập với các
thử nghiệm cơ bản của KTV, và KTV không kiểm soát được hai rủi ro này mà chỉ có
thể đánh giá chúng.. Còn rủi ro phát hiện thì ngược lại KTV có thể điều chỉnh và
kiểm soát được thông qua điều chỉnh nội dung phạm vi các thủ tục kiểm toán
18
Mối quan hệ giữa các rủi ro trên được phản ánh qua mô hình rủi ro sau:
AR = f(IR,CR,DR) Hoặc AR = IR*CR*DR
Từ mô hình rủi ro kiểm toán trên ta suy ra công thức rủi ro phát hiện là:
DR=AR/(IR*CR)
Chú ý khi sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán thì không thể giả sử rủi ro tiềm tàng
bằng ‘không’, không được tin tưởng tuyết đối vào HTKSNB.
Khoản phải thu thường chứa đựng các rủi ro như là:
• Dễ bị chiếm dụng, tham ô để sử dụng tài sản của doanh nghiệp như các đối
tượng nợ kéo dài thời gian trả nợ, hoặc các nhân viên kế toán thu hồi khoản nợ
nhưng không định khoản mà biển thủ tiền theo phương thức đưa vào nợ khó
đòi, nợ xấu ----> Chi phí
• Khoản mục này có liên quan mật thiết với việc xác định kết quả kinh doanh do
đó các doanh nghiệp thường thổi phồng doanh thu và lợi nhuận để thu hút vốn
đầu tư, hoặc cắt giảm nhằm trốn thuế nhà nước.
• Khoản phải thu được ghi nhận theo giá trị thuần có thể thực hiện được, còn
việc trích lập dự phòng phải thu khó đòi lại phụ thuộc vào ước tính chủ quan
của nhà quản lý nên nhiều khi các khoản phải thu không có khả năng thu hồi
không vẫn được phản ánh như là tài sản của đơn vị.
Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro: Trọng yếu và rủi ro là hai khái niệm có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là mối quan hệ tỷ lệ nghịch tức là mức trọng yếu
càng cao thì rủi ro càng thấp và ngược lại. Từ đó ta thấy đối với những khoản mục
càng trọng yếu thì KTV phải thu phải thu thập càng nhiều bằng chứng có giá trị để có
thể đưa ra ý kiến chính xác về BCTC của doanh nghiệp.
Thiết kế chương trình kiểm toán
19
Chương trình kiểm toán là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán
cần thực hiện, thời gian hoàn thành và sự phân công lao động giữa các KTV cũng
như dự kiến về tư liệu, thông tin liên quan cần sử dụng và thu thập. Trọng tâm của
thủ tục kiểm toán là thủ tục kiểm toán cần thực hiện đối với từng khoản mục được
kiểm toán. Một chương trình kiểm toán phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho KTV
thực hiện công tác kiểm toán được hiệu quả vì:
Thứ nhất là chương trình kiểm toán sắp xếp tổ chức công việc và nhân lực một
cách hợp lý, đảm bảo sử dụng tối đa các nguồn lực.
Thứ hai đây là công cụ hữu hiệu để những người có trách nhiệm quản lý, kiểm
soát chất lượng kiểm toán, đánh giá được tiến độ công việc cũng như hiệu quả làm
việc của các trợ lý kiểm toán.
Thứ ba là chương trình kiểm toán là bằng chứng để chứng minh các thủ tục
kiểm toán đã được thực hiện
Chương trình kiểm toán khoản phải thu bao gồm các nội dung sau đây:
Tên chương trình kiểm toán
Phân công công việc chỉ rõ tên người chịu trách nhiệm thực hiện mỗi công việc
cụ thể và người soát xét.
Tài liệu yêu cầu khách hàng chuẩn bị
Mục tiêu kiểm toán cần qua tâm
Các thủ tục kiểm toán cần thực hiện: thủ tục phân tích, thủ tục kiểm tra chi tiết,
thủ tục gửi thư xác nhận và các thủ tục khác…
1.3.3.2 Thực hiện kiểm toán
Quá trình thực hiện kế hoạch kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp
kỹ thuật thích hợp để thu thập bằng chứng kiểm toán là cơ sở cho việc đưa ra ý kiến
về tính trung thực và hợp lý của các bảng khai tài chính. Thực hiện kiểm toán không
phải là quá trình triển khai máy móc, thu thập thụ động bằng chứng kiểm toán theo kế
hoạch đã đặt ra mà nó là quá trình áp dụng năng động sáng tạo kế hoạch kiểm toán
kết hợp với khả năng của KTV làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến đúng đắn về tính
trung thực và hợp lý BCTC. Các thủ tục kiểm toán thường áp dụng trong giai đoạn
này là:
20
Một là thủ tục kiểm soát. Thủ tục này chỉ được áp dụng khi HTKSNB được
đánh giá là hoạt động liên tục và có hiệu quả. Khi đó thủ tục kiểm soát được triển
khai nhằm thu thập các bằng chứng kiểm toán về thiết kế và hoạt động của
HTKSNB. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 500 quy định: ‘Thử nghiệm kiểm
soát là việc kiểm tra thu thập bằng chứng kiểm toán về sự thiết kế phù hợp và sự vận
hành hữu hiệu của hệ thống kế toán và HTKSNB’. Cụ thể các bằng chứng kiểm toán
phải chứng minh được rằng các thủ tục kiểm soát của đơn vị được thiết kế phù hợp
để ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa những sai sót trọng yếu, các thủ tục này được
triển khải theo đúng yêu cầu của thiết kế.
Để thu thập bằng chứng có giá trị về HTKSNB thì KTV có thể sử dụng các
phương pháp kỹ thuật như: điều tra, phỏng vấn, quan sát, kiểm tra từ đầu tới cuối (là
sự kết hợp giữa kỹ thuật phỏng vấn, điều tra quan sát theo trật tự diễn biến qua từng
chi tiết của nghiệp vụ cụ thể được ghi trong sổ cái), thực hiện lại (là lặp lại hoạt động
của nhân viên đã làm để xác nhận mức độ thực hiện trách nhiệm của họ với công
việc), kiểm tra ngược. Tuy nhiên khi thực hiện các phương pháp thu thập bằng chứng
kiểm toán trên cần lưu ý thực hiện các biện pháp một cách đồng bộ, phải lựa chọn
các biện pháp kỹ thuật phải phù hợp với đối tượng được kiểm tra.
Thủ tục kiểm soát đối với khoản phải thu thường có đặc điểm sau:
Thứ nhất: Do đặc điểm của kiểm toán khoản phải thu phát sinh với nhiều khách
hàng, đối tượng khác nhau nên khi hoạch toán doanh nghiệp phải theo dõi nợ phải thu
theo từng đối tượng, mỗi đối tượng có một mã số riêng để theo dõi tránh nhầm lẫn.
Chỉ được đối trừ nợ phải thu với nợ phải trả của cùng một đối tượng khách hàng.
Thứ hai: Các khoản phải thu cần được theo dõi chặt chẽ, phê duyệt đầy đủ đối
với các nghiệp vụ bán chịu, các khoản giảm trừ, giảm giá phải được xem xét cẩn thận
bởi người có thẩm quyền. Thường xuyên đánh giá lại các khoản nợ phải thu đặc biệt
là những khoản ít biến động để trích lập dự phòng, định kỳ đối chiếu công nợ với
khách hàng … hạn chế gian lận, phát hiện sai sót nếu có để điều chỉnh.
Hai là thủ tục phân tích: Quy trình phân tích bao gồm cả việc so sánh các thông
tin tài chính và mối quan hệ giữa chúng. Thực hiện thủ tục phân tích trong giai đoạn
21
thực hiện kiểm toán nhằm mục đích kiểm tra chính xác hợp lý các khoản mục. Các
thủ tục phân tích thường áp dụng đối với khoản phải thu là:
Một là tập hợp danh sách đối tượng có số dư khoản phải thu đối chiếu với sổ
chi tiết, sổ tổng hợp và BCTC, và báo cáo kiểm toán năm trước. So sánh khoản phải
thu kỳ này với kỳ trước để đánh giá tình hình và khả năng thu hồi nợ.
Hai là phân tích tuổi nợ và trích lập dự phòng phải thu khó đòi. KTV phân
tích tỷ trọng của các khoản phải thu, tuổi nợ và ước tính dự phòng phải thu khó đòi
để đánh giá khả năng thu hồi tính đúng đắn của việc trích lập dự phòng và ghi nhận
khoản phải thu của doanh nghiệp.
Ba là tính ra và so sánh số ngày thu hồi nợ bình quân kỳ này với kỳ trước, so
sánh số liệu chung của ngành, các doanh nghiệp khác có cùng quy mô.
Trong quá trình phân tích KTV cần lưu ý kết hợp kiểm toán khoản phải thu
với khoản mục có liên quan như doanh thu, thuế….
Ba là thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết: Đó là việc áp dụng các biện pháp kỹ
thuật cụ thể của trắc nghiệm độ tin cậy, trắc nghiệm công việc và trắc nghiệm trực
tiếp số dư để kiểm toán từng khoản mục hoặc nghiệp vụ tạo nên số dư trên khoản
mục hay loại nghiệp vụ. Các bước trong kiểm tra chi tiết là: lập kế hoạch kiểm tra chi
tiết, lựa chọn các khoản mục để kiểm tra chi tiết, thực hiện các biện pháp kỹ thuật để
kiểm tra chi tiết trên khoản mục đã chọn, đánh giá kết quả kiểm tra và sử lý chênh
lệch nếu có.
Bảng 1.3: Các thủ tục kiểm tra chi tiết đối với khoản phải thu
Mục tiêu kiểm toán Thủ tục kiểm tra chi tiết được áp dụng
Tính hợp lý chung - Kiểm tra một lượt các khoản phải thu để phát hiện các phát
hiện bất thường, những biến động lớn
- Kiểm tra bảng kê bảng cân đối bán hàng thu tiền, tiến hành
kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ thấy nghi ngờ
- Đặc biệt chú ý những khách hàng có số dư Có
Tính có thật - Đối chiếu nhật ký bán hàng, sổ cái, sổ chi tiết khoản phải
thu. Chọn mẫu các nghiệp vụ đối chiếu với các hoá đơn
chứng từ.
22
- Tiến hành xác nhận đối chiếu công nợ
- Đối chiếu bút toán bán hàng với lệnh bán chịu và chứng từ
vận chuyển…
Tính trọn vẹn - Đối chiếu vận đơn với hoá đơn, Sổ chi tiết, sổ cái TK131 và
nhật ký bán hàng
Quyền và nghĩa vụ - Kiểm tra dấu hiệu đã ghi sổ của các hoá đơn liên quan đến
khoản phải thu
- Giử thư xác nhận đối chiếu với sổ sách khoản phải thu
Tính giá - Phỏng vấn nhà quả lý về khả năng thu hồi các khoản phải
thu
- Đối chiếu, tính toán xem các bút toán trên sổ nhật ký bán
hàng với hoá đơn, hợp đồng và quy định về giá của đơn vị..
Phân loại và trình
bày
- Đối chiếu các khoản phải thu trên bảng kê với sổ sách,
chứng từ về nội dung kinh tế
- Gửi thư xác nhận, kiểm tra chi tiết đối với những nghiệp vụ
bất thường
Đúng kỳ - Kiểm tra các hoá đơn trước và sau ngày khoá sổ đối chiếu
ngày tháng với sổ sách
Tính chính xác cơ
học
- Tính toán lại một số khoản thu có nghi ngờ và đối chiếu với
sổ sách chứng từ có liên quan
- Đối chiếu cộng dồn trên sổ nhật ký với số dư trên sổ cái
- Đối chiếu các bút toán trên sổ cái sổ chi tiết khoản phải thu
và hoá đơn, hợp đồng..
( Nguồn: Tài liệu công ty UHY LTD)
1.3.3.3 Hoàn thành và công bố báo cáo kiểm toán
Đây là giai đoạn KTV phải phát hành báo cáo kiểm toán trong đó đưa ra ý kiến
về tính trung thực và hợp lý của BCTC. Ngoài ra KTV còn có thể cung cấp thêm thư
quản lý, xây dựng và hoàn thiện hệ thống kế toán và HTKSNB.
23
Thứ nhất: KTV xem xét các khoản công nợ ngoài dự kiến. Đây là những khoản
công nợ có thể thuộc quyền và nghĩa vụ của khách hàng nhưng tính tới thời điểm lập
BCTC vẫn chưa có kết luận cuối cùng là có sảy ra hay không. Thủ tục kiểm toán áp
dụng là: trao đổi với nhà quản lý, xem xét biên bản họp hội đồng quản trị hoặc hỏi ý
kiến chuyên gia.
Nếu KTV cho rằng đây là những khoản công nợ có ảnh hưởng trọng yếu tới
BCTC phải được thuyết mình trên bảng khải tài chính.
Thứ hai: Xem xét các sự kiện sảy ra sau ngày kết thúc kiểm toán.
Có hai sự kiện sảy ra sau ngày kết thúc kiểm toán nhưng trước thời điểm công
bố báo cáo kiểm toán ảnh hưởng trực tiếp tới BCTC là: Các nghiệp vụ điều chỉnh kết
quả và các vụ kiện, các tài sản nhượng bán sau ngày khoá sổ sau đó xác định ảnh
hưởng của các sự kiện này tới BCTC nói chung và khoản phải thu nói riêng. Các thủ
tục áp dụng là: kiểm tra các nghiệp vụ sau ngày khoá sổ, xem xét các biên bản các
cuộc họp quan trọng, phỏng vấn nhà quản lý, đọc thông tin trên sách, báo chí,
internet…
Thứ ba: Xem xét giả thiết hoạt động liên tục của đơn vị. Đây là một trong các
giả thiết kế toán phải được tuân thủ khi lập BCTC. Vì vậy KTV phải xét các dấu hiệu
cho biết khả năng doanh nghiệp không còn khả năng tiếp tục hoạt động trong tương
lai gần như khách hàng bị lỗ trong thời gian dài, không thu hồi được các khoản công
nợ có giá trị lớn và do đó không có khả năng thanh toán. Khách hàng có liên quan tới
các vụ kiện có thể ảnh hưởng trọng yếu và xét tới các chính sách của nhà nước có thể
ảnh hưởng bất lợi tới doanh nghiệp.
Thứ tư: Tổng hợp kết quả kiểm toán đưa ra ý kiến
Trước hết KTV phải đánh giá tổng quát về kết quả thu được sau cuộc kiểm
toán như: Tính đồng bộ của các biện pháp, tổng hợp các sai sót được phát hiện, rà
soát lại hồ sơ kiểm toán. Cuối cùng là KTV phát hành báo cáo kiểm toán. Báo cáo
kiểm toán là bản thông báo về kết quả của cuộc kiểm toán cho người cần sử dụng.
Trong báo cáo kiểm toán phải nêu rõ mức độ phù hợp của BCTC với chuẩn mực với
quy chế tài chính kế toán hiện hành. Ý kiến kiểm toán phản ánh trung thực hợp lý
trên khía cạnh trọng yếu.
24
Có bốn loại ý kiến mà KTV có thể đưa ra như sau:
Thứ nhất: Ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra trong trường hợp KTV cho
rằng BCTC phản ánh trung thực hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành.
Thứ hai: Ý kiến chấp nhận từng phần được đưa ra trong trường hợp
KTV cho rằng BCTC chỉ phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của đơn vị
nếu không tính tới ảnh hưởng của yếu tố tuỳ thuộc hoặc ngoại trừ đã được nêu trong
báo cáo.
Thứ ba: Ý kiến không chấp nhận được đưa ra trong trường hợp có những vấn đề
không thống nhất với giám đốc là quan trọng hoặc liên quan tới một số lượng lớn các
khoản mục đến mức độ mà KTV cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để
thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của BCTC. [1, 177 ]
Thứ tư: Ý kiến từ chối được đưa ra trong trường hợp hậu quả của việc giới hạn
phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan tới một số lượng lớn
các khoản mục mà KTV không thể thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán làm cơ
sở cho việc đưa ra ý kiến của mình. [1, 176 ]
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC PHẢI THU
KHÁCH HÀNG TRONG KIỂM TOÁN BCTC DO CÔNG TY TNHH
DỊCH VỤ KIỂM TOÁN VÀ TƯ VẤN UHY THỰC HIỆN
2.1 Tổng quan về Công ty TNHH dịch vụ kiểm toán và Tư vẫn UHY
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty dịch vụ kiểm toán và tư vấn
UHY
25