Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Tài liệu Bộ trưởng Bộ Nội vụ tiếp Giám đốc quốc gia Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.27 KB, 73 trang )

THỜI SỰ CHÍNH TRỊ
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Văn Tuấn tiếp
Giám đốc quốc gia Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam
gày 7/11/2008, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Văn Tuấn đã tiếp bà
Setsuko Yamazaky, Giám đốc UNDP tại Việt Nam.
N
Tại buổi tiếp, Bộ trưởng Trần Văn Tuấn và bà Setsuko Yamazaky đã trao đổi
ý kiến về các nội dung, biện pháp nhằm tăng cường quan hệ, thúc đẩy hợp tác giữa
Bộ Nội vụ với UNDP.
Phát biểu tại buổi tiếp, Bộ trưởng Trần Văn Tuấn đánh giá cao sự hỗ trợ, hợp
tác của UNDP với Việt Nam nói chung và Bộ Nội vụ nói riêng thời gian qua; giới
thiệu một số nét nổi bật trong cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước Việt
Nam, những nội dung chính của dự thảo Luật Cán bộ, công chức; kết quả chủ yếu
của công tác cải cách hành chính, quá trình chuẩn bị đề án thí điểm không tổ chức
HĐND huyện, quận, phường của Việt Nam ; đồng thời bày tỏ mong muốn UNDP
tiếp tục hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ
cán bộ, công chức, triển khai chương trình cải cách hành chính ở các địa phương, tổ
chức các hội thảo quốc tế liên quan công tác cải cách hành chính, tạo điều kiện để
các chuyên gia Việt Nam tham khảo, trao đổi ý kiến với các chuyên gia nước ngoài
trong lĩnh vực này.
Bà Setsuko Yamazaky trân trọng cảm ơn Bộ trưởng Trần Văn Tuấn đã dành
thời gian tiếp và bày tỏ vui mừng trước sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội
của Việt Nam thời gian qua; nhất trí cao với những định hướng quan hệ hợp tác
giữa hai bên mà Bộ trưởng Trần Văn Tuấn đã nêu; đồng thời khẳng định UNDP
luôn sẵn sàng hỗ trợ, hợp tác, giúp đỡ Chính phủ Việt Nam nói chung và Bộ Nội vụ
nói riêng, đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ
cán bộ, công chức trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO…./.

TRẦN KIÊN
HỘI THẢO “KHOA HỌC TỔ CHỨC


VÀ KHOA HỌC TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC”
gày 18/11/2008, tại Hà Nội, Bộ Nội vụ phối hợp với Học viện Hành
chính công Canada tổ chức hội thảo “Khoa học tổ chức và khoa học tổ
chức nhà nước”.
N
TS. Văn Tất Thu, Thứ trưởng Bộ Nội vụ chủ trì hội thảo. Dự hội thảo có
đại diện Ban Tổ chức Trung ương, lãnh đạo một số đơn vị Bộ Nội vụ, Sở Nội
vụ một số tỉnh phía Bắc, chuyên gia của Học viện Hành chính quốc gia, các
nhà khoa học của Học viện Hành chính quốc gia Canada.
Các đại biểu tham dự hội thảo đã nghe các chuyên gia, nhà khoa học
của Việt Nam và Canada giới thiệu và trao đổi ý kiến về những nét nổi bật
nhất về tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam
và Canada; mô hình tổ chức các cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức
chính quyền địa phương theo tinh thần cải cách hành chính; kinh nghiệm
của Canada về tổ chức cung ứng dịch vụ công nhằm góp phần làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến khoa học tổ chức và
khoa học tổ chức nhà nước, từ đó cung cấp luận cứ khoa học cho việc
nghiên cứu xây dựng bộ máy nhà nước có chức năng, nhiệm vụ phù hợp
với yêu cầu, đòi hỏi nội tại của đất nước trong bối cảnh Việt Nam đang
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế./.
NGỌC KIÊN
KỶ NIỆM 91 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA (7/11/1917 – 7/11/2008)
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA -
NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI
VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ
ĐẠI TÁ. TS. NGUYỄN VĂN VINH
Học viện Chính trị Quân sự
ách đây 91 năm, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng
Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lê-nin, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Nga đã làm nên cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng

Mười vĩ đại mở ra một thời đại mới cho loài người - thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng
lợi này đã chứng minh hùng hồn lời tuyên đoán của C.Mác và Ph.Ăng
ghen được nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” tháng 2/1848
rằng, chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi thời nhất định sẽ bị thay thế bởi xã
hội cộng sản văn minh thông qua quá trình cải biến cách mạng.
C
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi
là do những nguyên nhân cơ bản, chủ yếu sau đây:
Một là, có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản Nga, một giai cấp có
tinh thần cách mạng triệt để, được rèn luyện, thử thách, tập dượt trong
quá trình cách mạng và có nhiều kinh nghiệm. Giai cấp công nhân Nga
có một đảng vô sản kiểu mới - Đảng Cộng sản, đứng đầu là V.I.Lê-nin
thiên tài, được vũ trang bằng học thuyết Mác. Giai cấp công nhân Nga
vừa là động lực, vừa là người lãnh đạo cách mạng. Sự lãnh đạo đúng
đắn, sáng suốt, nhạy bén của Đảng về chiến lược, sách lược là điều kiện
quyết định bảo đảm thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917.
Hai là, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi vì
có khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân. Đảng
Cộng sản đã tranh thủ về mình những người đồng minh trung thành,
hùng hậu, có tinh thần cách mạng là nông dân nghèo, tranh thủ được
trung nông và các tầng lớp khác, đặc biệt là binh lính của giai cấp tư
sản.
Ba là, Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra kịp thời trong điều kiện,
hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, khi cuộc chiến tranh thế giới giữa các nước
đế quốc đang diễn ra quyết liệt, chúng không thể tập trung lực lượng
để chống phá cách mạng. Hơn nữa, kẻ thù của cách mạng là giai cấp tư
sản Nga vừa lạc hậu, vừa yếu đuối và bị phụ thuộc vào chủ nghĩa tư
bản Anh, Pháp, có lúc còn phải dựa vào các đảng cơ hội khác.

Bốn là, Đảng Cộng sản và Lê-nin đã vận dụng một cách uyển
chuyển, khôn khéo, nhanh nhạy về chính trị, tiến công kẻ thù để giác
ngộ và vận động quần chúng. Đảng Cộng sản và Lê-nin đã đánh giá
đúng tình hình và chuyển biến cách mạng kịp thời, làm cho cách mạng
nhanh chóng thành công. Đảng Cộng sản và Lê-nin đã kết hợp được
cuộc đấu tranh cho hoà bình, đấu tranh giải phóng dân tộc và các dân
tộc bị áp bức với cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội thành một phong
trào thống nhất.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga có giá trị lịch sử sâu
sắc, to lớn:
Thứ nhất, Cách mạng Tháng Mười Nga là cột mốc mở đầu thời kỳ
mới, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới. Thật vậy, trong lịch sử xã hội loài người, đã trải qua
nhiều cuộc cách mạng to lớn nhưng chưa từng có cuộc cách mạng nào
vĩ đại hơn. Cách mạng Tháng Mười Nga tạo ra bước ngoặt căn bản trong
lịch sử nước Nga. Nó kết thúc cả một thời kỳ lịch sử do giai cấp bóc lột
kế tiếp nhau thống trị nước Nga, mở đầu một thời kỳ lịch sử của giai
cấp công nhân và nông dân lao động Nga đứng lên làm chủ vận mệnh
của mình, xây dựng nền chuyên chính vô sản. Cách mạng Tháng Mười
Nga vĩnh viễn xóa bỏ sự bóc lột giữa người với người, xoá bỏ mọi hình
thức áp bức. Giai cấp vô sản lần đầu tiên trong lịch sử có vị trí xứng
đáng là trung tâm cho mọi cuộc cách mạng mới.
Thứ hai, Cách mạng Tháng Mười Nga tạo ra bước ngoặt làm thay
đổi phương hướng, nhịp điệu tiến lên của lịch sử xã hội loài người. Nó
đã chọc thủng mặt trận của chủ nghĩa đế quốc, tổ chức thành một quốc
gia, một nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
Cách mạng Tháng Mười Nga không những chỉ ra sự tác động, ảnh
hưởng to lớn đến quá trình phát triển của lịch sử thế giới mà còn đem
lại cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động các dân tộc bị áp bức,
cho những người đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc những nhận thức

mới, niềm tin mới về cải tạo thế giới tư bản, về một thế giới công bằng,
hợp lý hơn.
Thứ ba, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã biến chủ nghĩa
xã hội khoa học từ lý luận trở thành hiện thực. Trước Cách mạng Tháng
Mười, chủ nghĩa cộng sản mới chỉ là ước mơ. Nay, cách mạng thành
công ở nước Nga là một hiện thực. Bằng những nguyên lý của Mác, Lên-
nin đã vận dụng sáng tạo và phát triển thành công cách mạng ở một
nước. Từ đây, những lý luận của chủ nghĩa Mác một lần nữa được chứng
minh trong thực tiễn, đi sâu giác ngộ và vận động quần chúng. Chủ
nghĩa Mác trở thành sức mạnh khi nó xâm nhập sâu vào phong trào
cách mạng và lý luận đó đã được bổ sung, hoàn thiện một cách phong
phú trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Chính Cách mạng Tháng Mười
Nga đã giải đáp và chứng minh rằng, chỉ có con đường cách mạng vô
sản mới giải phóng được giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi
áp bức, bóc lột và bất công. Vì vậy, thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917 đã nêu cao sự vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Thứ tư, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh, cổ
vũ các dân tộc, các thuộc địa bị áp bức đứng lên đấu tranh chống ách
xâm lược, cai trị của chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc và đi lên
chủ nghĩa xã hội. Sau Cách mạng Tháng Mười, nhiều nơi đã thành lập
các Xô-viết như: Xô-viết Hung-ga-ri, Xô-viết Xlô-va-ki-a, nhiều nơi trong
các Xô-viết này, giai cấp công nhân đã bãi công, chiếm xí nghiệp của
giai cấp tư sản, nông dân nổi dậy chiếm ruộng đất của địa chủ, nêu cao
khẩu hiệu “noi gương nước Nga”, “Lê-nin muôn năm”. Cách mạng
Tháng Mười đã thức tỉnh các dân tộc thuộc địa, đồng thời vạch ra tính
tất yếu trong sự liên minh giữa phong trào công nhân với cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc; và đã chỉ ra rằng, chỉ có cách mạng vô sản,
chỉ có sự giúp đỡ của giai cấp công nhân các nước đã nắm chính quyền
thì mới có thể giải quyết được vấn đề dân tộc. Thực tế đã chứng minh:

Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra khả năng rộng lớn và chỉ ra con
đường thắng lợi cho phong trào cách mạng ở châu Á, trong đó có Việt
Nam. Cách mạng Tháng Mười Nga có ảnh hưởng to lớn đến phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Trước cách mạng chỉ có một Đảng
Cộng sản duy nhất ở Nga, nhưng sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917, nhiều Đảng đã được thành lập như các Đảng Cộng sản Đức, áo,
Hung-ga-ri, Ba Lan, Phần Lan… Các lực lượng tiên tiến của giai cấp
công nhân đã đoàn kết lại chung quanh Đảng Cộng sản. Quốc tế cộng
sản “Quốc tế III”ä được thành lập năm 1919, dưới sự lãnh đạo của Lê-
nin đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đến giai đoạn phát
triển mạnh mẽ hơn.
Thứ năm, Cách mạng Tháng Mười Nga là một mẫu mực kiệt xuất
về chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng của giai cấp vô
sản. Cách mạng Tháng Mười Nga có sự chỉ đạo thiên tài của Lê-nin và
Đảng Cộng sản Nga; đã phân tích tình hình cách mạng một cách khách
quan, đánh giá chính xác các yếu tố và điều kiện cách mạng, đề ra
chiến lược, sách lược đúng đắn cho từng giai đoạn chuyển biến cách
mạng như: vấn đề thời cơ cách mạng, thay đổi sách lược; vấn đề sử
dụng bạo lực cách mạng, vấn đề lợi dụng và khoét sâu mâu thuẫn chủ
yếu của địch… Có thể nói, những nguyên lý của C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã
được V.I.Lê-nin vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo trong suốt quá
trình đấu tranh cách mạng mà đỉnh cao là thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại.
Hiện nay, lợi dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên
Xô (cũ) và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch và cơ hội trong nước
và quốc tế đã, đang lớn tiếng bôi nhọ, phủ định những giá trị đích thực,
ảnh hưởng và ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Tháng Mười Nga. Song sự
thật lịch sử vĩ đại cũng như giá trị lịch sử và tầm vóc to lớn của Cách
mạng Tháng Mười Nga không gì có thể xoá nhoà được. Với tinh thần
cách mạng, phương pháp xem xét khoa học, chúng ta có thể khẳng

định rằng, mặc dù tình hình thế giới đang có nhiều biến động, nhưng
không làm thay đổi nội dung, tính chất của thời đại ngày nay - đó là
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới, mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga năm 1917 vĩ đại. Nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng
Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng
Tháng Mười chiếu sáng năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu
người bị bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc
cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(1)./.
__________________________________________________________________
_
Ghi chú:
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1980, tr.461.
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ KIỂM TRA ĐẢNG
CAO VĂN THỐNG
Phó Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu,
Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
ằng kinh nghiệm của mình trong việc lãnh đạo và xây dựng đội ngũ
cán bộ của Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra một chân
lý là: "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém"(1). Người cũng khẳng định "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"(2).
Trong việc lựa chọn và xây dựng đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đặt ra tiêu chuẩn cụ thể và đề cập rất sớm, trong tác phẩm "Đường Kách
mệnh". Theo Người, tiêu chuẩn cán bộ bao gồm cả đức và tài, phẩm chất
và năng lực, không thể coi nhẹ mặt nào. Trong đó, Người nhấn mạnh đức
là gốc, vì người cán bộ có đức thì không bao giờ làm việc thất đức, trái với

đạo lý, lương tâm của mình và luôn không ngừng phấn đấu để nâng cao
khả năng của mình đáp ứng yêu cầu của công việc, nhiệm vụ chính trị
được Đảng, Chính phủ và nhân dân giao phó. Đồng thời luôn có ý thức
kiên trì trau dồi, tu dưỡng, rèn luyện, từng bước nâng cao mặt tài năng
của mình lên ngang tầm đòi hỏi của công việc được giao. Người chỉ rõ:
"Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân"(3).
B
Trong từng điều kiện, giai đoạn cách mạng, những tiêu chuẩn của
cán bộ luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh bổ sung hoàn thiện và cụ thể hoá
cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và đòi hỏi của sự nghiệp
cách mạng. Người chỉ rõ, ngày nay, Đảng ta yêu cầu cán bộ và đảng viên
chẳng những thạo về chính trị mà còn phải giỏi chuyên môn và ai lãnh
đạo trong ngành hoạt động nào thì phải biết chuyên môn của ngành đó.
Người cũng đặt ra yêu cầu trong công tác cán bộ phải biết sớm phát hiện
và uốn nắn những lệch lạc, thiếu sót khuyết điểm của cán bộ; dự báo
những sai phạm để có biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát, giáo dục,
rèn luyện cán bộ, từ đó chủ động phòng ngừa, không để xảy ra vi phạm
từ khi còn manh nha để bảo vệ cán bộ, giữ uy tín của Đảng. Người nói:
"Giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là
không biết yêu dấu cán bộ"(4).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn có cán bộ tốt, sử dụng cán bộ
đúng mục tiêu, yêu cầu, có hiệu quả thì phải biết lựa chọn, đào tạo, huấn
luyện cán bộ phù hợp với công việc được giao. Người chỉ rõ "huấn luyện
cán bộ là công việc gốc của Đảng"(5) và yêu cầu "Đảng phải nuôi dạy cán
bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu"(6). Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, việc huấn luyện cán bộ phải toàn diện cả về chính trị,
văn hoá, khoa học kỹ thuật, đạo đức, ngoại ngữ; giáo dục lý luận Mác -

Lê-nin, lý luận của từng ngành, từng lĩnh vực chuyên môn mà người cán
bộ đang làm. Người chỉ rõ, mục đích huấn luyện cán bộ là làm cho họ
nâng cao được nhận thức, tư tưởng, lập trường quan điểm. Quan trọng
hơn là học để hành, học để vận dụng một cách sáng tạo vào công việc cụ
thể, hoàn cảnh thực tế công việc của Đảng, Chính phủ và nhân dân giao
cho họ để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ. Người còn chỉ rõ mục đích
cao nhất của việc đào tạo cán bộ là xây dựng được một đội ngũ cán bộ có
đủ trình độ, khả năng, bản lĩnh, có phương pháp, phong cách làm việc
khoa học, sâu sát, đúng đường lối quần chúng, có trách nhiệm, thực sự là
công bộc, là người đày tớ tận tụy và trung thành của nhân dân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn sử dụng cán bộ đúng, có hiệu quả
thì phải hiểu biết cán bộ, xem xét, đánh giá đúng cán bộ, chẳng những
xem xét công tác, cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét cách
sinh hoạt, việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không.
Người còn nhắc nhở, cách xem xét cán bộ quyết không chấp nhặt. Tư
tưởng của Người trong việc lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ rất biện
chứng, cụ thể, thiết thực, tức là phải phù hợp với năng lực và sở trường,
khả năng của mỗi cán bộ, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Người
cho rằng: "Không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta
phải khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu
điểm của họ. Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người. Thí dụ:
thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai
người đều lúng túng Phải dùng người đúng chỗ, đúng việc"(7). Người
căn dặn, trong công tác cán bộ, cần chú trọng khâu cất nhắc, đề bạt; cất
nhắc cán bộ phải căn cứ vào yêu cầu công tác, vào tài năng của cán bộ.
Vì "Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ
nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo. Như thế rất có hại"(8).
Người còn đòi hỏi, chẳng những phải xem xét kỹ cán bộ trước khi cất
nhắc, đề bạt, mà sau khi cất nhắc, đề bạt phải giúp đỡ, thương yêu và
phải luôn kiểm tra, giám sát, phê bình cán bộ. Người chỉ rõ: "Phải luôn

luôn dùng lòng nhân ái mà giúp đỡ, lãnh đạo cán bộ. Giúp họ sửa chữa
những chỗ sai lầm. Khen ngợi họ lúc họ làm được việc. Và phải luôn kiểm
soát cán bộ"(9).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng cán bộ rất khoa học, công tâm,
khách quan, toàn diện, dân chủ, công khai và minh bạch, không chỉ
đối với từng người, mà còn đối với cả các lớp, các thế hệ cán bộ để bổ
sung, hỗ trợ cho nhau, phục vụ thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc. Người còn đặc biệt quan tâm về chính
sách đối với cán bộ để vừa bảo đảm cho họ có đủ điều kiện sinh hoạt,
làm việc có kết quả, vừa tạo sự thân ái, đoàn kết trong Đảng. Người
yêu cầu: "Phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc Tuỳ
theo hoàn cảnh mà giúp họ giải quyết vấn đề gia đình. Những điều đó
rất quan hệ với tinh thần của cán bộ, và sự thân ái đoàn kết trong
Đảng"(10).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, không chỉ đối với cán bộ
của Đảng, của Chính phủ, của đoàn thể nhân dân nói chung, mà còn đối
với cán bộ kiểm tra của Đảng nói riêng. Người chỉ rõ, cán bộ kiểm tra phải
có đầy đủ năng lực của một cán bộ đảng, làm công tác xây dựng Đảng,
đồng thời có những yêu cầu riêng cả về năng lực và phẩm chất, kinh
nghiệm, uy tín, bản lĩnh, kỹ năng nghiệp vụ để đáp ứng đòi hỏi của yêu
cầu nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và phục vụ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị và công tác xây dựng Đảng trong từng giai đoạn cách mạng.
Người yêu cầu "Cán bộ kiểm tra phải học tập và thấm nhuần đường lối,
quan điểm của Đảng, phải luôn chú ý nâng cao khả năng chuyên môn,
phải cố gắng công tác, phải trau dồi đạo đức cách mạng. Đặc biệt phải
nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình
để làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật của Đảng. Phải chí công
vô tư, không thiên vị, không thành kiến. Như thế thì mới làm tốt công tác
kiểm tra"(11). Người cũng chỉ rõ điều kiện và trách nhiệm của cán bộ
kiểm tra là: "Người lãnh đạo cần phải có một nhóm cán bộ nhiều kinh

nghiệm và giàu năng lực để giúp mình đi kiểm tra. Ai đi kiểm tra việc gì,
nơi nào nếu có sơ suất thì người ấy phải chịu trách nhiệm"(12).
Trước "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức diễn ra nghiêm trọng
Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm tra, giám sát chưa cao"(13), cùng với tác động xấu của
mặt trái kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hoá, để đội ngũ cán bộ,
đảng viên đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới, Báo
cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác xây dựng
Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: "Mục
tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên
quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi
mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; có tinh thần đoàn kết,
hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn
trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế thừa và phát triển, có số
lượng và cơ cấu hợp lý"(14). Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng đã chỉ rõ: "Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đủ về số
lượng, bảo đảm chất lượng, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ; có phẩm chất
đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm, tính chiến đấu
cao, có kỹ năng nghiệp vụ thuần thục, phương pháp công tác khoa học,
công tâm, khách quan, sâu sát, thận trọng và ứng xử có văn hoá. Không
được lợi dụng vị trí công tác để làm sai chức trách, nhiệm vụ được
giao"(15). "Cần tăng cường cán bộ kiểm tra chuyên trách cho uỷ ban
kiểm tra đảng uỷ cơ sở xã, phường, thị trấn và những tổ chức cơ sở đảng

trong cơ quan, doanh nghiệp có từ 300 đảng viên trở lên"(16).
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong xây dựng
đội ngũ cán bộ kiểm tra ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ được giao trong giai
đoạn cách mạng mới, cần tập trung vào một số nội dung chính sau:
Một là, xác định rõ mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra cả
về đức và tài, cả về cơ cấu và số lượng, từ đó xây dựng quy hoạch tổng
thể về công tác cán bộ của ngành kiểm tra. Xây dựng đội ngũ cán bộ
kiểm tra theo các tiêu chuẩn: tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng;
am hiểu công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng nói riêng; có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động
trước những khó khăn, thử thách, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được
giao; có kiến thức toàn diện về các lĩnh vực kinh tế, pháp luật, khoa học
và công nghệ; vững về chuyên môn, tinh thông về nghiệp vụ; có bản lĩnh,
dũng khí, chính kiến rõ ràng, tính chiến đấu cao trong công việc; trung
thực, công tâm, khách quan, không kiêu ngạo, không thiên vị, không
thành kiến, không nể nang, né tránh, ngại va chạm; biết hy sinh và dám
hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Mặt khác, cán bộ
kiểm tra còn phải thực sự gương mẫu trong công tác, có nhân cách và lối
sống mẫu mực, trong sáng, tác phong giản dị, gần gũi, thương yêu đồng
chí, có thái độ chân thành, thẳng thắn, trung thực và ứng xử có văn hoá;
hết lòng phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì lợi ích của nhân dân,
của dân tộc; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với
nhân dân; không sa ngã trước mọi cám dỗ của kinh tế thị trường, không
"mềm lòng" trước đối tượng kiểm tra, giám sát; kiên quyết đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.
Hai là, tập trung nghiên cứu xây dựng "Quy định về tiêu chuẩn đạo
đức, nghề nghiệp của cán bộ kiểm tra" làm chuẩn mực để cán bộ kiểm tra
phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và thực hiện tốt, khắc phục những thiếu
sót, lệch lạc khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác, uy tín của toàn ngành; để uỷ ban kiểm

tra các cấp quản lý, giáo dục, kiểm tra, giám sát cán bộ kiểm tra trong
việc thực hiện; để tổ chức đảng, đảng viên và nhân dân biết giám sát cán
bộ kiểm tra trong việc chấp hành. Ban hành "Những điều cán bộ kiểm tra
phải làm" và "Những điều cán bộ kiểm tra không được làm" hoặc "Những
điều kỷ luật đối với cán bộ kiểm tra"; xây dựng Quy định về "xây" và
"chống" trong cán bộ kiểm tra. Đồng thời, tổ chức thực hiện tốt các quy
định đó trong toàn ngành để đội ngũ cán bộ kiểm tra bảo đảm đáp ứng
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng trong giai
đoạn cách mạng mới.
Ba là, có chiến lược, chính sách, biện pháp và lộ trình cụ thể trong
việc đào tạo (kể cả đào tạo cử nhân chuyên ngành kiểm tra và đào tạo
sau đại học), huấn luyện, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp
vụ cho đội ngũ cán bộ kiểm tra ở mỗi cấp phù hợp với yêu cầu của nhiệm
vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng. Để đào tạo cán bộ kiểm tra toàn
diện, sử dụng linh hoạt, hợp lý, đáp ứng yêu cầu công việc được giao, cần
thực hiện tốt việc quy hoạch, bố trí, sử dụng, gắn với việc luân chuyển
cán bộ lãnh đạo uỷ ban kiểm tra và cán bộ lãnh đạo, quản lý của cơ quan
giúp việc uỷ ban kiểm tra ở cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện. Thực
hiện thường xuyên việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ kiểm tra
trong các đơn vị giúp việc của cơ quan uỷ ban kiểm tra nhằm giúp cán bộ
kiểm tra phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, có kiến thức toàn diện,
tránh dập khuôn, lối mòn, bảo thủ, trì trệ trong công tác; ngăn ngừa các
tiêu cực có thể xảy ra.
Bốn là, bố trí, sử dụng cán bộ kiểm tra hợp lý, phù hợp với khả
năng, sở trường của từng người. Thông qua việc nâng cao năng lực quản
lý, nắm chắc tình hình đội ngũ cán bộ kiểm tra về phẩm chất, năng lực
thực tiễn, hiểu rõ về bản chất, tâm lý, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
từng cán bộ, kết hợp với yêu cầu của công việc để bố trí, sử dụng cán bộ
phù hợp với từng vị trí, cương vị công tác. Đồng thời, làm tốt công tác tư
tưởng, tạo môi trường đoàn kết, nhất trí, tạo điều kiện thuận lợi về mọi

mặt để cán bộ kiểm tra phấn khởi, không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn
luyện, phấn đấu vươn lên, đủ khả năng, điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ.
Những cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn, điều kiện để thực hiện công việc được
giao thì đưa đi đào tạo, hoặc bồi dưỡng về lý luận chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ những cán bộ không đủ khả năng, điều kiện thực hiện nhiệm
vụ thì chuyển sang làm công tác khác phù hợp hơn.
Năm là, nghiên cứu xây dựng chính sách, chế độ đãi ngộ hợp lý đối
với cán bộ kiểm tra để tạo điều kiện cho họ và gia đình ổn định cuộc
sống, yên tâm công tác; đồng thời thu hút những người có đủ đức, đủ tài,
có tâm huyết, bản lĩnh để làm công tác kiểm tra. Tổ chức thực hiện tốt
"Quy định về tiêu chuẩn chức danh cán bộ kiểm tra của Đảng"; có chế độ
tiền lương, phụ cấp ưu đãi nghề mang tính đặc thù đối với cán bộ kiểm
tra. Sớm có chính sách, chế độ hợp lý đối với cán bộ kiểm tra Đảng ở cơ
sở; nghiên cứu việc bố trí cán bộ kiểm tra Đảng chuyên trách ở xã,
phường, thị trấn; các thành viên uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ cơ sở có chế độ
phụ cấp trách nhiệm hợp lý./.
___________________________________________________________________
_
Ghi chú:
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (12) Hồ Chí Minh toàn
tập, T5, H.1995, tr 240, 269, 253, 276, 269, 273, 274, 275, 274, 275,
277, 521.
(11) Hồ Chí Minh toàn tập, T11, H. 1996, tr 300, 301.
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb
CTQG, H. 2006, tr 65.
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb
CTQG, H. 2006, tr 292, 293.
(15), (16) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
khoá X. Nxb CTQG, H. 2007, tr 84, 85.
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ THEO

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ NHUNG
Trường Chính trị tỉnh Thái Bình
án bộ được ví như dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không
tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt.
Cán bộ quyết định mọi công việc. Công việc thành hay bại một phần lớn
là do tư tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của cán bộ. Chúng ta
đều biết, để có được người cán bộ lãnh đạo tốt, cần phải làm tốt công tác
cán bộ. Trong công tác cán bộ cần chú ý trước hết đến ba khâu là: đánh
giá, tuyển chọn; đào tạo, bồi dưỡng; bố trí, sử dụng cán bộ.
C
Đánh giá, tuyển chọn cán bộ là khâu đầu tiên và được coi là khâu
quan trọng trong công tác cán bộ. Để đánh giá, tuyển chọn cán bộ vào bất
cứ một vị trí nào, đặc biệt là các vị trí lãnh đạo, quản lý, cần quan tâm đến
ba yếu tố: nhân cách, năng lực và tính khí.
Nhân cách: được hiểu đơn giản là tư cách đạo đức của mỗi người
Bấy lâu nay, trong tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, thường
nhấn mạnh đến tinh thần yêu nước, lòng trung thành với chủ nghĩa xã hội,
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng cống hiến và hy sinh cho sự
nghiệp cách mạng Có nghĩa là tuyển chọn cán bộ thường nhấn mạnh
đến phẩm chất chính trị nhiều hơn là tư cách đạo đức, nhân cách của họ.
Thực tế cho thấy, hầu hết cán bộ lãnh đạo các cấp đều có phẩm chất
chính trị tốt, nhưng tại sao tham nhũng vẫn trở thành quốc nạn? Tệ nạn bè
cánh, cơ hội vẫn xảy ra, thậm chí có nơi còn ở mức độ nghiêm trọng? Phải
chăng chúng ta ít nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức của người cán bộ.
Thiết nghĩ để hạn chế tình trạng tham nhũng, sự tha hóa trong cán bộ,
đảng viên, rất cần có những tiêu chí đạo đức cụ thể cho cán bộ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một loạt căn bệnh mà những
người làm cán bộ rất dễ mắc phải như: bệnh địa phương chủ nghĩa, óc bè
phái, óc hẹp hòi, lối làm việc bàn giấy, tính vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa, bệnh

tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh… Nếu để cán
bộ mắc một trong những căn bệnh này tiếp tục giữ vị trí lãnh đạo thì kỷ
luật Đảng sẽ lỏng lẻo, công việc bê trễ, chính sách không thi hành được
triệt để, Đảng xa rời quần chúng. Để cất nhắc cán bộ vào những vị trí lãnh
đạo, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cần chú ý đến những chuẩn mực đạo đức
sau:
- Đối với mình: Đừng tự mãn, tự kiêu. Nếu tự mãn, tự kiêu thì không
tiến bộ. Phải chịu khó, siêng năng học hỏi.
- Đối với đồng chí phải thân ái, không che đậy những điều dở. Không
tranh giành ảnh hưởng của nhau. Không ghen ghét, đố kỵ và coi thường
người khác.
- Đối với công việc: phải tận tâm, tận lực, khoa học và có kế hoạch.
- Đối với nhân dân: phải tôn trọng dân, hiểu nguyện vọng của dân,
hiểu sự cực khổ của dân, hiểu tâm lý của dân, học sáng kiến của dân. Phải
làm cho dân tin, phải làm gương cho dân…
- Đối với đoàn thể: phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của đoàn thể.
Phải tuyệt đối trung thành với đoàn thể. Khi thời bình phải hết sức làm
việc. Khi nguy hiểm phải hy sinh vì đoàn thể…
Năng lực: năng lực của một con người bao gồm năng lực chung và
năng lực chuyên môn
Năng lực chung được hiểu là năng lực tư duy phân tích tổng hợp; khả
năng diễn thuyết, thu phục quần chúng; cách làm việc có khoa học, tổ
chức công việc có hệ thống; dễ thích ứng với những thay đổi mới của điều
kiện làm việc.
Năng lực chuyên môn thường được hiểu là kiến thức chuyên sâu về
một lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ và được thể hiện ở bằng cấp đào tạo.
Giữa năng lực chung và năng lực chuyên môn có mối quan hệ và bổ
trợ cho nhau. Năng lực chung là cơ sở cho năng lực chuyên môn. Năng lực
chung tốt sẽ tạo điều kiện cho năng lực chuyên môn phát triển. Ngược lại,
năng lực chuyên môn tốt, trong những điều kiện nhất định, sẽ có ảnh

hưởng tới sự phát triển của năng lực chung. Tuy nhiên, cần tránh quan
niệm sai lầm cho rằng, cứ có năng lực chung tốt là có năng lực chuyên
môn sâu và ngược lại.
Giữa nhân cách và năng lực của một con người, khi lựa chọn vào vị trí
lãnh đạo, cần chú trọng tới mặt nào? Xin trích ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về nhân cách người cán bộ Việt Nam là: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm:
- “Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào
sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì
thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền. Những
người đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải, họ đều
làm đươc.
- Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không
có việc gì phải giấu đoàn thể. Ngoài lợi ích của đoàn thể, không có lợi ích
riêng phải lo toan.
- Trí là không có việc gì tư túi nó làm cho mù quáng, cho nên đầu óc
trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem
người, biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho
đoàn thể.
- Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc gì phải có gan làm, thấy
khuyết điểm có gan sửa chữa, cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan
chống lại những vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan
hy sinh cả tính mệnh cho đoàn thể, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút
nhát.
- Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung
sướng, không tham người tâng bốc mình”(1).
Tính khí: tính khí của một người cũng là một yếu tố cần được xét tới
khi đánh giá và tuyển chọn cán bộ vào các vị trí lãnh đạo
Người ta đã khái quát tính khí của con người vào bốn dạng "nóng;
hoạt; lạnh và trầm". Mỗi tính khí đều có một ưu và nhược điểm riêng và vì
vậy mỗi loại tính khí phù hợp với một loại công việc.

Chúng ta không quá nhấn mạnh đến tính khí của một con người, để
rồi xem nhẹ hai tiêu chuẩn cơ bản là nhân cách và năng lực. Tuy nhiên,
hiểu được tính khí để bố trí vào công việc phù hợp là công việc rất quan
trọng để phát huy năng lực sở trường của họ.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý là việc làm không thể
thiếu, kể cả việc đào tạo chuẩn bị cho bổ nhiệm và đào tạo, bồi dưỡng sau
khi bổ nhiệm. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở:
phải tích cực đào tạo và sử dụng tốt cán bộ chuyên môn trong tất cả các
ngành, các cấp. Cán bộ chính trị phải chú trọng học tập kinh tế, kỹ thuật
để lãnh đạo sản xuất được tốt. Cán bộ chính trị phải biết kỹ thuật, không
biết, chỉ chính trị suông, không lãnh đạo được. Huấn luyện cán bộ là công
việc gốc của Đảng. Ta thiếu nhiều cán bộ quá, phải tích cực đào tạo, huấn
luyện cán bộ. Đảng phải giúp đỡ cho cán bộ đi học. Đảng đã giúp, cán bộ
phải chịu khó học. Đồng chí ta nhiều người kinh nghiệm thực hành khá
nhưng về văn hóa thì i tờ. Những đồng chí trí thức đọc nhiều nhưng không
có kinh nghiệm công tác, chưa quen nền nếp làm việc của Đảng. Vậy phải
nâng cao lý luận cho cán bộ và dạy cho cán bộ trí thức làm công tác quần
chúng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ những năm qua đã có nhiều đổi
mới cả về nội dung chương trình, phương pháp đào tạo và đề ra các mức
chuẩn trong đào tạo. Tuy nhiên, các chương trình đào tạo và các tiêu chuẩn
đào tạo vẫn bất cập, thể hiện ở một số nội dung như:
- Các yêu cầu về tiêu chuẩn kiến thức đối với người cán bộ lãnh đạo
chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, chương trình đào tạo chưa phù
hợp.
- Phương pháp đào tạo vẫn không có gì đổi mới nhiều, chủ yếu áp
dụng phương pháp truyền thống theo kiểu độc thoại, giảng viên giảng,
người học thụ động nghe.
- Một số yêu cầu về tiêu chuẩn hoá cán bộ chưa thật cụ thể để có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp cho từng đối tượng; đặc biệt là các yêu

cầu về trình độ lý luận chính trị, trình độ ngoại ngữ và khả năng sử dụng
công cụ tin học trong quản lý.
Bố trí, sử dụng cán bộ không phù hợp thì cán bộ khó có điều kiện
để bộc lộ năng lực của mình, kể cả khi được tuyển chọn và đào tạo, bồi
dưỡng tốt. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: người đời ai cũng
có chỗ hay chỗ dở, ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ
dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to gỗ nhỏ, thẳng,
cong đều tùy từng chỗ mà dùng được. “Khi cất nhắc cán bộ, cần phải xét
rõ người đó có gần gũi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến
phục không. Lại phải xem người ấy hợp với việc gì. Nếu người ấy có tài mà
không dùng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn
thận, không khỏi đem người bô lô ba la chỉ nói mà không biết làm vào địa
vị lãnh đạo, như thế rất có hại"(2). Phải khéo léo kết hợp các lứa tuổi không
coi thường cán bộ trẻ, đồng thời biết phát huy và sử dụng kinh nghiệm của
những cán bộ đi trước. Giải pháp để bố trí đúng và sử dụng có hiệu quả đội
ngũ cán bộ là:
- Có quy hoạch cán bộ cụ thể: khi đã có quy hoạch cán bộ, cùng với
những tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh lãnh đạo, sẽ dễ dàng bố trí
cán bộ đúng vị trí và người cán bộ cũng dễ dàng phát huy năng lực của
mình khi được bổ nhiệm vào cương vị mới.
- Thực hiện luân chuyển cán bộ: qua việc thực hiện luân chuyển cán
bộ, sẽ lựa chọn được những cán bộ tài năng, có năng lực đảm trách vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhiệm vụ của đơn vị, kể cả trong khu vực sản
xuất - kinh doanh.
Ngoài ba khâu nói trên, để có đội ngũ cán bộ giỏi, yên tâm làm việc,
còn cần có chính sách hợp lý đối với cán bộ. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở Đảng ta: “Phong trào giải
phóng sôi nổi, nảy nở rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được
bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ.
Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công

cuộc kháng chiến cứu nước”… “phải luôn tùy theo hoàn cảnh mà vẽ cho
họ về phương hướng công tác, để cho họ phát huy năng lực và sáng kiến
của họ… phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc. Khi họ đau
ốm, phải có thuốc thang, tùy theo hoàn cảnh mà giúp họ giải quyết vấn đề
gia đình. Đảng ta có hàng triệu người, hàng vạn cán bộ. Trong đó sĩ, nông,
công, thương, binh đều có. Từng lớp xã hội khác nhau, trình độ văn hóa
khác nhau, tính tình cá nhân cũng không giống nhau. Sao cho đối đãi đúng
với mọi người? Đó là vấn đề rất trọng yếu”(3). Do vậy, để có một đội ngũ
cán bộ vừa hồng, vừa chuyên như mong muốn của Bác Hồ, Đảng, Nhà
nước cần chăm lo cuộc sống cho bản thân cán bộ và gia đình của họ.
Đổi mới công tác cán bộ, bao gồm các khâu đánh giá, tuyển chọn,
đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo đang là một đòi hỏi
bức xúc, mang tính khách quan. Điều đó xuất phát từ mục tiêu của công
tác cán bộ là lựa chọn cho được một đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức
tốt và năng lực quản lý, lãnh đạo thực sự phù hợp với tình hình mới. Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: cần tiếp tục đổi
mới công tác cán bộ hướng tới “Mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao và
phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ,
có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý.
Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước
hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức
các cấp, các ngành của hệ thống chính trị”(4).
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác
xây dựng Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu

rõ: “Đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện
chính sách cán bộ. Đánh giá cán bộ phải công khai, minh bạch, khách
quan, toàn diện và công tâm, lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị
làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ. Đánh giá cán bộ lãnh đạo
phải căn cứ vào hiệu quả công tác, khả năng đoàn kết, quy tụ, phát huy
sức mạnh của tập thể, tạo ra sự tiến bộ và kết quả cụ thể trong ngành, lĩnh
vực, địa phương, đơn vị mình phụ trách; không tham nhũng, lãng phí, quan
liêu. Không đề bạt, bổ nhiệm những người không đủ phẩm chất và năng
lực; khoan dung những người thành thật nhận và sửa chữa sai lầm, khuyết
điểm. Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương, thực hiện tốt chính sách đối với
cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, cán bộ hưu trí”(5).
Chủ trương nói trên thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng ta trong
công tác cán bộ. Với quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, thời gian tới,
chúng ta sẽ có đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng trong
thời kỳ mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên
cơ sở phát huy nội lực và hội nhập quốc tế./.
_______________________________________________________________
Ghi chú:
(1), (2), (3) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002, T.5, tr.253, 254; tr.274, 275; tr.276, 277.
(4), (5) Văn kiện Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.293; tr.295, 296.
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Những vấn đề đặt ra về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức theo nhu cầu
PGS. TS. NGUYỄN HỮU HẢI
Học viện Hành chính
iệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước tuỳ thuộc rất lớn vào phẩm
chất, năng lực giải quyết vấn đề của cán bộ, công chức. Bởi vậy,

việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo nhu cầu đang đặt ra
cấp bách không chỉ đối với cơ sở đào tạo, cơ quan quản lý và sử dụng
công chức, mà còn đối với các tổ chức, công dân. Nhiều vấn đề đặt ra
nhằm tăng cường đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu cho cán bộ, công
chức nước ta trong thời kỳ mới.
H
I. Sự cần thiết đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Khoá X tiếp tục khẳng định sự cần thiết và tầm quan trọng của việc đổi
mới, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
trong giai đoạn hiện nay và lâu dài. Chính phủ đặt ra mục tiêu đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức nâng cao kiến thức, năng lực quản lý điều
hành và thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những năm qua, công chức hành chính thuộc các ngạch chuyên
viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên đã được bồi dưỡng theo
tiêu chuẩn ngạch về kiến thức quản lý nhà nước và lý luận chính trị,
bước đầu hình thành đội ngũ cán bộ, công chức có kiến thức cơ bản về
hành chính nhà nước. Công chức sự nghiệp được đào tạo để nâng cao
trình độ chuyên môn, kỹ năng và phương pháp thực hiện nhiệm vụ. Cán
bộ, công chức chuyên môn cấp xã được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về
trình độ học vấn, lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Đến năm
2005, công chức hành chính ngạch chuyên viên trở lên về cơ bản đã
được đào tạo về chuyên môn ở trình độ đại học; hơn 90% công chức
hành chính các ngạch chuyên viên trở lên đã đáp ứng được tiêu chuẩn
về trình độ lý luận chính trị, 80% đáp ứng tiêu chuẩn về kiến thức quản
lý nhà nước; 95% được đào tạo tin học; gần 40% công chức ngạch
chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp có khả năng giao
tiếp hoặc sử dụng ngoại ngữ trong lĩnh vực chuyên môn.
Đến năm 2006, tất cả công chức hành chính được đào tạo, bồi

dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch và 70% cán bộ chuyên trách, công chức
chuyên môn xã, phường, thị trấn được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu
chuẩn. Ngoài ra, gần 292.000 Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được
bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về thực thi quyền lực theo luật định,
khoảng 50.000 lượt người được bồi dưỡng kiến thức về hội nhập kinh tế
quốc tế.
Các chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
nhà nước đạt mục tiêu: từng bước hoàn thiện nội dung, phương thức
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo ngạch bậc, chức vụ; chất
lượng đội ngũ giảng viên về quản lý nhà nước, cán bộ lãnh đạo quản lý,
đội ngũ chuyên gia đầu ngành làm công tác tham mưu về quản lý hành
chính được nâng cao.
Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức có một
số hạn chế:
Một là, tình trạng lạc hậu, chậm đổi mới trong công tác đào tạo
vẫn là lực cản lớn, ảnh hưởng chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức. Việc đào tạo còn theo cung, nghĩa là cơ sở đào tạo có cái gì đào
tạo, bồi dưỡng cái ấy, chưa xuất phát từ nhu cầu của người học, từ sự
cần thiết của các kỹ năng thực hiện nhiệm vụ của công chức. Thậm chí,
người làm công tác đào tạo cũng chưa được đào tạo, bồi dưỡng về đổi
mới công tác đào tạo. Các ý tưởng cải cách về đào tạo vẫn chưa được
quan tâm triển khai thực hiện.
Hai là, chưa có hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức. Hiện nay vấn đề này vẫn còn nan giải cần
được quan tâm nhiều hơn. Về lâu dài, cần xây dựng một hệ thống tiêu
chí đánh giá khoa học, cụ thể về kỹ năng, kiến thức chuyên môn cũng
như đạo đức công vụ của công chức sau khi được đào tạo, bồi dưỡng.
Ba là, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chưa đáp
ứng yêu cầu. Cán bộ, công chức tham gia vào các khoá đào tạo, bồi
dưỡng chủ yếu là do yêu cầu duy trì hay chuyển ngạch chứ không phải

với mục đích nâng cao trình độ và năng lực.
Bốn là, các chương trình bồi dưỡng theo ngạch bậc còn thiên về lý
thuyết, chưa quan tâm đúng mức cả về nội dung, thời lượng và phương
pháp đối với chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng để thực thi công việc.
Nội dung giáo trình, tài liệu có phần chưa phù hợp với đối tượng học,
chương trình bố trí chưa hợp lý cho những đối tượng học khác nhau,
phương pháp giảng dạy chưa đổi mới cho nên hiệu quả đào tạo không
cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Điều cốt yếu trong công tác đào tạo
cán bộ công chức là phải xuất phát từ nhu cầu thực tế và phải đáp ứng
nhu cầu đó”. Việc đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu đang trở thành đòi
hỏi cần thiết khách quan của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công
chức. Đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu giúp công chức chủ động lựa
chọn nội dung, chương trình, cơ sở đào tạo và thời gian học tập phù hợp
sát thực tế. Điều đó giúp cho cơ quan sử dụng công chức có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng nhân sự hàng năm. Công chức tự lựa chọn việc học
tập sẽ nâng cao tính tự giác và trách nhiệm trong học tập và thực thi
nhiệm vụ, là cơ sở để cơ quan sử dụng công chức đánh giá đúng hơn
năng lực thi hành công vụ. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý đào tạo giảm
bớt phần việc đôn đốc công chức tham gia đào tạo bồi dưỡng, tập trung
kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng hàng năm. Thực hiện đào
tạo theo nhu cầu còn giúp tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng kinh
phí đào tạo, bồi dưỡng. Ngoài ra, cơ sở đào tạo có điều kiện đa dạng
hoá các khoá đào tạo, mở rộng qui mô và nâng cao trình độ đào tạo
nguồn nhân lực cho việc thực thi công vụ. Nếu đáp ứng nhu cầu đào
tạo, thì cơ sở đào tạo trở thành đối tác thân thiện của các cơ quan trong
hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Đồng thời
phương thức đào tạo này còn tạo động lực phát triển cho mỗi cơ sở đào
tạo, do phải nỗ lực vươn lên để đáp ứng nhu cầu đào tạo của cán bộ,
công chức ở mỗi thời kỳ.

II. Những vấn đề đặt ra và giải pháp
Tuy nhiên, công việc này cũng gặp không ít khó khăn. Những công
chức làm việc theo chuyên môn sâu, ít giao tiếp với khách hàng (tổ
chức và công dân) sẽ gặp khó khăn trong việc xác định nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng, bởi họ thiếu những tiêu chí so sánh giữa năng lực hiện
có và yêu cầu công việc. Thậm chí họ ít có thời gian tiếp cận với những
nội dung, chương trình và uy tín của các cơ sở đào tạo. Không ít công
chức chưa nhận thức đúng trách nhiệm về kết quả đào tạo, bồi dưỡng
lựa chọn theo nhu cầu, bởi họ quen dựa vào sự bố trí học tập của cơ
quan, tổ chức. Cơ quan sử dụng công chức có phần lo lắng về sự phân
tán thời lượng, nội dung, phạm vi và thời gian trong đào tạo, bồi dưỡng
theo nhu cầu của công chức. Mặt khác, họ cũng gặp khó khăn trong
việc xác định nhu cầu. Nguyên nhân là do tâm lí ngại thể hiện, đề đạt
nguyện vọng được đào tạo theo nhu cầu riêng. Điều này sẽ gây khó
khăn cho việc lập kế hoạch và thực hiện công tác đào tạo, phát triển
nhân sự trong cơ quan.
- Cơ quan quản lý đào tạo công chức sẽ phải theo dõi công tác
đào tạo, bồi dưỡng công chức thường xuyên hơn so với đào tạo, bồi
dưỡng theo ngạch hiện nay. Do số cơ sở đào tạo được công chức lựa
chọn nhiều hơn, nên cơ quan quản lý đào tạo phải mở rộng giao tiếp về
nội dung, tần suất và làm tăng tính phức tạp.
- Cơ sở đào tạo sẽ phải thường xuyên cập nhật nhu cầu đào tạo, điều
chỉnh nội dung, chương trình, liên hệ với các đối tác, thân thiện hơn với
khách hàng, chịu trách nhiệm nhiều hơn với sản phẩm của mình .v.v… Để
đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu, đội ngũ giảng viên của
cơ sở đào tạo cũng cần phải có trình độ lý luận cao, am hiểu thực tế và đặc
biệt phải thành thạo về kỹ năng giảng dạy tích cực theo tình huống. Thực
tế, số giảng viên đáp ứng được những tiêu chuẩn này chưa nhiều.
Để khắc phục những nhược điểm trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức hướng tới thực hiện đào tạo theo nhu cầu, cần thực hiện một

số giải pháp:
Cần có sự thống nhất về mục tiêu, nội dung, phương thức và lộ
trình đào tạo theo nhu cầu giữa các cơ quan quản lý đào tạo, cơ sở đào
tạo và cơ quan quản lý công chức. Trên cơ sở đó thiết lập hệ thống thể
chế mới về đào tạo và quản lý đào tạo và quyết tâm thực hiện.
Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần nỗ lực đổi mới phương thức và
nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho
sát với thực tế, theo hướng chuyển sang học tập theo nhu cầu của mỗi
người. Các chương trình đào tạo tiền công vụ, bồi dưỡng theo ngạch
cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp chuyển
sang chương trình bồi dưỡng theo chức danh ở mỗi cấp chính quyền.
Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần hướng vào các
vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ. Việc đào tạo, bồi
dưỡng phải chuyển từ truyền thụ lý thuyết sang hướng dẫn kỹ năng
thực hành, từ đào tạo dựa theo nguồn cung (chỉ căn cứ vào nguồn lực
của cơ sở đào tạo) sang đào tạo theo cầu (căn cứ vào nhu cầu của
người học); từ đào tạo, bồi dưỡng để phục vụ nhu cầu ở trong nước,
sang đào tạo, bồi dưỡng để phát triển khả năng cạnh tranh trong khu
vực và quốc tế.
Trước mắt cần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên thông qua
tổ chức các khoá học về chuyên môn và phương pháp giảng dạy hiện
đại, hiệu quả; đưa giảng viên tiếp cận với công việc thực tế trước khi
giảng dạy; thu hút đội ngũ giảng viên kiêm chức có kinh nghiệm, đã
được đào tạo cơ bản, có năng lực giảng dạy tham gia đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức.
Về trung hạn và dài hạn, cần hình thành các trung tâm trợ giúp
công vụ cho cán bộ, công chức nhằm nâng cao kỹ năng làm việc theo
nhóm, phát huy tính năng động, sáng tạo của công chức và tăng cường
bản lĩnh cho họ trong quá trình thực thi công vụ. Sắp xếp và củng cố hệ
thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ trung ương

đến địa phương, thu hút các học viện, trường đại học, các công ty trong
nước và ngoài nước tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực
hoạt động cho đội ngũ cán bộ, công chức.
Trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần coi trọng và đẩy mạnh
hơn nữa công tác giáo dục đạo đức và phẩm chất chính trị cho đội ngũ
cán bộ, công chức để nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ, niềm tự hào
dân tộc và tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân. Tăng cường đôn
đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức ban hành kèm theo Quyết định 161/2003/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ; xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cụ
thể, chi tiết theo nhu cầu thực tế; đồng thời xây dựng một hệ thống tiêu
chí để đánh giá chất lượng và hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức. Đào tạo những kỹ năng làm việc cho cán bộ, công
chức chứ không chỉ cung cấp kiến thức một chiều về khái niệm và kỹ
năng làm việc. Xác định nguyên tắc trong các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng là cung cấp kiến thức ở mức cần thiết và rèn luyện kỹ năng
đến mức có thể.
Thực hiện đồng bộ chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức. Thực tế còn có khoảng cách khá lớn giữa đào tạo và sử dụng.
Công chức được cử đi đào tạo, khi về không được bố trí công việc phù
hợp. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của các bộ, ngành chưa được quan
tâm đầu tư đúng mức; sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc xây
dựng quy hoạch đào tạo cán bộ, công chức còn lỏng lẻo, chưa theo kế
hoạch chung; kết quả đào tạo, bồi dưỡng không có tính bền vững /.
____________________________________________________________
Tài liệu tham khảo:
- Bộ Nội vụ, tài liệu Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Quyết định
số 74/2001/QĐ-TTg và triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức giai đoạn 2006-2010.

×