Phát triển những nguyên tắc đạo đức Hồ Chí Minh trong giáo dục, rèn luyện
cán bộ, đảng viên
Phạm Thị Nết
* TS, Học viện Chính trị quốc gia Khu vực I
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức
cho cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân. Người là hiện thân của đạo đức cách
mạng, là tấm gương sáng về rèn luyện đạo đức cách mạng cho toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta noi theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, đạo đức là "gốc" của người cách mạng. Người nhấn
mạnh: "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân"
(1)
. "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người thấm nhuần
đạo đức xã hội chủ nghĩa"
(2)
.
Tìm hiểu đặc điểm và quy luật hình thành tư tưởng đạo đức mới của Hồ Chí Minh, nổi bật những
nguyên tắc xây dựng đạo đức mới cơ bản sau đây:
1 - Tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ hằng ngày gắn với thực tiễn cách mạng
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong"
(3)
.
Muốn có được những phẩm chất đạo đức, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và cả quần chúng nhân
dân lao động phải "gian nan rèn luyện", "kiên trì và nhẫn nại". Bởi, khác với nhiều lĩnh vực khác
của đời sống con người, ở đây, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi con người cũng như
việc xây dựng một nền đạo đức mới trong xã hội không phải là một việc đơn giản, có thể hoàn
thành ngay trong một sớm, một chiều. Mà, ngược lại, đây là một quá trình liên tục, lâu dài,
thường xuyên và cực kỳ gian khó.
Trong mỗi con người cũng như trong toàn xã hội, đều có mặt thiện và mặt ác, có phần tốt và
phần xấu cùng tồn tại. Các mặt đối lập đó thường xuyên đấu tranh, giằng co lẫn nhau. Việc tu
dưỡng và rèn luyện đạo đức sẽ làm cho phần tốt, cái thiện sẽ "nảy nở như hoa mùa xuân", còn
phần xấu, cái ác sẽ dần bị hạn chế, thu hẹp đi đến bị loại bỏ. Muốn làm được vậy phải có đức
tính dũng cảm, đức hy sinh.
Rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn khác so với việc "tu thân
dưỡng tính" trong Phật giáo, "tu thân tề gia" của Nho giáo. Bởi đạo đức mới là đạo đức giải
phóng cho con người. Biện pháp rèn luyện, tu dưỡng đạo đức là dựa vào nhận thức khoa học
chứ không phải dựa vào niềm tin mù quáng. Môi trường rèn luyện, tu dưỡng đạo đức mới là ở
trong lao động, sản xuất, chiến đấu, học tập và xây dựng đất nước, là ở trong bang giao để làm
"tăng thế nước", làm lợi cho dân Trong tác phẩm "Đạo đức cách mạng" (12-1958), Hồ Chí Minh
chỉ rõ: "Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người"
(4)
.
Khác với sự hình thành và tác dụng điều chỉnh hành vi của luật pháp là bắt buộc, cưỡng bức;
đạo đức cách mạng chỉ có thể hình thành và phát triển trên cơ sở tự giác, tự nguyện, dựa vào
lương tâm của mỗi người và dư luận quần chúng cách mạng. Nói cụ thể, rèn luyện đạo đức cách
mạng phải dựa trên tinh thần của sự tự nguyện, tự phê phán và thông qua sinh hoạt tự phê bình
và phê bình trong tập thể cùng với sự tác động của dư luận, của nhân dân và sự định hướng
tuyên truyền, giáo dục của Đảng và Nhà nước. Trong đó, tự phê bình là phương sách tốt nhất
trong rèn luyện đạo đức mới.
Hồ Chí Minh cho rằng, người đời không phải là thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Tu
dưỡng đạo đức mới phải gắn với thực tiễn, kiên trì, bền bỉ, mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh.
Trong buổi nói chuyện tại lớp chỉnh huấn khóa II của Bộ Công an, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Tư tưởng
cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt
được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian
khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ"
(5)
. Do
không chú ý đến điều này, nên đã có một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong lúc đấu tranh, giáp
mặt với quân thù thì dũng cảm, hăng hái, trung thành, không sợ hy sinh, gian khổ. Song, đến khi
có ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, tham ô, lãng phí, quan liêu; không tự giác
mà biến thành kẻ có tội với cách mạng, với nhân dân.
Qua xem xét các vụ án lớn, nhỏ những năm gần đây cho thấy, ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều
đơn vị, cuộc đấu tranh này chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng bao che, dung túng cho
những hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã tạo điều
kiện thuận lợi cho kẻ xấu hoành hành. Nếu xem xét nguyên nhân của thực trạng trên, chúng ta
càng thấm thía lời căn dặn của Bác: "Bệnh quan liêu đã dung túng, ấp ủ, che chở cho nạn tham
ô, lãng phí". Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, "muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải
tẩy sạch bệnh quan liêu"
(6)
.
2 - Tự giác nêu gương, nói đi đôi với làm
Đây là một nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Khác hẳn với đạo đức của giai cấp bóc lột, phản động, chỉ nói mà không làm, nói nhiều làm
ít, nói một đường làm một nẻo; đạo đức mới - đạo đức của giai cấp vô sản là nói đi đôi với làm,
nói ít làm nhiều, nêu gương đạo đức.
Nghiên cứu đặc điểm các dân tộc phương Đông, ngay từ sớm, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "các dân
tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một
trăm bài diễn văn tuyên truyền"
(7)
. Tự mình gương mẫu, đồng thời, Hồ Chí Minh còn chú trọng
đến tác dụng giáo dục đạo đức của các tấm gương sáng trong lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng
và trong hiện thực đấu tranh xây dựng, bảo vệ đất nước.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: "Muốn hướng dẫn nhân dân, mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước"; "hô hào nhân dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm
trước đã". Nói tóm lại, "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau"; "quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức và "không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được
họ yêu mến". Những tấm gương đạo đức phải được hiểu theo một nghĩa rộng. Có những tấm
gương chung và riêng, lớn và nhỏ, xa và gần. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng
trên một cái nền rộng lớn, vững chắc khi những phẩm chất đạo đức, những chuẩn mực đạo đức
đã trở thành hành vi đạo đức ngày càng phổ biến trong toàn xã hội, mà những tấm gương đạo
đức của những người tiêu biểu, những gương người tốt, việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy cho quá
trình đó.
Xuất phát từ thực tế của công cuộc lao động, chiến đấu, bảo vệ đất nước ở các địa phương, các
ngành trong cả nước, Hồ Chí Minh cho rằng, lấy gương "người tốt, việc tốt" để hằng ngày giáo
dục lẫn nhau là cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức cách mạng, xây dựng con
người mới, cuộc sống mới. Người đề xướng việc thiết lập tủ sách "Người tốt, việc tốt", để không
chỉ nêu những tấm gương anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc, mà còn nêu cả những "Việc nhỏ
nghĩa lớn" để giáo dục cho mọi người, cho mọi lứa tuổi
3 - Đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái đúng với cái sai, cái tốt với cái xấu, xây đi đôi với
chống
Trong đời sống hằng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái phi đạo
đức vẫn thường đan xen, đối chọi nhau, thông qua hành vi của những con người khác nhau,
ngay trong bản thân mỗi con người. Chính vì vậy, phải kiên quyết, dũng cảm đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ, đấu tranh giữa cái đúng với cái sai, đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu Song, đây
là công việc rất khó khăn. Bởi, nó thuộc lĩnh vực tình cảm, đạo đức, được tiến hành dưới hai
dạng chính là xây và chống. Xây đi liền với chống, trong đó mục đích xây dựng là chính, chống là
để nhằm mục đích xây. Có thể nói, "xây" đi đôi với "chống" là một nguyên tắc cơ bản trong giáo
dục, rèn luyện đạo đức mới.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất,
những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và xã hội, nhất là trong những
đơn vị tập thể - nơi mà phần lớn thời gian cuộc đời mỗi người gắn bó bằng hoạt động thực tiễn
của mình. Phải khơi dậy đạo đức lành mạnh ở mọi người, để mọi người tự giác nhận thức được
trách nhiệm đạo đức của mình.
Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở chúng ta rằng, do thoát thai từ một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, nhiều tàn dư văn hóa nô dịch thực dân vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức không ít người, hơn
nữa, ở mỗi người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Vì thế, cần phải kết hợp giữa xây và
chống. Làm như vậy, một mặt không ngừng trau dồi, xây đắp, phát triển đạo đức mới, tăng
cường cái đúng, cái tốt; mặt khác, hạn chế cái xấu, cái lạc hậu để bảo đảm cho sự lành mạnh,
trong sạch của đạo đức mới.
Để xây dựng và chống có hiệu quả, phải tạo phong trào quần chúng rộng rãi. Hồ Chí Minh đã
phát động nhiều phong trào như vậy:
Năm 1952, có phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Năm
1963, có cuộc vận động "Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế - tài chính, cải
tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu" (gọi tắt là cuộc vận động "ba xây, ba chống").
Có phong trào, có cuộc vận động chung cho toàn Đảng, toàn dân; có phong trào, có cuộc vận
động riêng cho từng ngành, từng giới. Qua đó, lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh rất cụ thể,
rõ ràng, thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân, để mọi người phấn đấu tự bồi dưỡng và nâng
cao phẩm chất đạo đức cách mạng. Ngành bưu điện, từ cuối năm 1963 đến 1965, Tổng cục Bưu
điện và Truyền thanh đã thực hiện cuộc vận động "ba xây, ba chống".
Qua cuộc vận động, các đơn vị trong ngành đã nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về vị trí, tính
chất, đặc điểm và phương hướng của ngành, nên đã có nhiều chuyển biến tư tưởng trong công
tác và trong lãnh đạo; bước đầu thấy rõ hơn chỗ mạnh, khẳng định rõ được những thành tích ưu
điểm của ngành, đồng thời cũng thấy rõ những thiếu sót và bất hợp lý trong tổ chức quản lý và
công tác quản lý của ngành; tìm ra nguyên nhân gây ra tham ô, lãng phí. Từ đó có phương
hướng, biện pháp sửa chữa, bổ khuyết. Ở những địa phương đã tiến hành "ba xây, ba chống",
chất lượng thông tin, bưu điện, truyền thanh được nâng cao. Đó chính là kết quả tốt nhất của
cuộc vận động "ba xây, ba chống" trong ngành bưu điện Việt Nam (1963-1965)
(8)
.
Thực tiễn chứng minh, những cuộc vận động đó đã mang lại một sắc thái mới trong sản xuất,
kinh doanh, làm thay đổi nếp nghĩ, phong cách làm việc, kích thích việc phát huy sáng kiến cải
tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất và hiệu quả công tác với tinh thần ích nước, lợi nhà. Và thông
qua các phong trào quần chúng, cái tốt được tăng cường, phát triển, cái xấu bị đẩy lùi.
4 - Tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh quan niệm: "Đã có hoạt động thì khó tránh khỏi khuyết điểm". Nhưng, điều đáng nói
ở đây là, khi đã có khuyết điểm thì phải có thái độ thật thà, nhận rõ khuyết điểm và tìm cách sửa
chữa, khắc phục. Phương thức tốt nhất là nâng cao tinh thần tự phê bình và phê bình. Điểm này
hoàn toàn đối chọi với chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân không dám tự
phê bình mình, khi có khuyết điểm thì không kiên quyết sửa chữa. Trái lại, với người cộng sản
phải xem tự phê bình và phê bình là một quy luật phát triển của mọi cá nhân, tập thể, cộng đồng.
Nâng cao đạo đức cách mạng trong tình hình mới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải biết khai thác,
phát huy mặt tích cực, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại những mặt tiêu cực của kinh tế
thị trường. Đẩy lùi cái xấu, cái lạc hậu, khơi dậy cái tốt, cái hay, cái tích cực, cái tiên tiến - đó là
vấn đề mà mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đặt ra cho
mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, đạo đức
Xét trên lĩnh vực đời sống đạo đức, trong Đảng, Nhà nước và xã hội ta hiện nay, có thể rút ra
một số vấn đề cần chú ý.
Thứ nhất, trong thời gian qua, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí xảy ra ở không ít các cơ sở đảng
được công nhận danh hiệu "trong sạch, vững mạnh", thậm chí còn được công nhận trong nhiều
năm. Có những cán bộ, đảng viên đã thực sự biến thành "quan tham", sa đọa về đạo đức, lối
sống, suy thoái về tư tưởng chính trị Xét đến cùng, đó là vi phạm những nguyên tắc xây dựng
đạo đức mới, là do chủ nghĩa cá nhân phát triển và mắc bệnh quan liêu. Kết quả là dẫn đến
những hành vi tham ô, lãng phí, chạy theo địa vị danh lợi, dối trá Vì vậy, phải xử lý thật nghiêm
những hành động tiêu cực, xấu xa trên, góp phần làm trong sạch đạo đức cách mạng.
Thứ hai, từ các vụ án kinh tế - xã hội lớn, nhỏ, thời gian qua, có thể thấy, có sự suy thoái về đạo
đức xã hội. Một trong những nguyên nhân đó là ý thức phê bình và tự phê bình của chúng ta
chưa cao. Biểu hiện cụ thể là có rất ít trường hợp cán bộ, đảng viên mắc bệnh tham ô, lãng phí
mà được phát hiện do kết quả của tự phê bình và phê bình trong nội bộ, mà chủ yếu là do quần
chúng và công luận phát hiện. Do đó, thời gian tới, các cấp ủy và tổ chức đảng cần thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả hoạt động tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng cũng như trong
thực tế lãnh đạo.
Thứ ba, việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên trong tình hình hiện nay cũng như sự
giúp đỡ lẫn nhau của cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng còn có những yếu kém và hạn chế.
Nói cách khác, cán bộ, đảng viên còn có những biểu hiện chưa gương mẫu rèn luyện về phẩm
chất đạo đức, đấu tranh chống các tệ nạn chưa quyết liệt, nói mạnh, làm nhẹ, nể nang, ô dù, bao
che cho nhau
Những tệ nạn ấy đã gây ra những bất bình trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước ta. Thời gian tới, tiêu chuẩn về đạo đức, chuyên môn của cán bộ phải
được xác định cụ thể. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ, tu dưỡng rèn luyện theo những
tiêu chuẩn, nguyên tắc xây dựng đạo đức mới của Hồ Chí Minh. Tiếp tục xây dựng cơ chế nhân
dân giám sát cán bộ, có cơ chế cụ thể bố trí lại cán bộ khi có dấu hiệu vi phạm đạo đức (tham ô,
lãng phí, dối trá, sa đọa trong cuộc sống, làm mất đoàn kết nội bộ ) và loại bỏ những cán bộ vi
phạm. Quy định cụ thể, rõ ràng hơn chế độ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan của
Đảng và Nhà nước.
Đó cũng là những vấn đề mấu chốt về nguyên tắc của việc xây dựng đạo đức mới - đạo đức
cách mạng.
Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là cuộc vận động do Đảng ta phát động. Cuộc
vận động này có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay, không chỉ nhằm đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân ta
mà còn là cơ sở để xây dựng chuẩn mực đạo đức mới trong đời sống xã hội.
Từ khi cuộc vận động chính thức được phát động đến nay, ít nhiều đã tác động đến
tâm tư, tình cảm, hành vi đạo đức của nhiều người qua những nội dung được truyền đạt,
những câu chuyện kể về tấm gương đạo đức của Bác. Chúng ta tin tưởng rằng, ở mỗi con
người, dù như thế nào đi nữa, nếu nhận thức được sự hy sinh cao cả của Bác, tấm gương
đạo đức bình dị của Bác thì đều có sự soi rọi, chiêm nghiệm, điều chỉnh hành vi của mình.
Yêu cầu thứ hai trong nội dung cuộc vận động này là “làm theo”. Học tập là để nhận
thức, nhưng từ nhận thức đến hành động là cả một quá trình. Có người hiểu được nhưng lại
không làm hoặc chưa biết làm như thế nào. Cho nên yêu cầu “làm theo” là nội dung rất
quan trọng. Ở phạm vi bài viết này, tôi xin đề cập đến ba nguyên tắc cơ bản về xây dựng
đạo đức mới theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh như sau:
Trước hết, nguyên tắc “Nói đi đôi với làm, phải có hành động nêu gương về đạo
đức”. Trong suốt cuộc đời mình, Bác rất coi trọng giáo dục mọi người và chính bản thên
Bác đã thực hiện điều này một cách nghiêm túc. Qua học tập, nghiên cứu những câu chuyện
kể về Bác, ta thấy Bác nói ít nhưng làm nhiều hoặc có những vấn đề về đạo đức Bác hành
động nêu gương mà không nói nhưng mọi người cũng dễ nhận ra. Đi sâu vào hành vi đạo
đức của Bác, ta càng khám phá ra bản chất sâu xa trong tư tưởng đạo đức của Người.
Nói đi đôi với làm trước hết là ở sự nêu gương. Không thể nói mà không làm hoặc
nói nhiều làm ít, nói một đường làm một nẻo. Lúc sinh thời Bác đã nêu một luận điểm quan
trọng đối với cán bộ, đảng viên là: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán
chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách,
đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Bác cho rằng đảng viên phải đi trước để làng nước theo sau, “một tấm gương sống còn hơn
một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Một nền đạo đức mới phải được xây dựng trên một cái
nền rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp đã trở thành hành vi đạo
đức ngày càng phổ biến trong xã hội. Chính những tấm gương đạo đức của cán bộ, đảng
viên, những người tiêu biểu, người tốt việc tốt trong xã hội có ý nghĩa thúc đẩy quá trình đó
phát triển. Sự nêu gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của cán bộ lãnh đạo với cấp
dưới; của đảng viên với quần chúng, của cha mẹ với con, của thầy cô giáo với các em học
sinh… vì thế rất quan trọng.
Nguyên tắc thứ hai “Xây đi đôi với chống”. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục
đích để xây dựng đạo đức mới một cách hiệu quả hơn. Chúng ta đều biết trong cuộc sống
con người vốn có rất nhiều mối quan hệ đa dạng, phức tạp đòi hỏi phải giải quyết. Những
hiện tượng tốt – xấu, phải – trái, đúng – sai, thiện – ác… luôn đan xen, giằng xéo nhau ngay
trong bản thân của mỗi người, đòi hỏi chúng ta phải có sự lựa chọn, điều chỉnh hành vi của
mình cho phù hợp. Chính vì vậy, việc xây dựng đạo đức mới hoàn toàn không đơn giản.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải
chống những biểu hiện phi đạo đức. Điều quan trọng là phải thấy trước những gì có thể xảy
ra để chủ động đề phòng, ngăn chặn.
Nguyên tắc “Tu dưỡng đạo đức suốt đời” cũng là nguyên tắc vô cùng quan trọng. Bác
đã nhiều lần chỉ rõ: “Mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc soi
gương, rửa mặt hàng ngày” và đưa ra những lời khuyên “Đạo đức cách mạng không phải
trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Trong thực tế, do không
chú ý việc “soi gương, rửa mặt” hàng ngày (tu dưỡng, rèn luyện) nên có những người mới
hôm qua còn được mọi người tin yêu, quý mến thì ngày hôm sau đã trở thành người có tội
với Đảng, với dân. Có những người trong lúc đấu tranh thì hăng hái, trung thành, không sợ
hiểm nguy, khổ cực. Song, đến khi có ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ,
tham ô, lãng phí, quan liêu… Người xưa thật có lý khi cho rằng “Người ta không chết bởi
núi non cao nhưng có khi chết bởi mô đất thấp”. Núi non cao người ta còn thấy được mà
tránh còn mô đất thấp thì do chủ quan không để ý nên dễ dàng vấp ngã.
Theo Bác, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu; ai cũng có
thiện, ác trong lòng. Vấn đề là chúng ta có dám nhìn thẳng vào mình không, thấy cái hay,
cái thiện để phát huy và thấy cái dở, cái xấu để khắc phục.
Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng, bao giờ cũng đặt ra cho chúng ta những
nhiệm vụ mới, với những khó khăn, thử thách mới. Cái khó khăn của cuộc chiến đấu mới
không những chỉ ở tầm vóc, vị thế của nước ta hiện nay và quy mô của sự nghiệp đổi mới
đang thực hiện. Mà ở chổ mọi người phải biết khắc phục những yếu kém của mình, chiến
thắng “giặc ở trong lòng” cũng như “giặc nội xâm ở trong tổ chức của mình”. Đó là giặc
“vô hình, vô ảnh” nhưng rất mạnh. Nó luôn luôn tiềm ẩn trong ta khĩ thấy, khó biết. Việc
đấu tranh vớikẻ địch nơi tuyền tuyến dể thấy , nhưng đấu tranh với kẻ địch trong người,
trong nội bộ, trong tinh thần rất khó khăn, đôi khi đau xót. Vì thế mà việc tự tu dưỡng, rèn
luyện đạođức cách mạng ở mọi ngườiu chúng ta sẽ không kém gian nan. Nhưng theo Bác:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tợ bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công”
Tóm lại, nâng cao đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới là yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi
mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân ta phải thấm nhuần sâu sắc những lời dạy của Bác, ra
sức đẩy mạnh cuộc vận động” Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” vận
dụng và thực hiện tốt các nguyên tắc xây dựng đạo đức mới mà Bác đã nêu để xây dựng nền
tảng đạo đức trong đời sống xã hội ở nước ta ngày càng tốt đẹp, góp phần vào sự phát triển
bền vững của đất nước.
Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Nói tới tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức phải chú ý tới con đường và phương pháp hình thành
đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đặc điểm và quy luật hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh cho thấy một số nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức mới sau đây:
a) Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng tuyệt vời về nói đi đôi với làm. Người quan tâm đặc biệt,
hàng đầu tới vấn đề đạo đức. Ngay trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản, bàn về tư
cách một người cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "nói thì phải làm. Tại sao nói phải đi đôi với
làm, phải nêu gương về đạo đức? Đạo đức cách mạng là đạo đức luôn được nhận thức và giải
quyết trên lập trường của giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích của cách mạng. Nói đi đôi với làm
còn nhằm chống thói đạo đức giả. hiện tượng nói không đi đôi với làm sẽ dẫn tới nguy cơ làm
mất lòng tin của dân đối với Đảng và chế độ mớiNoi theo tấm gương của Lênin, Hồ Chí Minh
cũng đào tạo các thế hệ cách mạng người Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng, mà bằng
chính tấm gương đạo đức cao cả.Theo Hồ Chí Minh hơn bất kỳ một lĩnh vực nào khác, trong lĩnh
vực đạo đức đặc biệt phải chú trọng "đạo làm gương". Giai đoạn cách mạng nào cũng cần có
nhiều tấm gương. Tùy theo nhiệm vụ và tình hình cụ thể mà tấm gương đó được biểu hiện ở
những mặt nào, trong chiến đấu, lao động, học tập, cuộc sống đời thường trong gia đình, ngoài
xã hội Việc bồi dưỡng, nêu gương "người tốt, việc tốt" là rất quan trọng và cần thiết, không
được xem thường. Nhiều giọt nước hợp lại mới thành suối,thành sông, thành biển cả. Không
nhận thức được điều đó là "chỉ thấy ngọn mà quên mất gốc". Xây dựng đạo đức mới, nêu gương
đạo đức phải rất chú trọng tính chất phổ biến, rộng khắp, vững chắc của toàn xã hội và những
hạt nhân "người tốt, việc tốt" tiêu biểu.
b) Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi
Làm cách mạng là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây dựng đạo đức mới lại càng
phải quan tâm điều này. Bởi vì trong Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau, nên
không phải "người người đều tốt, việc việc đều hay". "Mỗi con người đều có cái thiện và ác ở
trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng". Mặt khác, con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, cuộc chiến đấu khổng lồ. Trong cuộc chiến đấu
đó, có nhiều kẻ địch nhưng thường có ba loại: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất
nguy hiểm; thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách
mạng tiến bộ; loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình
mỗi người chúng ta; nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy; nó là
bạn đồng minh của hai kẻ địch kia. Nhận thức như vậy để thấy rằng "đạo đức cách mạng là vô
luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh
giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. Có như thế mới
thắng được địch và thực hiện được nhiệm vụ cách mạng". Đối với từng người, Hồ Chí Minh yêu
cầu trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình, không hiếu danh, không kiêu ngạo,
ít lòng tham muốn về vật chất, vị công vong tư Chống và xử lý nghiêm là nhằm xây, đi liền với
xây và muốn xây thì phải chống. Mục đích cuối cùng là xây dựng con người có đạo đức và nền
đạo đức mới Việt Nam. Vì vậy, phải xác định đây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài. Xây là giáo dục
những phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng cho con người Việt Nam trong thời đại mới
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tất nhiên, giáo dục đạo đức phải phù hợp với lứa tuổi, ngành nghề,
giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau. Đồng thời, phải chú ý tới hoàn cảnh,
nhiệm vụ từng giai đoạn cách mạng. Xa rời thực tiễn và khư khư giữ lấy những nội dung cũ khi
thực tiễn đã vượt qua đều không phù hợp với quan điểm xây dựng đạo đức của Hồ Chí Minh. Xây
dựng đạo đức có nhiều cách làm. Trước hết mỗi người và tổ chức phải có ý thức tự giác trau dồi
đạo đức cách mạng. Bản thân sự tự giác cũng là phẩm chất đạo đức quý đối với từng người và
tổ chức. Điều này càng cần thiết và có ý nghĩa to lớn đối với Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Bởi
vì: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa
nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn
cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng
tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính"1. Xây đi đôi với chống trên cơ sở tự giáo dục, đồng
thời phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Điều này thuộc quy luật của cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Bởi vì chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của quần chúng nhân dân tự xây
dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã luôn phát
động phong trào quần chúng rộng rãi và đem lại những hiệu quả thiết thực
Sự lãnh đạo của Đảng, nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam
Nghiên cứu kinh nghiệm về sự lãnh đạo và xây dựng đảng của Đảng ta là việc làm
thiết thực, trọng yếu, bảo đảm cho cách mạng phát triển vững chắc, nhằm thực hiện
mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều nhân tố tạo nên, song nhân tố chủ yếu nhất
là sự lãnh đạo của Đảng.
Ngay từ khi vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc- người sáng lập Đảng ta - đã thấy
phải có đảng cách mạng và đảng có vững thì cách mạng mới thành công.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (nǎm 1930) ghi rõ: "Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách
mạng là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập
trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải trong đấu tranh mà trưởng thành".
Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc tính đúng đắn
của luận điểm nói trên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng, đã nêu lên một bài học cơ bản:
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Nghiên cứu kinh nghiệm về sự lãnh đạo và xây dựng đảng của Đảng ta là việc làm thiết
thực, trọng yếu, bảo đảm cho cách mạng phát triển vững chắc, nhằm thực hiện mục tiêu:
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
I- VAI TRÒ CỦA ĐẢNG TRONG LỊCH SỬ VÀ HIỆN TẠI
1. Đảng Cộng sản Việt Nam - người duy nhất giữ vai trò lãnh đạo cách mạng từ nǎm
1930
Ngày 3-2-1930, lịch sử Việt Nam diễn ra một sự kiện trọng đại: Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời.
Đảng ta ra đời là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của
đồng chí Nguyễn ái Quốc và các đồng chí tiền bối của Đảng. Đồng chí Nguyễn ái Quốc
là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá vào Việt Nam.
Người đã kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước để tổ chức ra Đảng ta. Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, đề ra
đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, vạch ra cương lĩnh cách
mạng của Đảng một cách đúng đắn ngay từ đầu. Nhờ đó mà Đảng sớm trở thành một lực
lượng chính trị vững mạnh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Hơn 60 nǎm qua, lịch sử Việt Nam ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Vai trò đó không
ngừng được mở rộng và nâng cao, vượt qua mọi sự chống phá của kẻ thù và sự tranh
chấp của những thế lực đối lập.
Việc Đảng ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng là điều tất yếu, khách quan, phù
hợp với quy luật của thời đại và điều kiện hiện thực của Việt Nam. Sự phù hợp với quy
luật của thời đại được chứng minh bởi vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
mà đội tiên phong của nó là Đảng Mác- Lênin. Còn điều kiện hiện thực của Việt Nam
được nhận thức qua phân tích tính chất, đặc điểm xã hội Việt Nam; tình hình và thái độ
các giai cấp, tầng lớp xã hội; từ đó thấy những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội và đòi hỏi
khách quan của lịch sử đối với giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng - đội tiên phong của
giai cấp.
2. Sự lãnh đạo của Đảng - nguồn gốc thành công của công cuộc giải phóng dân tộc
Lịch sử Việt Nam ghi nhận: từ khi thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta đã liên
tiếp diễn ra nhiều cuộc đấu tranh yêu nước, song tất cả đều thất bại.
Khi Đảng ta ra đời, dân tộc ta vẫn đứng trước một nhiệm vụ lịch sử to lớn: tiến hành cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại nền độc lập của đất nước.
Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là thành quả đầu tiên của cuộc đấu tranh đó, đã lật đổ
ách thống trị đế quốc, phátxít cấu kết với giai cấp địa chủ phong kiến, thiết lập chế độ
cộng hoà dân chủ. Tiếp đó là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Bắc sau đó giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước trên cơ sở độc lập dân tộc và dân chủ. Công cuộc giải phóng dân tộc được hoàn
thành triệt để từ sau thắng lợi mùa Xuân nǎm 1975 được bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng ta.
Trước thực tế lịch sử hiển nhiên đó, mà vẫn có người cố tình phủ nhận hoặc hạ thấp ý
nghĩa, vai trò của Đảng đối với những thắng lợi của dân tộc Việt Nam thì là điều phi lý.
Và thực tế lịch sử đó cũng đã bác bỏ sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.
- Cách mạng Tháng Tám thắng lợi do có những điều kiện khách quan thuận lợi, song nếu
thiếu những điều kiện chủ quan, nhất là thiếu sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, thì cách
mạng không thể thành công. Đảng đã lãnh đạo việc chuẩn bị khởi nghĩa một cách chu
đáo, đồng thời nắm vững thời cơ lịch sử để phát động Tổng khởi nghĩa trong những ngày
tháng tám. Đó là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám nǎm
1945.
- Kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, trước hết do Đảng đề ra và nắm vững
đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài. Đảng lại giải quyết đúng hàng loạt vấn
đề trọng yếu: xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện từng bước vấn đề ruộng
đất cho nông dân, chǎm lo phát triển sản xuất trong kháng chiến, xây dựng hậu phương,
phục vụ kháng chiến, công tác vùng địch tạm chiếm, v.v
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc đụng đầu lịch sử, một thử thách lớn đối
với Đảng và dân tộc Việt Nam. Đảng đã khéo kết hợp sức mạnh của hai miền Nam - Bắc,
sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại. Đường lối chính trị, quân sự đúng đắn
và phương pháp cách mạng sáng tạo do Đảng đề ra, không những đã tránh cho dân tộc bị
mất nước, làm nô lệ, mà còn giành thắng lợi vẻ vang, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
3. Vai trò của Đảng trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa
Tiếp tục sự nghiệp và truyền thống của Đảng đã giữ vai trò lãnh đạo cách mạng ngay khi
ra đời, sau khi giành được chính quyền, từng bước thực hiện chuyển biến giai đoạn cách
mạng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta vẫn là lực lượng duy nhất lãnh đạo tiến
trình cách mạng của dân tộc. Đây là thực tế lịch sử đã diễn ra ở miền Bắc từ tháng 7 nǎm
1954 và trên cả nước từ sau thắng lợi mùa Xuân nǎm 1975- giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng đã và sẽ tiếp tục là nhân tố chủ
yếu quyết định thắng lợi, vì:
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng tự giác. Chỉ có Đảng, người nắm vững
lý luận Mác - Lênin, mới nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật phát triển của
xã hội, đề ra đường lối và phương pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với thực tiễn nước ta.
- Trong thời kỳ quá độ, tất yếu còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, có những lợi
ích và nhận thức khác nhau, nhưng sự lãnh đạo của Đảng đã bảo đảm thực hiện đúng đắn
các mối quan hệ kinh tế - xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động - mục
tiêu và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Về tổ chức thực tiễn, do trong xã hội có nhiều tổ chức khác nhau, cần quy tụ sự hoạt
động của mọi tổ chức xã hội nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây
dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đóng vai trò người tổ chức, phối hợp sự
hoạt động của mọi cơ quan nhà nước, đoàn thể và tổ chức xã hội.
Trước đây, ở miền Bắc đã từng có những lực lượng thù địch và đối lập đòi Đảng chia
quyền lãnh đạo. Ngày nay, lại có một số người chịu ảnh hưởng của thuyết đa nguyên
chính trị, đòi lập chế độ đa đảng, đòi xét lại vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi Đảng trả lại
quyền cho "nhân dân" thực chất là tìm cách thủ tiêu, hoặc hạ thấp vai trò của Đảng.
Song sự thật lịch sử dân tộc ta từ khi có Đảng đã chứng tỏ rằng:
- Đảng ta nắm vai trò duy nhất lãnh đạo cách mạng là một tất yếu lịch sử.
- Có sự lãnh đạo của Đảng ta mới có những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
- Tình trạng có nhiều lực lượng đối lập trong xã hội không phải là biểu hiện của dân chủ
chân chính; ngược lại, làm trở ngại, khó khǎn cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội.
Khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta là bài học lớn của lịch sử Đảng và lịch
sử dân tộc.
II- MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ NÂNG CAO VAI TRÒ LÃNH ĐẠO VÀ SỨC
CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG
Vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng là tất yếu khách quan song không phải được hình
thành một cách ngẫu nhiên mà Đảng ta đã phải đấu tranh và phấn đấu gian khổ để tạo ra
những điều kiện nhằm củng cố, nâng cao vai trò lãnh đạo, đồng thời thường xuyên phấn
đấu nâng cao nǎng lực và hiệu quả lãnh đạo bảo đảm thắng lợi ngày càng nhiều, hạn chế
được sai lầm, khuyết điểm.
Thực tế trên chứng tỏ Đảng ta tuân thủ nghiêm ngặt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
"Đảng không thể đòi hỏi mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là
một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và
công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và nǎng lực
lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo.
Sự lãnh đạo của Đảng chỉ được củng cố khi có tổ chức đảng vững mạnh. Vì thế, việc
nâng cao nǎng lực lãnh đạo phải gắn liền với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, nhằm làm cho Đảng luôn luôn xứng đáng là đội tiên phong cách mạng của giai cấp
và dân tộc.
A- KINH NGHIỆM VỀ XÁC ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ
Là người lãnh đạo chính trị của giai cấp và dân tộc, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
Đảng là đề ra đường lối chính trị đúng đắn. Đường lối chính trị đúng là nhân tố trọng yếu
nhất để xác lập, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, là điều tiên quyết bảo đảm cho thắng
lợi của cách mạng. Đường lối chính trị đúng đắn thể hiện nǎng lực và hiệu quả của sự
lãnh đạo, còn là nhân tố quyết định tính chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng.
Những thắng lợi to lớn của cách mạng nước ta hơn 60 nǎm qua đã chứng minh đường lối
chính trị của Đảng ta cǎn bản là đúng đắn. Tuy nhiên, Đảng ta đã mắc một số sai lầm,
khuyết điểm, lớn nhất là sai lầm trong lãnh đạo cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1954-
1956) và sai lầm về chỉ đạo chiến lược, về một số chủ trương, chính sách lớn trong lãnh
đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước (1975-1985). Từ thực tế lịch sử các
mặt trên, có thể rút ra những kinh nghiệm:
1. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp đúng đắn những nguyên lý
phổ biến với đặc điểm dân tộc
Đồng chí Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu và khẳng định chủ nghĩa
Mác - Lênin là chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng đã ghi rõ, Đảng lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc.
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng từ khi ra đời đến nay, thấy rõ: khi quyết định đường lối
trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong lãnh
đạo khởi nghĩa cũng như chiến tranh cách mạng, Đảng ta đều quán triệt, vận dụng sáng
tạo những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của mình. Đảng luôn coi trọng giáo dục phương pháp tư duy lý luận khoa
học, tránh mắc giáo điều hay xét lại, phủ nhận những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam thật sự là kết quả của sự thấm nhuần và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin sát hợp với những điều kiện cụ thể của Việt
Nam.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn ái Quốc vạch ra khi thành lập
Đảng là một tiêu biểu cho sự vận dụng sáng tạo trên. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn các
yếu tố dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản;
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, tự lực, tự cường và đoàn
kết hợp tác quốc tế Trong đó, yếu tố dân tộc, tinh thần yêu nước, nhiệm vụ giải phóng
dân tộc được coi là chủ yếu nhất, phù hợp với đặc điểm và truyền thống dân tộc ta, một
dân tộc có tinh thần yêu nước nồng nàn, kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm.
Vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với đặc điểm dân tộc, đòi hỏi phải
tránh khuynh hướng thổi phồng đǎc điểm dân tộc, coi nhẹ quy luật phổ biến, hoặc ngược
lại. Cả hai đều dẫn đến sai lầm xét lại hoặc giáo điều, hữu hoặc "tả" khuynh.
2. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo
Muốn vận dụng đúng đắn học thuyết Mác - Lênin phù hợp với hoàn cảnh và đặc điểm
dân tộc, đòi hỏi phải có tinh thần độc lập, tự chủ, với phương pháp tư duy khoa học, sáng
tạo.
Nét nổi bật và cũng là cơ sở của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng ta
và đồng chí Nguyễn ái Quốc đánh giá đúng sức mạnh của yếu tố dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc; nêu cao nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, lập mặt trận đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công nông, kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
Sử dụng sức mạnh bạo lực cách mạng là quy luật phổ biến của mọi cuộc đấu tranh giải
phóng. Vận dụng sáng tạo quy luật ấy, Đảng ta cho rằng: "Bạo lực cách mạng nhằm lật
đổ giai cấp thống trị nhất thiết phải là bạo lực của quần chúng". Mặc dù được thể hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau, song khái quát chung lại, "bạo lực cách mạng phải dựa
vào hai lực lượng: lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, và bao gồm hai hình thức
đấu tranh: đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và sự kết hợp giữa hai hình thức ấy".
Đảng cộng sản ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, đó
là quy luật phổ biến. ở Việt Nam trong cuộc vận động thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn
ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong các tổ chức yêu nước, và dựa vào đó,
thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội - tổ chức tiền thân của Đảng.
Đảng ta ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Để vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, cần chống bệnh giáo điều, chủ
nghĩa kinh nghiệm. Nguồn gốc của chủ nghĩa kinh nghiệm là trình độ lý luận thấp và hiểu
biết thực tiễn không sâu. Còn nguồn gốc của chủ nghĩa giáo điều là nắm lý luận một cách
sách vở và rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, không chú ý đầy đủ đến đặc điểm dân tộc.
3. Bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán giữa đường lối chiến lược và chủ trương, chính
sách cụ thể, giữa chỉ đạo chiến lược và hình thức, bước đi cụ thể
Trong lãnh đạo cách mạng, điều quan trọng hàng đầu là vạch ra đường lối chiến lược
đúng đắn. Kinh nghiệm lịch sử của Đảng ta chỉ rõ: đường lối chiến lược đúng bảo đảm
cho cách mạng phát triển thuận lợi, vững vàng trong mọi tình huống, đoàn kết được nội
bộ, do đó mà cách mạng chắc chắn thành công. Song nghệ thuật lãnh đạo đòi hỏi phải cụ
thể hoá đường lối thành chủ trương, chính sách, biện pháp thực hiện, phải đề ra mục tiêu,
nhiệm vụ trước mắt, bước đi, hình thức tổ chức, phương pháp tiến hành cụ thể. Kinh
nghiệm cho thấy: lãnh đạo chính trị mà dừng lại ở đường lối chung, không cụ thể hoá
đường lối sát đúng từng thời kỳ với những điều kiện lịch sử cụ thể thì đường lối chung
không thể trở thành hiện thực được. Trong thực tế, ban đầu thường chỉ có thể vạch ra
những nét lớn, nét cơ bản nhất, sau đó phải từng bước cụ thể hoá đi tới hoàn chỉnh đường
lối thành một hệ thống nhất quán từ đường lối chiến lược đến các chủ trương, chính sách
lớn.
Đảng ta đã có nhiều thành công trong việc cụ thể hoá đường lối. Thí dụ: sau khi xác định
mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản lâu dài của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là đánh đổ đế
quốc và địa chủ phong kiến, giành "độc lập dân tộc" và "người cày có ruộng", Đảng đã
xác định đúng mục tiêu nhiệm vụ cụ thể cho từng thời kỳ 1930-1931, 1932-1935, 1936-
1939, 1939-1945 Đảng ta đã kết hợp một cách đúng đắn mục tiêu lâu dài của giai đoạn
cách mạng với mục tiêu trước mắt của từng thời kỳ. Kinh nghiệm cho thấy: mục tiêu cụ
thể phải thích hợp với từng thời kỳ, nhưng vẫn phải quán triệt tư tưởng của đường lối
chiến lược.
Những sai lầm, khuyết điểm trong thời kỳ 1975-1985 như Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra, trong đó có sai lầm về chỉ đạo chiến lược không
thật sát đúng với điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang
ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, nên đề ra một số chủ trương, chính sách lớn
không phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ cụ thể của chặng đường đầu.
Nhiệm vụ lãnh đạo chính trị của Đảng hiện nay đòi hỏi tiếp tục hoàn chỉnh và cụ thể hoá
đường lối một cách đồng bộ và nhất quán.
4. Hướng vào thực tiễn mà kiểm nghiệm, hoàn chỉnh cụ thể hoá đường lối
Để có đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, Đảng phải tuân theo các quy luật khách
quan. Chủ quan, duy ý chí đã là nguồn gốc của nhiều sai lầm, dẫn tới nhiều tác hại trong
cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề đặt ra làm thế nào để nhận thức được đúng quy luật khách quan - nhất là tìm ra
được nội dung và cơ chế tác động của quy luật trong điều kiện cụ thể của cách mạng
nước ta. ở đây, không thể chỉ cǎn cứ vào nguyên lý có sẵn của học thuyết Mác - Lênin, đề
ra đường lối, chính sách, quá trình biến lý luận và đường lối thành hành động của hàng
triệu quần chúng, và nhờ tổng kết thực tiễn, Đảng mới dần dần nhận thức và vận dụng
được quy luật một cách đúng đắn.
Lịch sử chứng tỏ rằng Đảng ta, tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối
cách mạng dân tộc đúng đắn ngay từ đầu. Song, đó mới chỉ là những nét cơ bản. Thực
tiễn đấu tranh cách mạng đã giúp Đảng ta hoàn chỉnh, cụ thể hoá đường lối, từng bước
nhận thức đúng đắn những quy luật vận động cách mạng.
Thái độ hoài nghi tính đúng đắn của đường lối, chính sách là một sai lầm. Song, không
bám sát những diễn biến của thực tiễn trong quá trình thực hiện để kiểm nghiệm, phát
triển, cụ thể hoá đường lối, chính sách sẽ không nâng cao được hiệu quả lãnh đạo. Thực
tiễn còn cho thấy, nếu Đảng mắc sai lầm trong việc định chủ trương, chính sách, lại quan
liêu, xa rời thực tiễn, thì sai lầm có thể kéo dài gây hậu quả nghiêm trọng.
Coi trọng khảo sát thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, trân trọng sáng kiến của các địa
phương và cơ sở, đó là những kinh nghiệm quý, rất cần thiết cho việc hoàn chỉnh, cụ thể
hoá đường lối, chính sách ngày càng đúng đắn.
B. KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TƯ
TƯỞNG
Nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, một nhiệm vụ trọng yếu là
thường xuyên tiến hành công tác tư tưởng trong Đảng đồng thời lãnh đạo công tác tư
tưởng trong mọi tổ chức và toàn xã hội. Công tác tư tưởng có nhiệm vụ góp phần làm
phong phú và quán triệt học thuyết Mác-Lênin, tạo cơ sở cho việc đề ra đường lối chính
trị đúng đắn, truyền bá thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng cùng đường lối của
Đảng trong các cấp bộ đảng và toàn dân; nâng cao nhận thức và cổ vũ nhân dân hành
động theo con đường cách mạng mà Đảng đã vạch ra; đấu tranh chống những quan điểm
tư tưởng sai trái, phản động.
Những nét chính của quá trình Đảng ta lãnh đạo công tác tư tưởng như sau:
- Trong cao trào cách mạng 1930-1931, Đảng tập trung tuyên truyền sâu rộng nội dung cơ
bản của Cương lĩnh đầu tiên, dựa vào đó mà giáo dục ý thức cách mạng, động viên quần
chúng đấu tranh. Gắn với việc truyền bá Cương lĩnh, Đảng phê phán chủ nghĩa cải lương,
chủ nghĩa quốc gia dân tộc hẹp hòi, chống khuynh hướng khủng bố cá nhân, không thấy
vai trò quyết định của quần chúng.
- Trong cao trào cách mạng 1936-1939, Đảng hướng công tác tư tưởng vào việc quán triệt
chủ trương lập Mặt trận dân chủ, đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ, dân sinh, uốn nắn
các khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, không thấy cần phải tranh thủ, lôi kéo các tầng lớp
trung gian và tầng lớp trên; có khuynh hướng lại quá đề cao các tầng lớp này, coi nhẹ vai
trò công nông. Khuynh hướng sai lầm khác là coi thường hoặc quá say sưa với hình thức
đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp.
- Trong cao trào cách mạng 1939-1945, trên cơ sở chủ trương chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược sát đúng là tập trung thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, công tác tư tưởng
của Đảng đã khơi dậy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, góp phần xây dựng
mặt trận dân tộc cứu nước rộng rãi, đẩy mạnh xây dựng lực lượng và đấu tranh chính trị,
đấu tranh vũ trang. Đảng cũng phê phán tư tưởng hữu khuynh, rụt rè không dám đẩy
mạnh đấu tranh phù hợp với điều kiện và thời cơ lịch sử, đồng thời chống khuynh hướng
nóng vội, muốn khởi nghĩa sớm khi điều kiện chưa thật chín muồi.
- Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng tiếp
tục bồi dưỡng tinh thần yêu nước, động viên toàn dân cống hiến sức lực, của cải, sẵn sàng
hy sinh vì sự nghiệp hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Phê phán, sửa chữa
sai lầm trong thực hiện chủ trương chỉnh đốn Đảng và cải cách ruộng đất về mặt công tác
tư tưởng là giản đơn, giáo điều, gò ép gây nên những khó khǎn, tổn thất cho Đảng và
cách mạng.
- Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng coi trọng công tác nghiên cứu và giáo dục lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời tuyên truyền, phổ biến đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa của Đảng, làm cho nhân dân hiểu biết và tin theo chủ nghĩa xã hội. Song
trên lĩnh vực lý luận đã phạm một số sai lầm, nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội,
mắc bệnh giáo điều, rập khuôn, làm cho việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách
không được sát đúng với thực tiễn nước ta. Bệnh chủ quan, một chiều cũng chi phối công
tác giáo dục tư tưởng. Dân chủ hoá trong sinh hoạt tư tưởng và hoạt động xã hội chưa
được coi trọng, chưa uốn nắn kịp thời và phê phán sắc bén những khuynh hướng cực
đoan về các mặt trên.
Từ quá trình lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng, có thể nêu lên những kinh nghiệm sau:
- Cần nắm vững công tác lý luận, làm cho lý luận luôn bám sát thực tiễn, thực sự có tác
dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng đã có nhiều thành tựu về nghiên cứu lý luận,
nhất là lý luận về con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam. Sự lạc hậu về lý luận cách
mạng xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ bệnh giáo điều, sùng bái kinh nghiệm nước ngoài;
mặt khác, lại chủ quan, duy ý chí, không coi trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đang đòi hỏi đảng phải đổi mới tư duy lý luận ,
nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội. Để làm việc đó, cần khắc phục nếp nghĩ giáo điều, chủ
quan, duy ý chí, đề cao tinh thần sáng tạo, đi sâu tổng kết quá trình cải tạo và xây dựng
chủ nghĩa xã hội của nước ta, tham khảo kinh nghiệm của các nước, từ đó rút ra những
kết luận, từng bước đổi mới và nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta.
- Nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, cần gắn việc giáo dục tư tưởng với đường
lối, chính sách của Đảng. Tư tưởng, nhất là tư tưởng chính trị, là cái cốt lõi của đường lối,
chính sách. Hiểu đường lối, chính sách, trước hết là quán triệt tư tưởng chính trị chỉ đạo
đường lối, chính sách đó. Trong lịch sử công tác tư tưởng của Đảng, nhìn chung, Đảng ta
đã xuất phát từ những mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn, từng thời kỳ để
đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp công tác tư tưởng, vừa bảo đảm thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, vừa nâng cao trình độ chính trị, giác ngộ cách mạng của
cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Lãnh đạo tư tưởng phải bảo đảm tính đảng, tính khoa học. Đó là những nguyên tắc cơ
bản của công tác tư tưởng. Hết sức tránh những sai lầm đã diễn ra trong lịch sử như gò
ép, chủ quan, giản đơn một chiều , đề cao dân chủ, tôn trọng sự thật là điều kiện để làm
tốt công tác tư tưởng. Song, phải tránh những khuynh hướng cực đoan lợi dụng dân chủ
để xuyên tạc sự thật, làm lạc hướng tư tưởng. Đối với lịch sử, truyền thống, quá khứ
cần khắc phục cách nhìn theo kiểu "tô hồng", chỉ thấy thắng lợi, thành công, ưu điểm,
song phải chống khuynh hướng "bôi đen", nhìn lịch sử chỉ thấy sai lầm và thất bại
C. KINH NGHIỆM VỀ LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Vai trò lãnh đạo chính trị đòi hỏi Đảng nắm vững và làm tốt mặt lãnh đạo tổ chức và tổ
chức công tác thực tiễn. Theo học thuyết Mác - Lênin, Đảng không phải là một câu lạc
bộ, mà là đội tiên phong trong cuộc đấu tranh nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới, Đảng hành động cách mạng bằng tổ chức, do đó phải gắn việc xác định đường lối,
lãnh đạo tư tưởng với lãnh đạo tổ chức.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã nhận rõ ý nghĩa trọng yếu của công tác tổ chức. "Nếu
công việc đó làm không đúng thì nguy hại cho Đảng rất lớn".
Thử thách lớn đầu tiên đối với nǎng lực lãnh đạo tổ chức của Đảng ta là ở giai đoạn cách
mạng dân tộc dân chủ. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhất là cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, chứng tỏ Đảng ta
không chỉ thành công trong việc vạch đường lối chính trị, mà còn trong lãnh đạo tổ chức.
Có thể khẳng định khi hoạt động bí mật, khi công khai, trong lãnh đạo khởi nghĩa cũng
như tiến hành chiến tranh cách mạng, Đảng ta đều coi trọng công tác tổ chức, từng bước
đạt tới trình độ khoa học, bảo đảm động viên, tập hợp mọi lực lượng và nǎng lực đó một
cách có hiệu quả.
Chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, công tác tổ chức có quy mô rộng lớn,
với những nội dung mới mẻ, với những khó khǎn, phức tạp hơn nhiều. Đảng trở thành
người lãnh đạo thực tế toàn bộ xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, vǎn hoá,
tư tưởng Đảng không chỉ lãnh đạo tổ chức thực hiện những nhiệm vụ chính trị, mà còn
lãnh đạo việc tổ chức quản lý toàn bộ đời sống xã hội.
Mặc dù còn nhiều yếu kém, và khuyết điểm trong tổ chức thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, song Đảng ta cũng đã có những thành công nhất định và từng bước nâng cao tri
thức, kinh nghiệm về mặt này.
Dưới đây là một số kinh nghiệm về lãnh đạo tổ chức, nhất là tổ chức thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1. Bảo đảm tính đúng đắn của các quyết định cụ thể
Ra quyết định cụ thể, đó là khâu đầu tiên để bảo đảm hiệu quả của tổ chức hoạt động thực
tiễn.
Những nǎm qua, Đảng và Nhà nước ta, từ trung ương tới cơ sở đã phạm một số sai lầm
trong việc ra quyết định. Đó là tình trạng quyết định chung chung, không hiệu quả đối với
thực tiễn. Đó là tình trạng chồng chéo, phủ định lẫn nhau, gây trở ngại cho quá trình thực
tiễn, còn mang tính chủ quan, gắn ép, thiếu sát thực.
Kinh nghiệm thực tiễn đòi hỏi phải:
- Xuất phát từ thực tế khách quan trong quá trình chuẩn bị và ra quyết định.
Để làm việc đó, cần tiến hành điều tra nghiên cứu, hiểu biết sâu sắc về đặc điểm của
ngành, của địa phương, cơ sở , cần coi trọng những sáng kiến của địa phương, của cơ sở
đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Đối với những quyết định quan trọng, nên tiến hành thử
nghiệm ở một số địa phương, đơn vị, sau hoàn chỉnh thành quyết định chung.
- Hết sức hạn chế tình trạng chồng chéo, trái ngược nhau giữa các quyết định.
ở đây, cần tránh tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương, đồng thời phải có sự điều hành
đúng đắn và tập trung của cấp trên, của người lãnh đạo và quản lý các đơn vị giống như
điều khiển của nhạc trưởng đối với cả dàn nhạc. Đặc biệt lưu ý bảo đảm tính nhất quán
giữa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước với quyết định cụ thể của ngành, địa
phương; quyết định cụ thể của ngành, địa phương phải bảo đảm thực hiện đường lối,
chính sách, chứ không được trái ngược, gây trở ngại cho việc thực hiện mục tiêu, nhiệm
vụ chung.
2. Kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, công tác tổ chức với hoạt động kinh tế - xã
hội
- Nhằm vào mục tiêu tổ chức, hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội cần gắn chặt công tác tư
tưởng và công tác tổ chức.
Trong hoạt động thực tiễn thường không kết hợp chặt chẽ hai mặt công tác tư tưởng và
công tác tổ chức. Thực tiễn cho thấy, tư tưởng tách rời tổ chức sẽ sa vào lý thuyết suông,
phong trào cách mạng sẽ không thể sâu rộng và bền bỉ; ngược lại, công tác tổ chức không
gắn liền với công tác tư tưởng sẽ rơi vào mệnh lệnh, gò ép, làm mất tính tự giác của
phong trào cách mạng. Kết hợp tư tưởng với tổ chức bảo đảm tinh thần tự nguyện, tự giác
của quần chúng, và dựa trên cơ sở đó, đưa quần chúng đi vào hành động cách mạng có tổ
chức, mọi người chấp hành nhiệm vụ theo những thể chế và nguyên tắc thống nhất.
- Trong thời kỳ cách mạng mà các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trở thành trọng tâm cần gắn
chặt công tác tư tưởng, công tác tổ chức với hoạt động kinh tế - xã hội.
Hoạt động lãnh đạo kinh tế là vạch ra đường lối chiến lược, chính sách kinh tế, cơ chế
quản lý kinh tế Đảng chỉ quyết định đúng những vấn đề đó khi đứng vững trên quan
điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giữ vai trò định hướng cho những hoạt động kinh tế.
Hoạt động kinh tế mà tách rời tư tưởng chính trị, không lấy mục tiêu xã hội chủ nghĩa
làm điểm xuất phát cho những chủ trương, chính sách kinh tế thì sẽ mất phương hướng.
Ngược lại, công tác tư tưởng và tổ chức mà tách rời với những hoạt động kinh tế thì sẽ
không còn nội dung sát thực và do đó sẽ hạn chế tác dụng đối với đời sống kinh tế - xã
hội.
3. Nâng cao hiệu lực của bộ máy, tǎng cường công tác cán bộ
Nhằm tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cách mạng, nhất thiết phải xây dựng bộ máy có
hiệu lực.
Trong lãnh đạo khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, Đảng ta đã giải quyết thành công
vấn đề bộ máy. Kinh nghiệm là phải đặt bộ máy trong mối quan hệ với nhiệm vụ cách
mạng, trong sự vận động của thực tiễn cách mạng. Đảng xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng, ra sức làm cho bộ máy đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ, đồng thời phấn đấu làm
cho tổ chức và cơ chế hoạt động của nó phù hợp với thực tiễn nước ta ở từng thời kỳ lịch
sử.
Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, bộ máy bảo đảm thực hiện nhiệm vụ cách
mạng là toàn bộ hệ thống Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế,
xã hội. Vấn đề bao trùm là xác định đúng vai trò, chức nǎng, nhiệm vụ của từng tổ chức
và mối quan hệ giữa các tổ chức nói trên. Vai trò và mối quan hệ đó phải được cụ thể hoá
phù hợp với mọi ngành, mọi cấp, bảo đảm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
bộ máy trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đối với mỗi tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể, quần chúng , công tác tổ chức thực tiễn
lại đòi hỏi Đảng lãnh đạo, xây dựng tổ chức như thế nào cho đúng. ở đây, cần vận dụng
kinh nghiệm thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ là phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng để tổ chức bộ máy. Hơn thế, để tác động tích cực đến đối tượng tổ chức phải
phản ánh đúng những yêu cầu khách quan của nó. Mọi vấn đề về tổ chức mà xuất phát từ
ý chí chủ quan, như vì con người mà lập ra tổ chức, phát triển tổ chức vì động cơ cá
nhân đều dẫn đến sai lầm, làm giảm hiệu quả của tổ chức.
- Bộ máy có vai trò rất quan trọng, nhưng suy đến cùng thì "cán bộ quyết định tất cả". Vì
thế, việc đào tạo, phân công, đề bạt cán bộ, phải là một trong những mối quan tâm lớn
của Đảng.
Sau khi chính quyền cách mạng được thiết lập, đương nhiên các cơ quan nhà nước có
trách nhiệm và quyền hạn giải quyết vấn đề cán bộ của mình. Song, Đảng không thể
không nắm vấn đề cán bộ, Đảng không thể buông lỏng lãnh đạo ở khâu có ý nghĩa quyết
định đó.
Kinh nghiệm giải quyết vấn đề cán bộ là phải xuất phát từ yêu cầu bảo đảm nhiệm vụ
cách mạng mà bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Mặt khác, phải nhận thức rõ
mối quan hệ giữa tổ chức với cán bộ: cán bộ phải thích ứng với đòi hỏi của tổ chức, bảo
đảm cho tổ chức hoàn thành nhiệm vụ. Ngược lại, tổ chức phải tạo điều kiện cho phát
triển tài nǎng, phẩm chất của cán bộ và của mọi bộ phận hợp thành tổ chức. Tổ chức cũng
như con người chỉ có sức mạnh khi có sự phát triển hoà hợp trong thể hữu cơ.
4. Dựa vào sức mạnh làm chủ của nhân dân, thông qua các phong trào cách mạng
của quần chúng để thực hiện mọi nhiệm vụ
Tổ chức thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng nhất thiết phải dựa vào các
phong trào cách mạng của quần chúng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là kết quả
của những cao trào cách mạng nối tiếp nhau. Sở dĩ Đảng có thể phát động được những
cao trào cách mạng đó vì dựa trên cơ sở cương lĩnh, đường lối chiến lược đúng đắn, Đảng
đã đề ra được mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể sát hợp xác định đúng động lực và lực lượng
cách mạng vạch ra được phương pháp, hình thức đấu tranh phù hợp; đề ra được khẩu hiệu
hành động kịp thời, chính xác, kết hợp chặt chẽ khẩu hiệu hành động với khẩu hiệu tuyên
truyền; kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức, v.v Vì thế mà động viên được
mọi tầng lớp nhân dân hǎng hái tham gia phong trào cách mạng.
Trong lãnh đạo tổ chức thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta sớm nhận rõ động
lực mới là sức mạnh làm chủ của nhân dân lao động. Song thực tế những nǎm đầu cả
nước chuyển vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm,
không những hạn chế mà còn triệt tiêu một phần tính tích cực cách mạng của nhân dân
lao động.
Thực tiễn đã chỉ rõ: xây dựng tinh thần làm chủ, phát động các phong trào quần chúng
tiến hành những nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó khǎn. ở đây, không thể
chỉ bằng những kinh nghiệm của cách mạng dân tộc dân chủ, mà phải tìm tòi sáng tạo
mới. Những kinh nghiệm bước đầu của thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa như sau:
- Xác định mục tiêu cụ thể, sát đúng cho mỗi phong trào. Mục tiêu đó phải phản ánh đúng
lợi ích của quần chúng; mặt khác phải bảo đảm tính hiện thực với những điều kiện, biện
pháp sát thực.
- Nắm vững động lực thúc đẩy phong trào, trước hết phải kết hợp đúng đắn ba loại lợi
ích: cá nhân, tập thể, xã hội, trong đó lợi ích cá nhân có ý nghĩa trực tiếp, kết hợp động
lực vật chất với động lực tinh thần.
- Phải có những chủ trương, chính sách, biện pháp đúng. Chủ trương, chính sách, biện
pháp hướng vào việc động viên mọi nǎng lực lao động sáng tạo, khai thác mọi tiềm nǎng,
thực hiện mục tiêu đã định.
- Chú trọng vai trò của tổ chức cơ sở, nhất là các đơn vị cơ sở trực tiếp sản xuất kinh
doanh. Đề cao tính tích cực, chủ động, tháo gỡ mọi sự ràng buộc, tạo điều kiện cho các
đơn vị cơ sở vươn lên hoàn thành nhiệm vụ vì lợi ích của mình, và lợi ích chung của xã
hội.
Tóm lại, phải thực hiện đồng bộ hàng loạt giải pháp mới có những phong trào cách mạng
của quần chúng trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề quyết định sự thành công của cách mạng.
Trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên là nắm vững học thuyết Mác - Lênin, xuất phát từ
thực tiễn cách mạng nước ta, tổng kết kinh nghiệm và vận dụng sáng tạo những kinh
nghiệm đó trong thực tiễn, nhằm giữ vững, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là
nhân tố cơ bản bảo đảm cho đất nước, dân tộc ta tiến từng bước vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố có tính quyết định thắng lợi cuộc
cách mạng tháng tám 1945
(ĐCSVN)- Cách mạng tháng Tám (CMTT) thắng lợi vĩ đại là do nhiều nhân tố hợp thành.
Một trong những nhân tố có tính quyết định thắng lợi đó là vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng lập.
Chưa kể thời kỳ hoạt động của các tổ chức cộng sản tiền thân, để giành được chính quyền cả
nước trong vòng 12 ngày đêm Tổng khởi nghĩa (TKN), Đảng ta đã phải trải qua 15 năm hoạt
động, lãnh đạo thắng lợi liên tiếp mấy cao trào cách mạng với nhiều chiến tích anh hùng, trải qua
với bao khó khăn gian khổ và hy sinh.
Suốt 15 năm đấu tranh để giành chính quyền, giành độc lập dân tộc, biết bao đảng viên ưu tú
của Đảng, nhiều chiến sĩ cách mạng đã bị thực dân Pháp xử bắn, hoặc bị tra tấn dã man mà hy
sinh trong các nhà tù, nhà đày: Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Sơn La, Lao Bảo, Kon
Tum, Buôn Ma Thuột và Côn Đảo
Đến khi phát động cao trào chống Nhật, cứu nước làm tiền đề cho TKN, cũng là lúc nạn đói
khủng khiếp do phát xít Nhật - Pháp gây ra đã giết chết hơn hai triệu đồng bào ta, trong đó có
không ít đảng viên của Đảng và cán bộ Việt Minh. Nhiều đảng viên, chiến sĩ Việt Minh, cả Tổng
bí thư Trường - Chinh và các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương đang hoạt động ở ATK
thuộc vùng trung du và đồng bằng sông Hồng phải nhịn đói, chịu rét, ăn rau, củ chuối bám sát
phong trào, lãnh đạo nhân dân tích cực thực hiện chủ trương khởi nghĩa từng phần (KNTP), phá
kho thóc của giặc Nhật và bọn Việt gian cứu đói; lập các chiến khu chống Nhật, tích cực chống
địch càn quét. Khi sắp họp Hội nghị toàn quốc của Đảng để quyết định TKN, ở lán nhỏ Nà Lừa
trong rừng Tân Trào, Sơn Dương (Tuyên Quang), lãnh tụ Hồ Chí Minh ốm nặng tưởng chừng
khó qua. Đảng ta lúc đó có 5000 đảng viên, nhưng phần lớn còn bị giam giữ trong các nhà tù,
nên không bố trí đủ lực lượng nòng cốt lãnh đạo cho phong trào cả nước.
Lực lượng vũ trang mới có 5000 quân giải phóng trang bị vũ khí thô sơ, mấy ngàn tự vệ cứu
quốc đối chọi với hơn 6 vạn quân Nhật, hàng vạn quân lính của chính quyền bù nhìn Bảo Đại -
Trần Trọng Kim và hàng vạn quân Pháp bị Nhật tạm giam. Phương tiện giao thông, liên lạc điện
đài không có. Mưa lụt đê vỡ de dọa tính mạng hàng triệu đồng bào ở trung du và đồng bằng Bắc
Bộ
Trong thời điểm có nhiều khó khăn tưởng như không thể vượt qua nổi. Nhưng trước vận mệnh
của dân tộc ta đã tới, Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh chớp đúng thời cơ ngàn năm có
một, lúc phát xít Nhật ở chính quốc đã đầu hàng Đồng minh, các thế lực đế quốc, phản động
chưa kịp vào Đông Dương, đã dũng cảm phát đi Quân lệnh số 1 hạ lệnh TKN, kịp thời lãnh đạo
hơn 20 triệu đồng bào nhanh chóng nổi dậy đồng loạt đoạt chính quyền từ tay hàng vạn võ
quan, binh lính Nhật chưa hạ vũ khí, làm chủ hoàn toàn đất nước, phá thế bao vây, cản phá cách
mạng của nhiều thế lực đế quốc, phản động khác.
Trong CMTT, trí tuệ của Đảng là sự tổng hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kinh nghiệm phong phú của cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng nhân dân. Trí
tuệ của toàn Đảng được tập trung cao nhất ở BCH Trung ương, kết hợp hài hòa với trí tuệ thiên
tài của lãnh tụ Hồ Chí Minh - linh hồn của Đảng, của dân tộc và cuộc CMTT.
Có trí tuệ, Đảng đề ra đường lối chính trị đúng đắn biết chuyển hướng chỉ đạo chiến lược phù
hợp với hoàn cảnh và từng bước hoàn thiện đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ; nhận thức
đúng quy luật khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng giải phóng dân tộc nước ta, đề ra chủ trương
KNTP lên TKN rất sáng tạo, độc đáo và kiên quyết lãnh đạo thực hiện thắng lợi chủ trương đó;
Đảng đã phân tích đúng đắn tình hình trong nước và thế giới, dự đoán trước và giúp cho cán bộ,
đảng viên, nhân dân ta tin tưởng sâu sắc cách mạng Việt Nam sẽ thắng lợi.
Để có trí tuệ, Đảng ta đã không ngừng tự nâng cao trình độ lý luận, thường xuyên học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng, kinh nghiệm cách mạng thế
giới. Đảng mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ bí mật và mở lớp trường huấn luyện chính trị, quân
sự công khai dài ngày khi có vùng căn cứ địa, Khu giải phóng Việt Bắc, các chiến khu chống
Nhật. Trong nhà tù của đế quốc, Đảng đã "Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng",
rèn luyện ý chí, nâng cao trình độ văn hóa lý luận để khi thoát khỏi nhà tù có đủ năng lực lãnh
đạo phong trào cách mạng trong bước phát triển đi lên. Những hoạt động thực tiễn về chuẩn bị
lực lượng, lựa chọn và xây dựng căn cứ địa, tổ chức hội nghị quần chúng, chống địch càn quét
khủng bố, đúc rút kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa địa phương, KNTP, đấu tranh tư tưởng, xây
dựng tổ chức được Đảng kịp thời tổng kết và phổ biến trong Đảng, trong nhân dân. Tháng 3-
1945, khi làn sóng KNTP, chiến tranh du kích bắt đầu dấy lên và liên tục phát triển trong tháng 4,
tháng 5, thì tháng 6-1945 trên báo Cờ giải phóng đăng bài "Cuộc kháng chiến anh dũng của
chúng ta" Có rất nhiều sự kiện khác trong thời kỳ CMTT chứng tỏ, Đảng không bỏ sót bất cứ
một thực tiễn đấu tranh nào, dù là nhỏ để rút bài học giáo dục, rèn luyện đảng viên. Vì Đảng ta
đã nhận thức đúng: thực tiễn "dạy cho ta thêm nhiều kinh nghiệm và chỉ có thể lãnh đạo nhân
dân đến chỗ thắng lợi, đảng cách mạng nào biết học ở phong trào"(1). Ngày nay để làm giàu trí
tuệ, bản lĩnh, Đảng phải "không ngừng nâng cao trình độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng
tạo những luận điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đồng thời phải không ngừng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn sinh động từ phong trào
cách mạng quần chúng"(2) như Đại hội VII (1991) đã nêu ra và các Đại hội VIII, Đại hội IX của
Đảng tiếp tục khẳng định và phát triển.
Cách mạng là công việc rất to lớn và khó khăn, đòi hỏi Đảng lãnh đạo phải có nghị lực cách
mạng phi thường, như Hồ Chí Minh đã nói đời này làm chưa xong, đời sau tiếp tục làm. Nghị lực
của Đảng là tinh thần tận tụy dũng cảm hy sinh của toàn Đảng, và của mỗi cán bộ, đảng viên.
Trong CMTT, Đảng có nghị lực nên đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách kiên quyết, khôn khéo
chống địch khủng bố, trong chuẩn bị lực lượng chính trị, vũ trang, trang bị tinh thần và vũ khí cho
quần chúng khởi nghĩa. Cán bộ, đảng viên từ cấp Trung ương, chi bộ đến đã được tôi rèn luyện
trong đấu tranh, nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí kiên trung bất khuất, sẵn sàng chịu
đựng mọi gian khổ hy sinh, luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng.
Có nghị lực, Đảng mới dũng cảm rời bỏ thành thị và hoạt động hợp pháp, chuyển trọng tâm công
tác về nông thôn đồng bằng, miền núi với bao gian khổ, bí mật xây dựng lực lượng và căn cứ địa
cách mạng.
Có nghị lực, năm, sáu đảng viên lãnh đạo hơn 600 quần chúng khởi nghĩa ở Bắc Sơn; vài trăm
đảng viên chỉ huy hàng nghìn quần chúng nhiều tỉnh, thành trong khởi nghĩa Nam Kỳ, một số ít
đảng viên bị giam trong tù đã lãnh đạo thắng lợi cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi); vài ba
đảng viên tổ chức một loạt cuộc KNTP thắng lợi, lập chiến khu Trần Hưng Đạo; ba bốn cán bộ,
đảng viên lãnh đạo lập chiến khu Quang Trung; và mấy nghìn đảng viên lãnh đạo thành công
mau lẹ cuộc TKN giành chính quyền toàn quốc.
Trong thời kỳ CMTT, trí tuệ và nghị lực cách mạng là hai phẩm chất nổi bật nhất thể hiện bản lĩnh
lãnh đạo vững vàng của Đảng ta. Trí tuệ sáng suốt làm cho Đảng có nhiều sáng tạo và tăng
thêm nghị lực cách mạng. Ngược lại, nghị lực cách mạng làm cho trí tuệ và sức sáng tạo của
Đảng càng thêm phong phú bất kể trong hoàn cảnh, tình huống nào.
Có trí tuệ và nghị lực cách mạng, nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bị địch bắt đã vượt
qua nhiều cực hình tra tấn về thể xác và tinh thần, vượt qua mọi cám dỗ mua chuộc và trước lúc
phải hy sinh đã để lại cho Đảng, cho dân những lời trăn trối, căn dặn, động viên bất hủ. Trí tuệ
và nghị lực cách mạng của Đảng là hai yếu tố quan trọng, nhưng chỉ mới bảo đảm cho Đảng đủ
sức hoàn thành một phần nhiệm vụ lãnh đạo trong thời kỳ CMTT khó khăn, nguy hiểm. Phần
quan trọng, quyết định sinh mệnh và vai trò lãnh đạo của Đảng chính là nhân dân tin yêu, đoàn
kết và đấu tranh tự giải phóng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong CMTT, sức mạnh của Đảng được nhân lên gấp nhiều lần bởi sự gắn bó máu thịt giữa
Đảng với nhân dân. Đảng gắn bó với nhân dân bằng đường lối, chủ trương đúng, đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân. Tổ chức Đảng đã bám rễ sâu trong nhân dân, họ tự giác, tự nguyện
bảo vệ cán bộ, tổ chức Đảng. Thông qua các đoàn thể cứu quốc của quần chúng trong Mặt trận
Việt Minh, Đảng lựa chọn được những phần tử trung kiên, ưu tú kết nạp vào tổ chức Đảng, phát
hiện được những phần tử cơ hội, hoặc giả danh cộng sản để phá hoại Đảng, phong trào cách
mạng.
Cán bộ, đảng viên của Đảng từ Trung ương đến địa phương hòa mình, lăn lộn trong phong trào
quần chúng, bám sát cả khi phong trào lên cao, cũng như lúc bị địch khủng bố, đồng cam cộng
khổ với nhân dân, nắm bắt kịp thời nguyện vọng quần chúng và cùng họ đấu tranh thực hiện
bằng được các nguyện vọng đó. Nhờ đó mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân trong CMTT là bền
chặt, lâu dài, không có một âm mưu, thế lực nào chia rẽ, phá hoại được.
Đảng có trí tuệ, nghị lực và liên hệ bền chặt với quần chúng nhân dân là do Đảng hết sức chăm
lo xây dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Suốt cả thời kỳ lãnh đạo đấu
tranh giành chính quyền, trực tiếp là thời kỳ CMTT, không có một nghị quyết nào của Trung ương
Đảng, các xứ ủy, tỉnh ủy, thành ủy mà không dành phần quan trọng nói về công tác xây dựng
Đảng.
Đảng giáo dục đảng viên về sức mạnh vô địch của nhân dân, về đạo đức và phẩm chất cách
mạng bằng chính mục đích, lý tưởng của Đảng, bằng gương phấn đấu, hy sinh của cán bộ, đảng
viên và quần chúng trong mọi tầng lớp nhân dân.
Qua thực tiễn CMTT, ĐCS Việt Nam đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết là Đảng đạo đức
là văn minh, "Đảng tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ
trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn
và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo"(1).
Phát huy truyền thống tốt đẹp của CMTT, ngày nay Đảng ta đã vững mạnh, giữ vững bản chất
cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, kiên định mục tiêu ĐLDT và
CNXH, kiên trì đổi mới theo định hướng XHCN. Là đảng chính trị duy nhất lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới ở nước ta. Đảng luôn kiên trì và nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây dựng
Đảng đủ trí tuệ, nghị lực, năng lực và trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
nhằm đảm bảo sự lãnh đạo thành công của Đảng.
Hiện nay, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng còn có mặt chưa đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới; nhiều vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, về sự lãnh
đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng đề ra trong Cương lĩnh và các Nghị quyết Đại hội
Đảng chậm được làm sáng tỏ, cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện. Một bộ phận cán
bộ, đảng viên của Đảng tính chiến đấu, tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng, còn yếu kém, có biểu hiện thờ ơ, ngại đấu tranh với những trường hợp chống đối, nói và
làm trái quan điểm, đường lối của Đảng. Tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, hẹp hòi, chủ nghĩa
cá nhân chua giảm; tình trạng thoái hóa, biến chất về lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, sách nhiễu nhân dân chưa được ngăn chặn, đẩy lùi triệt để làm cho lòng tin của nhân dân
giảm.
Trong tình hình đó, trở về với tinh thần và kinh nghiệm của CMTT, xây dựng Đảng có đầy đủ trí
tuệ, nghị lực, dũng cảm, trung thành, đạo đức, văn minh, đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhân
dân, phấn đấu hy sinh vì quyền lợi của dân tộc, đất nước, nhân dân và giai cấp công nhân tiên
phong là một giải pháp cấp thiết, thiết thực. Đúng dịp kỷ niệm 60 năm CMTT thành công, lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), HNTƯ 12 (7-
2005), khóa IX của Đảng đã có những nhận định, chủ trương, giải pháp đúng đắn về thực hiện
nhiệm vụ then chốt chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, với yêu cầu và
nhiệm vụ của tình hình mới. HNTW 12 đã đề ra các phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp nhằm
tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng trên tất cả mọi mặt; quyết định lấy chủ đề của Đại hội X sắp
tới là "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển"(1);
đồng thời xác định phải "xây dựng Ban chấp hành Trung ương khóa X của Đảng đủ phẩm chất,
năng lực để hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới"(2). Những chủ trương, quyết định
đó của Trung ương Đảng là bước tiến mới quan trọng trong quá trình chuẩn bị Đại hội X của
Đảng; đồng thời rất có ý nghĩa đối với việc phát huy truyền thống của Đảng và là thể hiện trách
nhiệm to lớn, cao cả của Đảng đối với dân tộc, đất nước, nhân dân và nhiệm vụ cách mạng hiện
nay.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Phải tu
dưỡng đạo đức hàng ngày và suốt đời
Ðọc những bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, ta càng thấm
thía những lời dạy của Người về ý nghĩa của việc tu dưỡng đạo đức.
"Gạo đem vào giã bao đau đớn;
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông;
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới thành công".
Hàng ngày đọc báo, cùng với việc ghi nhận những nhân tố tích cực, chúng ta không khỏi băn
khoăn trước những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Những vụ việc tham nhũng, lãng phí liên quan tới nhiều người và có nhiều nguyên nhân, mà một
trong những nguyên nhân chính là thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện.
Trong những kẻ tham nhũng, có người từng một thời vào sinh ra tử, hoặc từng là cán bộ, đảng
viên tốt. Nhưng vì cá nhân chủ nghĩa, không tu dưỡng đạo đức, đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích
chung, rồi sinh ra vô kỷ luật, vô tổ chức, tham địa vị, tham danh vọng, bè phái, tham ô, lãng phí,
quan liêu.
Ðọc những bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, ta càng thấm thía
những lời dạy của Người về ý nghĩa của việc tu dưỡng đạo đức. Hồ Chí Minh chỉ rõ, "Có những
người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ,
không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong
tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến
thành người có tội với cách mạng". (1)
Tu dưỡng đạo đức là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Không phải ngẫu nhiên mà trong tác phẩm "Ðường Kách
mệnh", Hồ Chí Minh đưa phần giáo dục đạo đức lên hàng đầu, trong đó trước hết phải xử lý mối
quan hệ với chính mình, phải tu dưỡng cá nhân.
Bởi vì, chỉ có ra sức học tập và rèn luyện thì mới trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, mới răn
dạy được người khác. Muốn người ta chính thì trước hết mình phải chính, tự mình phải trong
sáng. Ðã là con người thì đều có thiện, ác ở trong lòng. Người thường xuyên tự tu dưỡng khác
với người không tu dưỡng tương tự như sự khác biệt giữa người sống và người chết.
Trong xu thế hội nhập, cùng với khẳng định sức mạnh tập thể, thì vai trò cá nhân là cực kỳ quan
trọng. Muốn vậy, mỗi người phải thường xuyên tự tu dưỡng đạo đức, như Bác từng căn dặn:
Ðạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày
mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi. Quyền lực một khi được trao vào
tay những cán bộ công chức không có đạo đức, thì quyền lực đó sẽ làm tha hóa con người, biến
con người trở thành nô lệ của quyền lực.
Tư tưởng và tấm gương tu dưỡng, rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học mẫu mực,
sáng ngời trong việc nâng cao đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, ý thức tổ
chức kỷ luật, ý thức trách nhiệm, phục vụ nhân dân, đấu tranh, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, lãng phí.
Là người đứng đầu Ðảng và Nhà nước nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi quyền lực thuộc về
dân và do dân ủy thác. Còn mình thì như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt
trận, "bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui".
Mong muốn của lãnh tụ thật giản dị: làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu
cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với
vòng danh lợi. Mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức được điều đó ở Bác Hồ là việc quan trọng hàng
đầu; tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức rèn luyện và thật sự làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh khó khăn hơn nhiều, nhưng lại là điều có ý nghĩa quyết định nhất.
Tu dưỡng đạo đức cách mạng như chuyện rửa mặt hằng ngày, trên tinh thần tự giác, tự nguyện,
dựa vào lương tâm và ý thức trách nhiệm của mỗi người. Bởi vì đạo đức cách mạng là nhằm giải
phóng con người và là đạo đức của những con người được giải phóng.
Theo Hồ Chí Minh, người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm. Chúng ta không
sợ có sai lầm và khuyết điểm. Ðiều quan trọng là biết nhận ra sai lầm, khuyết điểm, vạch rõ
nguyên nhân vì đâu sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách khắc phục khuyết điểm đó. Tư
tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ
dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ.
Hồ Chí Minh là tấm gương của "Kiên trì và nhẫn nại. Không chịu lùi một phân. Vật chất tuy đau
khổ. Không nao núng tinh thần" để mọi người chúng ta học tập và noi theo.