Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Tài liệu Luận văn - Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.4 KB, 70 trang )

Luận văn
Một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả kinh doanh trong hoạt
động nhập khẩu tại Công ty Vật
tư kỹ thuật Ngân hàng
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI
CÁC DOANH NGHIỆP.
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHẬP KHẨU.
1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.3. Phân loại nhập khẩu.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu
1.5.Vai trò của kinh doanh nhập khẩu.
2. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH NHẬP KHẨU TẠI DOANH NGHIỆP.
2.1. Nghiên cứu thị trường.
2.2. Lập phương án kinh doanh.
2.3. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng.
2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
3.CÁC KHÁI NIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ.
3.1Các quan đIểm hiệu quả.
3.2Sự cần thiết nâng cao hiệu quả.
3.3Nâng cao hiệu quả.
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY VẬT TƯ
KỸ THUẬT NGÂN HÀNG.
1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy điều hành của công ty.


1.3. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty.
1.4. Đặc điểm về thị trường và khách hàng của Công ty.
1.5. Đặc điểm về sản phẩm của Công ty.
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY VẬT TƯ KỸ THUẬT
NGÂN HÀNG.
2.1. Tổ chức giao dịch ký kết hợp đồng
2.2. Tổ chức thực hiện các hợp đồng.
2.3. Thị trường nhập khẩu của Công ty.
2.4. Kết quả hoạt động nhập khẩu của Công ty.
2.5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.6. Đánh giá chung về hoạt động nhập khẩu của Công ty.
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY VẬT TƯ KỸ
THUẬT NGÂN HÀNG.
1. Những quan điểm và định hướng kinh doanh của Công ty Vật tư kỹ
thuật Ngân hàng.
2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập
khẩu của Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng
Khoa QTKD
2
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
3. Kiến nghị.
KẾT LUẬN

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua, các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt
Nam đã đạt được những thành công đáng kể. Với những chủ trương đúng
Khoa QTKD
3
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp

đắn của Đảng và Nhà nước là xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá
đa dạng hoá quan hệ đối ngoại mà chủ yếu là các quan hệ thương mại đặc
biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Việc phát triển quan hệ ngoại thương
được xem là mũi nhọn chiến lược chủ đạo trong chương trình phát triển dài
hạn và toàn diện của đất nước. Những định hướng cơ bản hoàn toàn phù hợp
với xu hướng phát triển chung trên bình diện quốc gia và quốc tế, nó đã
nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Quan hệ ngoại thương giữa nước ta với các nước trên thế
giới không ngừng tăng lên cả về chất và lượng.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế trước sự phát triển như vũ bão
của khoa học kỹ thuật công nghệ thông tin. Việc đẩy mạnh hoạt động xuất
nhập khẩu là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn để phát triển kinh tế đất
nước, tránh được tụt hậu về kinh tế và tham gia hội nhập vào nền kinh tế
quốc tế một cách toàn diện và sâu sắc.
Cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu thương mại, hoạt động
xuất nhập khẩu của nước ta nhìn chung đã đạt được những thành tựu đáng
kể, trong đó Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng đã và đang góp phần tạo nên
thành công đó. Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng là một đơn vị đầu mối về
nhập khẩu các thiết bị chuyên dùng của ngành Ngân hàng phục vụ cho việc
hiện đại hoá hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam. Trong những năm qua Công ty
đã thực hiện nhập khẩu một cách có hiệu quả để phục vụ cho quá trình phát
triển kinh tế, qua đó tạo được uy tín của Công ty đối với thị trường trong
nước và quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa mở ra những cơ hội mới cho
doanh nghiệp nhưng cũng đồng thời nó cũng chứa đựng những rủi ro lớn. Vì
vậy nó đòi hỏi các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế ngày
càng phải tự hoàn thiện mình, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để đảm
bảo doanh nghiệp có thể tồn tại được. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp
Khoa QTKD
4

Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
cang trở nên bức thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Qua thực trạng hoạt động của Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng trong
những năm qua được ghi nhận trong những năm qua trong quá trình thực tập
kết hợp với những kiến thức em đã học được tại Trường Đại học em xin
mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh trong hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân
hàng”.
Đề tài đề cập đến một số ngiệp vụ kinh doanh nhập khẩu hiện nay đang
được sử dụng trong giao dịch ngoại thương tại Việt nam. Cụ thể là các
phương pháp giao dịch, các chứng từ liên quan đến giao dịch ngoại thương.
Qua đó giúp ta có thể hình dung và nắm bắt được những điều cơ bản phải
làm trước khi tiến hành một giao dịch kinh doanh. Thông qua phân tích tình
hình kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Vật tư Ngân hàng rút ra những nhận
xét đánh giá, từ đó đưa ra những giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Vật tư Ngân hàng nói
riêng và các công ty xuất nhập khẩu nói chung.
Trong đề án này được chia làm ba phần sau:
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động nhập khẩu và nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong các doanh nghiệp.
Phần 2: Thực trạng về tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty
Vật tư kỹ thuật Ngân hàng.
Phần 3: Một số phương hướng và biện pháp nhăm nâng cao hiệu quả kinh
doanh trong hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị phòng kinh doanh
XNK-Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp
đỡ tôi trong quá trình khảo sát, nghiên cứu thực tập đạt kết quả tốt. Xin chân
Khoa QTKD
5

Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn - Tiến sỹ Vũ Quang Thọ đã tận tình giúp
đỡ tôi trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chuyên đề này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do vấn đề đặt ra phức tạp trong khi
quỹ thời gian nghiên cứu hạn chế nên khó tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sự
đóng góp ý kiến nhận xét của thầy, cô giáo.
Xin trân trọng cảm ơn !
Hà nội, tháng 5 năm 2004.
Sinh viên

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP
KHẨU TẠI CÁC DOANH NGHIỆP.
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHẬP KHẨU.
1.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Khoa QTKD
6
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
1.1.1.Khái niệm về nhập khẩu.
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, là
quá trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc trao đổi
ngang giá lấy tiền tệ là môi giới. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ
mà là một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có cả tổ
chức bên trong và bên ngoài.
Nếu xét trên phạm vi hẹp thì tại Điều 2 Thông tư số 04/TM-ĐT ngày
30/7/1993 của Bộ Thương mại định nghĩa: “ Kinh doanh nhập khẩu thiết bị là
toàn bộ quá trình giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị
và dịch vụ có liên quan đến thiết bị trong quan hệ bạn hàng với nước ngoài ”.
Vậy thực chất kinh doanh nhập khẩu ở đây là nhập khẩu từ các tổ
chức kinh tế, các Công ty nước ngoài, tiến hành tiêu thụ hàng hoá, vật tư ở
thị trường nội địa hoặc tái xuất với mục tiêu lợi nhuận và nối liền sản xuất

giữa các quốc gia với nhau.
Mục tiêu hoạt động kinh doanh nhập khẩu là sử dụng có hiệu quả
nguồn ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, thiết bị kỹ thuật và dịch vụ phục vụ cho
quá trình tái sản xuất mở rộng, nâng cao năng suất lao động, tăng giá trị ngày
công, và giải quyết sự khan hiếm hàng hoá, vật tư trên thị trường nội địa.
Mặt khác, kinh doanh nhập khẩu đảm bảo sự phát triển ổn định của
các ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước
chưa đảm bảo vật tư, thiết bị kỹ thuật đáp ứng nhu cầu phát triển, khai thác
triệt để lợi thế so sánh của quốc gia, góp phần thực hiện chuyên môn hoá
trong phân công lao động quốc tế, kết hợp hài hoà và có hiệu quả giữa nhập
khẩu và cải thiện cán cân thanh toán.
thiện cán cân thanh toán quốc tế .
1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động phức tạp so với hoạt động kinh
doanh trong nước. Hoạt động nhập khẩu có những đặc điểm sau:
Khoa QTKD
7
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
- Hoạt động nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật như
điều ước quốc tế và Ngoại thương, luật quốc gia của các nước hữu quan, tập
quán Thương mại quốc tế.
- Các phương thức giao dịch mua bán trên thị trường quốc tế rất
phong phú: Giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch tại
hội chợ triển lãm.
- Các phương thức thanh toán rất đa dạng: nhờ thu, hàng đổi hàng,
L/C
- Tiền tệ dùng trong thanh toán thường là ngoại tệ mạnh có sức chuyển
đổi cao như : USD, bảng Anh
- Điều kiện cơ sở giao hàng: có nhiều hình thức nhưng phổ biến là
nhập khẩu theo điều kiện CIF, FOB

- Kinh doanh nhập khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên dịa
bàn rộng, thủ tục phức tạp, thời gian thực hiện lâu.
- Kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc vào kiến thức kinh doanh, trình độ
quản lý, trình độ nghiệp vụ Ngoại thương, sự nhanh nhạy nắm bắt thông tin.
- Trong hoạt động nhập khẩu có thể xảy ra những rủi ro thuộc về hàng
hoá. Để đề phong rủi ro, có thể mua bảo hiểm tương ứng.
- Hoạt động nhập khẩu là cơ hội để các doanh nghiệp có quốc tịch
khác nhau hợp tác lâu dài. Thương mại quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến
quan hệ kinh tế - chính trị của các nước xuất khẩu, góp phần phát triển kinh
tế đối ngoại.
1.3. Phân loại nhập khẩu.
Dưới đây là một số loại hình nhập khẩu cơ bản và phổ biến nhất:
1.3.1. Nhập khẩu trực tiếp.
Theo cách thức này, bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau,
việc mua và việc bán không ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ mua mà
không bán, bên bán có thể chỉ bán mà không mua. Hoạt động chủ yếu là
Khoa QTKD
8
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
doanh nghiệp trong nước nhập khẩu hàng hoá, vật tư ở thị trường nước ngoài
đem về tiêu thụ ở thị trường trong nước. Để tiến tới ký kết hợp đồng kinh
doanh nhập khẩu, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhu cầu nhập khẩu vật
tư, thiết bị trên thị trường nội địa, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh
doanh nhập khẩu có hiệu quả, đàm phán kỹ lưỡng về các điều kiện giao dịch
với bên xuất khẩu, thực hiện theo hành lang pháp lý quốc gia cũng như thông
lệ quốc tế.
Đặc điểm: Được tiến hành một cách đơn giản. Bên nhập khẩu phải
nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng và thực hiện theo
đúng hợp đồng, phải tự bỏ vốn, chịu mọi rủi ro và chi phí giao dịch, nghiên
cứu, giao nhận, kho bãi cùng các chi phí có liên quan đến tiêu thụ hàng háo,

thuế nhập khẩu
1.3.2. Nhập khẩu uỷ thác.
Theo quyết định số 1172/TM/XNK ngày 22/9/1994 của Bộ trưởng Bộ
Thương Mại về việc ban hành” Quy chế XNK uỷ thác giữa các pháp nhân
trong nước” đã định nghĩa như sau:
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức
nhận làm dịch vụ nhập khẩu. Hoạt động này được làm trên cơ sở hợp đồng
uỷ thác giữa các doanh nghiệp phù hợp với những quy định của pháp lệnh
hợp đồng kinh tế.
Như vậy, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu được hình thành giữa các doanh
nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một loại vật
tư, thiết bị nào đó nhưng lại không được phép nhập khẩu trực tiếp hoặc gặp
khó khăn trong việc tìm kiếm bạn hàng, thực hiện thủ tục uỷ thác nhập khẩu
cho doanh nghiệp có chức năng thương mại quốc tế tiến hành nhập khẩu
theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải cung cấp cho bên uỷ thác các
thông tin về thị trường, giá cả, khách hàng, những điều kiện có liên quan đến
đơn hàng uỷ thác thương lượng đàm phán và ký kết hợp đồng uỷ thác. Bên
Khoa QTKD
9
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
nhận uỷ thác phải tiến hành làm các thủ tục nhập khẩu và được hưởng phần
thù lao gọi là phí uỷ thác.
Đặc điểm: Doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu uỷ thác không
phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải tìm kiếm thị trường tiêu
thụ hàng nhập, giá trị hàng nhập chỉ được tính vào kim ngạch XNK không
được tính vào doanh thu. Khi nhận uỷ thác phải làm hai hợp đồng: Một hợp
đồng mua bán hàng hoá, vật tư với nước ngoài và một hợp đồng uỷ thác nhập
khẩu với bên uỷ thác ở trong nước.
1.3.3. Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu trong Thương mại quốc tế là một phương thức giao

dịch trao đổi hàng hoá trong đó nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu,
người bán đồng thời là người mua và ngược lại. Lượng hàng hoá dịch vụ trao
đổi có giá trị tương đương. Giao dịch đối lưu dựa trên bốn nguyên tắc cân
bằng: Cân bằng về mặt hàng, cân bằng về giá cả, cân bằng về cùng một điều
kiện giao hàng và cân bằng về tổng giá trị hàng hoá trao đổi.
Đặc điểm: Hợp đồng này có lợi ở chỗ là cùng một hợp đồng ta có thể
tiến hành đồng thời hoạt động xuất và nhập khẩu. Đối với hình thức này thì
lượng hàng giao đi và lượng hàng nhận về có giá trị tương đương nhau.
Doanh nghiệp xuất khẩu được tính vào cả kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh
thu trên hàng hoá nhập và hàng xuất.
1.3.4. Nhập khẩu tái xuất.
Mỗi nước có một định nghĩa riêng về tái xuất, nhưng đều thống nhất
một quan điểm về tái xuất là xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá
trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Có nghĩa là tiến
hành nhập khẩu không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước
thứ ba nhằm thu lợi nhuận. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất
khẩu với mục đích thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu.
Khoa QTKD
10
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
Giao dịch này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước
nhập khẩu.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí nhập hàng và
xuất hàng sao cho thu hút được lượng ngoại tệ lớn hơn chi phí ban đầu bỏ ra.
- Doanh nghiệp tái xuất phải tiến hành hai loại hợp đồng: Một hợp
đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu nhưng không phải nộp thuế
XNK.
- Doanh nghiệp tái xuất được tính kim ngạch trên cả hàng tái xuất và
hàng nhập, doanh số tính trên giá trị hàng hoá tái xuất do đó vẫn chịu thuế.

- Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể
chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu theo hình thức chuyển
khẩu, nhưng tiền phải do người tái xuất trả cho người nhập khẩu và thu từ
người nhập khẩu.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một họat động kinh doanh hết sức
phức tạp và nhạy cảm với môi trường kinh doanh. Kinh doanh nhập khẩu
chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Có hai nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến
hoạt động nhập khẩu, đó là:
1.4.1. Những nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp.
Các yếu tố bên trong doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp, nó tác động một cách trực
tiếp và là yếu tố nội lực quyết định hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp
có đạt hiệu quả hay không. Các nhân tố đó là:
* Tổ chức hoạt động kinh doanh: Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến
điều kiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Nếu như việc
tổ chức kinh doanh càng phù hợp với chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp,
phù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị
Khoa QTKD
11
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
trường thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Làm
tốt công tác tổ chức kinh doanh có nghĩa là doanh nghiệp phải là tốt các
khâu: Chuẩn bị trước khi giao dịch như nghiên cứu thị trường, khai thác nhu
cầu tiêu dùng trong nước, lập phương án kinh doanh thận trọng
* Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp: Bộ máy quản lý doanh
nghiệp có ảnh hưởng một cách gián tiếp tới hiệu quả của hoạt động kinh
doanh nhập khẩu nói riêng và hoạt động kinh doanh toàn doanh nghiệp nói
chung. Tổ chức bộ máy quản lý hợp lý, gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả sẽ tạo
thuận lợi cho công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc xây dựng và hoàn

thiện cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp là một điều hết sức quan trọng
trong kinh doanh XNK.
* Nhân tố con người: Đội ngũ cán bộ công nhân viên là một nhân tố
quan trọng có tính chất quyết định đối với sự thành công hay thất bại trong
hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Nếu
doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động, có năng lực,
trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình, tích cực trong công tác kết hợp với việc
bố trí nguồn nhân lực theo chiến lược “ đúng người, đúng việc, đúng lúc” của
doanh nghiệp thì nhất định sẽ có ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả kinh doanh.
* Vốn kinh doanh: Là nhân tố tối quan trọng, là thành phần không thể
thiếu trong kinh doanh, nó là cơ sở cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
* Cơ sở vật chất và uy tín kinh doanh của doanh nghiệp: Nếu công ty
có cơ sở vật chất kỹ thuật càng hiện đại bao nhiêu thì càng tạo điều kiện
thuận lợi cho công việc kinh doanh bấy nhiêu như: việc giữ gìn bảo quản
hàng hoá được tốt hơn, tiết kiệm chi phí trong khâu vận chuyển , nâng cao
chất lượng phục vụ
* Thị trường - khách hàng: Thị trường là một tấm gương trung thực
cho các doanh nghiệp tự soi vào để đánh giá hiệu quả kinh doanh của mình.
Khoa QTKD
12
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có đạt hiệu quả cao hay không phụ
thuộc vào mức độ đáp ứng các yêu cầu của thị trường.
1.4.2. Những nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp.
Đây là nhóm nhân tố có tầm ảnh hưởng vĩ mô điều tiết hoạt động
doanh nghiệp, nó bao gồm:
* Quan hệ chính trị và kinh tế giữa nước ta với nước khác: Hoạt động
nhập khẩu hoạt động trong một khung cảnh rộng lớn là nền kinh tế thế giới,
thị trường quốc tế, đối tượng hợp tác rất đa dạng. Việc mở rộng các mối quan

hệ chính trị ngoại giao sẽ tạo điều kiện thuận lợi và tiền đề pháp lý cho các tổ
chức kinh doanh phát triển những bạn hàng mới.
* Hệ thống luật pháp: Nó tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt
động. Hệ thống luật pháp yêu cầu phải động bộ, nhất quán và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
* Môi trường chính trị - xã hội: Nhân tố này gây ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động nhập khẩu. Có đảm bảo ổn định về chính trị, giữ vững môi
trường hoà bình và hữu nghị với các nước trên khu vực và trên thế giới thì
mới tạo bầu không khí thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh nói chung và
hoạt động nhập khẩu nói riêng.
* Môi trường kinh doanh: Phải đảm bảo sự ổn định vĩ mô nên kinh tế
trong đó chú ý đảm bảo tỷ giá hối đoái ổn định và phù hợp, khắc phụ sự thâm
hụt của cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế nhăm lành mạnh
hoá môi trường kinh doanh, sẽ tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh
nhập khẩu.
1.5. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một trong hai bộ phận cấu thành
nên nghiệp vụ ngoại thương. Biểu hiện là việc mua hàng hoá và dịch vụ từ
nước ngoài về phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc nhằm tái sản xuất
với mục đích thu lợi nhuận. Nhập khẩu thể hiện mối tương quan gắn bó chặt
Khoa QTKD
13
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
chẽ với nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên mỗi một thời kỳ đều có đặc điểm riêng, chiến lược phát triển kinh
tế riêngvì vậy mà vai trò, nhiệm vụcủa hoạt động kinh doanh nhập khẩu cũng
được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu nhà nước đề ra.
Trên thực tế, một khi nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập vào nền kinh tế
thế giới thì vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng trở nên
quan trọng, có thể thấy cụ thể là:

- Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng trong nước, cho phép tiêu
dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao cũng như thị hiếu của người tiêu dùng, làm
tăng mức sống người dân, tăng thu nhập quốc dân.
- Nhập khẩu tạo sự chuyển giao công nghệ, do đó có thể tái xuất mở
rộng hàng hoá có hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí, tạo ra sự đồng đều
về phát triển trong nước.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh tích cực giữa hàng nội và hàng nhập
khẩu tức là tạo ra động lực cho các nhà sản xuất trong nước không ngừng
vươn lên, tạo đà cho xã hội ngày càng phát triển.
- Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để cơ chế tự
cung tự cấp của nền kinh tế đóng.
- Nhập khẩu giải quyết được các nhu cầu đặc biệt như hàng hoá khan
hiếm, hàng hoá cao cấp, công nghệ hiện đại mà trong nước không thể sản
xuất được hay khó khăn trong quá trình sản xuất vì nguồn lực khan hiếm.
- Nhập khẩu góp phần khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của một
quốc gia, tham gia sâu rộng và sự trao đổi quốc tế và sự phân công lao động
quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất, gắn thị trường trong nước với
thị trường thế giới, từng bước hoà nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế
thế giới phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Khoa QTKD
14
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
Tuy nhiên, để phát huy được hết vai trò và nhiệm vụ của hoạt động
nhập khẩu còn tuỳ thuộc và quan điểm đường lối lãnh đạo của mỗi nước. Với
nước ta, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước quản lý kinh tế đối
ngoại tập trung bằng mệnh lệnh, nghị định của chính phủ làm cho hoạt
động nhập khẩu mất đi tính linh hoạt và không đúng với bản chất của nó. Từ
sau ĐH VI, nhà nước đã đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại phù hợp
với nền kinh tế thị trường thì hoạt động nhập khẩu đang dần khởi sắc và đi

vào quỹ đạo của nó.
Tuy chỉ qua một thời gian ngắn mà hoạt động nhập khẩu đã phát
huy được vai trò lớn của nó, thực sự đã tạo cho thị trường trong nước trở nên
sôi động, đa dạng và phong phú về hàng hoá, vật tư. Tạo ra sự cạnh tranh
mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nền kinh tế
nước ta đang chuyển mình hoà nhập với nền kinh tế khu vự và thế giới.
2. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH NHẬP KHẨU TẠI CÁC DOANH NGHIỆP.
2.1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là cả một quá trình tìm kiếm khách
hàng và có hệ thống cùng với việc phát triển tổng hợp các thông tin cần thiết
để giải quyết vấn đề Marketing. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường ngày càng
đóng vai trò quan trọng để giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong
hoạt động nhập khẩu.
Để nắm vững các yếu tố thị trường hiểu rõ quy luật vận động của thị
trường nhăm ứng xử kịp thời, các nhà nhập khẩu nhất thiết phải tiến hành
công tác nghiên cứu thị trường, bao gồm: Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu,
nghiên cứu dung lượng thị trường, lựa chọn bạn hàng, nghiên cứu giá cả
hàng hoá trong nhập khẩu.
2.1.1. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
Khoa QTKD
15
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
Mục đích nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu là để tiến hành nhập khẩu
đúng chủng loại mà thị trường trong nước cần kinh doanh có hiệu quả, đạt
được mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc nhận biết mặt hàng nhập
khẩu trước hết căn cứ vào nghiên cứu sản xuất và tiêu dùng trong nước về số
lượng, chất lượng, tính thời vụ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của
từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh
của hàng hoá cần nhập khẩu như công dụng, đặc tính, quy cách, phẩm chất,
mẫu mã, giá cả, điều kiện mua bán, kỹ năng sản xuất và các dịch vụ kèm

theo
2.1.2. Nghiên cứu dung lượng thị trường.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một
phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định, thường là một
năm. Nghiên cứu dung lượng thị trường phải xác định nhu cầu thật của khách
hàng và khả năng cung cấp của nhà sản xuất. Nghiên cứu dung lượng của thị
trường nhằm hiểu rõ hơn về quy luật vận động của thị trường.
2.1.3. Lựa chọn bạn hàng.
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người
hoặc những tổ chức có quan hệ với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng
mua bán hàng hoá hay dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học
kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá.
Chọn thương nhân để giao dịch: Thường chọn những người xuất nhập
khẩu trực tiếp. Chúng ta cần quan tâm đến quan điểm kinh doanh của thương
nhân đó, lĩnh vực kinh doanh của họ, vốn, cơ sở vật chất, uy tín và mối quan
hệ trong kinh doanh của họ.
2.1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu.
Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị
trường, nghiên cứu giá cả thị trường là một bộ phận của nghiên cứu thị
Khoa QTKD
16
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
trường, nó bao gồm các công việc sau: Nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại
từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh
hưởng.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định
trên thị trường thế giới và là giá của những giao dịch thông thường, không
kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do
chuyển đổi.
2.2. Lập phương án kinh doanh.

Bao gồm các bước sau:
- Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
- Đề ra những mục tiêu cụ thể như : sẽ nhập khẩu bao nhiêu với giá cả
bao nhiêu, nhập ở thị trường nào và tình hình tiêu thụ hàng hoá đó như thế
nào.
- Đề ra biện pháp thức hiện: Bao gồm cả biện pháp đối với trong nước
và biện pháp đối với thị trường ngoài.
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh
2.3. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng.
2.3.1. Các phương thức chủ yếu trong giao dịch nhập khẩu.
Dưới đây là một số phương thức giao dịch cơ bản trong buôn bán quốc
tế:
* Giao dịch trực tiếp: Giao dịch trực tiếp trong kinh doanh thương mại
quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc bán) thoả thuận, bàn bạc trực tiếp
(hoặc thông qua thư từ, điện tín ) với người bán (người mua) về hàng hoá,
giá cả, giao dịch, phương thức thanh toán. Trong phương thức thanh toán này
hai bên tiếp cận thị trường hỏi giá, báo giá, chào hàng và đi đến chấp thuận
giá cả của hàng hoá đó. Và từ đó đi đến ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng
hoá.
Khoa QTKD
17
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
* Giao dịch qua trung gian: Giao dịch qua trung gian trong kinh doanh
Thương mại quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc người bán) quy định về
điều kiện trong giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch,
phương thức thanh toán phải qua một người thứ ba là người trung gian
buôn bán(chủ yếu là các cửa hàng đại lý, các tổ chức môi giới). Việc sử dụng
đại lý và môi giới có nhiều ưu điểm: Những người trung gian hiểu rõ về tình
hình thị trường, luật pháp, tập quán địa phương, giảm được chi phí vận

chuyển, hình thành được đại lý buôn bán tiêu thụ rộng, tạo điều kiện cho việc
chiếm lĩnh thị trường mới. Tuy nhiên giao dịch này cũng có những nhược
điểm là mất liên hệ trực tiếp với khách hàng, thị trường buôn bán, lợi nhuận
bị chia sẻ
* Giao dịch tại hội chợ triển lãm: Hội chợ là thị trường hoạt động định
kỳ tổ chức vào một thời gian nhất định. Tại đó người bán trưng bày hàng hoá
của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.
* Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá: Sở giao dịch hàng hoá là thị
trường đặc biệt, tại đó thông qua người môi giới do sở giao dịch chỉ định
người mua và người bán mua bán hàng hoá có khối lượng lớn có phẩm chất
đồng loại và có thể thay thế nhau. Các loại giao dịch ở sở giao dịch là: Giao
dịch ngay, giao dịch kỳ hạn, nghiệp vụ tự bảo hiểm
2.3.2. Đàm phán
Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể
trong một quan hệ kinh doanh nhằm đi tới thống nhất các điều kiện, cách xử
lý những vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán. Nội dung của các cuộc
đàm phán thương mại gồm: Tên hàng, phẩm chất, số lượng, bao bì, đóng gói,
giao hàng, giá cả, thanh toán, bảo hiểm, bảo hành
2.3.3. Ký kết hợp đồng nhập khẩu.
Một hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận giữa những đương
sự có quốc tịch khác nhau trong đó một bên bán (bên xuất khẩu) là một tài
Khoa QTKD
18
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhập hàng.
Hình thức hợp đồng bằng văn bản là một hình thức bắt buộc đối với các đơn
vị XNK ở nước ta. Các điều khoản trong hợp đồng do bên mua và bên bán
thoả thuận chi tiết, mặc dù trước đó đã có đơn đặt hàng và chào hàng, nhưng
vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng làm cơ sở pháp lý cụ thể cho các hoạt
động trao đổi hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác, và làm căn cứ

cho việc xác định lỗi khi có tranh chấp xảy ra.
2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Sau khi hợp đồng nhập khẩu được ký kết, đơn vị kinh doanh XNK với
tư cách là một bên ký kết - phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Nói chung
cần tiến hành các công việc sau:
- Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh
nghiệp xuất nhập khẩu và xin giấy phép nhập khẩu đối với hàng chuyên
ngành.
- Kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu: Theo NĐ 200/CP ngày
31/12/1973 và Thông tư liên Bộ GTVT- Ngoại thương số 52/TTLB ngày
25/1/1975, hàng nhập khẩu khi đi qua cửa khẩu cần được kiểm tra kỹ càng.
Doanh nghiệp nhập khẩu, với tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn,
phải lập thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng có tổn thất, sau
đó phải yêu cầu công ty bảo hiểm lập biên bản giám định nếu tổn thất xảy ra
bởi những rủi ro đã được mua bảo hiểm.
- Thuê tàu chở hoặc uỷ thác thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp
đồng nhập khẩu việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào: Những điều
khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều
kiện vận tải. Chủ hàng nhập khẩu phải căn cứ vào đặc điểm và khối lượng
vận chuyển của hàng hoá để lựa chọn thuê tàu cho phù hợp đảm bảo thuận
lợi và nhanh chóng.
Khoa QTKD
19
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
- Mua bảo hiểm: Các chủ hàng nhập khẩu của ta, khi cần mua bảo
hiểm, đều mua tại các Công ty Việt nam để đề phòng rủi ro. Các đơn vị kinh
doanh khi mua bảo hiểm phải làm một hợp đồng với công ty bảo hiểm. Tuỳ
thuộc vào đặc điểm tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà mua
bảo hiểm chuyến hay mua bảo hiểm bao. Có ba điều kiện bảo hiểm chính:

Bảo hiểm rủi ro (Điều kiện A), Bảo hiểm có tổn thất riêng (Điều kiện B) và
Bảo hiểm miễn tổn thất riêng (Điều kiện C).
- Làm thủ tục Hải quan: Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia
để nhập khẩu đều phải làm thủ tục Hải quan. Thủ tục Hải quan là một công
cụ quản lý hành vi mua bán theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn buôn
lậu. Việc làm thủ tục Hải quan gồm ba bước chủ yếu: Khai báo Hải quan,
xuất trình hàng hoá và thực hiện các quyết định của Hải quan.
- Giao nhận hàng nhập khẩu: Theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1973 “ Các
cơ quan vận tải có trách nhiệm tiếp nhận hàng nhập khẩu trên các phương
tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ,
lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của tổng
công ty đã nhập hàng đó”. Và theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1993 của nhà
nước thì mọi việc giao nhận hàng đều phải uỷ thác qua cảng khi hàng về
cảng.
- Làm thủ tục thanh toán: Nghiệp vụ thanh toán là sự vận dụng tổng
hợp các điều kiện thanh toán quốc tế, là nghiệp vụ quan trọng và cuối cùng
trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Trong kinh doanh thương mại hiện
nay có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như: phương thức nhờ
thu, phương thức điện chuyển tiền và phương thức tín dụng chứng từ.
+ Khiếu nại và giải quyết khiếu nại: Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu
chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu
hụt, mất mát thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời gian khiếu
nại.
3. CÁC KHÁI NIỆM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG
HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP.
Khoa QTKD
20
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
3.1. Các quan điểm về hiệu quả.
Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên nhiều góc độ khác

nhau để xem xét.
Nếu xét theo hiệu quả cuối cùng thì: Hiệu quả kinh tế là mức độ chênh
lêch giữa doanh số thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Đứng
trên góc độ này thì phạm trù hiệu quả đông nhất với lợi nhuận. Hiệu quả kinh
doanh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức hoạt động sản xuất -
kinh doanh và tổ chức quản lý trong toàn doanh nghiệp.
Nếu đứng trên góc độ các yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả thể
hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất-
kinh doanh. Nó phản ánh kết quả kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố
tham gia vào hoạt động sản xuất-kinh doanh. Chỉ tiêu hiệu quả là một chỉ
tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố tham gia quá
trình sản xuất-kinh doanh. Đồng thời là phạm trù kinh tế gắn liền với sản
xuất hàng hoá, phản ánh trình độ của nền sản xuất hàng hoá, sản xuất hàng
hoá có phát triển hay không là do hiệu quả đạt được cao hay thấp, chỉ tiêu
hiệu quả phản ánh cả về mặt định lượng và cả về mặt định tính. Về mặt định
lượng thì hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất-kinh doanh phản ánh mối
tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Về mặt định tính nó phản
ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất - kinh doanh đối với việc giải quyết
những yêu cầu và mục tiêu kinh tế, những yêu cầu và mục tiêu chính trị - xã
hội.
Khi đứng trên phạm vi khác nhau để xem xét vấn đề hiệu quả thì có thể
chia hiệu quả làm nhiều loaị khác nhau.
Nếu đứng trên phạm vi xã hội và nền kinh tế quốc dân để xem xét thì
gồm có hiệu quả KT- XH và hiệu quả chính trị. Cả hai chỉ tiêu hiệu quả này
đều có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Khoa QTKD
21
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố, từng doanh nghiệp riêng lẻ thì có
phạm trù hiệu quả kinh tế và phạm trù hiệu quả kinh doanh.

Hiệu quả kinh tế của một hoạt động sản xuất-kinh doanh nhăm đề cập
tới những lợi ích kinh tế mà hoạt động đó thu được thông qua việc so sánh
giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh
tế không phản ánh quy mô, hình thức của hoat động kinh tế mà phản ánh về
mặt chất lượng của nó. Trong quá trình phát triển sản xuất xã hội thì nguồn
tài nguyên ngày càng khan hiếm và trở nên đắt hơn, người ta thấy rằng kết
quả thu được từ các hoạt động đó là rất thấp. Lý luận hiệu quả kinh tế băt
nguồn từ yêu cầu thự tế của quá trình sản xuất nhằm diễn giải, đánh giá chất
lượng của toàn bộ quá trình hoạt động đó đồng thời tác động tích cực trở lại
công tác quản lý, tổ chức kinh doanh được tốt hơn. Vấn đề hiệu quả kinh tế
trở thành chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh chung của quốc tế khi đưa
ra thảo luận năm 1878 do Sapodơnicop cùng các nhà kinh tế và khoa học
khác trình bày. Nhưng mãi tới năm 1910 thì hiệu quả kinh tế mới chính thức
được thống nhất và được công nhận băng văn bản. Từ đó tới nay, khái niệm
về hiệu quả kinh tê luôn được quan tâm nghiên cứu, hoàn thiện và trở thành
bộ phân quan trọng của kinh tế học trong nền kinh tế thị trường. Quan điểm
về hiệu quả kinh tế được chia thành ba hệ thống quan điểm sau:
* Hệ thống quan điểm thứ nhất: Cho răng hiệu quả kinh tế được xác
định bởi tỷ số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Hiệu quả kinh tế được đánh giá theo công thức:
Q
H=
C
Trong đó: Q : Là kết quả đạt được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Khoa QTKD
22
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
Theo cách đánh giá hiệu quả kinh tế của quan điểm này thì số lần đạt
được kết quả so với chi phí ngày càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao. Đại

diện cho quan điểm này là Colicop phát biểu: “Hiệu quả sản xuất là tính hiệu
quả của một nền sản xuất nhất định. Chúng ta sẽ so sánh kết quả với chi phí
cần thiết để đạt kết quả đó. Khi lấy tổng sản phẩm chia cho vốn sản xuất
chúng ta được hiệu suất vật tư, tổng sản phẩm chia cho số vật tư ta được hiệu
suất lao động ”. Trong cuốn “ Những vấn đề cơ bản về nâng cao hiệu quả
kinh tế của nền sản xuất xã hội” xuất bản năm 1982, PTS Trần Văn Đức cho
rằng: “Hiệu quả kinh tế được xem xét trong mối tương quan giữa một bên là
kết quả thu được và một bên là chi phí bỏ ra ”. Tác giả Lê Thụ cũng đã xác
định: “Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu tổng hợp nhất về chất lượng của hoạt động
SX-KD. Nội dung của nó là so sánh kết quả thu được và chi phí bỏ ra”.
* Hệ thống quan điểm thứ hai: Cho rằng hiệu quả kinh tế được đo bằng
hiệu số giữa giá trị sản xuất đạt được và chi phí bỏ ra đẻe đạt được kết quả
đó. Theo quan điểm này hiệu quả kinh tế được xác định bằng công thức:

H = Q - C
Trong đó: Q : Là giá trị sản xuất đạt được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Có thể nói hiệu quả kinh tế được tính theo quan điểm này là phần tăng
thêm về giá trị từ kết quả thu được so với chi phí bỏ ra. Theo quan điểm này,
tác giả Đỗ Thịnh cho rằng: “Thông thường hiệu quả được biểu hiện như một
hiệu số giữa kết quả và lượng chi phí Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều
trường hợp không thực hiện được phép trừ không có ý nghĩa. Do vậy nói một
cách linh hoạt hơn nên hiểu hiệu quả kinh tế theo quan điểm này là:
Qt - Qt-1
H =
Khoa QTKD
23
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
Ct - Ct-1
Trong đó: Qt và Qt-1 : Là kết quả của hai thời kỳ liên kết.

Ct và Ct-1 : Là chi phí tương ứng với Qt và Qt-1.
Quan điểm này thường được dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế trong
tổng thể kinh tế - xã hội. Quan điểm tổng thể của LN. Canieop cho rằng:
“Hiệu quả của sản xuất xã hội được tính toán và kế hoạch hoá trên cơ sở
những nguyên tác chung đối với nền KTQD bằng cách so sánh kết quả của
sản xuất với chi phí hoặc nguồn dự trữ đã sử dụng.
Từ hệ thống quan điểm hiệu quả kinh tế trên cho thấy khái niệm hiệu
quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó được hình thành, bổ sung và hoàn
thiện cùng với quá trình của lịch sử phát triển kinh tế. Để áp dụng khái niệm
hiệu quả kinh tế cho việc phân tích một cách đầy đủ, chính xác các hình thức
kinh tế, chúng ta cần kết hợp hài hoà việc sử dụng ba hệ thống quan điểm
trên. Mỗi hệ thống quan điểm hiệu quả kinh tế sẽ được áp dụng để phân tích
hiện tượng kinh tế theo từng lĩnh vực với mức độ, phạm vi không gian thời
gian cụ thể. Chẳng hạn khi phân tích kết quả kinh tế của một hiện tượng mà
chỉ chú trọng tới hệ thông quan điểm thứ nhất thì sẽ không được hiệu quả
thực của các mức đầu tư tạ các giai đoạn khác của hoạt động kinh tế đó. Điều
đó dẫn tới sai sót trong việc hoạch định kết quả quản lý trong tương lai.
Thường những ngành đạt tỷ suất nguồn vốn lớn là ngành sản xuất có quy mô
nhỏ, có chu kỳ sống của sản phẩm ngắn, mức độ cạnh tranh và rủi ro cao nên
việc so sánh hiệu quả của các quy mô sản xuất khác nhau. Xét hiệu qủa kinh
tế của hoạt động kinh doanh theo tỷ số giữa gia tăng hiệu quả và gia tăng chi
phí tương ứng theo thời kỳ là xét hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư ứng với
nền tảng cơ sở vật chất hay nguồn lực đã có sẵn, ứng với các mức đầu tư theo
các giai đoạn khác nhau của cùng một hoạt động kinh tế ta đã thu được các
mức gia tăng của kết quả là khác nhau.
Khoa QTKD
24
Nguyễn Cảnh Hiệp - Q8T1 Khóa luận tốt nghiệp
Vậy, khái niệm hiệu quả kinh tế có thể được mở rộng theo ba hệ thống
quan điểm trên là: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế đánh giá một

cách tổng quát chất lượng các hoạt động kinh tế thông qua các chỉ tiêu hiệu
số, chỉ tiêu so sánh hay sự gia tăng giữa kết quả và chi phí để đạt kết quả đó
theo những lĩnh vực trong những điều kiện cụ thể.
Ngoài các công thức tổng quát trên thì hiệu quả kinh tế của một hoạt
động kinh doanh được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau, trong đó
chủ yếu là:
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (TLN):
Q - C
TLN =
C
Trong đó: Q : Là kết quả thu được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu này là cơ sở để đánh giá cơ hội đầu tư vào các hoạt động kinh
doanh khác nhau, nó còn dùng để so sánh cơ hội và lãi suất, lạm phát, mức
tăng giảm của tỷ giá hối đoái để có chính sách đúng cho đầu tư tương lai.
- Suất chi phí ( HC):
HC = C/Q.
Chỉ tiêu này biểu hiện tỷ trọng chi phí cần thiết để có được một đơn vị
kết quả hay còn gọi là suất tiêu hao. Nó thường được để định giá các sản
phẩm trước khi tung ra thị trường.
- Tỷ suất doanh lợi ( Rb):
B + A
Khoa QTKD
25

×