Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.98 KB, 74 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua, các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam
đã đạt được những thành công đáng kể. Với những chủ trương đúng đắn của
Đảng và Nhà nước là xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá đa dạng hoá
quan hệ đối ngoại mà chủ yếu là các quan hệ thương mại đặc biệt là trong lĩnh
vực xuất nhập khẩu. Việc phát triển quan hệ ngoại thương được xem là mũi
nhọn chiến lược chủ đạo trong chương trình phát triển dài hạn và toàn diện của
đất nước. Những định hướng cơ bản hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển
chung trên bình diện quốc gia và quốc tế, nó đã nhanh chóng đưa nền kinh tế
nước ta hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quan hệ ngoại
thương giữa nước ta với các nước trên thế giới không ngừng tăng lên cả về chất
và lượng.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế trước sự phát triển như vũ bão của
khoa học kỹ thuật công nghệ thông tin. Việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập
khẩu là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn để phát triển kinh tế đất nước, tránh
được tụt hậu về kinh tế và tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế một cách
toàn diện và sâu sắc.
Cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu thương mại, hoạt động xuất
nhập khẩu của nước ta nhìn chung đã đạt được những thành tựu đáng kể, trong
đó Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng đã và đang góp phần tạo nên thành công
đó. Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng là một đơn vị đầu mối về nhập khẩu các
thiết bị chuyên dùng của ngành Ngân hàng phục vụ cho việc hiện đại hoá hệ
thống Ngân hàng ở Việt Nam. Trong những năm qua Công ty đã thực hiện nhập
khẩu một cách có hiệu quả để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế, qua đó
tạo được uy tín của Công ty đối với thị trường trong nước và quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa mở ra những cơ hội mới cho doanh
nghiệp nhưng cũng đồng thời nó cũng chứa đựng những rủi ro lớn. Vì vậy nó
đòi hỏi các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế ngày càng phải tự
hoàn thiện mình, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để đảm bảo doanh
nghiệp có thể tồn tại được. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt
động xuất nhập khẩu thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cang trở nên bức


thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Qua thực trạng hoạt động của Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng trong
những năm qua được ghi nhận trong những năm qua trong quá trình thực tập kết
hợp với những kiến thức em đã học được tại Trường Đại học em xin mạnh dạn
chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh trong
hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng”.
Đề tài đề cập đến một số ngiệp vụ kinh doanh nhập khẩu hiện nay đang
được sử dụng trong giao dịch ngoại thương tại Việt nam. Cụ thể là các phương
pháp giao dịch, các chứng từ liên quan đến giao dịch ngoại thương. Qua đó giúp
ta có thể hình dung và nắm bắt được những điều cơ bản phải làm trước khi tiến
hành một giao dịch kinh doanh. Thông qua phân tích tình hình kinh doanh nhập
khẩu tại Công ty Vật tư Ngân hàng rút ra những nhận xét đánh giá, từ đó đưa ra
những giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
nhập khẩu tại Công ty Vật tư Ngân hàng nói riêng và các công ty xuất nhập
khẩu nói chung.
Trong đề án này được chia làm ba phần sau:
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động nhập khẩu và nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong các doanh nghiệp.
Phần 2: Thực trạng về tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công
ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng.
Phần 3: Một số phương hướng và biện pháp nhăm nâng cao hiệu quả kinh
doanh trong hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị phòng kinh doanh XNK-
Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi
trong quá trình khảo sát, nghiên cứu thực tập đạt kết quả tốt. Xin chân thành
cảm ơn thầy giáo hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện chuyên đề này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do vấn đề đặt ra phức tạp trong khi
quỹ thời gian nghiên cứu hạn chế nên khó tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sự
đóng góp ý kiến nhận xét của thầy, cô giáo.

Xin trân trọng cảm ơn !

CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÁC
DOANH NGHIỆP
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHẬP KHẨU
1.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm về nhập khẩu
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, là quá
trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc trao đổi ngang giá
lấy tiền tệ là môi giới. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ
thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có cả tổ chức bên trong và
bên ngoài.
Nếu xét trên phạm vi hẹp thì tại Điều 2 Thông tư số 04/TM-ĐT ngày
30/7/1993 của Bộ Thương mại định nghĩa: “ Kinh doanh nhập khẩu thiết bị là
toàn bộ quá trình giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị và
dịch vụ có liên quan đến thiết bị trong quan hệ bạn hàng với nước ngoài ”.
Vậy thực chất kinh doanh nhập khẩu ở đây là nhập khẩu từ các tổ chức
kinh tế, các Công ty nước ngoài, tiến hành tiêu thụ hàng hoá, vật tư ở thị trường
nội địa hoặc tái xuất với mục tiêu lợi nhuận và nối liền sản xuất giữa các quốc
gia với nhau.
Mục tiêu hoạt động kinh doanh nhập khẩu là sử dụng có hiệu quả nguồn
ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, thiết bị kỹ thuật và dịch vụ phục vụ cho quá trình
tái sản xuất mở rộng, nâng cao năng suất lao động, tăng giá trị ngày công, và
giải quyết sự khan hiếm hàng hoá, vật tư trên thị trường nội địa.
Mặt khác, kinh doanh nhập khẩu đảm bảo sự phát triển ổn định của các
ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước chưa
đảm bảo vật tư, thiết bị kỹ thuật đáp ứng nhu cầu phát triển, khai thác triệt để lợi
thế so sánh của quốc gia, góp phần thực hiện chuyên môn hoá trong phân công
lao động quốc tế, kết hợp hài hoà và có hiệu quả giữa nhập khẩu và cải thiện cán

cân thanh toán.
thiện cán cân thanh toán quốc tế.
1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động phức tạp so với hoạt động kinh doanh
trong nước. Hoạt động nhập khẩu có những đặc điểm sau:
- Hoạt động nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật như điều
ước quốc tế và Ngoại thương, luật quốc gia của các nước hữu quan, tập quán
Thương mại quốc tế.
- Các phương thức giao dịch mua bán trên thị trường quốc tế rất phong
phú: Giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch tại hội chợ
triển lãm.
- Các phương thức thanh toán rất đa dạng: nhờ thu, hàng đổi hàng, L/C...
- Tiền tệ dùng trong thanh toán thường là ngoại tệ mạnh có sức chuyển
đổi cao như : USD, bảng Anh...
- Điều kiện cơ sở giao hàng: có nhiều hình thức nhưng phổ biến là nhập
khẩu theo điều kiện CIF, FOB...
- Kinh doanh nhập khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên dịa bàn
rộng, thủ tục phức tạp, thời gian thực hiện lâu.
- Kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc vào kiến thức kinh doanh, trình độ
quản lý, trình độ nghiệp vụ Ngoại thương, sự nhanh nhạy nắm bắt thông tin.
- Trong hoạt động nhập khẩu có thể xảy ra những rủi ro thuộc về hàng
hoá. Để đề phong rủi ro, có thể mua bảo hiểm tương ứng.
- Hoạt động nhập khẩu là cơ hội để các doanh nghiệp có quốc tịch khác
nhau hợp tác lâu dài. Thương mại quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ
kinh tế - chính trị của các nước xuất khẩu, góp phần phát triển kinh tế đối ngoại.
1.3. Phân loại nhập khẩu
Dưới đây là một số loại hình nhập khẩu cơ bản và phổ biến nhất:
1.3.1. Nhập khẩu trực tiếp
Theo cách thức này, bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc
mua và việc bán không ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ mua mà không bán,

bên bán có thể chỉ bán mà không mua. Hoạt động chủ yếu là doanh nghiệp trong
nước nhập khẩu hàng hoá, vật tư ở thị trường nước ngoài đem về tiêu thụ ở thị
trường trong nước. Để tiến tới ký kết hợp đồng kinh doanh nhập khẩu, doanh
nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhu cầu nhập khẩu vật tư, thiết bị trên thị trường nội
địa, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả,
đàm phán kỹ lưỡng về các điều kiện giao dịch với bên xuất khẩu, thực hiện theo
hành lang pháp lý quốc gia cũng như thông lệ quốc tế.
Đặc điểm: Được tiến hành một cách đơn giản. Bên nhập khẩu phải nghiên
cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng và thực hiện theo đúng hợp
đồng, phải tự bỏ vốn, chịu mọi rủi ro và chi phí giao dịch, nghiên cứu, giao
nhận, kho bãi cùng các chi phí có liên quan đến tiêu thụ hàng háo, thuế nhập
khẩu...
1.3.2. Nhập khẩu uỷ thác.
Theo quyết định số 1172/TM/XNK ngày 22/9/1994 của Bộ trưởng Bộ
Thương Mại về việc ban hành” Quy chế XNK uỷ thác giữa các pháp nhân trong
nước” đã định nghĩa như sau:
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức nhận
làm dịch vụ nhập khẩu. Hoạt động này được làm trên cơ sở hợp đồng uỷ thác
giữa các doanh nghiệp phù hợp với những quy định của pháp lệnh hợp đồng
kinh tế.
Như vậy, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu được hình thành giữa các doanh
nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một loại vật tư,
thiết bị nào đó nhưng lại không được phép nhập khẩu trực tiếp hoặc gặp khó
khăn trong việc tìm kiếm bạn hàng, thực hiện thủ tục uỷ thác nhập khẩu cho
doanh nghiệp có chức năng thương mại quốc tế tiến hành nhập khẩu theo yêu
cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải cung cấp cho bên uỷ thác các thông tin về
thị trường, giá cả, khách hàng, những điều kiện có liên quan đến đơn hàng uỷ
thác thương lượng đàm phán và ký kết hợp đồng uỷ thác. Bên nhận uỷ thác phải
tiến hành làm các thủ tục nhập khẩu và được hưởng phần thù lao gọi là phí uỷ
thác.

Đặc điểm: Doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu uỷ thác không
phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải tìm kiếm thị trường tiêu thụ
hàng nhập, giá trị hàng nhập chỉ được tính vào kim ngạch XNK không được tính
vào doanh thu. Khi nhận uỷ thác phải làm hai hợp đồng: Một hợp đồng mua bán
hàng hoá, vật tư với nước ngoài và một hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ
thác ở trong nước.
1.3.3. Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu trong Thương mại quốc tế là một phương thức giao
dịch trao đổi hàng hoá trong đó nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người
bán đồng thời là người mua và ngược lại. Lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi có
giá trị tương đương. Giao dịch đối lưu dựa trên bốn nguyên tắc cân bằng: Cân
bằng về mặt hàng, cân bằng về giá cả, cân bằng về cùng một điều kiện giao hàng
và cân bằng về tổng giá trị hàng hoá trao đổi.
Đặc điểm: Hợp đồng này có lợi ở chỗ là cùng một hợp đồng ta có thể tiến
hành đồng thời hoạt động xuất và nhập khẩu. Đối với hình thức này thì lượng
hàng giao đi và lượng hàng nhận về có giá trị tương đương nhau. Doanh nghiệp
xuất khẩu được tính vào cả kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh thu trên hàng hoá
nhập và hàng xuất.
1.3.4. Nhập khẩu tái xuất.
Mỗi nước có một định nghĩa riêng về tái xuất, nhưng đều thống nhất một
quan điểm về tái xuất là xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây
đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Có nghĩa là tiến hành nhập
khẩu không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba nhằm
thu lợi nhuận. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích
thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn thu hút
ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí nhập hàng và xuất
hàng sao cho thu hút được lượng ngoại tệ lớn hơn chi phí ban đầu bỏ ra.
- Doanh nghiệp tái xuất phải tiến hành hai loại hợp đồng: Một hợp đồng

nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu nhưng không phải nộp thuế XNK.
- Doanh nghiệp tái xuất được tính kim ngạch trên cả hàng tái xuất và hàng
nhập, doanh số tính trên giá trị hàng hoá tái xuất do đó vẫn chịu thuế.
- Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể
chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu theo hình thức chuyển
khẩu, nhưng tiền phải do người tái xuất trả cho người nhập khẩu và thu từ người
nhập khẩu.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một họat động kinh doanh hết sức
phức tạp và nhạy cảm với môi trường kinh doanh. Kinh doanh nhập khẩu chịu
ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Có hai nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt
động nhập khẩu, đó là:
1.4.1. Những nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp.
Các yếu tố bên trong doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp, nó tác động một cách trực tiếp và là
yếu tố nội lực quyết định hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp có đạt hiệu quả
hay không. Các nhân tố đó là:
* Tổ chức hoạt động kinh doanh: Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến
điều kiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Nếu như việc tổ
chức kinh doanh càng phù hợp với chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp, phù
hợp với yêu cầu kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường thì
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Làm tốt công tác
tổ chức kinh doanh có nghĩa là doanh nghiệp phải là tốt các khâu: Chuẩn bị
trước khi giao dịch như nghiên cứu thị trường, khai thác nhu cầu tiêu dùng trong
nước, lập phương án kinh doanh thận trọng...
* Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp: Bộ máy quản lý doanh nghiệp
có ảnh hưởng một cách gián tiếp tới hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập
khẩu nói riêng và hoạt động kinh doanh toàn doanh nghiệp nói chung. Tổ chức
bộ máy quản lý hợp lý, gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho công
tác nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức

bộ máy của doanh nghiệp là một điều hết sức quan trọng trong kinh doanh
XNK.
* Nhân tố con người: Đội ngũ cán bộ công nhân viên là một nhân tố quan
trọng có tính chất quyết định đối với sự thành công hay thất bại trong hoạt động
kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Nếu doanh nghiệp có
đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động, có năng lực, trình độ chuyên môn
cao, nhiệt tình, tích cực trong công tác kết hợp với việc bố trí nguồn nhân lực
theo chiến lược “ đúng người, đúng việc, đúng lúc” của doanh nghiệp thì nhất
định sẽ có ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả kinh doanh.
* Vốn kinh doanh: Là nhân tố tối quan trọng, là thành phần không thể
thiếu trong kinh doanh, nó là cơ sở cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
* Cơ sở vật chất và uy tín kinh doanh của doanh nghiệp: Nếu công ty có
cơ sở vật chất kỹ thuật càng hiện đại bao nhiêu thì càng tạo điều kiện thuận lợi
cho công việc kinh doanh bấy nhiêu như: việc giữ gìn bảo quản hàng hoá được
tốt hơn, tiết kiệm chi phí trong khâu vận chuyển , nâng cao chất lượng phục vụ
* Thị trường - khách hàng: Thị trường là một tấm gương trung thực cho
các doanh nghiệp tự soi vào để đánh giá hiệu quả kinh doanh của mình. Hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp có đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc vào
mức độ đáp ứng các yêu cầu của thị trường.
1.4.2. Những nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp.
Đây là nhóm nhân tố có tầm ảnh hưởng vĩ mô điều tiết hoạt động doanh
nghiệp, nó bao gồm:
* Quan hệ chính trị và kinh tế giữa nước ta với nước khác: Hoạt động
nhập khẩu hoạt động trong một khung cảnh rộng lớn là nền kinh tế thế giới, thị
trường quốc tế, đối tượng hợp tác rất đa dạng. Việc mở rộng các mối quan hệ
chính trị ngoại giao sẽ tạo điều kiện thuận lợi và tiền đề pháp lý cho các tổ chức
kinh doanh phát triển những bạn hàng mới.
* Hệ thống luật pháp: Nó tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt
động. Hệ thống luật pháp yêu cầu phải động bộ, nhất quán và phù hợp với thông

lệ quốc tế.
* Môi trường chính trị - xã hội: Nhân tố này gây ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động nhập khẩu. Có đảm bảo ổn định về chính trị, giữ vững môi trường
hoà bình và hữu nghị với các nước trên khu vực và trên thế giới thì mới tạo bầu
không khí thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập
khẩu nói riêng.
* Môi trường kinh doanh: Phải đảm bảo sự ổn định vĩ mô nên kinh tế
trong đó chú ý đảm bảo tỷ giá hối đoái ổn định và phù hợp, khắc phụ sự thâm
hụt của cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế nhăm lành mạnh hoá
môi trường kinh doanh, sẽ tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh nhập
khẩu.
1.5. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một trong hai bộ phận cấu thành nên
nghiệp vụ ngoại thương. Biểu hiện là việc mua hàng hoá và dịch vụ từ nước
ngoài về phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc nhằm tái sản xuất với mục
đích thu lợi nhuận. Nhập khẩu thể hiện mối tương quan gắn bó chặt chẽ với
nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên
mỗi một thời kỳ đều có đặc điểm riêng, chiến lược phát triển kinh tế riêngvì vậy
mà vai trò, nhiệm vụcủa hoạt động kinh doanh nhập khẩu cũng được điều chỉnh
cho phù hợp với mục tiêu nhà nước đề ra.
Trên thực tế, một khi nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập vào nền kinh tế thế
giới thì vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng trở nên quan
trọng, có thể thấy cụ thể là:
- Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng trong nước, cho phép tiêu dùng
một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng ngày càng cao cũng như thị hiếu của người tiêu dùng, làm tăng mức
sống người dân, tăng thu nhập quốc dân.
- Nhập khẩu tạo sự chuyển giao công nghệ, do đó có thể tái xuất mở rộng
hàng hoá có hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí, tạo ra sự đồng đều về phát
triển trong nước.

- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh tích cực giữa hàng nội và hàng nhập khẩu
tức là tạo ra động lực cho các nhà sản xuất trong nước không ngừng vươn lên,
tạo đà cho xã hội ngày càng phát triển.
- Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để cơ chế tự cung tự
cấp của nền kinh tế đóng.
- Nhập khẩu giải quyết được các nhu cầu đặc biệt như hàng hoá khan
hiếm, hàng hoá cao cấp, công nghệ hiện đại mà trong nước không thể sản xuất
được hay khó khăn trong quá trình sản xuất vì nguồn lực khan hiếm.
- Nhập khẩu góp phần khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của một quốc
gia, tham gia sâu rộng và sự trao đổi quốc tế và sự phân công lao động quốc tế
trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất, gắn thị trường trong nước với thị trường
thế giới, từng bước hoà nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới phù
hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên, để phát huy được hết vai trò và nhiệm vụ của hoạt động nhập
khẩu còn tuỳ thuộc và quan điểm đường lối lãnh đạo của mỗi nước. Với nước ta,
trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước quản lý kinh tế đối ngoại tập
trung bằng mệnh lệnh, nghị định của chính phủ... làm cho hoạt động nhập khẩu
mất đi tính linh hoạt và không đúng với bản chất của nó. Từ sau ĐH VI, nhà
nước đã đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại phù hợp với nền kinh tế thị
trường thì hoạt động nhập khẩu đang dần khởi sắc và đi vào quỹ đạo của nó.
Tuy chỉ qua một thời gian ngắn mà hoạt động nhập khẩu đã phát huy được
vai trò lớn của nó, thực sự đã tạo cho thị trường trong nước trở nên sôi động, đa
dạng và phong phú về hàng hoá, vật tư. Tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang chuyển
mình hoà nhập với nền kinh tế khu vự và thế giới.
2. Các bước tiến hành nhập khẩu tại các doanh nghiệp
2.1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là cả một quá trình tìm kiếm khách hàng
và có hệ thống cùng với việc phát triển tổng hợp các thông tin cần thiết để giải
quyết vấn đề Marketing. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường ngày càng đóng vai trò

quan trọng để giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong hoạt động nhập
khẩu.
Để nắm vững các yếu tố thị trường hiểu rõ quy luật vận động của thị
trường nhăm ứng xử kịp thời, các nhà nhập khẩu nhất thiết phải tiến hành công
tác nghiên cứu thị trường, bao gồm: Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu, nghiên
cứu dung lượng thị trường, lựa chọn bạn hàng, nghiên cứu giá cả hàng hoá trong
nhập khẩu.
2.1.1. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
Mục đích nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu là để tiến hành nhập khẩu đúng
chủng loại mà thị trường trong nước cần kinh doanh có hiệu quả, đạt được mục
tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc nhận biết mặt hàng nhập khẩu trước hết
căn cứ vào nghiên cứu sản xuất và tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng,
tính thời vụ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực
sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá cần nhập khẩu
như công dụng, đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã, giá cả, điều kiện mua
bán, kỹ năng sản xuất và các dịch vụ kèm theo...
2.1.2. Nghiên cứu dung lượng thị trường.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một
phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định, thường là một năm.
Nghiên cứu dung lượng thị trường phải xác định nhu cầu thật của khách hàng và
khả năng cung cấp của nhà sản xuất. Nghiên cứu dung lượng của thị trường
nhằm hiểu rõ hơn về quy luật vận động của thị trường.
2.1.3. Lựa chọn bạn hàng.
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người hoặc
những tổ chức có quan hệ với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hoá hay dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên
quan đến việc cung cấp hàng hoá.
Chọn thương nhân để giao dịch: Thường chọn những người xuất nhập
khẩu trực tiếp. Chúng ta cần quan tâm đến quan điểm kinh doanh của thương
nhân đó, lĩnh vực kinh doanh của họ, vốn, cơ sở vật chất, uy tín và mối quan hệ

trong kinh doanh của họ.
2.1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu.
Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị trường,
nghiên cứu giá cả thị trường là một bộ phận của nghiên cứu thị trường, nó bao
gồm các công việc sau: Nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng thời điểm
trên thị trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên
thị trường thế giới và là giá của những giao dịch thông thường, không kèm theo
một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
2.2. Lập phương án kinh doanh.
Bao gồm các bước sau:
- Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
- Đề ra những mục tiêu cụ thể như : sẽ nhập khẩu bao nhiêu với giá cả bao
nhiêu, nhập ở thị trường nào và tình hình tiêu thụ hàng hoá đó như thế nào.
- Đề ra biện pháp thức hiện: Bao gồm cả biện pháp đối với trong nước và
biện pháp đối với thị trường ngoài.
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh
2.3. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng.
2.3.1. Các phương thức chủ yếu trong giao dịch nhập khẩu.
Dưới đây là một số phương thức giao dịch cơ bản trong buôn bán quốc tế:
* Giao dịch trực tiếp: Giao dịch trực tiếp trong kinh doanh thương mại
quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc bán) thoả thuận, bàn bạc trực tiếp
(hoặc thông qua thư từ, điện tín...) với người bán (người mua) về hàng hoá, giá
cả, giao dịch, phương thức thanh toán. Trong phương thức thanh toán này hai
bên tiếp cận thị trường hỏi giá, báo giá, chào hàng và đi đến chấp thuận giá cả
của hàng hoá đó. Và từ đó đi đến ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hoá.
* Giao dịch qua trung gian: Giao dịch qua trung gian trong kinh doanh
Thương mại quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc người bán) quy định về
điều kiện trong giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch,

phương thức thanh toán... phải qua một người thứ ba là người trung gian buôn
bán(chủ yếu là các cửa hàng đại lý, các tổ chức môi giới). Việc sử dụng đại lý và
môi giới có nhiều ưu điểm: Những người trung gian hiểu rõ về tình hình thị
trường, luật pháp, tập quán địa phương, giảm được chi phí vận chuyển, hình
thành được đại lý buôn bán tiêu thụ rộng, tạo điều kiện cho việc chiếm lĩnh thị
trường mới. Tuy nhiên giao dịch này cũng có những nhược điểm là mất liên hệ
trực tiếp với khách hàng, thị trường buôn bán, lợi nhuận bị chia sẻ....
* Giao dịch tại hội chợ triển lãm: Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ
tổ chức vào một thời gian nhất định. Tại đó người bán trưng bày hàng hoá của
mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.
* Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá: Sở giao dịch hàng hoá là thị trường
đặc biệt, tại đó thông qua người môi giới do sở giao dịch chỉ định người mua và
người bán mua bán hàng hoá có khối lượng lớn có phẩm chất đồng loại và có
thể thay thế nhau. Các loại giao dịch ở sở giao dịch là: Giao dịch ngay, giao dịch
kỳ hạn, nghiệp vụ tự bảo hiểm...
2.3.2. Đàm phán
Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong
một quan hệ kinh doanh nhằm đi tới thống nhất các điều kiện, cách xử lý những
vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán. Nội dung của các cuộc đàm phán
thương mại gồm: Tên hàng, phẩm chất, số lượng, bao bì, đóng gói, giao hàng,
giá cả, thanh toán, bảo hiểm, bảo hành...
2.3.3. Ký kết hợp đồng nhập khẩu.
Một hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận giữa những đương sự
có quốc tịch khác nhau trong đó một bên bán (bên xuất khẩu) là một tài sản nhất
định gọi là hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhập hàng. Hình thức
hợp đồng bằng văn bản là một hình thức bắt buộc đối với các đơn vị XNK ở
nước ta. Các điều khoản trong hợp đồng do bên mua và bên bán thoả thuận chi
tiết, mặc dù trước đó đã có đơn đặt hàng và chào hàng, nhưng vẫn phải thiết lập
văn bản hợp đồng làm cơ sở pháp lý cụ thể cho các hoạt động trao đổi hàng hoá
từ quốc gia này sang quốc gia khác, và làm căn cứ cho việc xác định lỗi khi có

tranh chấp xảy ra.
2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Sau khi hợp đồng nhập khẩu được ký kết, đơn vị kinh doanh XNK với tư
cách là một bên ký kết - phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Nói chung cần tiến
hành các công việc sau:
- Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp xuất
nhập khẩu và xin giấy phép nhập khẩu đối với hàng chuyên ngành.
- Kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu: Theo NĐ 200/CP ngày
31/12/1973 và Thông tư liên Bộ GTVT- Ngoại thương số 52/TTLB ngày
25/1/1975, hàng nhập khẩu khi đi qua cửa khẩu cần được kiểm tra kỹ càng.
Doanh nghiệp nhập khẩu, với tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn, phải
lập thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng có tổn thất, sau đó phải
yêu cầu công ty bảo hiểm lập biên bản giám định nếu tổn thất xảy ra bởi những
rủi ro đã được mua bảo hiểm.
- Thuê tàu chở hoặc uỷ thác thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng
nhập khẩu việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào: Những điều khoản
của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận
tải. Chủ hàng nhập khẩu phải căn cứ vào đặc điểm và khối lượng vận chuyển
của hàng hoá để lựa chọn thuê tàu cho phù hợp đảm bảo thuận lợi và nhanh
chóng.
- Mua bảo hiểm: Các chủ hàng nhập khẩu của ta, khi cần mua bảo hiểm,
đều mua tại các Công ty Việt nam để đề phòng rủi ro. Các đơn vị kinh doanh khi
mua bảo hiểm phải làm một hợp đồng với công ty bảo hiểm. Tuỳ thuộc vào đặc
điểm tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà mua bảo hiểm chuyến
hay mua bảo hiểm bao. Có ba điều kiện bảo hiểm chính: Bảo hiểm rủi ro (Điều
kiện A), Bảo hiểm có tổn thất riêng (Điều kiện B) và Bảo hiểm miễn tổn thất
riêng (Điều kiện C).
- Làm thủ tục Hải quan: Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để
nhập khẩu đều phải làm thủ tục Hải quan. Thủ tục Hải quan là một công cụ quản

lý hành vi mua bán theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn buôn lậu. Việc
làm thủ tục Hải quan gồm ba bước chủ yếu: Khai báo Hải quan, xuất trình hàng
hoá và thực hiện các quyết định của Hải quan.
- Giao nhận hàng nhập khẩu: Theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1973 “ Các cơ
quan vận tải có trách nhiệm tiếp nhận hàng nhập khẩu trên các phương tiện vận
tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu
bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của tổng công ty đã
nhập hàng đó”. Và theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1993 của nhà nước thì mọi việc
giao nhận hàng đều phải uỷ thác qua cảng khi hàng về cảng.
- Làm thủ tục thanh toán: Nghiệp vụ thanh toán là sự vận dụng tổng hợp
các điều kiện thanh toán quốc tế, là nghiệp vụ quan trọng và cuối cùng trong
việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Trong kinh doanh thương mại hiện nay có
rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như: phương thức nhờ thu, phương
thức điện chuyển tiền và phương thức tín dụng chứng từ.
+ Khiếu nại và giải quyết khiếu nại: Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ
hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất
mát thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời gian khiếu nại.
3. Các khái niệm về nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập
khẩu của doanh nghiệp
3.1. Các quan điểm về hiệu quả
Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau
để xem xét.
Nếu xét theo hiệu quả cuối cùng thì: Hiệu quả kinh tế là mức độ chênh
lêch giữa doanh số thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Đứng trên
góc độ này thì phạm trù hiệu quả đông nhất với lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh
cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức hoạt động sản xuất - kinh doanh
và tổ chức quản lý trong toàn doanh nghiệp.
Nếu đứng trên góc độ các yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả thể hiện
trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất-kinh doanh.
Nó phản ánh kết quả kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào

hoạt động sản xuất-kinh doanh. Chỉ tiêu hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng
hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố tham gia quá trình sản xuất-kinh
doanh. Đồng thời là phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá, phản ánh
trình độ của nền sản xuất hàng hoá, sản xuất hàng hoá có phát triển hay không
là do hiệu quả đạt được cao hay thấp, chỉ tiêu hiệu quả phản ánh cả về mặt định
lượng và cả về mặt định tính. Về mặt định lượng thì hiệu quả kinh tế của hoạt
động sản xuất-kinh doanh phản ánh mối tương quan giữa kết quả thu được và
chi phí bỏ ra. Về mặt định tính nó phản ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất -
kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế, những
yêu cầu và mục tiêu chính trị - xã hội.
Khi đứng trên phạm vi khác nhau để xem xét vấn đề hiệu quả thì có thể
chia hiệu quả làm nhiều loaị khác nhau.
Nếu đứng trên phạm vi xã hội và nền kinh tế quốc dân để xem xét thì gồm
có hiệu quả KT- XH và hiệu quả chính trị. Cả hai chỉ tiêu hiệu quả này đều có vị
trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố, từng doanh nghiệp riêng lẻ thì có
phạm trù hiệu quả kinh tế và phạm trù hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh tế của một hoạt động sản xuất-kinh doanh nhăm đề cập tới
những lợi ích kinh tế mà hoạt động đó thu được thông qua việc so sánh giữa các
chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế không
phản ánh quy mô, hình thức của hoat động kinh tế mà phản ánh về mặt chất
lượng của nó. Trong quá trình phát triển sản xuất xã hội thì nguồn tài nguyên
ngày càng khan hiếm và trở nên đắt hơn, người ta thấy rằng kết quả thu được từ
các hoạt động đó là rất thấp. Lý luận hiệu quả kinh tế băt nguồn từ yêu cầu thự
tế của quá trình sản xuất nhằm diễn giải, đánh giá chất lượng của toàn bộ quá
trình hoạt động đó đồng thời tác động tích cực trở lại công tác quản lý, tổ chức
kinh doanh được tốt hơn. Vấn đề hiệu quả kinh tế trở thành chỉ tiêu đánh giá
hoạt động kinh doanh chung của quốc tế khi đưa ra thảo luận năm 1878 do
Sapodơnicop cùng các nhà kinh tế và khoa học khác trình bày. Nhưng mãi tới
năm 1910 thì hiệu quả kinh tế mới chính thức được thống nhất và được công

nhận băng văn bản. Từ đó tới nay, khái niệm về hiệu quả kinh tê luôn được quan
tâm nghiên cứu, hoàn thiện và trở thành bộ phân quan trọng của kinh tế học
trong nền kinh tế thị trường. Quan điểm về hiệu quả kinh tế được chia thành ba
hệ thống quan điểm sau:
* Hệ thống quan điểm thứ nhất: Cho răng hiệu quả kinh tế được xác định
bởi tỷ số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu
quả kinh tế được đánh giá theo công thức:
Q
H= ------
C
Trong đó: Q : Là kết quả đạt được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Theo cách đánh giá hiệu quả kinh tế của quan điểm này thì số lần đạt được
kết quả so với chi phí ngày càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao. Đại diện cho
quan điểm này là Colicop phát biểu: “Hiệu quả sản xuất là tính hiệu quả của một
nền sản xuất nhất định. Chúng ta sẽ so sánh kết quả với chi phí cần thiết để đạt
kết quả đó. Khi lấy tổng sản phẩm chia cho vốn sản xuất chúng ta được hiệu
suất vật tư, tổng sản phẩm chia cho số vật tư ta được hiệu suất lao động ”. Trong
cuốn “ Những vấn đề cơ bản về nâng cao hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã
hội” xuất bản năm 1982, PTS Trần Văn Đức cho rằng: “Hiệu quả kinh tế được
xem xét trong mối tương quan giữa một bên là kết quả thu được và một bên là
chi phí bỏ ra ”. Tác giả Lê Thụ cũng đã xác định: “Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu
tổng hợp nhất về chất lượng của hoạt động
SX-KD. Nội dung của nó là so sánh kết quả thu được và chi phí bỏ ra”.
* Hệ thống quan điểm thứ hai: Cho rằng hiệu quả kinh tế được đo bằng
hiệu số giữa giá trị sản xuất đạt được và chi phí bỏ ra đẻe đạt được kết quả đó.
Theo quan điểm này hiệu quả kinh tế được xác định bằng công thức:

H = Q - C
Trong đó: Q : Là giá trị sản xuất đạt được.

C : Là chi phí bỏ ra.
Có thể nói hiệu quả kinh tế được tính theo quan điểm này là phần tăng
thêm về giá trị từ kết quả thu được so với chi phí bỏ ra. Theo quan điểm này, tác
giả Đỗ Thịnh cho rằng: “Thông thường hiệu quả được biểu hiện như một hiệu số
giữa kết quả và lượng chi phí... Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều trường hợp
không thực hiện được phép trừ không có ý nghĩa. Do vậy nói một cách linh hoạt
hơn nên hiểu hiệu quả kinh tế theo quan điểm này là:
Qt - Qt-1
H = --------------
Ct - Ct-1
Trong đó: Qt và Qt-1 : Là kết quả của hai thời kỳ liên kết.
Ct và Ct-1 : Là chi phí tương ứng với Qt và Qt-1.
Quan điểm này thường được dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế trong tổng
thể kinh tế - xã hội. Quan điểm tổng thể của LN. Canieop cho rằng: “Hiệu quả
của sản xuất xã hội được tính toán và kế hoạch hoá trên cơ sở những nguyên tác
chung đối với nền KTQD bằng cách so sánh kết quả của sản xuất với chi phí
hoặc nguồn dự trữ đã sử dụng.
Từ hệ thống quan điểm hiệu quả kinh tế trên cho thấy khái niệm hiệu quả
kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó được hình thành, bổ sung và hoàn thiện cùng
với quá trình của lịch sử phát triển kinh tế. Để áp dụng khái niệm hiệu quả kinh
tế cho việc phân tích một cách đầy đủ, chính xác các hình thức kinh tế, chúng ta
cần kết hợp hài hoà việc sử dụng ba hệ thống quan điểm trên. Mỗi hệ thống
quan điểm hiệu quả kinh tế sẽ được áp dụng để phân tích hiện tượng kinh tế theo
từng lĩnh vực với mức độ, phạm vi không gian thời gian cụ thể. Chẳng hạn khi
phân tích kết quả kinh tế của một hiện tượng mà chỉ chú trọng tới hệ thông quan
điểm thứ nhất thì sẽ không được hiệu quả thực của các mức đầu tư tạ các giai
đoạn khác của hoạt động kinh tế đó. Điều đó dẫn tới sai sót trong việc hoạch
định kết quả quản lý trong tương lai. Thường những ngành đạt tỷ suất nguồn
vốn lớn là ngành sản xuất có quy mô nhỏ, có chu kỳ sống của sản phẩm ngắn,
mức độ cạnh tranh và rủi ro cao nên việc so sánh hiệu quả của các quy mô sản

xuất khác nhau. Xét hiệu qủa kinh tế của hoạt động kinh doanh theo tỷ số giữa
gia tăng hiệu quả và gia tăng chi phí tương ứng theo thời kỳ là xét hiệu quả kinh
tế của vốn đầu tư ứng với nền tảng cơ sở vật chất hay nguồn lực đã có sẵn, ứng
với các mức đầu tư theo các giai đoạn khác nhau của cùng một hoạt động kinh tế
ta đã thu được các mức gia tăng của kết quả là khác nhau.
Vậy, khái niệm hiệu quả kinh tế có thể được mở rộng theo ba hệ thống
quan điểm trên là: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế đánh giá một cách
tổng quát chất lượng các hoạt động kinh tế thông qua các chỉ tiêu hiệu số, chỉ
tiêu so sánh hay sự gia tăng giữa kết quả và chi phí để đạt kết quả đó theo những
lĩnh vực trong những điều kiện cụ thể.
Ngoài các công thức tổng quát trên thì hiệu quả kinh tế của một hoạt động
kinh doanh được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau, trong đó chủ yếu
là:
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (TLN):
Q - C
TLN = --------
C
Trong đó: Q : Là kết quả thu được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu này là cơ sở để đánh giá cơ hội đầu tư vào các hoạt động kinh
doanh khác nhau, nó còn dùng để so sánh cơ hội và lãi suất, lạm phát, mức tăng
giảm của tỷ giá hối đoái... để có chính sách đúng cho đầu tư tương lai.
- Suất chi phí ( HC):
HC = C/Q.
Chỉ tiêu này biểu hiện tỷ trọng chi phí cần thiết để có được một đơn vị kết
quả hay còn gọi là suất tiêu hao. Nó thường được để định giá các sản phẩm
trước khi tung ra thị trường.
- Tỷ suất doanh lợi ( Rb):
B + A
Rb = --------- x %

S
Trong đó: B : Lãi.
A : Khấu hao.
S : Tổng số tiền bỏ ra để kinh doanh.
- Thời gian hoàn vốn: ( T ):

S
T = ------------
B + A + I
Trong đó: I : Là khoản trả tiền lợi tức và tiền vay.
- Doanh lợi hoà vốn ( S0).
d
S0 = -------
V
1 - ----
S
Trong đó: d : Những chi phí cố định.
V : Tổng chi phí khả biến.
S : Tổng doanh thu bán hàng.
LN
- Mức sinh lời của vốn lưu động = --------
VLĐ
Trong đó: LN : Lợi nhuận trong kỳ.
VLĐ : Vốn lưu động.
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn bỏ ra SX - KD thì thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận.
- Số lần chu chuyển vốn lưu động ( L ).
M
L = ----------
VLĐ

Trong đó: M : Tổng doanh thu.
- Mức lợi nhuận đạt được trên một lao động ( PLĐ):

LN
PLĐ = -------
T
Trong đó: T: Tổng số lao động bình quân.
Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận mà một lao động làm ra trong kỳ, chỉ tiêu
này càng lớn phản ánh hiệu quả sử dụng lao động càng cao.
Zt
- Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu = -----
C
Trong đó: Zt : Là giá bán buôn trong nước.
C : Tổng chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu này phản ánh số lượng bản tệ bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại
tệ.
Như vậy, các chỉ tiêu tổng quát phản ánh hiệu quả của toàn bộ quá trình
SX-KD của toàn doanh nghiệp. Nó là kết quả của sự nỗ lực nhằm nâng cao hiệu
hiệu quả SX-KD của doanh nghiệp. Vì thế các chỉ tiêu này càng lớn thì phản ánh
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố thì phản ánh hiệu quả
dụng từng yếu tố tham gia vào quá trình SX-KD của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu
này càng lớn phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố càng cao, tất cả đều góp
phần vào việc nâng cao hiệu quả SX-KD của toàn doanh nghiệp, đồng thời nó
cũng phản ánh một khía cạnh nào đóhiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
thông qua hoạt động nhập khẩu vật tư, thiết bị.
3.2. Sự cần thiết tất yếu phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động
nhập khẩu
Hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động nhập
khẩu nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì và phát triển

doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn SX-KD,
nó quyết định sự sống của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động càng có
hiệu quả thì càng mở rộng, nâng cao khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường
rộng lớn và tạo uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Do vậy hiệu quả
SX-KD của doanh nghiệp là một vấn đề có tầm quan trọng to lớn tác động trực
tiếp tới các doanh nghiệp, buộc họ phải quan tâm nghiên cứu để duy trì và phát
triển hoạt động SX - KD của mình. Ngày nay, trên thương trường mà người ta ví
rằng “Thương trường như chiến trường” nóng bỏng và kịch liệt như vậy, một
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì bản thân nó phải luôn luôn không
ngừng hoàn thiện và phát triển. Trong quá trình SX-KD, các doanh nghiệp
không chỉ nghĩ đến việc đoạt doanh thu hàng năm cao mà còn nghĩ đến việc làm
sao để kết quả đạt được năm nay phải cao hơn năm trước cả về số lượng và chất
lượng. Sự cần thiết đó xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Các doanh nghiệp, thương nhân luôn mong muốn doanh nghiệp ngày
càng thu được nhiều lợi nhuận hơn, ngày càn đem lại nhiều lợi ích kinh tế, lợi
ích xã hội hơn nữa cho bản thân các doanh nghiệp và toàn xã hội. Để đáp ứng
được mong muốn đó, các doanh nghiệp cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh
doanh và hiệu quả nhập khẩu vật tư, thiết bị, có như vậy mới đáp ứng được
mong muốn của mình.
- Các doanh nghiệp luôn có tham vọng, mong muốn doanh nghiệp của
mình ngày càng được mở rộng, phát triển, ngày càng có vị trí cao và uy tín trên
thị trườngnhằm chống chọi với môi trường kinh doanh phức tạp trong cơ chế thị
trường hiện nay. Để đạt được điều đó công ty cần phải nâng cao các chỉ tiêu
như: Doanh thu, tốc độ chu chuyển nguồn vốn, lợi nhuận, kim ngạch nhập
khẩu... Đó chính là những chỉ tiêu hiệu quả thì doanh nghiệp mới thoả mãn được
mong muốn của mình trong chiến lược phát triển doanh nghiệp.
- Kinh doanh trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh
tranh gay gắt và chỉ giành thắng lợi khi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả
hơn đối thủ cạnh tranh. Do đó, để vượt lên trên các đối thủ cần phải không
ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Tóm lại, nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là sự cần thiết khách
quan để đảm bảo cho doanh nghiệp duy trì và phát triển, khẳng định vị trí của
mình trên thị trường.
3.3. Nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu
3.3.1. Hoàn thiện công tác tổ chức kinh doanh nhập khẩu
Công tác tổ chức kinh doanh có vai trò rất quan trọng đối với việc nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nếu như vịêc tổ chức kinh doanh
càng phù hơp với chức năng, điều kiện của doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu
của cơ chế thị trường, đáp ứng nhu cầu thị trường nó sẽ thúc đẩy doanh nghiệp
chiếm lĩnh thị phần, thu hút khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị
trường, làm tăng tài sản vô hình cho doanh nghiệp. Để hoàn thiện công tác tổ
chức kinh doanh nhập khẩu có thể thực hiện các chiến lược sau:
Đa dạng hoá hình thức nhập khẩu.
Hiện nay, trong hoạt động ngoại thương có bốn hình thức nhập khẩu cơ
bản, đó là: Nhập khẩu trực tiếp, nhập khẩu uỷ thác, buôn bán đối lưu, nhập khẩu
tái xuất. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho tháy nước ta áp dụng hai hình thức
nhập khẩu chủ yếu là nhập khẩu trực tiếpvà nhập khẩu uỷ thác. Vì vậy, các
doanh nghiệp kinh doanh XNK phải tìm mọi biện pháp để thực hiện hai biện
pháp này có hiệu quả. Ngoài ra, cần phải khai thác nhu cầu tiêu dùng ở thị
trường trong nước, xem xét khả năng của doanh nghiệp để kết hợp với các hình
thức kinh doanh nhập khẩu khác như nhập khẩu tái xuất nhằm thu lợi nhuận.
Trên cơ sở nước nhập khẩu phải có những khó khăn nhất định trong việc nhập
khẩu trực tiếp hàng hoá, vật tư đó. Tiến hành nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị

×