Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.31 KB, 3 trang )
Đặc điểm sinh học lươn
Nguồn: vietlinh.com.vn
1. Sinh sản Lươn là loài cá có hiện tượng sinh sản lưỡng tính (trong
tuyến sinh dục có cả tinh sào và trứng xen kẽ lẫn nhau). Ở miền Bắc nước ta cỡ
lươn nhỏ hơn 20 cm hoàn toàn là cái, cỡ 36-47 cm lươn ở thời kỳ lưỡng tính, cỡ
lớn hơn 54 cm hầu hết là lươn đực.
Mùa lươn đẻ chủ yếu vào tháng 3-4 dương lịch, ở miền Nam lươn đẻ vào
tháng 5-6, có thể đẻ vào mùa phụ tháng 8-9 dương lịch.
Lươn làm tổ đẻ nơi đất sét pha thịt như bờ ruộng, ven kênh mương, bờ ao,
chuôm Trước lúc đẻ, lươn đực có nhiệm vụ khoét hang. Hang thường có hình
chữ “U”, cao hơn mặt nước ruộng khoảng 5-10 cm. Toàn bộ khu vực hang thường
có ba ngách:
Ngách phụ để thông khí cho lươn thở.
Ngách chính của tổ thường nằm sâu dưới bùn.
Ngách từ trên bờ vòng xuống, tạo thành chữ “U”.
Trước khi lươn cái tới đẻ, lươn đực phun đầy bọt trong tổ để lươn cái đẻ
trứng trên đám bọt đó. Lúc đầu đám bọt có màu trắng; khi trứng sắp nở, đám bọt
ngả sang màu ngà. Trong một tổ đẻ số lượng trứng biến đổi từ 80 đến 600 trứng.
Cỡ lươn dài 20 cm có 200 ??400 trứng, dài 30 cm có 300 ??500 trứng, cỡ lớn có
thể đạt 1000 trứng. Đường kính trứng 3,5 ??4 mm.
Ở nhiệt độ 30oC trong vòng một tuần lễ trứng nở ra lươn con, tới ngày thứ 10
noãn hoàng tiêu biến hết, lúc này lươn dài khoảng 20 mm có thể tự kiếm mồi
được.
2. Tính ăn
Lươn là loài ăn tạp, nhưng ăn động vật có chất tanh là chính. Khi còn nhỏ,
lươn ăn sinh vật phù du, giai đoạn tiếp ăn côn trùng bọ gậy, ấu trùng chuồn chuồn,
đôi khi ăn các cá thể hữu cơ vụn nhỏ (rễ lúa, các tạo sợi ).
Lươn lớn ăn: giun, ốc, tôm, tép, cá con, nòng nọc và những động vật trên
cạn gần mép nước như: giun, dế