Lời Mở Đầu
Ngày 7/11/2006 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại thế giới WTO. Có thể nói đây là mốc đánh dấu sự thay đổi lớn trong
tiến trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh sự kiện này, sự phát triển,
mở rộng theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa của nền kinh tế thị trường đã tạo
ra nhiều cơ hội lớn cho các cá nhân, tổ chức kinh tế tại Việt Nam, đồng thời thì việc
phải đối mặt với những rủi ro thách thức là điều không thể tránh khỏi. Sự hình
thành và lớn mạnh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong một môi trường
kinh doanh nhiều rủi ro tạo nên nhiều kênh thông tin tài chính khác nhau. Những
người sử dụng thông tin tài chính để đánh giá tình hình kinh doanh của các tổ chức
kinh tế ngày càng nhiều và đa dạng. Yêu cầu về tính chính xác và kịp thời của
những thông tin tài chính cũng ngày càng tăng. Trong xu thế phát triển tất yếu đó có
thể nói rằng, dịch vụ kiểm toán là dịch vụ có uy tín nhất trong việc thẩm định thông
tin tài chính doanh nghiệp. Những người quan tâm đến tình hình tài chính doanh
nghiệp coi báo cáo kiểm toán là ý kiến cuối cùng trong việc thẩm định, xác minh
tính trung thực , hợp lý của các báo cáo tài chính.
Thực tế cho thấy rằng, sự phức tạp của môi trường kinh doanh, đòi hỏi ngày
càng cao của khách hàng, việc nâng cao chất lượng và uy tín trong việc cung cấp
dịch vụ kiểm toán luôn luôn là yêu cầu không thể thiếu đối với các công ty kiểm
toán. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các công ty kiểm toán đã phải đối mặt với
những tranh chấp hay kiện tụng từ phía khách hàng và những người sử dụng báo
cáo kiểm toán. Nói một cách khác, khi đó dịch vụ kiểm toán đã không đảm bảo
được yêu cầu trong việc đánh giá và thẩm định thông tin. Điều này không chỉ dẫn
tới ảnh hưởng tiêu cực đối với những người sử dụng báo cáo kiểm toán, mà còn làm
giảm uy tín của các công ty kiểm toán.
Bất cứ ngành nào cũng chứa đựng những yếu tố rủi ro, không mong muốn.
Hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán cũng không nằm ngoài quy luật đó. Rủi ro mà
các công ty kiểm toán phải đối mặt trong khi kiểm toán nói chung và kiểm toán tài
chính nói riêng là yếu tố cần xem xét trong bất kỳ một cuộc kiểm toán nào. Với tầm
quan trọng như vậy, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Rủi ro kiểm toán và những
loại hình cụ thể”, qua đó, bổ sung, mở rộng những kiến thức về lý thuyết đã học
cùng những kiến thức thực tế liên quan đến vấn đề rủi ro kiểm toán.
Em xin trình bày nội dung đề án thành hai phần:
Phần 1: Rủi ro kiểm toán và các khái niệm có liên quan
Phần 2: Các bước công việc trong đánh giá rủi ro kiểm toán
PHẦN 1: RỦI RO KIỂM TOÁN VÀ CÁC KHÁI
NIỆM CÓ LIÊN QUAN
1.1. Khái niệm rủi ro kiểm toán và tầm quan trọng của việc đánh giá rủi ro
kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Kiểm toán tài chính là một loại hình đặc trưng nhất của kiểm toán. Bản chất của
kiểm toán tài chính chính là việc thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán
làm cơ sở cho kiểm toán viên đưa ra nhận xét về tính trung thực và hợp lý của các
báo cáo tài chính.
Có thể nói rằng, đối tượng chính và chủ yếu của kiểm toán tài chính là cáo bảng
khai tài chính, cụ thể là các báo cáo tài chính. Trên thực tế, các báo cáo tài chính
luôn luôn chứa đựng khả năng có gian lận và sai sót. Theo Bản công bố về chuẩn
mực Kiểm toán số 53 (SAS 53), yêu cầu kiểm toán viên phải hiểu và nắm bắt, phát
hiện và đánh giá khả năng xảy ra của những gian lận và sai sót, cùng với việc xác
định các phương pháp kiểm toán thích hợp, lập kế hoạch và giám sát việc thực hiện
kế hoạch một cách thích đáng để đảm bảo đạt được các mục tiêu kiểm toán đã đề ra.
Tuy nhiên, không phải bất cứ khi nào, kiểm toán viên cũng có thể phát hiện được tất
cả các gian lận và sai sót trọng yếu trong các báo cáo tài chính. Điều này tất yếu sẽ
dẫn tới việc đưa ra ý kiến sai lệch về thông tin trên các báo cáo tài chính của kiểm
toán viên. Đây chính là rủi ro mà kiểm toán viên gặp phải trong việc thực hiện công
việc của mình. Nói một cách khác, rủi ro kiểm toán chính là khả năng kiểm toán
viên đưa ra ý kiến không phù hợp về các báo cáo tài chính do các báo cáo tài chính
này vẫn chứa đựng những sai sót trọng yếu.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA 400) về Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ: “Kiểm toán viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ
thống kiểm soát nội bộ của khách hàng để có thể lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và
chương trình kiểm toán thích hợp, có hiệu quả. Kiểm toán viên phải sử dụng khả
năng xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các
thủ tục kiểm toán nhằm giảm rủi ro kiểm toán thấp xuống tới mức có thể chấp nhận
được.” Như vậy, công việc đánh giá rủi ro kiểm toán không chỉ là việc cần thiết
trong kiểm toán tài chính nói riêng và kiểm toán nói chung mà đây còn là quy định,
công việc bắt buộc phải thực hiện trong khi lập kế hoạch kiểm toán.
Việc đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ giúp cho kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến một
cách xác đáng về các thông tin trên các báo cáo tài chính. Sở dĩ rủi ro kiểm toán là
vấn đề mà kiểm toán viên và công ty kiểm toán đều phải đối mặt là do một số
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do phạm vi của đối tượng kiểm toán tài chính rất rộng. Đó là toàn bộ các
yếu tố liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách thể kiểm toán. Chính
vì thế, phương pháp mà kiểm toán viên sử dụng chủ yếu để thu thập bằng chứng
trong kiểm toán tài chính là phương pháp chọn mẫu. Quá trình này thông qua việc
lựa chọn một số mẫu và dựa trên kết quả đánh giá những mẫu được chọn đó để đưa
ra kết luận cho toàn bộ tổng thể. Do vậy mà luôn có khả năng đưa ra kết luận sai do
mẫu được chọn không phải là mẫu đại diện.
Thứ hai, bất kỳ cuộc kiểm toán tài chính nào cũng bị giới hạn bởi các yếu tố như
thời gian, chi phí, giới hạn vè nguồn lực, quản lý hay giới hạn từ phía khách thể
kiểm toán. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán không thể kiểm tra toàn diện trên
tất cả các khoản mục, nghiệp vụ và chu trình liên quan đến đối tượng kiểm toán.
Thứ ba, rủi ro kiểm toán liên quan đến rủi ro kinh doanh. Các doanh nghiệp đều
phải đối mặt với rủi ro kinh doanh. Rủi ro kiểm toán là một rủi ro kinh doạnh mà
các công ty kiểm toán phải xem xét đến trong khi thực hiện cung cấp dịch vụ kiểm
toán.
Như vậy, xuất phát từ những nguyên nhân trên, chúng ta có thể thấy được tầm quan
trọng của công tác đánh giá rủi ro kiểm toán trong quá trình kiểm toán. Đánh giá rủi
ro kiểm toán tốt sẽ giúp cho kiểm toán viên xây dựng được các thủ tục kiểm toán và
lập kế hoạch kiểm toán phù hợp, đảm bảo thu thập được đầy đủ các bằng chứng
đáng tin cậy để đưa ra ý kiến về các bảng khai tài chính.
1.2. Các loại hình rủi ro kiểm toán. Mô hình rủi ro kiểm toán
1.2.1. Các loại hình rủi ro kiểm toán
Rủi ro kiểm toán (Audit Risk – AR) có giá trị từ 0 đến 1. Rủi ro kiểm toán bằng 0
nếu các báo cáo tài chính không tồn tại bất kỳ một sai sót trọng yếu nào. Ngược lại,
nếu các sai sót trên các báo cáo tài chính đều là sai sót trọng yếu, rủi ro kiểm toán sẽ
bằng 1. Nhưng trên thực tế, rủi ro kiểm toán luôn luôn lớn hơn 0. Điều này có nghĩa
là, rủi ro kiểm toán xuất phát từ cả giới hạn về phía kế toán và kiểm toán. Hay nói
một cách khác, ta có thể chia rủi ro kiểm toán thành hai phần: rủi ro kiểm toán do
tồn tại các sai phạm trọng yếu trên các báo cáo tài chính chưa được kiểm toán, và
rủi ro kiểm toán do tồn tại các sai sót trọng yếu không được phát hiện bởi kiểm toán
viên. Rủi ro kiểm toán liên quan tới các sai sót trọng yếu trên các báo cáo tài chính
chưa được kiểm toán lại được phân chia thành: rủi ro tiềm tàng và rủi ro phát hiện.
Tóm lại, rủi ro kiểm toán gồm ba thành phần sau:
Một là, rủi ro tiềm tàng ( Inherent Risk – IR): là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả
năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng những sai
sót trong yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm
soát nội bộ.
Hai là, rủi ro kiểm soát (Control Risk – CR): là khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ
của đơn vị kiểm toán không phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm
trọng yếu.
Ba là, rủi ro phát hiện (Detect Risk – DR): là rủi ro xảy ra khi kiểm toán viên và
công ty kiểm toán không phát hiện được các sai sót trọng yếu trong các báo cáo tài
chính do áp dụng sai các thủ tục kiểm toán.
Trong ba loại hình rủi ro kiểm toán trên, kiểm toán viên không tạo ra và cũng không
thể kiểm soát được mà chỉ có thể đánh giá đối với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát.
1.2.2. Mô hình rủi ro kiểm toán
Kiểm toán viên và công ty kiểm toán luôn mong muốn đạt được mức rủi ro kiểm
toán thấp. Vậy thì làm thế nào để có thể đạt được mức rủi ro kiểm toán mong muốn
trong khi không kiểm soát được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát? Trên thực tế,
kiểm toán viên vẫn có thể giảm được rủi ro kiểm toán dựa trên đánh giá hai loại rủi
ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, sau đó điều chỉnh rủi ro phát hiện. Mối quan hệ
giữa ba loại hình rủi ro này được thể hiện qua phương trình sau, được gọi là mô
hình rủi ro kiểm toán:
AR = IR x CR x DR
Dựa vào mô hình trên ta có:
DR = AR/(IR x CR)
Như vây, rủi ro phát hiện phụ thuộc vào rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Việc
đánh giá rủi ro phát hiện sẽ được thực hiện sau khi kiểm toán viên đánh giá rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Mô hình rủi ro cũng cho thấy yêu cầu ban đầu về việc
thu thập các bằng chứng kiểm toán. Cụ thể, để đạt mức rủi ro kiểm toán mong
muốn, nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá càng cao thì mức rủi
ro phát hiện càng thấp, khi đó số lượng bằng chứng cần kiểm toán viên thu thập sẽ
giảm đi. Ngược lại, nếu rủi ro phát hiện càng cao thì kiểm toán viên càng cần phải
thu thập nhiều bằng chứng hơn.
Hạn chế của việc sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán
Có hai hạn chế trong việc sử dụng mô hình đánh giá rủi ro kiểm toán. Một là, dù
kiểm toán viên có nỗ lực cao nhất trong việc lập kế hoạch, những đánh giá về rủi ro
kiểm toán mong muốn và rủi ro kiểm soát vẫn có tính chủ quan cao và chỉ xấp xỉ
bằng thực tế nhất. Ví dụ, giả sử kiểm toán viên đánh giá quá trình kiểm soát nội bộ
và các rủi ro cố hữu thấp hơn mức đáng lẽ phải có nếu tất cả các sai sót đều được
biết, rủi ro phát hiện do đó sẽ phải cao mức có thể chấp nhận được và số bằng
chứng dự kiến sẽ thấp hơn. Để giải quyết vấn đề này, hầu hết kiểm toán viên đều
bảo thủ trong cách đánh giá của họ hoặc sử dụng mức đánh giá khái quát và chủ
quan như mức rủi ro “thấp”, “trung bình” hoặc “cao”.
Hai là, mô hình rủi ro kiểm toán là mô hình rủi ro kế hoạch, do đó nó bị hạn chế
trong việc sử dụng để đánh giá các kết quả kiểm toán. Một khi các mức rủi ro đã
được đánh giá và theo đó kế hoạch kiểm toán được xây dựng, các thành phần của kế
hoạch đối với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát sẽ không được thay thế dựa trên
các bằng chứng kiểm toán đã thu thập. Nếu các bằng chứng kiểm toán chỉ rõ các sai
sót mà cao hơn mức có thể chấp nhận được không tồn tại, thì số lượng sai sót vượt
quá đó được chấp nhận. Tuy vậy, nếu bằng chứng kiểm toán chỉ rõ có sự hiện diện
của các sai sót cao hơn mức có thể chấp nhận được, mô hình rủi ro kiểm toán có thể
bị phá vỡ và các thủ tục khác sẽ cần thực hiện để có thể phát hiện và nhận diện các
sai sót đó, để đảm bảo có ý kiến chắc chắn hơn.
Thí dụ, kiểm toán viên lập kế hoạch kiểm toán dựa trên phân tích theo mô hình rủi
ro kiểm toán dưới đây:
AR = 0,05;
IR = 0,75;
CR = 0,3;
DR = 0,05/(0,75 x 0,3) = 0,22
Khi thực hiện các thủ tục cần thiết để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, giả sử
kiểm toán viên phát hiện các sai sót không được ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa
kịp thời bởi hệ thống kiểm soát nội bộ một cách hiệu quả như ban đầu kiểm toán
viên đánh giá. Lúc đó, mức rủi ro kiểm soát kiểm toán viên cần phải điều chỉnh tăng
thêm tới 0,5 dựa trên các bằng chứng kiểm toán và kiểm toán viên sẽ phải tính lại
rủi ro phát hiện là: DR = 0,05/(0,75 x 0,5) = 0,13. Đây là điều không thích hợp.
Đúng hơn, kiểm toán viên cần phải kết luận là có những sai sót có thể chấp nhận
được đối với từng loại rủi ro kiểm toán, và cần có phương pháp ước lượng gần đúng
khác để đánh giá lại.
1.3. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và trọng yếu
Trọng yếu là khái niệm chung chỉ rõ tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ
bản có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm
toán trong việc sử dụng thông tin đã đánh giá để đưa ra kết luận. Theo Chuẩn mực
Kiểm toán Việt Nam số 320 (VSA 320): “Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện
tầm quan trọng của thông tin (một số liệu kế toán) trong báo cáo tài chính.” Như
vậy, muốn xác định được khả năng xảy ra những sai sót mang tính chất trọng yếu,
kiểm toán viên phải đánh giá được mức trọng yếu.
Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro được thể hiện rất rõ trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán nhằm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và xác định những
vùng kiểm toán trọng yếu, xác định mức trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán,
khả năng có những sai sót cho từng khoản mục.
Trong một cuộc kiểm toán tài chính, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có quan hệ
tỷ lệ nghịch. Việc đánh giá rủi ro kiểm toán vì thế có quan hệ chặt chẽ trong việc
xác định mức trọng yếu. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và
ngược lại, mức trọng yếu càng thấp thì rủi ro kiểm toán càng cao. Trên cơ sở đó,
kiểm toán viên sẽ xác định được nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục
kiểm toán thích hợp nhằm đạt được mức rủi ro kiểm toán mong muốn.
* *
*
Tóm lại, có thể khẳng định lại rằng, đánh giá rủi ro kiểm toán là công việc không
thể thiếu trong bất kỳ một cuộc kiểm toán tài chính nào. Với tầm quan trọng như
vậy, việc đặt ra một quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán có hiệu quả là rất cần thiết.
Vậy công tác đánh giá rủi ro kiểm toán được dựa trên những yếu tố nào? Dựa trên
những kiến thức đã được học cùng nghiên cứu những tài liệu thu thập được, sau đây
em xin trình bày cụ thể công tác đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính.
PHẦN 2: CÁC BƯỚC CÔNG VIỆC TRONG ĐÁNH GIÁ
RỦI RO KIỂM TOÁN
Như đã phân tích ở trên, đánh giá rủi ro kiểm toán có vai trò quan trọng trong các
cuộc kiểm toán nói chung và trong các cuộc kiểm toán tài chính nói riêng. Chính vì
vậy, kiểm toán viên và công ty kiểm toán khi xây dựng quy trình đánh giá rủi ro
kiểm toán thì cần phải hiểu được bản chất của từng loại hình rủi ro dựa trên cơ sở
tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh của khách thể kiểm toán.
Cuối cùng, kiểm toán viên sẽ vận dụng sự xét đoán nghề nghiệp để đưa ra kết luận
về rủi ro kiểm toán có thể gặp phải.
Chúng ta có thể biết rằng, đối tượng của kiểm toán tài chính là các báo cáo tài chính
của đơn vị được kiểm toán. Các báo cáo tài chính này được lập dựa trên nhiều
khoản mục, nghiệp vụ khác nhau. Mặt khác, do rủi ro kiểm toán có mối liên hệ với
tính trọng yếu, khi ước lượng ban đầu về mức trọng yếu trong giai đoạn lập kế
hoạch, kiểm toán viên đánh giá mức trọng yếu trên phương diện mức độ sai sót tổng
thể của báo cáo tài chính và trên mối quan hệ với mức độ sai sót chi tiết của số dư
các tài khoản, các nghiệp vụ và các thông tin trên báo cáo tài chính sẽ khác nhau.
Do vậy, khi đánh giá rủi ro kiểm toán thì kiểm toán viên phải đánh giá trên cả hai
phương diện: phương diện báo cáo tài chính và phương diện số dư tài khoản và loại
nghiệp vụ.
Rủi ro kiểm toán được đánh giá trên cơ sở đánh giá ba loại rủi ro: rủi ro tiềm tàng,
rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Tuy nhiên, trước khi đánh giá ba loại hình rủi ro
này, kiểm toán viên cần phải xác định được mức rủi ro kiểm toán mong muốn. Ta
thấy rằng, rủi ro kiểm toán có thể ở mức thấp, trung bình, hoặc cao. Mục tiêu của
kiểm toán viên là phải thiết lập được các thủ tục kiểm toán để thu thập được đầy đủ
các bằng chứng có độ tin cậy nhằm đưa ra kết luận xác đáng nhất về các thông tin
trên báo cáo tài chính. Điều này có nghĩa là, kiểm toán viên và công ty kiểm toán đã
đạt được mức rủi ro kiểm toán mong muốn.
2.1. Đánh giá rủi ro kiểm toán mong muốn
Cũng tương tự như xác định mức rủi ro kiểm toán, muốn đánh giá rủi ro kiểm toán
mong muốn, kiểm toán viên cũng cần phải dựa vào đánh giá ba loại hình rủi ro: rủi
ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Rủi ro kiểm toán mong muốn, hay rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận được được
đánh giá dựa trên ước lượng ban đầu của kiểm toán viên về mức độ tin cậy của các
báo cáo tài chính sẽ được kiểm toán. Như vậy, nếu mức độ tin cậy càng cao thì rủi
ro kiểm toán mong muốn càng được xác định thấp. Việc đánh giá rủi ro này phụ
thuộc rất lớn vào xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Một yếu tố quan trọng
khi đánh giá rủi ro kiểm toán mong muốn là mức rủi ro phát hiện mong muốn. Rủi
ro phát hiện mong muốn được xác định dựa trên một mức rủi ro kiểm toán, rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cụ thể. Nếu rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát càng thấp thì mức rủi ro phát hiện mong muốn càng cao.
Các yếu tố mà kiểm toán viên cần xem xét khi xác định mức rủi ro kiểm toán mong
muốn là: quy mô khách hàng, sự phân phối quyền sở hữu, bản chất và quy mô của
công nợ, khả năng tiếp tục hoạt động về mặt tài chính của công ty khách hàng sau
khi báo cáo kiểm toán được công bố. Ngoài ra, kiểm toán viên cũng cần cân nhắc
các yếu tố như chi phí kiểm toán, trình độ nghiệp vụ của kiểm toán viên, các giới
hạn có thể có từ phía công ty khách hàng,…
Tuy nhiên, do rủi ro kiểm toán phụ thuộc vào ba loại hình rủi ro kiểm toán khác, và
ba loại hình rủi ro này trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên có thể sẽ phải thay
đổi để phù hợp với những đánh giá của kiểm toán viên nhất, nên mức rủi ro kiểm
toán mong muốn có thể sẽ thay đổi theo.
2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Đánh giá rủi ro tiềm tàng là bước công việc thứ hai trong quá trình đánh giá rủi ro
kiểm toán, sau khi xác định được mức rủi ro kiểm toán mong muốn. Đây là một
thành phần trong rủi ro kiểm toán đối với các báo cáo tài chính chưa được kiểm
toán.
Rủi ro tiềm tàng là rủi ro cố hữu tồn tại trong các báo cáo tài chính nói chung hay
trong các khoản mục, nghiệp vụ nói riêng với giả định không có sự tác động của
môi trường kiểm soát. Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng cho phép kiểm toán viên dự
kiến được công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện cho các nghiệp vụ, các
khoản mục trọng yếu trên báo cáo tài chính mà kiểm toán viên cho rằng có rủi ro
tiềm tàng cao. Điều này sẽ tránh việc bỏ sót các sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài
chính hay trong từng khoản mục, nghiệp vụ cụ thể.
Khi đánh giá rủi ro tiềm tàng, yêu cầu trọng tâm nhất đối với kiểm toán viên là phải
có hiểu biết về đặc điểm hoạt động kinh doanh của khách thể kiểm toán. Đặc điểm
hoạt động kinh doanh bao gồm các yếu tố chính sau: quy trình công nghệ, cơ cấu
vốn, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động sản xuất kinh doanh theo mùa
vụ…Đây là lưu ý quan trọng đầu tiên vì nó ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có đặc điểm hoạt động kinh doanh khác
nhau thì phương hướng, kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch kinh doanh để đạt
những mục tiêu đã xác định cũng khác nhau. Hơn nữa, đặc điểm hoạt động sản xuất
kinh doanh còn ảnh hưởng tới một yếu tố quan trọng mà bất kỳ nhà quản lý doanh
nghiệp nào cũng phải xem xét, đó là rủi ro kinh doanh. Kiểm toán viên cũng nên
xem xét các yếu tố làm tăng rủi ro kinh doanh cho doanh nghiệp như: trả lương
nhân viên quá cao, tuyển bạn bè hơn là những ứng cử viên thích hợp cho vị trí các
công việc. Công việc, nghành nghề kinh doanh cũng ảnh hưởng tới khả năng đánh
giá không đúng chi phí, không đúng doanh thu…Và do vậy, rủi ro tiềm tàng sẽ cao.
Trong một doanh nghiệp, Ban Giám đốc là người chịu trách nhiệm đối với các báo
cáo tài chính. Tính chính xác, phù hợp của các thông tin trên báo cáo tài chính thể
hiện phần nào sự liêm khiết của Ban Giám đốc. Do vậy, khi đánh giá rủi ro tiềm
tàng, kiểm toán viên cần xem xét tới tính liêm khiết của Ban Giám đốc. Tính liêm
khiết là nguyên tắc tối cao của các nhà lãnh đạo. Khi nhà lãnh đạo không xem liêm
khiết là phẩm chất hàng đầu, thì tất yếu các nhân viên của họ cũng không còn coi
yếu tố trung thực, liêm khiết là quan trọng nữa, khi đó, việc có những hoạt động mờ
ám, không minh bạch trong doanh nghiệp rất dễ xảy ra. Kiểm toán viên cũng nên
xem xét tới khả năng mà các nhà lãnh đạo phải chịu áp lực công việc cao như phải
hoàn thành mục tiêu tăng doanh thu trong kỳ do cấp trên giao phó, cũng như việc
các nhân viên trong doanh nghiệp chịu sự quản lý quá cứng nhắc của nhà lãnh đạo
như: Kế toán trưởng là người chịu trách nhiệm lập báo cáo tài chính, nếu có những
áp lực bất thường từ Ban Giám đốc thì đây là hoàn cảnh thúc đẩy cho việc trình bày
báo cáo tài chính không đúng sự thật; hay việc bắt buộc phải tăng doanh thu trong
kỳ trong khi các yếu tố kinh doanh không thuận lợi, bắt buộc phải thực hiện một
mục tiêu kinh doanh, chính sách, quy định khác không phù hợp vơi đặc điểm hoạt
động của bộ phận mình. Những yếu tố này dẫn tới việc khả năng sai phạm dễ xảy
ra.
Yếu tố tiếp theo mà kiểm toán viên cần chú ý đó là động cơ của khách hàng. Trong
một số tình huống, Ban quản trị có thể tin rằng sẽ có lợi nếu báo cáo sai như nhận
được tiền thưởng theo tỷ lệ lợi nhuận trong kỳ, và do đó có thể có xu hướng khai
khống, khai tăng lợi nhuận. Tương tự, nếu có quy định về trái khoán ghi rõ là tỷ lệ
thanh toán hiện hành phải ở trên một mức tối thiểu nào đó, thì khách hàng sẽ có thể
cố gắng báo cáo dư tài sản hiện có hoặc khai giảm, khai thiếu nợ ngắn hạn để có thể
thỏa mãn quy định đó. Tương tự, có thể có động cơ rõ ràng rằng Ban quản trị muốn
giảm bớt số thuế phải nộp, và nếu vậy, sẽ cần báo cáo thiếu lợi nhuần thuần trước
thuế.
Việc tìm hiểu kết quả của các lần kiểm toán trước cũng rất quan trọng. Những sai số
được tìm thấy trong những lần kiểm toán trước có khả năng sẽ lại tiếp tục xuất hiện
trong lần kiểm toán năm nay. Có điều này là vì rất nhiều loại sai sót có bản chất hệ
thống và các doanh nghiệp thường chậm chạp trong việc điều chỉnh các sai sót này.
Do đó, kiểm toán viên không nên chủ quan mà bỏ qua kết quả kiểm toán của năm
trước. Ví dụ, kiểm toán viên tìm thấy một số lượng sai sót đáng kể trong việc định
giá hàng tồn kho trong báo cáo kiểm toán năm trước, rủi ro tiềm tàng có khả năng
cao, và việc mở rộng các cuộc khảo sát sẽ được thực hiện để xác định liệu hệ thống
kiểm soát nội bộ của khách hàng có phát hiện và sửa chữa kịp thời hay chưa. Tuy
vậy, nếu kiểm toán viên không tìm thấy sai sót nào liên quan đến tính giá hàng tồn
kho trong báo cáo kiểm toán năm trước, thì kiểm toán viên có thể sẽ có căn cứ để
cho rằng, rủi ro tiềm tàng đối với khoản mục hàng tồn kho năm nay là thấp.