Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Rủi ro kiểm toán và thực trạng đánh giá rủi ro kiểm toán tại Việt Nam trong kiểm toán báo cáo tài chính.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.39 KB, 37 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................3
...............................................................................................................................4
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN KIỂM TOÁN VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN.........5
1.1. Khái quát chung về hoạt động kiểm tốn báo cáo tài chính trong nền kinh
tế thị trường...........................................................................................................5
1.2. Lý luận chung về rủi ro kiểm toán................................................................6
1.3. Phân loại rủi ro kiểm toán và tầm quan trọng cuả việc đánh giá rủi ro kiểm
toán trong báo cáo tài chính .................................................................................7
1.4. Đánh giá rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn báo cáo tài chính và mơ hình
phân tích................................................................................................................8
1.4.1. Các loại hình rủi ro kiểm tốn..............................................................8
1.4.2. Mơ hình rủi ro kiểm toán......................................................................9
1.5. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và trọng yếu........................................11
1.6. Kinh nghiệm thế giới trong công tác đánh giá rủi ro kiểm toán................12
PHẦN II. THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM...............................15
2.1. Q trình phát triển của hoạt động kiểm tốn trong kiểm tốn báo cáo tài
chính tại Việt Nam..............................................................................................15
2.2. Thực trạng quy trình đánh giá rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn báo cáo tài
chính tại Việt Nam hiện nay...............................................................................16
2.2.1. Đánh giá rủi ro kiểm toán mong muốn...............................................17
2.2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng...................................................................18
2.2.3. Đánh giá rủi ro kiểm soát...................................................................22

1



2.2.4. Đánh giá rủi ro phát hiện...................................................................28
PHẦN III. NHẬN XÉT VÀ Ý KIẾN HỒN THIỆN QUY TRÌNH ĐÁNH
GIÁ RỦI RO TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI VIỆT
NAM....................................................................................................................31
3.1. Đánh giá chung về quy trình đánh giá rủi ro kiểm tốn trong báo cáo tài
chính tại Việt Nam..............................................................................................31
3.1.1. Ưu diểm..............................................................................................32
3.1.2. Nhược diểm........................................................................................33
3.2. Ý kiến nhằm hồn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong kiểm tốn báo cáo
tài chính tại Việt Nam.........................................................................................34
KẾT LUẬN.........................................................................................................37
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................38

2


LỜI MỞ ĐẦU
Tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO. Có thể nói đây là mốc đánh dấu sự thay đổi lớn
trong tiến trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh sự kiện này, sự
phát triển, mở rộng theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa của nền kinh tế thị
trường đã tạo ra nhiều cơ hội lớn cho các cá nhân, tổ chức kinh tế tại Việt Nam,
đồng thời thì việc phải đối mặt với những rủi ro thách thức là điều không thể
tránh khỏi. Sự hình thành và lớn mạnh của các doanh nghiệp trong và ngồi
nước trong một mơi trường kinh doanh nhiều rủi ro tạo nên nhiều kênh thông tin
tài chính khác nhau. Những người sử dụng thơng tin tài chính để đánh giá tình
hình kinh doanh của các tổ chức kinh tế ngày càng nhiều và đa dạng. Yêu cầu về
tính chính xác và kịp thời của những thơng tin tài chính cũng ngày càng tăng.
Trong xu thế phát triển tất yếu đó có thể nói rằng, dịch vụ kiểm tốn là dịch vụ
có uy tín hàng đầu trong việc thẩm định thơng tin tài chính doanh nghiệp. Những

người quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp coi báo cáo kiểm toán là ý
kiến cuối cùng trong việc thẩm định, xác minh tính trung thực, hợp lý của các
báo cáo tài chính.
Tuy nhiên, sự phức tạp của mơi trường kinh doanh, yêu cầu đòi hỏi ngày
càng cao trong việc cung cấp dịch vụ kiểm toán trong thời gian vừa qua, đã đặt
ra nhiều thử thách đối với các cơng ty kiểm tốn. Thực tế cho thấy rằng, đã có
nhiều tranh chấp xảy ra giữa cơng ty kiểm tốn với khách hàng hay những với
người sử dụng báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên để ra quyết định. Nói một
cách khác, khi đó dịch vụ kiểm tốn đã khơng cung cấp được dịch vụ có chất
lượng trong việc thẩm định thơng tin tài chính doanh nghiệp. Điều này dẫn tới
làm giảm uy tín của cơng ty kiểm tốn và gây thiệt hại đối với những người sử

3


dụng báo cáo kiểm toán.
Bất cứ nghành nào cũng chứa đựng những yếu tố rủi ro, không mong muốn.
Hoạt động trong lĩnh vực kiểm tốn cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Chính vì
vậy việc nghiên cứu các yếu tố rủi ro trong kiểm tốn nói chung và kiểm tốn tài
chính nói riêng là việc khơng thể thiếu trong bất kỳ cuộc kiểm toán nào. Với tầm
quan trọng như vậy, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Rủi ro kiểm toán và thực
trạng đánh giá rủi ro kiểm toán tại Việt Nam trong kiểm tốn báo cáo tài chính”
với mục đích vận dụng, bổ sung những kiến thức liên quan đến vấn đề rủi ro
kiểm toán.
Trên cơ sở những kiến thức đã học cùng việc nghiên cứu các tài liệu thu
thập được, với sự hướng dẫn nhiệt tình giúp đỡ của cô giáo Thạc sĩ Nguyễn Thị
Mỹ trong quá trình em làm đề án mơm học. Nội dung của đề án gồm hai chương:
I. Cơ sở lý luận Kiểm toán và rủi ro kiểm toán
II. Thực trạng đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
III. Nhận xét và ý kiến hồn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong kiểm

tốn báo cáo tào chính tại Việt Nam

4


PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN KIỂM TOÁN VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
1.1. Khái quát chung về hoạt động kiểm tốn báo cáo tài chính trong nền
kinh tế thị trường
Khái niệm: Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động tài
chính bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngồi
chứng từ do các kiểm tốn viên có trình độ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ
thống pháp lý có hiệu lực.
Các yếu tố chính trong khái niệm Kiểm toán
Chủ thể Kiểm toán : Chủ thể Kiểm toán là các chuyên gia độc lập và có thẩm
quyền. Giữa các KTV và các nhà quản lý trong công ty không có mối quan hệ
thân thiết với nhau. KTV cần phải giải quyết mâu thuẫn một cách thành thực,
không lẫn trốn trách nhiệm của mình trước các cổ đơng , phải độc lập về kinh tế
cũng như độc lập về hoạt động nghiệp vụ. KTV hoạt động theo quy định của
pháp luật và được pháp luật bảo hộ và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Phương pháp Kiểm toán : Thu thập và đánh giá các bằng chứng. Bằng chứng là
thông tin mà KTV sử dụng để xác định xem liệu thông tin đang được kiểm tốn
có được trình bày phù hợp với các chuẩn mực hay khơng.
Khách thể Kiểm tốn : Khách thể Kiểm toán là các tổ chức, đơn vị, cá nhân…
nơi có những thơng tin cần kiểm tốn. Tùy từng loại kiểm tốn mà khách thể
kiểm tốn có sự khác nhau. Tổ chức kinh tế có thể là tổ chức pháp nhân như một
DNNN, một công ty cổ phần, một công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân…
Trong một số trường hợp đặc biệt tổ chức được xác định là một phân xưởng, cửa
hàng hoặc thậm chí là một cá nhân.
Thời gian kiểm toán thường là 1 năm tuy nhiên cũng có trường hợp kiểm tốn 1


5


kỳ, 1 quý, 1 tháng hoặc là vài năm và trong một số trường hợp là thời gian tồn tại
của tổ chức đó.
Căn cứ Kiểm tốn : Căn cứ thực hiện Kiểm tốn đó là các chuẩn mực kiểm
tốn đã được thiết lập. Còn căn cứ để đánh giá đối tượng kiểm toán được chọn và
sử dụng tùy theo mục tiêu của kiểm toán.
Báo cáo Kiểm toán :Đây là khâu cuối cùng của q trình kiểm tốn. Tùy theo
mục đích, tính chất của cuộc kiểm tốn mà báo cáo kiểm toán đi từ báo cáo đơn
giản đến phức tạp. Nội dung báo cáo kiểm tốn phải thơng tin cho người sử dụng
thông tin về mức độ phù hợp giữa thông tin số lượng và chuẩn mực đã được thiết
lập.
1.2. Lý luận chung về rủi ro kiểm tốn
Có thể nói rằng, đối tượng chính và chủ yếu của kiểm tốn tài chính là các
bảng khai tài chính, cụ thể là các báo cáo tài chính. Trên thực tế, các báo cáo tài
chính ln ln chứa đựng khả năng có gian lận và sai sót. Theo Bản cơng bố về
chuẩn mực Kiểm toán số 53 (SAS 53), yêu cầu kiểm toán viên phải hiểu và nắm
bắt, phát hiện và đánh giá khả năng xảy ra của những gian lận và sai sót, cùng
với việc xác định các phương pháp kiểm tốn thích hợp, lập kế hoạch và giám
sát việc thực hiện kế hoạch một cách thích đáng để đảm bảo đạt được các mục
tiêu kiểm tốn đã đề ra. Tuy nhiên, khơng phải bất cứ khi nào, kiểm tốn viên
cũng có thể phát hiện được tất cả các gian lận và sai sót trọng yếu trong các báo
cáo tài chính. Điều này tất yếu sẽ dẫn tới việc đưa ra ý kiến sai lệch về thơng tin
trên các báo cáo tài chính của kiểm tốn viên. Đây chính là rủi ro mà kiểm tốn
viên gặp phải trong việc thực hiện cơng việc của mình. Nói một cách khác, rủi ro
kiểm tốn chính là khả năng kiểm toán viên đưa ra ý kiến khơng phù hợp về các
báo cáo tài chính do các báo cáo tài chính này vẫn chứa đựng những sai sót trọng

6



yếu.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA 400) về Đánh giá rủi ro
và kiểm soát nội bộ: “Kiểm tốn viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và
hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng để có thể lập kế hoạch kiểm tốn tổng
thể và chương trình kiểm tốn thích hợp, có hiệu quả. Kiểm toán viên phải sử
dụng khả năng xét đoán chun mơn của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và
xác định các thủ tục kiểm toán nhằm giảm rủi ro kiểm tốn thấp xuống tới mức
có thể chấp nhận được”. Như vậy, công việc đánh giá rủi ro kiểm tốn khơng chỉ
là việc cần thiết trong kiểm tốn tài chính nói riêng và kiểm tốn nói chung mà
đây cịn là quy định, cơng việc bắt buộc phải thực hiện trong khi lập kế hoạch
kiểm toán.
1.3. Phân loại rủi ro kiểm toán và tầm quan trọng cuả việc đánh giá rủi ro
kiểm tốn trong báo cáo tài chính
Việc đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ giúp cho kiểm toán viên có thể đưa ra ý
kiến một cách xác đáng về các thơng tin trên các báo cáo tài chính. Sở dĩ rủi ro
kiểm toán là vấn đề mà kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn đều phải đối mặt là
do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do phạm vi của đối tượng kiểm tốn tài chính rất rộng. Đó là tồn
bộ các yếu tố liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách thể kiểm
tốn. Chính vì thế, phương pháp mà kiểm tốn viên sử dụng chủ yếu để thu thập
bằng chứng trong kiểm toán tài chính là phương pháp chọn mẫu. Q trình này
thơng qua việc lựa chọn một số mẫu và dựa trên kết quả đánh giá những mẫu
được chọn đó để đưa ra kết luận cho toàn bộ tổng thể. Do vậy mà ln có khả
năng đưa ra kết luận sai do mẫu được chọn không phải là mẫu đại diện.
Thứ hai, bất kỳ cuộc kiểm tốn tài chính nào cũng bị giới hạn bởi các yếu tố

7



như thời gian, chi phí, giới hạn vè nguồn lực, quản lý hay giới hạn từ phía khách
thể kiểm tốn. Kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn khơng thể kiểm tra toàn diện
trên tất cả các khoản mục, nghiệp vụ và chu trình liên quan đến đối tượng kiểm
tốn.
Thứ ba, rủi ro kiểm toán liên quan đến rủi ro kinh doanh. Các doanh nghiệp
đều phải đối mặt với rủi ro kinh doanh. Rủi ro kiểm toán là một rủi ro kinh
doanh mà các cơng ty kiểm tốn phải xem xét đến trong khi thực hiện cung cấp
dịch vụ kiểm toán.
Như vậy, xuất phát từ những nguyên nhân trên, chúng ta có thể thấy được
tầm quan trọng của cơng tác đánh giá rủi ro kiểm tốn trong q trình kiểm toán.
Đánh giá rủi ro kiểm toán tốt sẽ giúp cho kiểm toán viên xây dựng được các thủ
tục kiểm toán và lập kế hoạch kiểm toán phù hợp, đảm bảo thu thập được đầy đủ
các bằng chứng đáng tin cậy để đưa ra ý kiến về các bảng khai tài chính.
1.4. Đánh giá rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn báo cáo tài chính và mơ hình
phân tích
1.4.1. Các loại hình rủi ro kiểm tốn
Rủi ro kiểm tốn (Audit Risk – AR) có giá trị từ 0 đến 1. Rủi ro kiểm tốn
bằng 0 nếu các báo cáo tài chính khơng tồn tại bất kỳ một sai sót trọng yếu nào.
Ngược lại, nếu các sai sót trên các báo cáo tài chính đều là sai sót trọng yếu, rủi
ro kiểm toán sẽ bằng 1. Nhưng trên thực tế, rủi ro kiểm tốn ln ln lớn hơn 0.
Điều này có nghĩa là, rủi ro kiểm toán xuất phát từ cả giới hạn về phía kế tốn và
kiểm tốn. Hay nói một cách khác, ta có thể chia rủi ro kiểm tốn thành hai phần:
rủi ro kiểm toán do tồn tại các sai phạm trọng yếu trên các báo cáo tài chính chưa
được kiểm toán, và rủi ro kiểm toán do tồn tại các sai sót trọng yếu khơng được
phát hiện bởi kiểm toán viên. Rủi ro kiểm toán liên quan tới các sai sót trọng yếu

8



trên các báo cáo tài chính chưa được kiểm tốn lại được phân chia thành: rủi ro
tiềm tàng và rủi ro phát hiện.
Tóm lại, rủi ro kiểm tốn gồm ba thành phần sau:
Một là, rủi ro tiềm tàng ( Inherent Risk – IR): là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do
khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng
những sai sót trong yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay khơng có
hệ thống kiểm sốt nội bộ.
Hai là, rủi ro kiểm soát (Control Risk – CR): là khả năng hệ thống kiểm sốt
nội bộ của đơn vị kiểm tốn khơng phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các
sai phạm trọng yếu.
Ba là, rủi ro phát hiện (Detect Risk – DR): là rủi ro xảy ra khi kiểm toán
viên và cơng ty kiểm tốn khơng phát hiện được các sai sót trọng yếu trong các
báo cáo tài chính do áp dụng sai các thủ tục kiểm toán.
Trong ba loại hình rủi ro kiểm tốn trên, kiểm tốn viên khơng tạo ra và
cũng khơng thể kiểm sốt được mà chỉ có thể đánh giá đối với rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm sốt.
1.4.2. Mơ hình rủi ro kiểm tốn
Kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn ln mong muốn đạt được mức rủi ro
kiểm tốn thấp. Vậy thì làm thế nào để có thể đạt được mức rủi ro kiểm tốn
mong muốn trong khi khơng kiểm sốt được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát?
Trên thực tế, kiểm tốn viên vẫn có thể giảm được rủi ro kiểm toán dựa trên đánh
giá hai loại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt, sau đó điều chỉnh rủi ro phát
hiện. Mối quan hệ giữa ba loại hình rủi ro này được thể hiện qua phương trình
sau, được gọi là mơ hình rủi ro kiểm tốn:
AR = IR x CR x DR

9


Dựa vào mơ hình trên ta có:

DR = AR/(IR x CR)
Như vây, rủi ro phát hiện phụ thuộc vào rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
Việc đánh giá rủi ro phát hiện sẽ được thực hiện sau khi kiểm toán viên đánh giá
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt. Mơ hình rủi ro cũng cho thấy yêu cầu ban
đầu về việc thu thập các bằng chứng kiểm toán. Cụ thể, để đạt mức rủi ro kiểm
toán mong muốn, nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt được đánh giá càng
cao thì mức rủi ro phát hiện càng thấp, khi đó số lượng bằng chứng cần kiểm
toán viên thu thập sẽ giảm đi. Ngược lại, nếu rủi ro phát hiện càng cao thì kiểm
tốn viên càng cần phải thu thập nhiều bằng chứng hơn.
Hạn chế của việc sử dụng mơ hình rủi ro kiểm tốn
Có hai hạn chế trong việc sử dụng mơ hình đánh giá rủi ro kiểm toán. Một
là, dù kiểm toán viên có nỗ lực cao nhất trong việc lập kế hoạch, những đánh giá
về rủi ro kiểm toán mong muốn và rủi ro kiểm sốt vẫn có tính chủ quan cao và
chỉ xấp xỉ bằng thực tế nhất. Ví dụ, giả sử kiểm tốn viên đánh giá q trình
kiểm sốt nội bộ và các rủi ro cố hữu thấp hơn mức đáng lẽ phải có nếu tất cả
các sai sót đều được biết, rủi ro phát hiện do đó sẽ phải cao mức có thể chấp
nhận được và số bằng chứng dự kiến sẽ thấp hơn. Để giải quyết vấn đề này, hầu
hết kiểm toán viên đều bảo thủ trong cách đánh giá của họ hoặc sử dụng mức
đánh giá khái quát và chủ quan như mức rủi ro “thấp”, “trung bình” hoặc “cao”.
Hai là, mơ hình rủi ro kiểm tốn là mơ hình rủi ro kế hoạch, do đó nó bị hạn
chế trong việc sử dụng để đánh giá các kết quả kiểm toán. Một khi các mức rủi
ro đã được đánh giá và theo đó kế hoạch kiểm tốn được xây dựng, các thành
phần của kế hoạch đối với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát sẽ khơng được
thay thế dựa trên các bằng chứng kiểm tốn đã thu thập. Nếu các bằng chứng
kiểm toán chỉ rõ các sai sót mà cao hơn mức có thể chấp nhận được không tồn

10


tại, thì số lượng sai sót vượt q đó được chấp nhận. Tuy vậy, nếu bằng chứng

kiểm toán chỉ rõ có sự hiện diện của các sai sót cao hơn mức có thể chấp nhận
được, mơ hình rủi ro kiểm tốn có thể bị phá vỡ và các thủ tục khác sẽ cần thực
hiện để có thể phát hiện và nhận diện các sai sót đó, để đảm bảo có ý kiến chắc
chắn hơn.
Thí dụ, kiểm tốn viên lập kế hoạch kiểm tốn dựa trên phân tích theo mơ
hình rủi ro kiểm toán dưới đây:
AR = 0,05;
IR = 0,75;
CR = 0,3;
DR = 0,05/(0,75 x 0,3) = 0,22
Khi thực hiện các thủ tục cần thiết để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ,
giả sử kiểm toán viên phát hiện các sai sót khơng được ngăn ngừa, phát hiện và
sửa chữa kịp thời bởi hệ thống kiểm soát nội bộ một cách hiệu quả như ban đầu
kiểm toán viên đánh giá. Lúc đó, mức rủi ro kiểm sốt kiểm tốn viên cần phải
điều chỉnh tăng thêm tới 0,5 dựa trên các bằng chứng kiểm tốn và kiểm tốn
viên sẽ phải tính lại rủi ro phát hiện là: DR = 0,05/(0,75 x 0,5) = 0,13. Đây là
điều khơng thích hợp. Đúng hơn, kiểm tốn viên cần phải kết luận là có những
sai sót có thể chấp nhận được đối với từng loại rủi ro kiểm tốn, và cần có
phương pháp ước lượng gần đúng khác để đánh giá lại.
1.5. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và trọng yếu
Trọng yếu là khái niệm chung chỉ rõ tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội
dung cơ bản có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối
tượng kiểm tốn trong việc sử dụng thơng tin đã đánh giá để đưa ra kết luận.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 320 (VSA 320): “Trọng yếu là thuật ngữ

11


dùng để thể hiện tầm quan trọng của thông tin (một số liệu kế tốn) trong báo
cáo tài chính.” Như vậy, muốn xác định được khả năng xảy ra những sai sót

mang tính chất trọng yếu, kiểm tốn viên phải đánh giá được mức trọng yếu.
Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro được thể hiện rất rõ trong giai đoạn
lập kế hoạch kiểm toán nhằm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và xác
định những vùng kiểm toán trọng yếu, xác định mức trọng yếu cho từng mục tiêu
kiểm tốn, khả năng có những sai sót cho từng khoản mục.
Trong một cuộc kiểm tốn tài chính, mức trọng yếu và rủi ro kiểm tốn có
quan hệ tỷ lệ nghịch. Việc đánh giá rủi ro kiểm tốn vì thế có quan hệ chặt chẽ
trong việc xác định mức trọng yếu. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán
càng thấp và ngược lại, mức trọng yếu càng thấp thì rủi ro kiểm tốn càng cao.
Trên cơ sở đó, kiểm tốn viên sẽ xác định được nội dung, lịch trình và phạm vi
của các thủ tục kiểm tốn thích hợp nhằm đạt được mức rủi ro kiểm tốn mong
muốn.
Tóm lại, có thể khẳng định lại rằng, đánh giá rủi ro kiểm tốn là cơng việc
khơng thể thiếu trong bất kỳ một cuộc kiểm tốn tài chính nào. Với tầm quan
trọng như vậy, việc đặt ra một quy trình đánh giá rủi ro kiểm tốn có hiệu quả là
rất cần thiết. Vậy công tác đánh giá rủi ro kiểm toán được dựa trên những yếu tố
nào? Dựa trên những kiến thức đã được học cùng nghiên cứu những tài liệu thu
thập được, sau đây em xin trình bày cụ thể công tác đánh giá rủi ro kiểm tốn
trong kiểm tốn tài chính.
1.6. Kinh nghiệm thế giới trong cơng tác đánh giá rủi ro kiểm tốn
Cùng với sự phát triển của xã hội và sự phát triển của kế tốn là sự phát triển
khơng ngừng của cơng cụ kiểm sốt về kế tốn. Ở đâu có hoạt động của con
người ở đó có hoạt động kiểm tra, kiểm sốt, ở đâu có kế tốn ở đó có kiểm tra

12


kế toán.
Kiểm tra kế toán phát triển từ thấp đến cao, xã hội phát triển xuất hiện của
cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và càng phức tạp thì

kiểm tra, kiểm sốt về kế tốn và tài chính ngày một được quan tâm với mức độ
cao.
Từ thời kỳ cổ đại, kế toán được thực hiện chủ yếu bằng những dấu hiệu riêng
trên các sợi dây, thân cây, lá cây. Hình thức này phù hợp với giai đoạn đầu của
thời kỳ cổ đại do xã hội cịn chưa có của cải dư thừa, nhu cầu kiểm tra của quản
lý cịn ít và ở mức độ đơn giản.
Đến cuối thời kỳ cổ đại, sản xuất đã phát triển, của cải dư thừa ngày càng
nhiều, người sở hữu và người quản lý tài sản tách rời nhau. Nhu cầu kiểm tra tài
sản và các khoản thu, chi ngày càng phức tạp, hình thức kế tốn giản đơn khơng
cịn đáp ứng được yêu cầu quản lý. Vì vậy kiểm tra độc lập đã phát sinh trước hết
ở La Mã, Pháp và Anh.
Ở La Mã, vào thế kỷ thứ III TCN các nhà cầm quyền (người sở hữu tài sản) đã
tuyển dụng các quan chức có chun mơn và độc lập để kiểm tra các báo cáo của
người quản lý về tình hình tài sản của họ và đưa ra ý kiến chấp nhận hoặc yêu
cầu sửa đổi các báo cáo này. Hình thức kiểm tra được thực hiện bằng cách người
quản lý đọc to các báo cáo cho người kiểm tra độc lập nghe rồi chấp nhận.
Ở Pháp, vua Charlemagne cũng theo tiền lệ của La Mã đã tuyển các quan chức
cao cấp phụ trách giám sát công việc quản lý, đặc biệt là các nghiệp vụ tài chính
của các quan chức địa phương và trình bày lại kết quả với Hoàng đế hoặc các vị
cận thần.
Ở Anh, theo văn kiện của Nghị viện, vua Edouard đệ nhất cho các Nam tước
quyền tuyển dụng kiểm toán viên (Auditors), bản thân vua cũng cho đối chiếu lại
các tài khoản thuộc di chúc của cố Hoàng hậu Elonor.

13


Từ trung đại trở đi, đã có sự hồn thiện và phát triển dần của kế toán, chẳng hạn
với các khoản giao dịch đã buộc cả 2 bên cùng ghi sổ, do đó phát sinh quan hệ
đối chiếu như một hình thức kiểm tra kế tốn.

Đặc biệt từ thế kỷ XVI trở đi, sự xuất hiện của kế toán kép do một nhà toán
học người Ý là Luca Paciola đã khiến cho phương pháp tự kiểm tra của kế tốn
hồn thiện hơn, đã đáp ứng đủ nhu cầu quản lý và an toàn tài sản lúc bấy giờ.
Từ thế kỷ XVII – XX, các phương pháp kế toán và kỹ thuật thông tin phát
triển đến mức tinh xảo đã đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của quản lý.
Đến năm 30 của thế kỷ XX xuất hiện sự phá sản của các tổ chức tài chính và
khủng hoảng kinh tế, suy thối về tài chính chức năng kiểm tra kế tốn mới bộc
lộ những nhược điểm, địi hỏi phải có sự kiểm tra ngồi kế tốn và kiểm tốn
được phát triển trở lại.
Năm 1934, uỷ ban giao dịch chứng khoán đã được thành lập và quy chế về
kiểm toán viên bên ngồi bắt đầu có hiệu lực. Đồng thời trường đào tạo kiểm
tốn viên cơng chứng của Hoa Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo
cáo kiểm tốn tài khoản của các cơng ty.
Năm 1941, viện Kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ (IIA) được thành lập đã đi vào hoạt
động và đào tạo các kiểm toán viên nội bộ. Đồng thời viện đã xây dựng và ban
hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ vào năm 1978.
Tại Pháp, việc kiểm tra một cách độc lập của những chuyên viên bên ngoài đã
được xác lập và thông qua bởi đạo luật về các công ty thương mại ngày
24/07/1966. Đồng thời kiểm toán nội bộ ở Pháp cũng đã được hình thành chính
thức vào những năm 60 của thế kỷ XX ở những công ty con thuộc tập đoàn
ngoại quốc.

14


PHẦN II. THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG
KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
2.1. Q trình phát triển của hoạt động kiểm tốn trong kiểm tốn báo cáo
tài chính tại Việt Nam
Ở Việt Nam, Kiểm tốn nói chung cũng như kiểm tra kế tốn nói riêng đã

được quan tâm ngay từ khi bắt đầu xây dựng đất nước. Trước năm 1975, ở miền
Nam nước ta đã có hoạt động Kiểm tốn của các cơng ty kiểm tốn độc lập dưới
chế độ Việt Nam cộng hịa thời Mỹ Diệm.
Sau khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản lý (năm 1986) từ kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, ngày 13/05/1991
Bộ tài chính đã kí hai quyết định thành lập hai cơng ty kiểm tốn đầu tiên là cơng
ty kiểm tốn Việt Nam được thành lập lấy tên là VACO với 13 nhân viên và công
ty dịch vụ kế toán Việt Nam với tên giao dịch ASC sau này đổi tên là công ty
dịch vụ tư vấn tài chính, kế tốn, kiểm tốn – AASC (quyết định 639TC/QĐ/TCCB ngày 14/09/1993). Số lượng cơng ty kiểm tốn đã tăng lên đáng
kể và loại hình cơng ty cũng đa dạng hơn, tính đến tháng 10/2006 ở Việt Nam đã
có 81 cơng ty kiểm tốn trong đó có 75 cơng ty đã đăng ký hoạt động tại BTC,
gồm 3 DNNN (VACO, AASC, AISC) 4 công ty 100% vốn đầu tư nước ngồi
(P&C, HPMG, E&Y, Grant Thomtion), 1 cơng ty liên doanh, 5 công ty hợp danh,
123 công ty cổ phần và cơng ty TNHH.
Cùng với sự phát triển của kiểm tốn độc lập, kiểm toán Nhà nước Việt Nam
được thành lập theo NĐ số 70/CP ngày 11/07/1994 của chính phủ và đến ngày
13/08/2003 được thay bằng NĐ số 93/2003/NĐ-CP. Ngày 14/06/2005 luật kiểm
toán Nhà Nước được Quốc hội ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006.

15


Đến nay kiểm tốn Nhà nước có 9 đơn vị kiểm toán khu vực : Khu vực I ( Hà
Nội); Khu vực II (Vinh); Khu vực III (Đà Nẵng); Khu vực IV (TP HCM); Khu
vực V (Cần Thơ); Khu vực VI (Hạ Long); Khu vực VII (Yên Bái); Khu vực VIII
(Khánh Hịa); Khu vực IX (Tiền Giang).
Trong tiến trình đổi mới kinh tế của đất nước cần có nhiều giải pháp để phát
triển nhanh và vững chắc hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Theo chiến
lược phát triển kiểm toán độc lập giai đoạn 2006 - 2010 đặt ra mục tiêu tiếp tục
nâng cac chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực

quốc tế, được quốc tế thừa nhận và phù hợp với tiến trình mở của hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới.
2.2. Thực trạng quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo
tài chính tại Việt Nam hiện nay
Như đã phân tích ở trên, đánh giá rủi ro kiểm tốn có vai trị quan trọng
trong các cuộc kiểm tốn nói chung và trong các cuộc kiểm tốn tài chính nói
riêng. Chính vì vậy, kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn khi xây dựng quy trình
đánh giá rủi ro kiểm tốn thì cần phải hiểu được bản chất của từng loại hình rủi
ro dựa trên cơ sở tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới mơi trường kinh doanh của
khách thể kiểm tốn. Cuối cùng, kiểm toán viên sẽ vận dụng sự xét đoán nghề
nghiệp để đưa ra kết luận về rủi ro kiểm tốn có thể gặp phải.
Chúng ta biết rằng, đối tượng của kiểm tốn tài chính là các báo cáo tài
chính của đơn vị được kiểm tốn. Các báo cáo tài chính này được lập dựa trên
nhiều khoản mục, nghiệp vụ khác nhau. Mặt khác, do rủi ro kiểm toán có mối
liên hệ với tính trọng yếu, khi ước lượng ban đầu về mức trọng yếu trong giai
đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên đánh giá mức trọng yếu trên phương diện mức
độ sai sót tổng thể của báo cáo tài chính và trên mối quan hệ với mức độ sai sót

16


chi tiết của số dư các tài khoản, các nghiệp vụ và các thơng tin trên báo cáo tài
chính sẽ khác nhau. Do vậy, khi đánh giá rủi ro kiểm tốn thì kiểm tốn viên phải
đánh giá trên cả hai phương diện: phương diện báo cáo tài chính và phương diện
số dư tài khoản và loại nghiệp vụ.
Rủi ro kiểm toán được đánh giá trên cơ sở đánh giá ba loại rủi ro: rủi ro
tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Tuy nhiên, trước khi đánh giá ba
loại hình rủi ro này, kiểm tốn viên cần phải xác định được mức rủi ro kiểm toán
mong muốn. Ta thấy rằng, rủi ro kiểm tốn có thể ở mức thấp, trung bình, hoặc
cao. Mục tiêu của kiểm tốn viên là phải thiết lập được các thủ tục kiểm tốn để

thu thập được đầy đủ các bằng chứng có độ tin cậy nhằm đưa ra kết luận xác
đáng nhất về các thơng tin trên báo cáo tài chính. Điều này có nghĩa là, kiểm
tốn viên và cơng ty kiểm toán đã đạt được mức rủi ro kiểm toán mong muốn.
2.2.1. Đánh giá rủi ro kiểm toán mong muốn
Cũng tương tự như xác định mức rủi ro kiểm toán, muốn đánh giá rủi ro
kiểm toán mong muốn, kiểm toán viên cũng cần phải dựa vào đánh giá ba loại
hình rủi ro: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Rủi ro kiểm toán mong muốn, hay rủi ro kiểm tốn có thể chấp nhận được
được đánh giá dựa trên ước lượng ban đầu của kiểm toán viên về mức độ tin cậy
của các báo cáo tài chính sẽ được kiểm tốn. Như vậy, nếu mức độ tin cậy càng
cao thì rủi ro kiểm tốn mong muốn càng được xác định thấp. Việc đánh giá rủi
ro này phụ thuộc rất lớn vào xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Một yếu
tố quan trọng khi đánh giá rủi ro kiểm toán mong muốn là mức rủi ro phát hiện
mong muốn. Rủi ro phát hiện mong muốn được xác định dựa trên một mức rủi ro
kiểm toán, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cụ thể. Nếu rủi ro kiểm toán mong
muốn, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt càng thấp thì mức rủi ro phát hiện

17


mong muốn càng cao.
Các yếu tố mà kiểm toán viên cần xem xét khi xác định mức rủi ro kiểm
toán mong muốn là: quy mô khách hàng, sự phân phối quyền sở hữu, bản chất và
quy mô của công nợ, khả năng tiếp tục hoạt động về mặt tài chính của cơng ty
khách hàng sau khi báo cáo kiểm tốn được cơng bố. Ngồi ra, kiểm tốn viên
cũng cần cân nhắc các yếu tố như chi phí kiểm tốn, trình độ nghiệp vụ của kiểm
tốn viên, các giới hạn có thể có từ phía cơng ty khách hàng,…
Tuy nhiên, do rủi ro kiểm tốn phụ thuộc vào ba loại hình rủi ro kiểm tốn
khác, và ba loại hình rủi ro này trong q trình kiểm tốn, kiểm tốn viên có thể
sẽ phải thay đổi để phù hợp với những đánh giá của kiểm toán viên nhất, nên

mức rủi ro kiểm tốn mong muốn có thể sẽ thay đổi theo.
2.2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Đánh giá rủi ro tiềm tàng là bước cơng việc thứ hai trong q trình đánh giá
rủi ro kiểm toán, sau khi xác định được mức rủi ro kiểm toán mong muốn. Đây là
một thành phần trong rủi ro kiểm toán đối với các báo cáo tài chính chưa được
kiểm tốn.
Rủi ro tiềm tàng là rủi ro cố hữu tồn tại trong các báo cáo tài chính nói
chung hay trong các khoản mục, nghiệp vụ nói riêng với giả định khơng có sự
tác động của mơi trường kiểm soát. Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng cho phép kiểm
tốn viên dự kiến được cơng việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện cho các
nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên báo cáo tài chính mà kiểm tốn viên
cho rằng có rủi ro tiềm tàng cao. Điều này sẽ tránh việc bỏ sót các sai phạm
trọng yếu trên báo cáo tài chính hay trong từng khoản mục, nghiệp vụ cụ thể.
Khi đánh giá rủi ro tiềm tàng, yêu cầu trọng tâm nhất đối với kiểm tốn viên
là phải có hiểu biết về đặc điểm hoạt động kinh doanh của khách thể kiểm toán.

18


Đặc điểm hoạt động kinh doanh bao gồm các yếu tố chính sau: quy trình cơng
nghệ, cơ cấu vốn, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động sản xuất kinh
doanh theo mùa vụ…Đây là lưu ý quan trọng đầu tiên vì nó ảnh hưởng tới tồn
bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có đặc điểm hoạt
động kinh doanh khác nhau thì phương hướng, kế hoạch và việc thực hiện kế
hoạch kinh doanh để đạt những mục tiêu đã xác định cũng khác nhau. Hơn nữa,
đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh còn ảnh hưởng tới một yếu tố quan
trọng mà bất kỳ nhà quản lý doanh nghiệp nào cũng phải xem xét, đó là rủi ro
kinh doanh. Kiểm tốn viên cũng nên xem xét các yếu tố làm tăng rủi ro kinh
doanh cho doanh nghiệp như: trả lương nhân viên quá cao, tuyển bạn bè hơn là
những ứng cử viên thích hợp cho vị trí các cơng việc. Cơng việc, nghành nghề

kinh doanh cũng ảnh hưởng tới khả năng đánh giá không đúng chi phí, khơng
đúng doanh thu…Và do vậy, rủi ro tiềm tàng sẽ cao.
Trong một doanh nghiệp, Ban Giám đốc là người chịu trách nhiệm đối với
các báo cáo tài chính. Tính chính xác, phù hợp của các thơng tin trên báo cáo tài
chính thể hiện phần nào sự liêm khiết của Ban Giám đốc. Do vậy, khi đánh giá
rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên cần xem xét tới tính liêm khiết của Ban Giám
đốc. Tính liêm khiết là nguyên tắc tối cao của các nhà lãnh đạo. Khi nhà lãnh đạo
không xem liêm khiết là phẩm chất hàng đầu, thì tất yếu các nhân viên của họ
cũng khơng còn coi yếu tố trung thực, liêm khiết là quan trọng nữa, khi đó, việc
có những hoạt động mờ ám, không minh bạch trong doanh nghiệp rất dễ xảy ra.
Kiểm toán viên cũng nên xem xét tới khả năng mà các nhà lãnh đạo phải chịu áp
lực công việc cao như phải hoàn thành mục tiêu tăng doanh thu trong kỳ do cấp
trên giao phó, cũng như việc các nhân viên trong doanh nghiệp chịu sự quản lý
quá cứng nhắc của nhà lãnh đạo như: Kế toán trưởng là người chịu trách nhiệm
lập báo cáo tài chính, nếu có những áp lực bất thường từ Ban Giám đốc thì đây là

19


hồn cảnh thúc đẩy cho việc trình bày báo cáo tài chính khơng đúng sự thật; hay
việc bắt buộc phải tăng doanh thu trong kỳ trong khi các yếu tố kinh doanh
không thuận lợi, bắt buộc phải thực hiện một mục tiêu kinh doanh, chính sách,
quy định khác khơng phù hợp vơi đặc điểm hoạt động của bộ phận mình. Những
yếu tố này dẫn tới việc khả năng sai phạm dễ xảy ra.
Yếu tố tiếp theo mà kiểm toán viên cần chú ý đó là động cơ của khách
hàng. Trong một số tình huống, Ban quản trị có thể tin rằng sẽ có lợi nếu báo cáo
sai như nhận được tiền thưởng theo tỷ lệ lợi nhuận trong kỳ, và do đó có thể có
xu hướng khai khống, khai tăng lợi nhuận. Tương tự, nếu có quy định về trái
khốn ghi rõ là tỷ lệ thanh toán hiện hành phải ở trên một mức tối thiểu nào đó,
thì khách hàng sẽ có thể cố gắng báo cáo dư tài sản hiện có hoặc khai giảm, khai

thiếu nợ ngắn hạn để có thể thỏa mãn quy định đó. Tương tự, có thể có động cơ
rõ ràng rằng Ban quản trị muốn giảm bớt số thuế phải nộp, và nếu vậy, sẽ cần
báo cáo thiếu lợi nhuần thuần trước thuế.
Việc tìm hiểu kết quả của các lần kiểm toán trước cũng rất quan trọng.
Những sai số được tìm thấy trong những lần kiểm tốn trước có khả năng sẽ lại
tiếp tục xuất hiện trong lần kiểm tốn năm nay. Có điều này là vì rất nhiều loại
sai sót có bản chất hệ thống và các doanh nghiệp thường chậm chạp trong việc
điều chỉnh các sai sót này. Do đó, kiểm tốn viên khơng nên chủ quan mà bỏ qua
kết quả kiểm tốn của năm trước. Ví dụ, kiểm tốn viên tìm thấy một số lượng
sai sót đáng kể trong việc định giá hàng tồn kho trong báo cáo kiểm toán năm
trước, rủi ro tiềm tàng có khả năng cao, và việc mở rộng các cuộc khảo sát sẽ
được thực hiện để xác định liệu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có
phát hiện và sửa chữa kịp thời hay chưa. Tuy vậy, nếu kiểm tốn viên khơng tìm
thấy sai sót nào liên quan đến tính giá hàng tồn kho trong báo cáo kiểm tốn năm
trước, thì kiểm tốn viên có thể sẽ có căn cứ để cho rằng, rủi ro tiềm tàng đối với

20


khoản mục hàng tồn kho năm nay là thấp.
Trên đây là một số nhân tố rủi ro mà kiểm toán viên nên xem xét khi đánh
giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện báo cáo tài chính. Cịn đối với phương diện
số dư tài khoản và loại nghiệp vụ, kiểm toán viên nên xem xét các yếu tố sau:
- Loại báo cáo tài chính: Báo cáo tài chính có những điều chỉnh liên quan

đến niên độ trước, báo cáo tài chính có nhiều ước tính kế tốn hay báo cáo tài
chính trong năm có nhiều thay đổi trong chính sách kế toán.
- Mức độ dễ mất mát, biển thủ tài sản như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu

chi, doanh nghiệp để nhiều tiền mặt tại quỹ, các giao dịch chủ yếu được thực

hiện thông qua quỹ tiền mặt…
- Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay các nghiệp vụ bất thường khác: các

nghiệp vụ phức tạp, không thường xuyên có nhiều khả năng bị vào sổ sai hơn là
các nghiệp vụ hàng ngày vì các nhân viên của khách hàng thiếu kinh nghiệm
trong khi vào sổ chúng. Ví dụ như các khoản thiệt hại do cháy, mua bất động sản
lớn, hay các nghiệp vụ liên quan đến hợp đồng thuê tài chính, thuê hoạt động…
- Số lượng tiền các số dư tài khoản: các tài khoản có số dư tiền lớn thường

có sai sót nhiều hơn so với tài khoản có số dư tài khoản nhỏ, và do vậy rủi ro
tiềm tàng cao hơn. Ví dụ, kiểm tốn viên nên dành nhiều thời gian để kiểm toán
hàng tồn kho hơn là kiểm toán các khoản bảo hiểm chưa được hưởng vì hàng tồn
kho chứa đựng nhiều sai sót trọng yếu hơn.
Kiểm toán viên sẽ phải đánh giá các nhân tố rủi ro trên và quyết định mức
rủi ro tiềm tàng thích hợp đối với từng bộ phận của cuộc kiểm toán. Khi làm điều
này, một số nhân tố, như tính liêm chính của Ban Giám đốc sẽ ảnh hưởng tới
nhiều hoặc tất cả các bộ phận khác, trong khi những yếu tố khác, như các nghiệp
vụ không thường xuyên chỉ ảnh hưởng đến bộ phận liên quan đến các nghiệp vụ
ấy. Thơng thường, hiện nay, kiểm tốn viên thường xây dựng một mức rủi ro

21


tiềm tàng cao, khoảng trên 50%, cả trong trường hợp tốt nhất, và cả mức 100%
ngay khi kiểm toán viên phát hiện được bất kỳ một sai sót trọng yếu nào.
2.2.3. Đánh giá rủi ro kiểm soát
Trong hoạt động của doanh nghiệp, chức năng kiểm tra, kiểm sốt ln giữ
vai trị quan trọng trong q trình quản lý và được thực hiện chủ yếu bởi hệ
thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp. Nhà quản lý sử dụng hệ thống kiểm
sốt nội bộ như là cơng cụ để có thể đảm bảo những mục tiêu đã đặt ra có thể

thực hiện được một cách hiệu quả, hiệu lực và có kinh tế. Chính vì vậy, hệ thống
kiểm sốt nội bộ ảnh hưởng rất nhiều đến các thơng tin trình bày trên các báo cáo
tài chính. Một hệ thống kiểm sốt nội bộ được thiết kế và vận hành một cách
hiệu quả sẽ giảm thiểu được rất nhiều các gian lận và sai sót có thể xảy ra. Theo
Liên đồn Kế toán quốc tế (IFAC): “Hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống
các chính sách và thủ tục được thiết lập nhằm đạt được bốn mục tiêu sau: bảo vệ
tài sản của đơn vị; đảm bảo độ tin cậy của các thông tin; bảo đảm việc thực hiện
chế độ pháp lý và bảo đảm hiệu quả của các hoạt động.” Xuất phát từ đó, có thể
khẳng định rằng, bản chất của việc đánh giá rủi ro kiểm soát là việc kiểm tốn
viên tìm hiểu về hệ thống kiểm sốt của khách hàng.
Kiểm toán viên sẽ đánh giá rủi ro kiểm sốt là thấp, trung bình hoặc cao
tương ứng với mức độ phù hợp và hoạt động hữu hiệu của hệ thống kiểm soát
nội bộ. Một hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả thì tất nhiên hệ thống
ấy phải đảm bảo được bốn mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, và khi đó thì
những gian lận và sai sót mà doanh nghiệp khơng mong muốn sẽ giảm xuống.
Xét trên phương diện báo cáo tài chính: bằng chứng liên quan đến việc đánh
giá rủi ro kiểm soát được coi là bằng chứng tốt nhất để xem xét bản chất của mơi
trường kiểm sốt mà có ảnh hưởng tới hệ thống thơng tin kế tốn. Mơi trường

22


kiểm sốt nhằm đảm bảo rằng các chính sách kiểm soát được thiết kế trong
doanh nghiệp được thực thi đúng đắn. Hiểu theo cách khác, mơi trường kiểm
sốt giống như một hệ thống các chính sách kiểm sốt nhằm hạn chế, giảm thiểu
nhất những rủi ro tiềm tàng có thể xảy ra. Ngược lại, nếu chỉ có một vài chính
sách kiểm soát được thiết lập một cách rời rạc, riêng rẽ thì rủi ro kiểm sốt sẽ
được đánh giá cao. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc đánh giá rủi ro kiểm soát mà
kiểm toán viên nên xem xét:
* Đặc thù về quản lý: Các nhà quản lý có quan điểm khác nhau thì việc thiết

kế các chính sách, chế độ quy định và cách thức kiểm tra cũng sẽ rất khác nhau.
Nếu các nhà quản lý quan niệm rằng mơi trường kiểm sốt là một nhân tố quan
trọng trong việc đạt được hiệu quả kinh doanh, khi đó họ sẽ không ngần ngại với
việc phải mất thời gian và chi phí để thiết kế các chính sách, thủ tục, quy định
sao cho hợp lý, có hiệu quả và thực thi nhất đối với hoạt động của doanh nghiệp
mình.
* Việc thiết lập các chính sách về cơ cấu tổ chức: Ví dụ, một khách thể
kiểm tốn khi thiết lập được một chuỗi trách nhiệm giữa các phòng ban, cụ thể là
các phòng ban độc lập với nhau, hay trách nhiệm của các phòng ban này đối với
nhà quản lý cấp cao trong vai trò phát hiện, báo cáo và điều chỉnh các gian lận và
sai sót, thì mơi trường kiểm soát sẽ hiệu quả hơn nhiều so với một khách thể
kiểm tốn khơng thiết lập được cơ cấu tổ chức như vậy.
Các chính sách ủy quyền được xác định một cách đúng đắn: Việc thiết lập
các chính sách có liên quan tới việc xây dựng sự ủy quyền trong quản lý cũng
được coi là yếu tố ảnh hưởng tích cực tới mơi trường kiểm sốt, vì sự ủy quyền
đúng đắn đảm bảo các nghiệp vụ, hoạt động trong đơn vị được thực hiện theo
đúng quy định đã được đặt ra.
* Sự có mặt của bộ phận kiểm tốn nội bộ trong doanh nghiệp: Kiểm toán

23


nội bộ là một bộ phận độc lập được thiết kế trong doanh nghiệp để tiến hành
công việc kiểm tra và đánh giá các công việc phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ.
Chính vì vậy, bộ phận kiểm tốn nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh giá
thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính hiệu quả
của việc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục về kiểm sốt nội bộ. Bộ
phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp cho doanh nghiệp có được những thơng
tin kịp thời và xác thực về các hoạt động trong doanh nghiệp hay chất lượng của
hoạt động kiểm soát nhằm kịp thời điều chỉnh, bổ sung các quy chế kiểm sốt

thích hợp và hiệu quả.
* Hệ thống các chính sách về cơng nghệ thông tin được thiết kế đúng đắn:
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học cơng nghệ thì việc kiểm sốt thơng tin
trong doanh nghiệp đã trở nên dễ dàng hơn, vừa tiết kiệm được thời gian, vừa
giảm được chi phí nhưng vẫn đảm bảo được tính chính xác và kịp thời.
* Các chính sách về nguồn nhân lực: Khi các chính sách về nguồn nhân lực
được thiết kế nhằm hướng tới cải thiện năng lực quản lý và năng lực của nhân
viên, cũng như các chính sách liên quan đến việc tuyển dụng và đào tạo nhân
viên thì việc kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp sẽ hiệu quả hơn. Vì sự phát triển
của doanh nghiệp ln gắn liền với đội ngũ nhân viên. Nhân viên có năng lực và
đáng tin cậy thì q trình kiểm sốt có thể không cần thực hiện mà vẫn đảm bảo
đạt được các mục tiêu đề ra của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Quá trình đánh giá rủi ro được thiết lập đúng đắn: Khi nhà quản lý xây dựng
được quy trình đánh giá rủi ro có ảnh hưởng tới q trình xử lý thơng tin trên báo
cáo tài chính thì việc đánh giá và thiết kế các hoạt động thích hợp để nhằm giảm
thiểu các yếu tố rủi ro này sẽ tốt hơn và do vậy, mơi trường kiểm sốt cũng sẽ
hoạt động hiệu quả hơn.
* Sự hoạt động độc lập của ủy ban kiểm toán: Bộ phận kiểm toán độc lập là

24


thành phần của ủy ban kiểm toán. Khi ủy ban kiểm toán độc lập với Ban Giám
đốc hay bộ phận kế tốn thì bộ phận kiểm tốn nội bộ mới khơng bị giới hạn
phạm vi hoạt động và có quyền hạn đủ cao để thực hiện công việc đánh giá, kiểm
soát, kiểm tra các hoạt động trong doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Tóm lại: có thể nói rằng, rủi ro kiểm sốt trên phương diện báo cáo tài chính
được đánh giá ở mức độ thấp khi mà môi trường kiểm sốt được thiết kế và vận
hành hiệu quả, có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu, và
dựa vào đó, kiểm tốn viên có thể thực hiện được các thử nghiệm kiểm soát làm

cơ sở đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát. Ngược lại, nếu mơi trường kiểm sốt
hoạt động khơng hiệu quả, hay được thiết kế khơng đầy đủ, và kiểm tốn viên
cũng không được cung cấp đầy đủ các thông tin để đánh giá mơi trường kiểm
sốt, thì tùy theo mức độ, kiểm tốn viên có thể đánh giá rủi ro kiểm sốt “trung
bình” hoặc “cao”.
Xét trên phương diện số dư tài khoản và các nghiệp vụ
Rủi ro kiểm soát trên phương diện số dư tài khoản và nghiệp vụ là loại rủi
ro kiểm tốn do cịn tồn tại các sai phạm trọng yếu liên quan đến các cơ sở dẫn
liệu về các số dư tài khoản, nghiệp vụ mà không không được phát hiện hay sửa
chữa bởi hệ thống kiểm soát nội bộ.
Nếu việc đánh giá rủi ro kiểm soát trên phương diện báo cáo tài chính u
cầu kiểm tốn viên phải có được hiểu biết sơ bộ về đặc điểm kinh doanh của
khách hàng thì việc đánh giá rủi ro kiểm soát trên phương diện số dư tài khoản
hay nghiệp vụ địi hỏi kiểm tốn viên phải có hiểu biết chi tiết và cụ thể hơn về
các đặc điểm hoạt động kinh doanh này.
Khi đánh giá rủi ro kiểm soát trên phương diện này, ngoài những yếu tố
được kể đến khi đánh giá trên phương diện báo cáo tài chính thì yếu tố mà kiểm
tốn viên cần quan tâm nhiều nhất đó là các thủ tục kiểm sốt. Các thủ tục kiểm

25


×