Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

SKNN ren doc dien cam cho hoc sinh lop 5 moi nhat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.64 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>A/ ĐẶT VẤN ĐỀ I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong chương trình Tiếng Việt ở bậc tiểu học thì phân môn tập đọc có một vị trí rất quan trọng. Phân môn tập đọc cung cấp cho học sinh các kỹ năng đọc, mở rộng vốn từ tạo điều kiện học tập tốt các môn khác. Dần dầnhình thành kỹ năng sử dụng thông thạo tiếng Việt, từ đọc thông viết thạo giúp học sinh có điều kiện nắm lấy kho tàng kiến thức và văn hoá của loài người tàng trữ trong sách. Mà để đọc thông thạo cần phải gắn liền với việc rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh như: đọc đúng, đọc nhanh, đọc chính xác, rõ ràng, rành mạch, diễn cảm để học sinh có những hiểu biết về kiến thức văn học, về ngôn ngữ và ngược lại khi hiểu được những văn bản đọc sẽ giúp học sinh hiểu được đọc diễn cảm. Vì vậy giữa việc đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là hai quá trình có liên quan gắn bó mật thiết với nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh được văn hoá, tiếp thu được nền văn minh của loài người thông qua sách vở. Không những thế việc đọc sẽ giúp các em nâng cao trình độ hiểu biết. Muốn có kĩ năng đọc hay, diễn cảm, học sinh phải có khả năng cảm thụ bài đọc ở mức độ nhất định. Khi đã có kĩ năng đọc tốt, học sinh sẽ hiểu đúng, cảm thụ sâu sắc hơn. Phân môn Tập đọc luôn luôn thể hiện sự gắn bó chặt chẽ quá trình đọc và quá trình hiểu (hiểu nội dung cơ bản của bài đọc qua hệ thống từ ngữ, kiểu câu, bố cục và thể loại văn bản để đọc đúng, đọc hay và từ đó giúp học sinh cảm thụ cái hay cái đẹp của tư tưởng, tình cảm, của nghệ thuật ngôn từ để thể hiện ra cách đọc, giọng đọc, đọc diễn cảm). Nhằm phát huy tầm quan trọng của phân môn Tâp đọc, mỗi giáo viên cần hiểu sâu sắc mục đích của môn học, bài học, nhận thức rõ phương pháp giảng dạy của phân môn. Thực tế trong quá trình dạy Tâp đọc lớp 5, tôi nhận thấy chất lượng đọc của học sinh chưa cao, nhất là việc đọc diễn cảm. Thông qua việc học hỏi, trau dồi kiến thức chuyên môn, nâng cao năng lực của mình, mong rằng phần nào góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, tôi đã đề xuất một phần kinh nghiệm nhỏ về vấn đề “Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5”..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trong các môn học, môn Tiếng Việt là một trong những môn có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn Tiếng Việt có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về con người và các chuẩn mực của thế giới hiện thực. Trong đó Tập đọc là một trong những phân môn rất có ý nghĩa của Tiếng Việt. Nhờ học Tập đọc mà học sinh: . Biết được thực tế trình độ đọc đúng và đọc diễn cảm của học sinh lớp 5. Từ đó đề ra biện pháp khắc phục giúp học sinh đọc diễn cảm và yêu quý, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.. . Giúp học sinh có vốn kiến thức vững chắc về tập đọc, tạo cơ sở học tập tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác.. . Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học. Phân môn Tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục thẩm mĩ, giúp học sinh thêm. yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong văn chương. Môn học này góp phần rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng, tư duy lôgic. Giờ tập đọc, ngoài việc rèn đọc, dẫn dắt cho học sinh cảm thụ tốt bài văn, thấy cái hay cái đẹp của hình tượng văn học, chúng ta còn cho học sinh tìm bố cục để phát triển óc phân tích, tìm đại ý để phát triển óc tổng hợp. Ngoài ra còn rèn óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ.... III/ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI Để biết nguyên nhân và đưa ra được biện pháp giúp học sinh học tốt hơn ở môn Tập đọc . Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5.. . Nguyên nhân dẫn đến học sinh đọc chưa tốt.. . Đề xuất một số biện pháp tích cực giúp học sinh phân biệt thanh hỏi/ thanh ngã.. IV/ ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Đối tượng : học sinh tiểu học (Lớp 5) - Phạm vi nghiên cứu : Giới hạn vấn đề nghiên cứu: rèn đọc diễn cảm ở học sinh lớp 5. V/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> 1) Phương pháp quan sát Phương pháp này giúp giáo viên nhận biết được tinh thần, thái độ, ý thức trong việc học môn Tập đọc của từng học sinh của lớp.. 2) Phương pháp thực nghiệm Khi nghiên cứu tìm ra các nguyên nhân dẫn đến việc dọc chưa tốt ở học sinh thì cần tạo ra các tình huống, những câu hỏi để hiểu rõ được cách đọc của các em.. 3) Phương pháp điều tra Phương pháp này chẳng những điều tra thực trạng qua từng giai đoạn trong suốt năm học mà còn tìm hiểu thực tế việc dạy và học phân môn Tập đọc trong trường Tiểu học.. 4) Phương pháp so sánh đối chứng Đây là phương pháp không những so sánh đối chứng trong cùng một giai đoạn giữa lớp này với lớp kia, giữa các giai đoạn với nhau trong cùng một lớp mà còn đối chứng cả với những năm học trước.. 5) Phương pháp kiểm tra, đánh giá Phương pháp được tiến hành đồng thời với phương pháp thu thập thông tin và phương pháp xử lý thông tin. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng đọc của từng học sinh, cần phải mô tả và thống kê chất lượng ấy bằng những số liệu cụ thể, sau đó tổng hợp các số liệu đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân.. B/ PHẦN NỘI DUNG I/ THỰC TRẠNG Mặc dù là giáo viên mới ra trường chưa được bao lâu, nhưng qua những năm trực tiếp giảng dạy lớp 5, qua việc dự giờ của các đồng nghiệp, tôi thấy rằng mặc dù giáo viên đã vận dụng nhiều phương pháp dạy học mới nhưng trên thực tế khi dạy tập đọc giáo viên vẫn còn coi trọng khâu tìm hiểu bài. Vì thế mà phần luyện đọc diễn cảm ở học sinh chưa được chú ý nhiều. Cụ thể, khi tôi dạy phân môn tập đọc, mà tôi đang dạy vào đầu năm học này có số liệu cụ thể như sau : Giai đoạn Sĩ số Học sinh đọc trôi chảy Đầu năm 36 20 học sinh = 55,55%. II/ NGUYÊN NHÂN 1) Về phía giáo viên:. Học sinh ngắt nghỉ đúng Học sinh đọc diễn cảm 25 học sinh = 69,44% 11 học sinh = 30,55%.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Hầu hết đối với giáo viên, Tập đọc là một trong những phân môn tương đối không khó. Họ đều tích cực trong việc học hỏi kinh nghiệm, thay đổi phương thức, đặc biệt là áp dụng đổi mới phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm”. Tuy nhiên kết quả cho thấy học sinh chưa đọc được hay (đọc diễn cảm) bài đọc. Vì trong khi dạy học môn tập đọc, giáo viên thường chỉ coi trọng và sửa cho học sinh vấn đề đọc to, rõ ràng, lưu loát chứ chưa quan tâm nhiều đến kỹ thuật đọc, giọng đọc, cách đọc diễn cảm của học sinh hay việc đọc mẫu của giáo viên. Nhìn chung phương pháp còn mang tính chất áp đặt theo khuôn khổ. Giáo viên mất thời gian nhiều cho việc giảng giải các từ khó, về ý nghĩa của bài mà xem nhẹ phần luyện đọc, đặc biệt là luyện đọc diễn cảm. Bên cạnh đó, do khách quan, một số giáo viên không có chất giọng tốt để đọc hay bài đọc. Mặc khác giáo viên tiểu học lại dạy quá nhiều môn trong một buổi học nên việc đầu tư thời gian để luyện đọc trước khi lên lớp còn có phần hạn chế.... 2) Về phía học sinh: Học sinh chưa quan tâm đến cách đọc của mình, do đó các em rất chậm trong việc phát huy kĩ năng đọc. Hầu hết ở bậc học này các em đã đọc thành tiếng, phát âm đúng và rõ các tiếng có vần khó. Nhưng việc đọc để thể hiện nội dung bài đọc thì còn thấp. Khi đọc, nhiều em chưa hiểu ý của từng đoạn, từng bài, các em ngắt nghỉ câu văn, ngắt nhịp câu thơ chưa chính xác, chưa thể hiện được nội dung và tình cảm bài đọc bằng sắc thái giọng đọc vui, buồn, trầm, bổng, gợi cảm... Kĩ năng đọc lướt để tìm hiểu nội dung bài chưa tốt ở đa số các em. Sĩ số một lớp học còn đông. Do đặc điểm vùng miền, kinh tế ở gia đình chưa cao nên các em chưa được tạo điều kiện tốt để học tập. Qua việc khảo sát chất lượng đọc của học sinh ngay từ đầu năm học, tôi thấy lượng học sinh đã biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít, nhất là đối với những học sinh có lực học trung bình hay yếu.. III/ BIỆN PHÁP 1) Hướng dẫn học sinh về tốc độ, cao độ, cường độ, trường độ Trước tiên học sinh phải hiểu rõ được hầu hết các khái niệm:  Cao độ là độ cao thấp của âm thanh .  Cường độ là độ lớn, nhỏ, mạnh, yếu của âm thanh.  Tốc độ là độ nhanh chậm, ngắt, nghỉ.  Trường độ là độ dài, ngắn của âm thanh và âm sắc ..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Cần kết hợp giữa cao độ và cường độ để phân biệt lời tác giả và lời nhân vật. Khi đọc những lời dẫn chuyện cần đọc với giọng nhỏ hơn, thấp hơn những lời nói trực tiếp của nhân vật. Ví dụ: Khi đọc bài văn Cái gì quý nhất ? (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.85,86) cần chú ý giọng đọc của người dẫn truyện và lời của các nhân vật. Tốc độ đọc chi phối sự diễn cảm, có ảnh hưởng đến việc thể hiện ý nghĩa, cảm xúc. Do đó tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức bài đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ nhanh chậm để người nghe hiểu được. Tốc độ truyện kể phải nhanh hơn đọc thơ trữ tình vì đọc thơ trữ tình cần thời gian để bộc lộ cảm xúc. Ví dụ : Khi đọc bài thơ Trước cổng trời (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.80) phải nhanh hơn là đọc bài văn Một chuyên gia máy xúc (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.45) Nhiều khi không phải chỉ là đọc đúng tốc độ của từng thể loại, mà phải dùng cả trường độ kéo dài giọng đọc từng tiếng để cho câu văn, câu thơ ngân lên mặc dù là câu cảm, nhưng không phải là lời gợi mà là một lời than tha thiết. Việc kéo dài trường độ câu thơ gây sự chú ý cho đoạn kết của bài, nơi mà các ý bài thơ còn dồn lại. Ví dụ : Khi đọc bài : Bài ca về trái đất (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.41), cần phải đọc chậm rãi tha thiết trải dài ở khổ thơ cuối . Hành tinh này là của chúng ta! Hành tinh này là của chúng ta! Đọc kéo dài ở câu Hành tinh này….. là của chúng ta! . Việc kéo dài ở câu thơ gây sự chú ý cho người nghe hiểu đượchành tinh này là của chúng ta, chúng ta phải giữ gin, bảo vệ nó. Cường độ đọc có giá trị diễn cảm . Cường độ phối hợp với cao độ sẽ tạo ra giọng vang hay giọng lắng. Ví dụ : Khổ thơ trong bài : Bài ca về trái đất (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.42), Trái đất này là của chúng mình, Quả bóng xanh bay giữa trời xanh Bồ câu ơi, cánh chim gù thương mếm... Cùng bay nào cho trái đất quay! Cùng bay nào cho trái đất quay! Như vậy ngữ điệu đọc, đọc diễn cảm là sự hoà đồng của tất cả những đặc điểm âm thanh này. Chỗ ngừng, tốc độ, chỗ nhấn giọng, chỗ lên giọng, hạ giọng tạo nên một âm.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> hưởng chung của bài tập đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài đọc. Vì vậy phải hoà nhập với câu chuyện bài văn, bài thơ có cảm xúc mới tìm thấy ngữ điệu thích hợp. Chính tác phẩm quy định ngữ điệu cho chúng ta chứ không phải chúng ta tự đặt ra ngữ điệu. 2) Hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp, nhịp độ đọc Một số người lầm tưởng hướng dẫn đọc ngắt nhịp trong thơ là hướng dẫn đọc diễn cảm. Không phải như vậy, mà đó mới chỉ là cách đọc đúng trong thơ mà thôi. Vậy muốn hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp thơ đúng thì giáo viên phải nắm vững cách đọc các thể thơ. Các bài thơ trong sách Tiếng Việt 5 thường được viết theo thể thơ tự do. Vì vậy, ngắt nhịp thơ còn phụ thuộc vào cách cảm nhận của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng học sinh cảm nhận theo cách khai thác được giá trị nội dung và giá trị thẩm mĩ cao nhất. Trong bài" Hành trình của bầy ong "(Tiếng Việt 5, tập 1, tr.117),, học sinh thường ngắt nhịp như sau: Chắt trong / vị ngọt mùi hương Lặng thầm thay những / con đường ong bay. Trải qua mưa nắng / vơi đầy Men trời đất đủ làm say / đất trời. Bầy ong / giữ hộ cho người Những mùa hoa / đã tàn phai / tháng ngày.. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc nhấn giọng và ngắt nhịp như sau: Chắt trong vị ngọt / mùi hương Lặng thầm thay / những con đường ong bay. Trải qua mưa nắng vơi đầy Men trời đất / đủ làm say đất trời. Bầy ong giữ hộ cho người Những mùa hoa / đã tàn phai tháng ngày. Trong bài "Cao bằng"(Tiếng Việt 5, tập 2, tr.41), cần hướng dẫn học sinh đọc chú ý ngắt giọng, nhấn giọng tự nhiên giữa các dòng thơ. Cao Bằng rõ thật cao! Rồi dần / bằng bằng xuống Đầu tiên là mận ngọt Đón môi ta dịu dàng..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Rồi đến chị rất thương Rồi đến em rất thảo Ông lành / như hạt gạo Bà hiền / như suối trong. Do vậy, tôi muốn nói khi hướng dẫn học sinh ngắt nhịp thơ thì giáo viên cần phải cho học sinh nhận biết bài thơ đó được viết ở thể thơ nào? Cách ngắt nhịp chung của toàn bài ra sao? Song cũng cần phải phát hiện những câu, những đoạn có cách ngắt nhịp khác biệt trong bài để hướng dẫn học sinh. Thực chất ngắt nhịp thơ cũng được dựa trên cơ sở ngắt nhịp theo cụm từ. Do vậy, ngắt nhịp thơ không đúng câu thơ sẽ trở nên tối nghĩa, mất hết ý vị còn đâu có thể cảm nhận được nội dung của bài. Khi đọc văn bản văn xuôi cũng cần chú ý tới ngắt nhịp. Đọc bài Mùa thảo quả (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.113), chú ý nghỉ hơi ngắn ở những câu ngắn (Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm.) nhằm thể hiện nhịp thở của người đang hít vào để cảm nhận mùi thơm của thảo quả lan trong không gian. Không chỉ quan tâm đến việc ngắt nhịp trong khi đọc mà còn thể hiện nhịp độ đọc. Đọc nhanh hay chậm, vừa phải là do nôị dung bài văn, bài thơ quyết định. Trong một bài có thể đọc nhanh, chậm, vừa phải tuỳ thuộc theo nội dung từng đoạn như khi dạy bài:“ Kì diệu rừng xanh”(Tiếng Việt 5, tập 1, tr.75), Cần hướng dẫn học sinh đọc giọng khoan thai, thể hiện thái độ ngỡ ngàng, ngưỡng mộ cảnh vật ở đoạn 1; đọc nhanh hơn ở những câu miêu tả hình ảnh thoắt ẩn, thoắt hiện của muông thú ở đoạn 2; đọc thong thả ở những câu cuối miêu tả vẻ thơ mộng của cánh rừng trong sắc vàng mênh mông ở đoạn 3. Học sinh phải biết thay đổi tốc độ đọc như vậy tức là đã cảm nhận được vẻ đẹp kì thú của rừng xanh. Làm tốt khâu rèn đọc đúng tức là ta đã tạo ra cơ sở ban đầu để giúp học sinh hiểu đúng nội dung bài tập đọc và như vậy mới có thể hướng dẫn học sinh đọc diễm cảm được. 3) Hướng dẫn học sinh về cách đọc diễn cảm Để các em đọc diễn cảm tốt, tôi thường xuyên đọc mẫu, giúp học sinh luyện tập thể hiện sự cảm nhận về nội dung, ý nghĩa của bài qua giọng đọc. Sau đó các em tự tìm cách đọc diễn cảm riêng, tuy nhiên, đọc diễn cảm cũng còn phụ thuộc vào sự cảm nhận riêng của từng cá nhân, giáo viên cần khuyến khích học sinh cách đọc sáng tạo của học sinh, tránh áp đặt một cách theo khuôn mẫu. Qua kết quả đọc của các em, tôi dẫn dắt, gợi ý để các em phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế và tìm ra cách đọc hợp lý..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Chúng ta đều biết đọc diễn cảm khó hơn đọc bình thường. Đọc bình thường chỉ đòi hỏi phát âm đúng, đọc lưu loát, biết nghỉ đúng chỗ theo các dấu ngắt câu, biết lên, xuống giọng. Đọc diễn cảm đòi hỏi người đọc phải nắm chắc nội dung từng đoạn từng bài, tâm tình và lời nói của từng nhân vật để diễn tả cho đúng tinh thần của câu văn, bài văn, tức là đi sâu vào bản chất của câu văn, bài văn. Cho nên, mục đích đọc diễn cảm là bộc lộ ra đ ược cái bản chất của nội dung và trên cơ sở đó muốn truyền đạt đúng những ý nghĩ và tình cảm của tác giả. Muốn đọc diễn cảm tốt phải hiểu kỹ nội dung của bài tập đọc và phải truyền đạt tốt sự hiểu biết của mình tới người nghe 4) Hướng dẫn cách liên hệ thực tế sau bài đọc Các bài tập đọc cung cấp cho học sinh những kiến thức phong phú về cuộc sống muôn màu muôn vẻ của nhân dân ta. Những kiến thức đó muốn được cụ thể, sinh động thì tuỳ từng bài mà giáo viên cần có sự liên hệ với thực tế cho phù hợp VD: Trong bài tập đọc “Hạt gạo làng ta” (Tiếng Việt 5, tập 1, tr.139) có thể học sinh liên hệ nêu ra những khó khăn mà cha mẹ và các bác xã viên phải trải qua để làm ra hạt gạo (Khó khăn do thời tiết, khó khăn do sâu bệnh gây ra, chứ không còn khó khăn do bom đạn kẻ thù nữa) Qua đó mà ta giáo dục cho học sinh tình cảm trân trọng, nâng niu từng hạt lúa và cũng muốn đóng góp công sức nhỏ bé của mình để làm ra hạt lúa. Thật sự chỉ sau khi giáo viên đã giảng thật kĩ nội dung bài, học sinh hiểu đợc bài, thâm nhập vào nội dung của bài thì lúc đó các em mới có thể truyền tải tới người nghe những ý nghĩ, tình cảm của tác giả (Tức là lúc đó các em mới đọc diễn cảm được). Phần hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm được tiến hành ngay sau khi tìm hiểu nội dung của toàn bài. Cách tiến hành hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm : Tôi chép từng đoạn thơ lên bảng phụ. Sau khi hỏi học sinh về nội dung của từng đoạn, tôi hỏi về cách đọc hay của từng đoạn, sau đó cho học sinh khá hoặc cô giáo đọc mẫu để thể hiện cách đọc hay của từng đoạn đó; cho học sinh khác phát hiện ra những điểm nhấn, giáo viên gạch chân những từ cần nhấn và gọi học sinh khác luyện đọc lại. Nghệ thuật đọc diễn cảm thể hiện ở việc nhấn giọng, cao giọng hay hạ giọng trong một bài, một đoạn, bài không phải đọc với giọng đều đều như nhau mà có từ ngữ đọc nhấn giọng hơn. Việc nhấn gọng hay hạ giọng phải đúng, chính xác, nhằm vào những từ mấu chốt, những từ có ý nổi bật, bộc lộ rõ nội dung câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ, bài văn, bài thơ..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Cái gốc để giúp cho học sinh có thể đọc diễn cảm tốt là phải giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc. Cách thức giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc chính là các bước tiến hành mà tôi đã nêu ra ở trên. Song, học sinh có thể đọc diễn cảm tốt hơn nếu như học sinh được nghe cô giáo mình đọc hay, đọc tốt. Theo tôi để rèn cho bản thân khả năng đọc diễn cảm thì giáo viên nên soạn bài thật kỹ, xem lại toàn bộ nội dung bài soạn trước khi lên lớp để nắm chắc nội dung bài, thẩm thấu toàn bộ nội dung của bài và nắm được suy nghĩ, tình cảm của tác giả được gửi gắm trong bài văn và đặt mình vào hoàn cảnh của tác giả để nhằm truyền tới người nghe hiểu biết của mình và tình cảm của tác giả. Ngoài ra trong giờ tập đọc, tôi thường xuyên quan tâm đến những em rụt rè, nhút nhát, kịp thời khuyến khích động viên để các em có hứng thú đọc tốt hơn. Đặc biệt trong giờ Tập đọc, tôi luôn tạo cho lớp học một không khí thoải mái để các em phấn khởi học tập. Để kích thích hứng thú cho học sinh, tôi luôn chú ý cho học sinh thi với những học sinh cùng trình độ nhưng cũng cần khuyến khích được các đối tượng học sinh trong lớp tham gia. Trong việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh tôi không sử dụng sự gò ép, áp đặt, mà thường xuyên sử dụng phương pháp gợi mở để phát huy tính chủ động, tích cực và sự sáng tạo ở mỗi học sinh, từ đó các em có điều kiện để thể hiện mình.. IV/ KẾT QUẢ Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng những kinh nghiệm trên cho học sinh lớp tôi đang dạy. Tôi đã tiến hành khảo sát lớp tôi đang dạy trong từng giai đoạn và có kết quả như sau: Giai đoạn Đầu năm. Sĩ số Học sinh đọc trôi chảy. Học sinh ngắt nghỉ đúng. Học sinh đọc diễn cảm. 36. 20 học sinh = 55,55%. 25 học sinh = 69,44%. 11 học sinh = 30,55%. Cuối học kì I 36. 29học sinh = 80,55%. 32 học sinh = 88,88%. 19 học sinh = 52,77%. Qua kết quả trên, tôi rất vui vì thấy trong giờ Tập đọc, học sinh không những đã say mê học tập, lớp học rất sôi nổi mà kĩ năng đọc diễn cảm của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Các em đã tích cực hơn trong việc luyện đọc và đọc diễn cảm tốt một văn bản nghệ thuật. Học sinh có kỹ năng nhận biết khá sâu sắc những yếu tố nghệ thuật thông qua những từ ngữ tiêu biểu. Học sinh đọc và cảm thụ văn bản một cách chủ động. Các em tích cực, mạnh dạn đọc và nêu cảm nhận của mình. Dẫu biết rằng kết quả trên là chưa cao nhưng nó đã đánh dấu bước đầu sự thành công của tôi trong quá trình giảng dạy để nghiên cứu, tìm tòi ra những biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh của mình. Qua đó kỹ năng viết một bài văn hoàn chỉnh các em đã biết chắt lọc từ ngữ, hình ảnh gợi cảm xúc hơn. Không.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> những thế việc học tập các môn học khác của các em đều có tiến bộ hơn.. C/ PHẦN KẾT LUẬN I/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Để đạt được kết quả như trên thông qua sáng kiến kinh nghiệm" Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5”, tôi tự rút ra một số kinh nghiệm sư phạm sau: 1. Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt, trước hết việc đọc mẫu của giáo viên phải chuẩn mực, bởi giáo viên luôn là tấm gương sáng, mẫu mực trong cách đọc diễn cảm để học sinh soi vào. Chính vì vậy, giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo:  Giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi để nắm chắc nội dung cơ bản của chương trình sách giáo khoa... để giúp học sinh hiểu và cảm thụ bài đọc.  Giáo viên phải nắm chắc đối tượng học sinh để có biện pháp phù hợp với từng đối tượng, nhằm phát huy tính tích cực trong học tập, nâng cao ý thức tự giác.  Người giáo viên phải có tâm huyết trong nghề, nhiệt tình trong soạn, giảng, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh nhất là học sinh học yếu, đọc sai, đọc ngọng để kịp thời uốn nắn, sửa chữa cho học sinh thật tận tình, chu đáo để các em khắc phục.  Luôn động viên, khích lệ những em có kĩ năng đọc diễn cảm tốt để các em ngày càng đọc tốt hơn. Tổ chức cho các em thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm trong lớp vào những giờ ngoại khoá.  Để tạo không khí vui tươi, hồn nhiên, nhẹ nhàng, sinh động trong các giờ học tôi thường tổ chức cho học sinh chơi trò chơi. 2. Bên cạnh đó, muốn rèn đọc cho học sinh có hiệu quả thì người giáo viên phải nắm chắc phương pháp dạy đọc bao gồm : Phương pháp đọc rõ văn xuôi, phương pháp dạy đọc rõ văn vần, phương pháp dạy đọc to và đọc thầm, phương pháp dạy đọc diễn cảm. Bốn yêu cầu đó phải được thâm nhập vào nhau, hỗ trợ nhau mà không nên tách rời thì mới có thể nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc.. II/ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT Để có kết quả rèn đọc diễn cảm cho học sinh cao hơn, tôi đề xuất một vài ý kiến như sau:  Giáo viên phải nhiệt tình, yêu nghề và quan tâm tìm hiểu tâm lý học sinh. Phải tôn trọng nhân cách học sinh. Trong mối tiết học giáo viên cũng cần chú ý tạo không.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> khí học tập thân thiện. Tổ chức cho học sinh đọc theo cặp nhằm tạo điều kiện cho các em giúp đỡ lẫn nhau.  Giáo viên phải luôn tham khảo tài liệu có liên quan đến bộ môn Tiếng việt để lựa chọn phương pháp đầu tư thích hợp vào từng giờ học gây hứng thú học tập cho học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động và sáng tạo.  Thường xuyên dự giờ của giáo viên để nắm vững phương pháp giảng dạy, từ đó khắc phục kịp thời những tồn tại để thống nhất phương pháp giảng dạy đặc biệt là việc rèn đọc diễn cảm.  Khơi dậy phong trào thi ngâm thơ, kể chuyện, đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên trong khối, trong trường.  Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các môn học nhất là phân môn Tập đọc. Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên nhất là đồ dùng dạy phân môn Tập đọc.. III/ KẾT LUẬN Như vậy, mục đích của việc dạy tập đọc ở lớp 5 là rèn luyện và nâng cao năng lực hoạt động lời nói cho học sinh dưới dạng đọc. Tập đọc là một môn không khó nhưng cũng không dễ dạy. Cái khó đó do chủ quan người dạy và cũng do khách quan của bộ môn tạo nên. Phía chủ quan người dạy phải có kiến thức rộng về ngữ văn, phải có trình độ nhất định về tư tưỏng, tình cảm và phải nắm chắc phương pháp bộ môn. Phía khách quan, muốn dạy tốt phân môn tập đọc chúng ta cần phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ nhận thức của bản thân, nắm vững phương pháp giảng dạy bộ môn, kiên trì luyện cho mình kỹ năng đọc tốt cùng với tâm huyết của mình dành cho nghề tôi nghĩ chúng ta sẽ có những giờ dạy thành công. Người thực hiện. Đỗ Thị Oanh.

<span class='text_page_counter'>(12)</span>  Nhận xét của Tổ, Khối: ................................................................................................................... ................................................................................................................... ................................................................................................................... ................................................................................................................... ................................................................................................................... ................................................................................................................... ...................................................................................................................  Nhận xét của Hội đồng khoa học cơ sở .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... ................................................................................................................... ................................................................................................................... ................................................................................................................... ................................................................................................................... ................................................................................................................... ................................................................................................................... ................................................................................................................... ....................................................................................................................

<span class='text_page_counter'>(13)</span>

×