Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.91 KB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
- Được sáng tác vào năm 1944.
- Được phổ biến rộng rãi trong
- Có tác dụng mạnh mẽ nhằm
kêu gọi lớp lớp tuổi trẻ tham gia
cách mạng cứu nước.
- Là những bài hát do nhân dân sáng tác ra, khơng có tác giả.
- Các bài dân ca được gọt giũa, sàng lọc qua nhiều năm tháng nên có
sức sống bền vững cùng với thời gian.
- Dân ca của mỗi nước, mỗi dân tộc hay mỗi vùng, mỗi miền đều có
âm điệu, phong cách riêng biệt. Sự khác nhau tùy thuộc vào mơi
trường sống, hồn cảnh địa lí và đặc biệt là ngơn ngữ.
- Kho tàng dân gian Việt Nam rất phong phú, đa dạng: Dân ca Quan
họ Bắc Ninh, hát xoan ở Phú Thọ, hát Ví, hát Trống quân ở nhiều
làng quê Bắc Bộ, hát Dơ ở Hà Tây (*),hát Ví dặm ở Nghệ An, Hà
Tĩnh…
- Ở Trung Bộ có Hị Huế, Lí Huế, hát Sắc bùa…ở Nam Bộ có các
điệu Lí, điệu Hị, nói thơ v.v…Dân ca của các dân tộc miền núi phía
Bắc ( đồng bào Thái, Hơ-mông, Mường… ), dân ca của các dân tộc
Tây Nguyên ( Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Xơ-đăng…) đều có bản sắc
- Từ bao đời nay, dân ca gắn bó với đời sống văn hóa và tinh thần của
cộng đồng các dân tộc trên khắp dải đất Việt Nam.
- Ngoài những làn điệu thuộc các loại dân ca khác nhau cịn có những
loại hát có nhạc đệm theo như Chầu văn, Ca trù, Ca Huế, Ca Quảng,
nhạc tài tử miền Nam.