Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tài liệu Chương 6: Phân tích cạnh tranh và chiến lược cạnh tranh ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.79 KB, 26 trang )



1
CHƯƠNG 6
PHÂN TÍCH CẠNH TRANH VÀ CHIẾN LƯỢC CẠNH TRANH

Những công ty yếu bỏ qua các đối thủ cạnh tranh của mình,
những công ty trung bình thì bắt chước,
và những công ty thành công thì lại dẫn dắt họ
Nội dung chương
• Các mô hình tiếp cận cạnh tranh trong môi trường kinh doanh hiện đại sẽ cung cấp
những hiểu biết cơ bản để nhận diện cạnh tranh một cách toàn diện.
• Nghiên cứu các nội dung phân tích cạnh tranh cần thiết để đối mặt với bối cảnh cạnh
tranh ngày càng phức tạp.
• Thiết kế hệ thống tình báo cạnh tranh để thu thập các thông tin cạnh tranh cần thiết.
• Trong mỗi ngành kinh doanh các công ty có thể chiếm các vị thế cạnh tranh khác nhau
và có chiến lược cạnh tranh phù hợp với vị thế đó.
• Các công ty cần lựa chọn định hướng theo khách hàng và theo đối thủ cạnh tranh một
cách phù hợp.
1. PHÂN TÍCH ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
Ngày nay trong kinh doanh, các doanh nghiệp chỉ mới hiểu được các khách hàng của
mình thôi là chưa đủ để thành công. Họ còn phải am hiểu về các đối thủ cạnh tranh của mình
nữa để có thể hoạch định các chiến lược marketing cạnh tranh có hiệu quả.
Trong vài ba thập kỷ trở lại đây, sự phát triển của các doanh nghiệp ngày càng gặp
phải sự cạnh tranh quyết liệt cả trên thị trường trong nước lẫn thị trường ngoài nước. Nhiều
nền kinh tế đang điều chỉnh lại và khuyến khích các lực lượng thị trường hoạt động. Thị
trường chung Châu Âu đã hủy bỏ các hàng rào mậu dịch và thống nhất một đồng tiền chung
Euro trong phạm vi hầu hết các nước thành viên. Hệ thống kinh tế đa quốc gia đang tiến đến
các thị trường mới mang tính toàn cầu. Việt Nam đã gia nhập Tổ ch
ức Thương mại thế giới
(WTO), và các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức cạnh tranh không


chỉ trên thị trường trong nước mà phải đối diện với các đối thủ cạnh tranh trên phạm vi toàn
cầu. Vì thế, doanh nghiệp không có con đường nào khác ngoài việc phải củng cố khả năng
cạnh tranh của mình. Họ phải bắt đầu chú ý đến các đối thủ cạnh tranh cũng như các khách
hàng mục tiêu c
ủa họ.
Triết lý marketing chỉ ra rằng để thành đạt mục tiêu kinh doanh, nhà quản trị marketing
phải xác định được những nhu cầu, mong muốn của khách hàng mục tiêu, và đem lại sự hài
lòng cho họ một cách có kết quả và hiệu quả hơn đối thủ cạnh tranh. Do vậy, chiến lược
marketing chẳng những phải phù hợp với khách hàng mục tiêu mà còn phải thích nghi với
những chiến lược của các đối thủ c
ạnh tranh, vốn cũng đang phục vụ cho những khách hàng
mục tiêu ấy. Để thành công, nhà quản trị marketing phải thiết lập các chiến lược định vị một
cách mạnh mẽ những cống hiến của mình trong tâm trí của khách hàng chống lại cống hiến
của đối thủ cạnh tranh.


2
Không có chiến lược nào tốt nhất cho mọi doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải xác
định cái gì có ý nghĩa nhất trong chức năng hoạt động của mình, các cơ hội và các tiềm năng
của mình. Ngay cả trong một doanh nghiệp, các chiến lược có thể được hoạch định khác nhau
theo các đơn vị kinh doanh chiến lược hoặc các sản phNm khác nhau của doanh nghiệp.
1.1.Năm lực lượng cạnh tranh
Michael Porter xác định 5 lực lượng cạnh tranh qui định tính hấp dẫn về lợi nhuận
trong dài hạn của thị trường hoặc phân đoạn thị trường: các đối thủ cạnh tranh trong ngành,
các đối thủ thâm nhập tiềm năng, các sản phNm thay thế, khách hàng và các nhà cung ứng. Mô
hình của ông được minh họa trong hình 6.1.
Hình 6.1: Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Porter

1. Đe dọa từ mật độ đối thủ cạnh tranh trong phân đoạn: phân đoạn thị trường không
hấp dẫn nếu nó có nhiều đối thủ cạnh tranh, mạnh mẽ hoặc hiếu chiến. Thậm chí sẽ

càng không hấp dẫn nếu phân đoạn thị trường ổn định hoặc đang suy giảm, nếu chi phí
cố định cao, nếu các rào cản rút lui khỏi ngành cao, hoặc nếu các đối thủ cạnh tranh có
nhiều quyền lợi khi ở lại trong phân đoạn. N hữ
ng điều kiện này sẽ khiến cho cuộc
chiến tranh về giá thường xuyên xảy ra, cuộc chiến về quảng cáo và giới thiệu sản
phNm mới và sẽ rất tốn kém khi cạnh tranh.
2. Đe dọa từ các đối thủ tiềm năng: tính hấp dẫn của phân đoạn thay đổi theo độ cao
của các rào cản thâm nhập và rút lui khỏi ngành. Phân đoạn hấp dẫn nhất là phân đo
ạn
trong đó các rào cản thâm nhập cao và các rào cản rút lui khỏi ngành thấp
1
(hình 6.2).
Một vài công ty mới có thể tham gia vào ngành, và các công ty năng lực kém có thể dễ
dàng rút lui. Khi cả rào cản thâm nhập và rút lui đều cao, lợi nhuận tiềm năng càng
cao, nhưng doanh nghiệp đối mặt với rủi ro vì các công ty năng lực thấp vẫn tồn tại
trong ngành và chiến đấu đến cùng. Khi rào cản thâm nhập và rút lui đều thấp, công ty
có thể dễ dàng tham gia và rút lui khỏi ngành, lợi nhuận ổn định nhưng thấp. Tình


1
M.E. Porter, Competitive Strategy (N ew York: Free Press, 1980), pp.22-23
Đối thủ
thâm nhập
tiềm năng
Các đối thủ
cạnh tranh
trong
ngành
Sản phẩm
thay thế

Nhà cung
ứng (sức
mạnh
thương
lượng)
Người mua
(sức mạnh
thương
lượng)


3
huống tệ nhất là khi rào cản thâm nhập thấp và rào cản rút lui cao, ở đây các công ty
tham gia vào những thời điểm tốt nhưng nhận thấy khó có thể rời bỏ vào những thời
điểm tồi tệ. Kết quả là dư thừa năng suất và làm giảm tiền lãi của tất cả các công ty.
Hình 6.2: Các rào cản và khả năng sinh lợi

3. Đe dọa từ các sản phẩm thay thế: phân đoạn thị trường không hấp dẫn khi có các sản
phNm thay thế hiện tại hoặc tiềm năng. Các sản phNm thay thế đặt ra giới hạn về giá và
về lợi nhuận trên phân đoạn. Công ty phải điều chỉnh xu hướng giá theo các sản phNm
thay thế gần. N ếu các tiến bộ công nghệ hoặc cạnh tranh tăng lên trong những ngành
thay thế này, giá và lợi nhuận trên phân đoạn thị trường đó có thể giảm.
4. Đe dọa từ sức mạnh thương lượng của khách hàng ngày càng tăng: phân đoạn thị
trường không hấp dẫn nếu người mua có sức mạnh thương lượng tăng và ngày càng
mạnh. N gười mua sẽ cố ép cho giá giảm xuống, yêu cầu chất lượng cao hơn hoặc dịch
vụ nhiều hơn và khiến các đối thủ cạnh tranh lẫn nhau, tất cả đều trả giá bằng lợi nhuận
của người bán. Sức mạnh thương lượng của người mua tăng lên khi họ trở nên tập
trung và có tổ chức hơn, khi sản phNm chiếm một phần quan trọng trong chi phí của
người mua, khi hàng hóa là không có sự khác biệt, khi chi phí chuyển đổi của người
mua thấp, khi người mua nhạy cảm với giá vì lợi nhuận thấp, hoặc khi người mua có

thể tích hợp ngược lên hệ thống cung ứng. Để tự bảo vệ mình, các nhà phân phối có
thể lựa chọn những người mua có ít sức mạnh thương lượng hoặc sức mạnh chuyển đổi
nhà cung ứng. Phòng ngự tốt nhất bao gồm phát triển các cung ứng vượt trội mà người
mua mạnh cũng không thể từ chối.
5. Đe dọa từ sức mạnh thương lượng của nhà cung ứng ngày càng tăng: phân đoạn
thị trường không hấp dẫn nếu các nhà cung ứng của công ty có thể tăng giá hoặc giảm
số lượng cung ứng. Các nhà cung ứng có xu hướng mạnh lên khi họ tập trung hoặc
được tổ chức, khi có ít sản phNm thay thế, khi các sản phNm được cung ứng là một đầu
vào quan trọng, khi chi phí chuyển đổi nhà cung ứng là cao, và khi các nhà cung ứng
có thể tích hợp xuôi dòng trong chuỗi cung ứng. Cách phòng ngự tốt nhất là xây dựng
mối quan hệ hai bên cùng có lợi với các nhà cung ứng và sử dụng nhiều nguồn cung
ứng khác nhau.
N gày nay, cạnh tranh không chỉ phổ biến mà cường độ còn tăng lên mỗi năm. N hiều
công ty N hật Bản, Châu Âu và Hoa Kỳ thiết lập công đoạn sản xuất ở các nước có chi phí thấp
và cung ứng những hàng hóa giá rẻ hơn cho thị trường.
Lợi nhuận
thấp, ổn đinh
Lợi nhuận cao,
rủi ro
Lợi nhuận
thấp, rủi ro
Lợi nhuận cao,
ổn định
Rào cản rút lui
Thấp Cao

Thấp


Cao

Rào
cản
thâm
nhập


4
N hững phát triển này giải thích phát biểu về “cuộc chiến marketing” và “hệ thống tình
báo cạnh tranh”
2
. Vì các thị trường đã trở nên cạnh tranh hơn, việc hiểu được khách hàng thôi
là chưa đủ. Các công ty phải bắt đầu chú ý hơn đến các đối thủ cạnh tranh của mình. Các công
ty thành công thiết kế và vận hành các hệ thống để thu thập thông tin tình báo liên tục về các
đối thủ cạnh tranh
3
.
Trong chương này chúng ta sẽ tìm hiểu những vấn đề về phân tích cạnh tranh để tìm ra
chiến lược đối phó cạnh tranh cho các công ty với những nội dung chính:
• Phân tích đối thủ cạnh tranh
• Các lợi thế cạnh tranh
• Chiến lược cạnh tranh tương ứng với từng vị thế cạnh tranh
1.2. Xác định các đối thủ cạnh tranh
Xác định đối thủ cạnh tranh có vẻ là một nhiệm vụ đơn giản đối với các công ty. Coca-
Cola biết rằng Pepsi-Cola là đối thủ cạnh tranh chính của mình, và Sony biết rằng Matsushita
là đối thủ cạnh tranh quan trọng của mình. N hưng tập hợp các đối thủ cạnh tranh tiềm năng và
hiện tại của công ty lại rộng hơn rất nhiều. Công ty ngày càng bị tác động bởi các đối thủ cạnh
tranh mới xuất hiện hoặc các công nghệ mới hơn là các đối thủ hiện tại.
Trong những năm gần đây, nhiều công ty thất bại trong việc nhìn nhận Internet như là
đối thủ cạnh tranh đáng gờm nhất của mình. Chẳng hạn, vài năm trước đây, chuỗi nhà sách
Barnes&N oble và Borders cạnh tranh với nhau để xem ai có thể xây dựng cửa hàng sách lớn

nhất nơi mà những người đọc sách có thể chìm đắm trong những chiếc ghế tiện nghi và nhấm
nháp cà phê cappuccino. Tuy nhiên, trong khi những chuỗi cửa hàng sách đại chúng quyết
định tồn kho những sản phNm nào trong các cửa hàng cà phê của mình, Jeffrey Bezos đang
xây dựng một kỷ nguyên trực tuyến được gọi bằng cái tên Amazon.com. Sáng kiến về cửa
hàng sách của Bezos có lợi thế khi cung ứng một số lượng không giới hạn để lựa chọn mà
không phải tốn kém cho việc tồn kho. Bây giờ cả Barnes & N oble và Borderss đang chạy theo
để đuổi kịp bằng cách xây dựng cửa hàng sách trực tuyến cho mình. “Thiển cận về đối thủ
cạnh tranh” – tập trung lên những đối thủ cạnh tranh hiện tại thay vì những đối thủ cạnh tranh
tiềm tàng – đã khiến một số công ty bị xóa sổ
4
.
Bách khoa toàn thư Britannica: Vào năm 1006, Bách khoa toàn thư Britannica với
230 năm tuổi đã sa thải toàn bộ lực lượng bán hàng tại nhà của mình sau khi website
Internet ra đời với mức giá 5 USD mỗi tháng khiến việc sở hữu bộ hai mươi ba tập với
giá 1250 USD trở nên không hấp dẫn đối với các bậc cha mẹ. Trẻ em giỏi máy tính có
thể lấy thông tin trên mạng và từ CD-ROM, như Microsoft’s Encarta, một chương
trình bách khoa toàn thu trên CD-ROM được giới thiệu và bán với mức giá chỉ
50
USD. Điều thật sự đau đớn là Bách khoa toàn thư Britannica có cơ hội hợp tác với
Microsoft để cung cấp nội dung cho Encarta nhưng nó lại ngoan cố từ chối.
Các công ty phát hành khác cũng cảm thấy bị đe dọa vì sự xâm lấn của Internet vào
lãnh thổ của mình. Các website cung cấp thông tin về việc làm, bất động sản và xe hơi trên
mạng đe dọa các tạp chí, đã lấy đi một phần lớn thu nhập của họ đến từ các quảng cáo cho xe


2
Al Ries & Jack Trout, Marketing Warfare (N ew York: Mc Graw Hill, 1986)
3
Leonard M. Fuld, The new Competitor Intelligence: The Complete Resource for Finding, Analysing, and Using
Information about Your Competitors (N ew York: John Wiley, 1995)

4
M.Krantz, “Click Till You Drop”, Time, July 20, 1998, pp.34-39


5
hơi, bất động sản và lao động. Và khi bạn có thể lấy thông tin trực tuyến miễn phí, tại sao bạn
phải mua tạp chí? N hững công ty sợ hãi công nghệ Internet nhất là các nhà trung gian.
Chúng ta có thể xác định đối thủ cạnh tranh bằng cách xem xét các cấp độ cạnh tranh
như đã đề cập trong chương 1 (cạnh tranh nhãn hiệu, ngành, hình thức sản phNm và cạnh tranh
chung) hoặc xem xét cạnh tranh từ quan điểm của ngành và quan điểm thị trường để xác định
và hiểu được bản chất cạnh tranh.
1.2.1. Cách tiếp cận ngành về cạnh tranh
N gành là gì? Một ngành là một nhóm các công ty cung ứng một sản phNm hoặc một
lớp sản phNm là những sản phNm thay thế gần của nhau.
N gành được xếp loại theo số lượng người bán; mức độ khác biệt của sản phNm; sự có
mặt hoặc không có các rào cản thâm nhập, thay thế và xuất ngành; cấu trúc chi phí; mức độ
tích hợp dọc; và mức độ toàn cầu hóa. Tùy thuộc vào những đặc điểm này của ngành, một
công ty trong ngành có thể nhận diện mức độ cạnh tranh mà mình phải đối mặt và trên cơ sở
đó phát triển những chiến lược cạnh tranh thích hợp.
• Số lượng người bán và mức độ khác biệt hóa
Điểm khởi đầu của việc mô tả ngành là xác định số người bán và liệu sản phNm có
đồng nhất hay là khác biệt nhiều. N hững đặc điểm này cho phép chúng ta phân biệt bốn loại
cấu trúc ngành:
- Ngành độc quyền hoàn toàn (pure monopoly): chỉ có một công ty cung cấp một vài sản
phNm hoặc dịch vụ trên một số vùng hoặc quốc gia (điện hoặc gas). N hà độc quyền tự
nhiên (không phải do luật định) có thể định mức giá cao, ít quảng cáo hoặc thậm chí
không quảng cáo, và cung cấp mức dịch vụ tối thiểu. N ếu các sản phNm thay thế một
phần hiện diện và có một số nguy cơ cạnh tranh, thì nhà độc quyền phải đầu tư nhiều
hơn cho dịch vụ và công nghệ. Một nhà độc quyền do luật định được yêu cầu phải định
mức giá thấp hơn và cung cấp nhiều dịch vụ hơn vì lợi ích cộng đồng.

- Ngành bán độc quyền (oligopoly): một số lượng nhỏ thường là các công ty lớn sản
xuất các sản phNm từ rất khác biệt đến chuNn hóa. Bán độc quyền hoàn hảo bao gồm
một số công ty sảm xuất chủ yếu các hàng hóa giống nhau (dầu, sắt thép). N hững công
ty đó sẽ thấy khó có thể định mức giá cao hơn so với mức giá thị trường. N ếu các đối
thủ cạnh tranh về dịch vụ, cách thức duy nhất để đạt lợi thế cạnh tranh là thông qua chi
phí thấp hơn. Bán độc quyền khác biệt bao gồm một số ít công ty sản xuất những sản
phNm (xe hơi, máy quay phim) khác biệt nhau một vài phần theo chất lượng, đặc tính,
kiểu dáng hoặc dịch vụ. Mỗi đối thủ cạnh tranh có thể tìm kiếm vị trí lãnh đạo trên một
số đặc tính sản phNm quan trọng, thu hút các khách hàng yêu thích những đặc tính này,
và định mức giá cao cho những đặc tính đó.
- Ngành bán cạnh tranh: nhiều đối thủ cạnh tranh có thể tạo sự khác biệt cho các cung
ứng của mình một phần hay toàn bộ (nhà hàng, cửa hàng mỹ phNm). Các đối thủ cạnh
tranh tập trung vào những phân đoạn thị trường mà họ có thể đáp ứng nhu cầu của
khách hàng một cách vượt trội và có thể định mức giá cao.
- Ngành cạnh tranh hoàn hảo: nhiều đối thủ cạnh tranh cùng cung cấp một sản phNm và
dịch vụ (thị trường chứng khoán, thị trường hàng hóa tiện dụng). Vì những hàng hóa
này không có sự khác biệt nào, giá của các đối thủ cạnh tranh sẽ là như nhau. Không


6
có đối thủ cạnh tranh nào quảng cáo trừ khi quảng cáo tạo ra sự cảm nhận khác biệt về
mặt tâm lý (thuốc lá, bia) theo đó trường hợp này lại được xếp vào loại bán cạnh tranh.
Cấu trúc cạnh tranh của một ngành có thể thay đổi theo thời gian.
Palm Pilot: Khi Palm Computing (bây giờ do 3Com sở hữu) phát minh ra Palm Pilot,
một loại máy tính cầm tay và được sử dụng không cần bàn phím, chỉ cần một cây viết
chuyên dụng, nó đã bán chạy 1 triệu cái trong vòng 18 tháng và khởi đầu như là một
nhà độc quyền. Đơn giản vì không có sản phẩm nào khác giống nó trên thị trường. Tuy
nhiên, ngay sau đó, một vài công ty khác, như Casio và Everex đã nhảy vào thị trường,
biến thị trường thành ngành bán độc quyền. Khi có nhiều đối thủ cạnh tranh cung cấp
các phiên bản Palm Pilot riêng của họ, thì ngành sẽ có cấu trúc của thị trường bán

cạnh tranh (hay cạnh tranh độc quyền). Khi nhu cầu tăng trưởng chậm, một số đối thủ
cạnh tranh có thể rút lui, khiến cho thị trường lại quay về với cấu trúc của thị trường
bán độc quyền thống trị bởi Palm Pilot và với một số đối thủ cạnh tranh quan trọng.
• Rào cản thâm nhập, rào cản rút lui và rào cản chuyển đổi
Các ngành khác nhau rất nhiều ở mức độ khó hoặc dễ thâm nhập. Rất dễ mở một nhà hàng
mới nhưng lại khó có thể tham gia vào ngành công nghiệp sản xuất máy bay. Các rào cản
thâm nhập quan trọng bao gồm đòi hỏi nguồn vốn lớn; kinh tế theo qui mô; các yêu cầu về
bản quyền và quyền sản xuất; vị trí đặc biệt khan hiếm, nguồn nguyên vật liệu khan hiếm,
hoặc các nhà phân phối độc quyền của công ty; và những đòi hỏi về uy tín, danh tiếng. Thậm
chí sau khi một công ty tham gia vào ngành, nó cũng phải đối mặt với rào cản chuyển đổi khi
công ty cố gắng tham gia vào các phân đoạn thị trường hấp dẫn hơn.
Pepsi-Cola: Những gì diễn ra vào đầu thập niêm 1980 khi Pepsi-Cola cố gắng di
chuyển nhãn hiệu bánh của Grandma từ các khe hở thị trường bán hàng tự động sang
bán ở các gian hàng trong siêu thị? Nhãn hiệu nhỏ không thể đối đầu với các đại gia
trên thị trường bánh kẹo với ngân sách marketing khổng lồ như Nabisco và Keebler.
Các công ty cũng thường đối mặt với rào cản rút lui
5
, như các bổn phận về mặt luật
pháp hoặc đạo đức đối với người tiêu dùng, đối với các chủ nợ và với các nhân viên; các hạn
chế của chính phủ; giá trị thanh lý tài sản quá thấp vì đã quá lạc hậu hoặc không còn giá trị đặc
biệt; thiếu các cơ hội để lựa chọn khác; sự tích hợp theo chiều dọc quá nhiều và các rào cản về
mặt tình cảm. N hiều công ty v
ẫn ở lại trong ngành để thu hồi lại chi phí biến đổi và một số chi
phí cố định hoặc tất cả phần chi phí cố định đã bỏ ra. Sự tồn tại của họ, tuy vậy, làm giảm lợi
nhuận của tất cả mọi công ty trong ngành.
Thậm chí nếu một số công ty không muốn rút lui, họ cũng có thể giảm qui mô của
mình. Các công ty có thể cố gắng giảm các rào cản về
sự hao hụt nhằm giúp các công ty có
vấn đề thu hẹp một cách dễ chịu
6

.
• Cấu trúc chi phí
Mỗi ngành đều có một số gánh nặng về chi phí dẫn dắt chiến lược của họ. Chẳng hạn,
các công ty luyện thép chịu các chi phí về nguyên vật liệu và sản xuất rất lớn; các nhà sản xuất
đồ chơi có chi phí marketing và phân phối rất lớn. Các công ty này sẽ có chiến lược để giảm


5
Kathryn Rudie Harrigan, “The Effect of Exit Barriers upon Strategic Flexibility”, Strategic Management
Journal 1 , 1980
6
M.E.Porter, Competitive Advantage (N ew York: Free Press, 1985), pp.225-485


7
những chi phí đó. Các công ty thép với kế hoạch sản xuất hiện đại nhất (với hiệu quả về chi
phí tốt nhất) sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn hơn so với các công ty thép khác.
• Mức độ tích hợp dọc
Các công ty nhận thấy rằng có lợi thế hơn khi tích hợp ngược hoặc thuận chiều chuỗi
cung ứng (tích hợp dọc). Các nhà sản xuất dầu lớ
n đảm nhiệm việc khai thác, khoan dầu, lọc
hóa dầu, sản xuất hóa chất, và các hoạt động của trạm phân phối – dịch vụ. Tích hợp dọc
thường giảm chi phí, và công ty đạt được phần thưởng lớn hơn từ dòng gia tăng giá trị. N goài
ra, các công ty tích hợp dọc có thể điều khiển giá và chi phí ở các khâu khác nhau của chuỗi
giá trị để đạt được lợi nhuận ở khâu nào mà thuế là thấp nh
ất. Tích hợp dọc có thể tạo ra một
số bất lợi, như chi phí cao ở một số bộ phận của chuỗi cung ứng và thiếu tính linh hoạt.
• Mức độ toàn cầu hóa
Một số ngành có tính địa phương cao (ví dụ nghề chăm sóc bãi cỏ), còn các ngành có
tính toàn cầu (như dầu, sản xuất máy bay, máy quay phim). Các công ty trong các ngành toàn

cầu cần phải cạnh tranh trên thị trường toàn cầu nếu họ muốn đạt được hiệu quả kinh tế theo
qui mô và theo kịp các công nghệ tiên tiến nhất. Ví dụ về các nhà sản xuất xe cNu của Mỹ mất
đi vị trí lãnh đạo của mình.
Ngành sản xuất xe cẩu: Năm công ty thống trị thị trường xe cẩu của Mỹ - Clark
Equipment, Caterpillar, Allis Chalmers, Hyster và Yale. Vào năm 1992, Clark với
gánh nặng nợ nần đã bán các tài sản của mình, và Caterpillar đã trở thành đối tác nhỏ
trong liên doanh với Misubishi. Chỉ có Hyster còn giữ được thị phần. Bằng cách tăng
tốc việc phát triển sản phẩm, tập trung vào các mẫu xe có giá bình dân, và chuyển việc
sản xuất sang một số nước ít việc làm như Ireland, Hyster có thể cạnh tranh với
Nissan, Toyota và Komatsu. Hyster cũng theo kiện vụ chống phá giá với các loại xe
của Nhật Bản và thắng kiện.
1.2.2. Khái niệm thị trường về cạnh tranh
N goài cách tiếp cận ngành, chúng ta có thể xác định các đối thủ cạnh tranh bằng cách
sử dụng cách tiếp cận thị trường: các đối thủ cạnh tranh là những công ty thỏa mãn cùng nhu
cầu của khách hàng. Chẳng hạn, người tiêu dùng mua bộ xử lý từ ngữ có thể thật sự mong
muốn “khả năng viết chữ” – một nhu cầu có thể được thỏa mãn bởi một cây bút chì, bút mực
hoặc một máy đánh chữ. Khái niệm thị trường về cạnh tranh gợi mở một tập hợp các đối thủ
cạnh tranh tiềm năng và hiện tại rộng hơn.
1.3. Phân tích các đối thủ cạnh tranh
Một khi công ty xác định được các đối thủ cạnh tranh quan trọng của mình, nó phải
nắm chắc những đặc điểm của họ, đặc biệt là chiến lược, mục tiêu, điểm mạnh và điểm yếu
cũng như phản ứng của các đối thủ.
1.3.1. Chiến lược
Mỗi đối thủ cạnh tranh đều có những chiến lược và mục tiêu riêng của họ, nhằm phát
huy những ưu thế của mình để khai thác tốt nhất những cơ hội thị trường và gia tăng khả năng
cạnh tranh.
Các đối thủ cạnh tranh gần nhất của doanh nghiệp là những người theo đuổi cùng một
thị trường mục tiêu với cùng một chiến lược marketing. N hóm chiến lược bao gồm các doanh
nghiệp áp dụng cùng một chiến lược cạnh tranh giống nhau trên một thị trường mục tiêu nhất



8
định. Vì vậy doanh nghiệp cần phân tích và tiên lượng các chiến lược của các đối thủ thông
qua việc xem xét các phản ứng chiến lược có thể có khi đối thủ ở trong cùng một nhóm chiến
lược nào đó.
Công ty phải thường xuyên xem xét chiến lược của các đối thủ cạnh tranh của mình.
Các đối thủ cạnh tranh giàu tiềm lực luôn thay đổi chiến lược của họ. Khi các nhà sản xuất ôtô
của Mỹ cải thiện chất lượng xe hơi của mình, các nhà sản xuất N hật bản cũng nhanh chóng
chuyển theo bắt kịp chất lượng.
1.3.2. Mục tiêu
Sau khi đã xác định các đối thủ quan trọng và chiến lược của họ, cần phải xem xét kỹ
lưỡng xem mỗi đối thủ định tìm kiếm điều gì trong thị trường? Điều gì chi phối hành vi của
mỗi đối thủ ?
Khi phân tích các đối thủ cạnh tranh, điều cảm nhận đầu tiên là các đối thủ đều muốn
tối đa hóa lợi nhuận của mình. Tuy nhiên, trong vấn đề này quan điểm của các doanh nghiệp
cũng khác nhau về tầm quan trọng của lợi nhuận trước mắt và lợi nhuận lâu dài. Hơn nữa, một
số doanh nghiệp định hướng ở mức độ thỏa mãn mục tiêu lợi nhuận dự kiến hơn là tìm cách
tối đa hóa lợi nhuận.
N goài ra, mỗi đối thủ cạnh tranh có thể theo đuổi một số mục tiêu. Chúng ta cần biết
đối thủ cạnh tranh đánh giá ở mức độ nào tầm quan trọng tương đối của khả năng sinh lời hiện
tại, mức tăng trưởng thị phần, lưu lượng tiền mặt, vị trí dẫn đầu về công nghệ hay dịch vụ,
N hận thức các quan điểm của đối thủ cạnh tranh cho phép chúng ta biết đối thủ cạnh tranh có
hài lòng hay không với kết quả tài chính hiện tại và họ có thể phản ứng như thế nào với các
kiểu tấn công cạnh tranh khác nhau của các đối thủ khác.
Một ví dụ điển hình về sự khác biệt lớn giữa các mục tiêu của các công ty N hật và Mỹ.
Các công ty Mỹ thường hoạt động theo mô hình tối đa hóa lợi nhuận trước mắt vì các cổ đông
đều quan tâm đến kết quả kinh doanh hiện tại của họ, và nếu để mất lòng tin của các cổ đông
và họ bán cổ phiếu của mình đi thì sẽ làm tăng chi phí vốn của công ty. Các Công ty N hật hoạt
động phần lớn theo mô hình tối đa hóa thị phần vì họ cần tạo ra công ăn việc làm cho hơn 100
triệu người ở một nước N hật nghèo tài nguyên thiên nhiên. Các Công ty N hật có yêu cầu về

lợi nhuận thấp hơn, bởi vì phần lớn vốn vay từ các ngân hàng với mức lãi suất thấp và do vậy
trong quá khứ họ sẵn sàng chấp nhận mức lợi nhuận thấp. Chi phí vốn của các công ty N hật
thấp hơn nhiều so với chi phí vốn của các công ty Mỹ, và vì thế họ có thể chịu được thời gian
hoàn vốn lâu hơn. Kết quả là các công ty N hật có thể tính giá thấp hơn và kiên trì hơn trong
việc thâm nhập thị trường. Điều này cũng có nghĩa là các công ty chấp nhận lợi nhuận thấp
hơn sẽ có lợi thế hơn các đối thủ của mình.
Các mục tiêu của đối thủ được hình thành trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống
nhiều vấn đề, bao gồm quy mô kinh doanh, quá trình lị
ch sử, bộ máy quản lý và tình trạng tài
chính của họ. N ếu đối thủ là một bộ phận của một doanh nghiệp lớn hơn, chúng ta sẽ phải biết
nó đang được hoạt động để phát triển hoặc kiếm tiền hay được công ty mẹ bao cấp.
Cuối cùng, công ty phải xem xét kế hoạch mở rộng của các đối thủ cạnh tranh của
mình. Hình 6.3 minh họa biểu đồ tấn công theo thị trường - sản phNm trong ngành máy tính cá
nhân. Dell rất mạnh trong lĩnh vực bán máy tính cá nhân cho khách hàng cá nhân, cũng đang
theo đuổi khách hàng công nghiệp và khách hàng thương mại và các tổ chức cung cấp dịch vụ
máy chủ. Các đối thủ của Dell, muốn thiết lập rào cản thay đổi đối với sự bành trướng của
Dell.


9

Hình 6.3: Kế hoạch mở rộng của một đối thủ cạnh tranh trên thị trường PC

1.3.3. Điểm mạnh và điểm yếu
Các đối thủ cạnh tranh có thực hiện được chiến lược và đạt được các mục tiêu của họ
hay không phụ thuộc vào các nguồn lực và khả năng của họ. Công ty cần phải thu thập các
thông tin về các điểm mạnh và điểm yếu của từng đối thủ. Theo công ty tư vấn Arthur D.
Little, một công ty có thể có một trong sáu loại vị thế cạnh tranh trên một thị trường mục tiêu
sau:
7


¾ Khống chế. Doanh nghiệp khống chế hành vi của các đối thủ cạnh tranh khác và có thể
lựa chọn nhiều chiến lược cạnh tranh khác nhau.
¾ Mạnh. Doanh nghiệp có thể hành động độc lập mà không gây ra nguy hiểm cho vị thế
cạnh tranh lâu dài của mình và có thể duy trì vị thế đóú bất kể hành động
¾ nào của đối thủ cạnh tranh.
¾ Thuận lợi. Doanh nghiệp có một thế mạnh có thể khai thác trong những chiến lược cụ
thể và có cơ hội khá tốt để phát triển vị thế của mình.
¾ Có thể trụ được. Doanh nghiệp đạt được những mục tiêu kinh doanh của mình nhưng
sự tồn tại của nó là một trỏ ngại đối với doanh nghiệp đang khống chế thị trường và nó có ít cơ
hội để cải thiện vị
thế của mình.
¾ Yếu. Doanh nghiệp không đạt được kết quả mong muốn nhưng vẫn có cơ hội tìm cách
thay đổi tình thế, nếu không nó buộc phải rút lui khỏi thị trường.
¾ Không có khả năng tồn tại. Doanh nghiệp đạt kết quả kinh doanh kém và không có cơ
hội cải thiện vị thế của mình.
Đánh giá này sẽ giúp công ty quyết định sẽ tấn công ai trên thị trường mục tiêu. Doanh
nghiệp cần phải thu thập các dữ liệu quan trọng về tình hình kinh doanh của mỗi đối thủ, đặc
biệt là doanh số, tỷ trọng thị trường, lợi nhuận biên, lợi tức trên vốn đầu tư, lượng tiền mặt,


7
Robert V.L. Wright, A System for managing Diversity (Cambridge, MA: Arthur D.Little, Dec 1974)
Khách hàng
cá nhân
Dell

Máy tính cá
nhân
Phần cứng

Phụ kiện

Phần mềm



KH công
nghiệp và
thươn
g
mại
KH giáo dục


10
đầu tư mới và công suất huy động. N hững thông tin này sẽ giúp doanh nghiệp quyết định tấn
công đối thủ nào trong thị trường kiểm soát được dự tính trước.
Thông thường các doanh nghiệp biết về điểm mạnh và điểm yếu đối thủ của họ qua các
dữ liệu thứ cấp, kinh nghiệm cá nhân và dư luận. Họ có thể tăng cường sự hiểu biết nhờ tiến
hành nghiên cứu marketing trực tiếp với khách hàng, nhà cung ứng và các đại lý bán hàng của
mình.
N hìn chung, công ty nên kiểm soát ba biến số sau khi phân tích các đối thủ cạnh tranh
của mình:
• Thị phần: thị phần của đối thủ cạnh tranh trên thị trường mục tiêu
• Share of mind (SM): phần trăm khách hàng kể tên của đối thủ cạnh tranh khi phát biểu
“Tên của công ty đầu tiên mà tôi nghĩ đến trong ngành này là ”
• Share of heart (SH): phần trăm khách hàng kể tên đối thủ cạnh tranh khi phát biểu
“Tên công ty mà tôi muốn mua sản phNm là ”
Có mối quan hệ thú vị giữa ba thước đo này. N hững công ty có SM và SH thấp chắc
chắn sẽ có thị phần và lợi nhuận thấp. Để cải thiện thị phần, nhiều công ty thực hiện chiến

thuật định chuNn (benchmarking) những đối thủ thành công nhất.
Trong khi tìm kiếm các điểm yếu của đối thủ, một trong những vấn đề cần phân tích là
phải xác định được những giả thuyết mà đối thủ đang sử dụng nhưng nó lại không còn giá trị.
Thật vậy, một số công ty tin rằng họ sản xuất ra những sản phNm có chất lượng tốt nhất trong
ngành nhưng không phải vậy. Có công ty lại tin vào cảm nhận của mình rằng “khách hàng
thích những công ty kinh doanh đủ các mặt hàng trong dòng sản phNm”, “lực lượng bán hàng
là công cụ marketing duy nhất quan trọng”, và “khách hàng thích dịch vụ hơn là giá rẻ” N ếu
công ty bạn phát hiện ra những giả thuyết sai lầm mà đối thủ đang theo đuổi, công ty bạn hoàn
toàn có thể tận dụng nó như một lợi thế cho mình.
1.3.4. Phản ứng
Xuất phát từ mục tiêu, điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ, cần phải dự đoán các phản
ứng, hoạ
t động của đối thủ để doanh nghiệp tiến hành việc cắt giảm giá, hoạt động hay giới
thiệu sản phNm mới. Hơn nữa, mỗi đối thủ cạnh tranh có triết lý kinh doanh riêng, một nền văn
hóa nội tại, một niềm tin hướng dẫn tư duy và hành động của mình. Cần phải hiểu một cách
sâu sắc ý đồ của đối thủ để có dự đoán hành động hay phản ứng của đối thủ. Sau đây là một số
dạng phản ứng của các đối thủ cạnh tranh.
1. Đối thủ cạnh tranh điềm tĩnh. Một số đối thủ không phản ứng nhanh chóng hay
mạnh mẽ đối với biện pháp của một đối thủ khác. Họ có thể cảm thấy khách hàng của mình
trung thành, hoặc thiếu tận tâm với công việc kinh doanh hay chậm phát hiện ra biện pháp đó,
hay cũng có thể thiếu kinh phí để phản ứng. Doanh nghiệp phải tìm hiểu các lý do dẫn đến thái
độ điềm tĩnh của đối thủ.
2. Đối thủ cạnh tranh chọn lọc. Đối thủ có thể chỉ phản ứng với một vài kiểu tấn công
nhất định mà không có phản ứng gì với những kiểu tấn công khác. Họ có thể phản ứng lại
bằng cách giảm giá để báo hiệu rằng điều đó chẳng có ý nghĩa gì. Biết được đối thủ phản ứng
như thế nào sẽ giúp doanh nghiệp có cơ sở để thiết lập hệ thống tấn công có tính khả thi.
3. Đối thủ cạnh tranh phản ứng mạnh mẽ. Doanh nghiệp này phản ứng nhanh chóng và
mạnh mẽ đối với bất cứ cuộc tiến công nào trên phần th
ị trường của họ. Ví dụ, P&G không để



11
một loại bột giặt mới nào dễ dàng xuất hiện trên thị trường. Đối thủ phản ứng mạnh mẽ là một
tín hiệu cho các doanh nghiệp khác biết rằng tốt hơn là đừng nên tấn công, vì người phòng thủ
sẽ chiến đấu tới cùng để bảo vệ lợi ích của họ.
4. Đối thủ cạnh tranh khôn ngoan. Một số đối thủ không để lộ ra kiểu phản ứng nào có
thể đoán trước được. Đối thủ này có thể không trả đũa ở bất cứ trường hợp cụ thể nào, và vì
vậy doanh nghiệp khó có thể tiên liệu họ sẽ làm gì và dựa trên cơ sở nào để hành động.
1.4. Thiết kế hệ thống tình báo cạnh tranh
Chúng ta đã mô tả các loại thông tin chủ yếu mà người thực hiện quyết định cần biết
về đối thủ của họ. Thông tin này phải được thu thập, diễn giải, phổ biến và sử dụng. Tuy chi
phí và thời gian để thu thập thông tin tình báo cạnh tranh rất lớn, nhưng cái giá của việc không
thu thập những thông tin đó còn đắt hơn. Vì vậy, doanh nghiệp phải thiết kế hệ thống tình báo
cạnh tranh sao cho có hiệu quả về chi phí. Có bốn bước chính:
1. Hình thành hệ thống. Bước đầu tiên là cần phải xác định xem loại thông tin cạnh tranh
nào là quan trọng, nguồn thu thập tốt nhất các thông tin đó và xác chỉ định người quản lý hệ
thống và dịch vụ liên quan.
8

2. Thu thập dữ liệu. Dữ liệu phải được thu thập một cách liên tục trên hiện trường (lực
lượng bán hàng, các kênh phân phối, những người cung ứng, các tổ chức nghiên cứu thị
trường, hiệp hội doanh nghiệp và các dữ liệu đã được công bố (các niên giám thống kê, báo
cáo tổng kết của ngành, các kết ủa nghiên cứu, ). Doanh nghiệp phải triển khai các phương
pháp hiệu quả để có được các thông tin tức cần thiết về các đối thủ một cách hợp pháp.
3. Đánh giá và phân tích. Ở bước này, dữ liệu được kiểm tra về giá trị và độ tin cậy,
diễn giải ý nghĩa và sắp xếp theo phương pháp phù hợp.
4. Báo cáo và đáp ứng. Thông tin chủ yếu được gởi đến những người có trách nhiệm ra
quyết định và trả lời những yêu cầu của các nhà quản trị về các đối thủ cạnh tranh.
Việc thu thập thông tin tình báo cạnh tranh đã phát triển mạnh mẽ do nhu cầu tìm hiểu
đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp. Một bản tin trong tạp chí Fortune liệt kê hơn 20 kỷ

thuật mà doanh nghiệp sử dụng để thu thập thông tin. Các kỹ thuật đó gồm 4 loại chủ yếu:
Thu thông tin từ người tập sự, nhân viên của đối thủ. Các doanh nghiệp có thể có được
thông tin tình báo qua việc phỏng vấn xin việc hay nói chuyện với nhân viên của đối thủ. Các
doanh nghiệp gởi kỹ sư đến hội nghị và triển lãm thương mại để hỏi về đối thủ bằng kỹ thuật
thông qua công chúng. Đôi khi họ quảng cáo và tổ chức phỏng vấn xin việc không cần thiết để
khai thác thông tin của nhân viên đối thủ. Các doanh nghiệp thuê các nhân viên điều hành của
đối thủ để tìm hiểu những điều mà họ cần biết.
Thu thập thông tin từ người giao dịch làm ăn với đối thủ. Khách hàng chủ yếu có thể giữ
vai trò cung cấp cho doanh nghiệp các thông tin về đối thủ. Họ có thể sẵn sàng đáp ứng yêu
cầu và chuyển giao thông tin về sản phNm đối thủ. Các doanh nghiệp có thể cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ quản lý miễn phí cho khách hàng. Mối quan hệ hợp tác gần gũi mà các nhà quản trị
đ
ó xây dựng với đội ngũ quản lý của khách hàng thường giúp họ hiểu biết sản phNm mới nào
mà đối thủ đang hướng tới.
Thu thập thông tin từ các tài liệu, sách báo, các ấn phẩm công cộng có thể trợ giúp cho
việc cung cấp thông tin tình báo về đối thủ cạnh tranh. Thu thập thông tin bằng việc quan sát


8
Tham khảo thêm trong Leonard M.Fuld, Mornitoring the Competition (N ew York: John Wiley, 1988)


12
hay phân tích mẫu hiện vật của đối thủ. Các doanh nghiệp mua các sản phNm của đối thủ và
mổ xẻ để xác định chi phí sản xuất hay tìm hiểu phương pháp sản xuất. Một số doanh nghiệp
còn mua cả rác phế thải của đối thủ cạnh tranh.
1.5. Lựa chọn các đối thủ cạnh tranh để tấn công và tránh
Trong cách tiếp cận marketing định hướng thị trường, công ty và các đối thủ cạnh
tranh đều hướng đến thỏa mãn khách hàng và cuộc chiến cạnh tranh diễn ra xét về bản chất là
cuộc cạnh tranh trong việc chinh phục khách hàng. Do vậy, cách thức hiệu quả nhất để lựa

chọn đối thủ cạnh tranh để tấn công chính là xem xét giá trị mà các công ty trong ngành dành
cho khách hàng. Mô hình phân tích sau đây sẽ cho chúng ta một cách tư duy và phân tích
tương đối mới về đối thủ cạnh tranh.
1.5.1. Phân tích giá trị khách hàng
Các nhà quản lý thường thực hiện các phân tích giá trị khách hàng để khám phá sức
mạnh và điểm yếu của công ty so với các đối thủ cạnh tranh khác nhau. Các bước quan trọng
trong phân tích bao gồm:
- Xác định các đặc tính quan trọng của giá trị khách hàng: các khách hàng được hỏi
về những đặc tính và cấp độ năng lực nào mà họ tìm kiếm khi lựa chọn một sản phNm
và một người bán hàng
- Đánh giá tầm quan trọng định lượng các đặc tính khác biệt: các khách hàng được
yêu cầu xếp theo thứ tự tầm quan trọng của các đặc điểm khác nhau. N ếu các khách
hàng khác biệt nhau quá nhiều trong việc đánh giá xếp loại của họ, họ có thể được xếp
vào các phân đoạn thị trường khác nhau.
- Đánh giá năng lực của các đối thủ cạnh tranh và của công ty trên các giá trị khác
nhau dành cho khách hàng theo tầm quan trọng mà họ đã đánh giá: các khách hàng
mô tả nhìn nhận của họ về năng lực của công ty và của các đối thủ cạnh tranh trên mỗi
đặc tính.
- Xem xét làm thế nào khách hàng trên một phân đoạn thị trường cụ thể đánh giá
năng lực của công ty so với các đối thủ cạnh tranh quan trọng theo từng đặc tính:
nếu cung ứng của công ty vượt trội hơn so với cung ứng của đối thủ cạnh tranh trên
các đặc tính quan trọng, công ty có thể định mức giá cao hơn (do vậy đạt được lợi
nhuận cao hơn), hoặc nó có thể định mức giá thấp hơn và đạt được thị phần cao hơn.
- Điều chỉnh giá trị dành cho khách hàng theo thời gian: công ty phải thực hiện một
cách định kỳ các nghiên cứu về các giá trị dành cho khách hàng và vị thế của các đối
thủ cạnh tranh về các thay đổi về đặc tính sản phNm, công nghệ và tình hình kinh tế.
1.5.2. Các loại đối thủ cạnh tranh
Sau khi công ty thực hiện việc phân tích giá trị dành cho khách hàng, nó có thể tập
trung mũi tấn công của mình vào một trong các loại đối thủ cạnh tranh sau đây: các đối thủ
cạnh tranh yếu so với mạnh, đối thủ cạnh tranh gần hay xa, và đối thủ cạnh tranh “tốt” hay

“xấu”.
• Đối thủ cạnh tranh mạnh so với yếu: hầu hết các công ty đều hướng mũi tấn công của
mình vào các đối thủ cạnh tranh yếu, vì điều này đòi hỏi nguồn lực ít hơn cho mỗi
điểm ghi được. Trong lúc đó, bằng việc tấn công các đối thủ cạnh tranh yếu, công ty sẽ
đạt được ít khả năng cải tiến. Công ty cũng nên cạnh tranh với các đối thủ mạnh để tiếp


13
cận với cái tốt nhất. Thậm chí dù các đối thủ cạnh tranh mạnh có một số điểm yếu, và
công ty có thể gặp phải sự phản kháng đáng kể.
• Đối thủ cạnh tranh gần hoặc xa: hầu hết các công ty cạnh tranh với các đối thủ cạnh
tranh giống họ nhất. Chevrolet cạnh tranh với Ford, chứ không phải với Jaguar. Cùng
lúc đó, công ty nên tránh cố gắng tiêu diệt các đố
i thủ cạnh tranh gần nhất. Porter đưa
ra hai ví dụ về “chiến thắng” phản tác dụng
Bausch và Lomn vào cuối thập niên 1970 tấn công một cách mạnh mẽ các nhà sản xuất
kính sát tròng khác một cách thành công. Tuy nhiên, điều này khiến mỗi đối thủ cạnh
tranh yếu bán lại cho các công ty lớn, ví dụ như Revlon, Johnson&Johnson, và Schering-
Plough, với kết quả là Bausch và Lomb bây giờ phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh
lớn hơn
Một nhà sả
n xuất cao su chuyên dụng tấn công nhà sản xuất cao su chuyên dụng khác và
giành được thị phần. Điều này khiến các đơn vị chuyên dụng của các công ty lớn dịch
chuyển một cách nhanh chóng vào các thị trường cao su chuyên dụng, sử dụng chúng
như vùng đất để thải cho năng lực sản xuất thừa của họ
• Đối thủ cạnh tranh “tốt” so với “xấu”: mỗi ngành đều bao gồm các đối thủ cạnh
tranh “tốt” và “xấu”. Công ty phải hỗ trợ các đối thủ cạnh tranh “tốt” và tấn công các
đối thủ cạnh tranh “xấu”. Đối thủ cạnh tranh “tốt” là những công ty chơi đúng qui luật
của ngành, họ tạo nên viễn cảnh thực tế về sự tăng trưởng tiềm năng của ngành, họ
định mức giá trong mối tương quan hợp lý với chi phí, họ ủng hộ một ngành kinh

doanh lành mạnh, họ tự hạn chế mình với phân đoạn trong ngành, họ cổ động các công
ty khác giảm chi phí hoặc cải tiến những sự khác biệt và họ chấp nhận mức độ thị phần
và lợi nhuận của mình. Các đối thủ cạnh tranh “xấu” cố gắng mua thị phần thay vì đạt
thị phần, họ tạo nên các rủi ro lớn, họ đầu tư đến mức dư thừa năng lực, và họ phá vỡ
cân bằng của ngành.
IBM và Cray: IBM nhận thấy Cray Research là một đối thủ cạnh tranh “tốt” vì nó
chơi đúng luật, gắn bó với phân đoạn của mình, và không tấn công vào thị trường
chính của IBM, nhưng IBM lại nhận thấy Fujitsu là đối thủ cạnh tranh “xấu” vì nó tấn
công IBM trên các thị trường chính của mình với mức giá được trợ cấp và ít sự khác
biệt.
2. CÁC VN THẾ
CẠNH TRANH
Quy mô và vị thế trong ngành của mỗi doanh nghiệp sẽ xác định chiến lược của doanh
nghiệp ấy.N hững doanh nghiệp lớn với ưu thế vượt trội trong ngành có thể thực hành những
chiến lược mà doanh nghiệp nhỏ không đủ khả năng thực hiện. N hưng lớn cũng chưa phải là
đủ. Có những chiến lược thành công cho những doanh nghiệp lớn, thì cũng có nhữ
ng chiến
lược để đạt được tỷ lệ sinh lời cao hoặc cao hơn các doanh nghiệp lớn. Cả hai loại doanh
nghiệp lớn và nhỏ đều phải thiết kế những chiến lược định vị có hiệu quả của mình chống lại
đối thủ trên thị trường.
Mục tiêu của hệ thống marketing chỉ ra nhứng gì mà hoạt động marketing của doanh
nghiệp phải đạt được thông qua các nỗ lực marketing. Chiến lược marketing của doanh nghiệp
phải xác định được các phương tiện và giải pháp nhằm đạt được các mục tiêu marketing đã
đề ra. Theo Michael Porter, có 3 cách tiếp cận cơ bản làm cơ sở cho tư duy chiến lược.
2.1. Đứng đầu hẳn về giá


14
Ở đây, doanh nghiệp tập trung mọi nỗ lực để đạt được phí tổn sản xuất và phân phối
thấp nhất, vì vậy có thể định giá thấp hơn các đối thủ cạnh tranh và đạt được một phân suất thị

trường lớn. N hững doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này phải giỏi về kỹ thuật cung ứng, sản
xuất, phân phối sản phNm và cần ít kỹ thuật marketing hơn. Tuy nhiên, vấn đề nNy sinh khi
doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này là thường xuyên xuất hiện những đối thủ cạnh tranh
đạt được chi phí sản xuất và phân phối thấp hơn và do đó, gây trở ngại đáng kể cho những
doanh nghiệp định hướng vào việc giảm chi phí để định giá bán thấp. Khả năng thực tế để một
doanh nghiệp đạt dược chi phí thấp nhất trong số các đối thủ cạnh tranh là áp dụng chiến lược
tạo đặc điểm khác biệt hay chiến lược tập trung.
2.2. Tạo đặc điểm khác biệt (nổi bật)
Doanh nghiệp tập trung vào việc tạo ra một loại sản phNm và chương trình marketing
đặc sắc, tạo ra sự thỏa mãn khách hàng trong một lĩnh vực lợi ích quan trọng được thị trường
đánh giá cao. Doanh nghiệp cố gắng để chiếm vị trí dẫn đầu về dịch vụ, chất lượng, mẫu mã
hay công nghệ nhưng doanh nghiệp khó có thể đẫn đầu về tất cả các mặt này. Doanh nghiệp
phải phát huy những điểm mạnh nào đó để tạo ra lợi thế cạnh tranh về một hay nhiều lợi ích.
Chẳng hạn, muốn dành vị trí đẫn đầu về chất lượng trong lĩnh vực máy photocopy, hãng
Canon đã phải chọn chế tạo hay mua những bộ phận tốt nhất, lắp ráp chúng lại với một trình
độ kỹ thuật cao, kiểm tra chúng thật kỷ lưỡng,
2.3. Tập trung
Ở đây, doanh nghiệp tập trung nỗ lực vào việc phục vụ một vài phân đoạn thị trường
hơn là theo đuổi toàn bộ thị trường. Doanh nghiệp phải nắm vững nhu cầu riêng biệt của từng
thị trường mục tiêu và cố gắng tạo ra vị trí dẫn đầu về chi phí thấp hay một đặc điểm nổi bật
nào khác trong thị trường mục tiêu đó. Ví dụ, công ty Armstrong Rubber đã chuyên về sản
xuất lốp xe chất lượng cao cho các loại máy nông nghiệp và xe giải trí và luôn tìm được chỗ
trống thị trường mới để phục vụ.
3. CÁC CHIẾN LƯỢC CẠNH TRANH
Chúng ta có thể hiểu biết nhiều hơn bằng cách xếp các công ty theo vai trò của họ trên
thị trường mục tiêu: người lãnh đạo, người thách thức, người theo đuổi thị trường hoặc người
lấp lỗ trống thị trường. Giả định một thị trường mà các công ty với thị phần giả định của
chúng trong cấu trúc thị trường như sau: doanh nghiệp dẫn đầu thị tr
ường nắm giữ một thị
phần là 40 %, doanh nghiệp thách thức hiện đang kiểm soát 30 % thị trường và muốn tăng hơn

nữa, doanh nghiệp đi theo thị trường muốn giữ 20 % thị phần đang có và không muốn thị
trường có những thay đổi bất lợi, và cuối cùng là doanh nghiệp lấp chỗ trống thị trường chiếm
giữ 10 % còn lại ở những phân đoạn thị trường nhỏ mà các doanh nghiệp lớn không để ý đến.
Bảng 6.1: Giả định về cấu trúc thị trường
N hà dẫn đạo thị
trường
N gười thách thức N gười theo đuổi N gười lấp lỗ trống thị
trường
40 % 30 % 20 % 10 %



15
Tuy nhiên, thị phần không phải là yếu tố quyết định vị thế của một công ty trên thị
trường mà còn phụ thuộc vào hành vi và tầm ảnh hưởng của nó trong ngành, chúng ta sẽ làm
quen các vị thế cạnh tranh và chiến lược cạnh tranh của từng vị thế.
Căn cứ vào vị thế và khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường, các doanh nghiệp
có thể lựa chọn một trong các chiến lược marketing sau đây:
- Chiến lược của người dẫn đầu thị trường.
- Chiến lược của người thách thức thị trường.
- Chiến lược của người đi theo thị trường.
- Chiến lược lấp chỗ trống thị trường.
3.1. Chiến lược của người dẫn đạo thị trường
Hầu hết các ngành công nghiệp đều có một doanh nghiệp được thừa nhận như người
dẫn đầu thị trường. Doanh nghiệp này có thị phần lớn nhất trong thị trường sản phNm tương
ứng. N ó thường dẫn đầu các doanh nghiệp khác về thay đổi giá cả, giới thiệu sản phNm mới,
khối lượng phân phối và cường độ cổ động. N gười đẫn đầu thị trường là điểm chuNn định
hướng đối với các đối thủ cạnh tranh thách thức,theo đuổi hay lấp chỗ trống thị trường. Các
công ty dẫn đầu thị trường nổi tiếng như Mercedes-Benz (ôtô), IBM (máy tính), Microsoft
(các giải pháp phần mềm máy tính), Coca-Cola (nưóc ngọt), Gillette (dao cạo),

Trừ khi công ty dẫn đạo hưởng quyền độc quyền theo luật định, nếu không nó cũng
không hoàn toàn dễ dàng. Công ty phải duy trì sự thận trọng thường xuyên. Một phát minh về
sản phNm có thể tiến nhanh và tấn công người lãnh đạo (điện thoại di động của Ericsson và
N okia vượt trội các mẫu của Motorola).
Các doanh nghiệp dẫn đầu đều muốn giữ vai trò số một của mình. Điều này đòi hỏi sự
hoạt động theo 3 hướng :
Thứ nhất, doanh nghiệp phải tìm cách mở rộng toàn bộ thị trường , tức là tăng tổng cầu
thị trường lên.
Thứ hai, doanh nghiệp phải bảo vệ thị phần hiện có thông qua các hoạt động phòng vệ
và tiến công.
Thứ ba, doanh nghiệp cố gắng phát triển thị phần của mình lớn hơn nữa,ngay cả khi
quy mô thị trường vẫn giữ nguyên.
• Mở rộng toàn bộ thị trường
Mọi doanh nghiệp trong ngành đều có thể có lợi khi toàn bộ thị trường được mở rộng,
nhưng doanh nghiệp dẫn đầu thườ
ng được lợi nhiều hơn hết. N ếu người Mỹ thích chụp ảnh
nhiều hơn thì Kodak được lợi nhiều nhất vì nó bán hơn 80 % lượng phim ở Mỹ. N ói chung
người dẫn đầu thị trường nên tìm kiếm nhiều người sử dụng mới, tạo ra nhiều công dụng mới
và khuyến khích dùng nhiều hơn cho các sản phNm của mình.
Người tiêu dùng mới. Mỗi loại sản ph
Nm đều có tiềm năng thu hút những người mua
mới trong số những người chưa biết đến sản phNm hay không mua nó vì giá cả hay do sản
phNm thiếu một số đặc tính nào đó theo yêu cầu của họ.N hững người sản xuất có thể tìm kiếm
những người mua mới trong ba nhóm khách hàng tiềm năng này.Ví dụ, một hãng mỹ phNm có
thể cố gắng thuyết phục những phụ
nữ trước đây không dùng mỹ phNm nay sẽ dùng nó (chiến
lược thâm nhập thị trường), hay thuyết phục nam giới bắt đầu dùng dầu thơm (chiến lược mở


16

rộng thị trường theo khách hàng), hoặc tìm cách bán dầu thơm sang những khu vực khác
(chiến lược mở rộng thị trường theo địa lý).
Công dụng mới. N hờ vào việc phát hiện và quảng cáo những công dụng mới của sản
phNm mà doanh nghiệp có thể mở rộng được thị trường. Thông thường, người sản xuất khi
thiết kế sản phNm thường xác lập những thuộc tính cơ bản qui định những công dụng chủ yếu
của sản phNm đó nhằm thỏa mãn những mong muốn của người têu dùng. N hưng trong quá
trình nghiên cứu cải tiến sản phNm của doanh nghiệp hay trong quá trình sử dụng của người
tiêu dùng, người ta có thể phát hiện ra những công dụng mới của sản phNm, nhờ đó có thểø
làm tăng số lượng và tần suất sử dụng chúng. Mỗi công dụng mới cũng làm cho sản phNm có
chu kỳ sống mới.
Theo các nghiên cứu của Von Hippel thì hầu hết các sản phNm công nghiệp mới đều do
những người tiêu dùng đề xuất trước tiên, chứ không phải là các phòng nghiên cứu và phát
triển của công ty. Ví dụ, thuốc nở làm bánh của công ty Arm Hammer được một nữa số gia
đình người Mỹ dùng phổ biến như một chất khử mùi trong tủ lạnh hơn là để làm bánh. N hiệm
vụ của các doanh nghiệp là theo dõi cách sủ dụng của người tiêu dùng, thu thập và xử lý các
thông tin về nhu cầu của khách hàng để đề xuất phát triển sản phNm mới.
Tăng khối lượng sử dụng. Một ý tưởng nữa của chiến lược mở rộng thị trường là
thuyết phục dân chúng sủ dụng nhiều hơn trong mỗi lần dùng và do đó sẽ làm tăng tổng mức
bán hàng của doanh nghiệp . Hãng Procter & Gamble khuyến cáo khách hàng dùng dầu gội
đầu Head & Shoulders hai lần sẽ có hiệu quả tốt hơn là dùng một lần. Hay vì muốn các chủ xe
người Pháp tăng số kilomet chạy xe và như vậy sẽ dùng nhiều lốp xe hơn, Công ty sản xuất
lốp xe Michelin đã nNy ra ý tưởng giới thiệu các nhà hàng ba sao tuyệt vời ở miền nam nước
Pháp kèm theo những cuốn sách hướng dẫn có bản đồ và những cảnh đẹp dọc đường để câu
dẫn nhiều người Paris đi nghỉ cuối tuần hay đi du lịch xa hơn.
• Bảo vệ thị phần
Trong lúc cố mở rộng quy mô thị trường, doanh nghiệp dẫn đầu thị trường cũng phải
thường xuyên bảo vệ mình chống lại sự tấn công của đối thủ canh tranh.
N gười dẫn đầu thị trường có thể làm gì để bảo vệ vị thế của mình ? Câu trả lời tốt nhất
là đổi mới liên tục. N gười dẫn đầu không được bằng lòng với những gì đang có và dẫn đầu
ngành về những ý tưởng sản phNm mới, dịch vụ khách hàng, hiệu năng phân phối và giảm giá.

Doanh nghiệp phải luôn gia tăng hiệu quả cạnh tranh và nâng cao giá trị phục vụ khách hàng.
Doanh nghiệp cầ
n giành thế chủ động và tìm cách tấn công vào những điểm yếu của đối
phương. Cách phòng thủ hay nhất là tấn công tốt nhất.
Doanh nghiệp dẫn đầu, ngay cả khi không tung ra các cuộc tấn công, ít ra cũng phải
bảo vệ mọi mặt và không để hở các điểm yếu. Doanh nghiệp phải tìm cách giảm chi phí, và
giá cả phải phù hợp với giá trị mà khách hàng cảm nhận được từ nhãn hiệu của mình với nhi
ều
kích cỡ và hình thức để đáp ứng được các sở thích đa dạng của khách hàng và chiếm được
nhiều chỗ trên các quầy hàng của các đại lý.
Chi phí cho việc bảo vệ các điểm yếu là khá tốn kém , nhưng chi phí cho việc từ bỏ
một sản phNm không sinh lời trong một phân đoạn thị trường có thể còn cao hơn. Hãng
General Motors không muốn mất tiền vào việc sản xuất những loại xe nhỏ, Xerox không quan
tâm đến việc chế tạo các máy photocopy cỡ nhỏ giờ đây phải chi phí nhiều hơn cho các sản
phNm này do các công ty N hật Bản đã thâm nhập thị trường và đang phát triển mạnh thị phần
của mình trên đất Mỹ.


17
N gười dẫn đầu thị trường không thể bảo vệ được tất cả các vị trí của mình trên thị
trường, họ phải tập trung nguồn lực vào những điểm trọng yếu. Mục đích của chiến lược
phòng vệ là giảm bớt xác suất bị tấn công và hướng các cuộc tấn công của đối thủ cạnh tranh
vào những nơi ít nguy hại hơn. N gày nay các nhà quản trị quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu
và vận dụng nghệ thuật quân sự vào lĩnh vực kinh doanh như các nguyên lý của binh pháp Tôn
Tử, các tác phNm của Mushashi, Von Clausewitz và Liđell-Hart.
Có 6 chiến lược phòng vệ mà người dẫn đầu thị trường có thể sử dụng :
Phòng vệ vị thế
Hình thức phòng vệ căn bản nhất là dựng thành trì chung quanh một vị trí. Tuy nhiên,
chỉ đơn thuần bảo vệ vị thế và sản phNm hiện tại được coi là một hình thức thiển cận trong
thực hành marketing. N ó không đảm bảo chắc chắn rằng sản phNm hiện có của Công ty và ưu

thế của nó là tuyệt đối trong trường hợp đối thủ cạnh tranh tạo được lợi thế và chủ động tấn
công. N gay như Coca-Cola huyền thoại bán gần một nửa số nước ngọt trên thế giới ngày nay
cũng đang phải đa dạng hóa sản phNm sang nước trái cây, thiết bị khử mùi và đồ nhựa.
Phòng vệ bên sườn
Trong khi bảo vệ vị trí cao của mình, người đẫn đầu thị trường nên đặc biệt chú ý bảo
vệ những lĩnh vực trọng yếu của mình. Để phòng vệ bên sườn thực sự có ý nghĩa, cần đánh giá
đầy đủ mọi nguy cơ và cần thiết thì phải đầu tư thích đáng để bảo vệ các vị trí trọng yếu đó.
Bài học cay đắng của các hãng hàng đầu General Motors và Ford trong việc thiết kế các loại
xe nhỏ kém hiệu năng không cạnh tranh nổi với các hãng ôtô N hật Bản và châu Âu thâm nhập
thị trường Mỹ trong những năm 70 là một ví dụ điển hình.
Phòng vệ chặn trước
Một sự phòng vệ năng nổ hơn chính là chủ động tấn công đối thủ trước khi nó có thể
tấn công chống lại doanh nghiệp. Phòng vệ chăn trước có thể tiến hành trên từng thị trường
mục tiêu hay trên phần lớn các thị trường, như Seiko đã thực hiên với 2300 kiểu đồng hồ được
phân phối trên khắp thế giới, hay Texas Instruments tiến hành một cuộc tấn công giá cả kéo
dài. N hững chiến lược gây sức ép cao và kéo dài nhằm luôn luôn giữ thế chủ động và duy trì
sự cạnh tranh ở thế phòng thủ. N gười dẫn đầu thị trường có nguồn lực mạnh thường có khả
năng chống lại các cuộc tấn công, và trong trường hợp có ưu thế tuyệt đối trên thị trường nó
có thể nhử đối phương lao vào những cuộc tấn công tốn kém mà không cần phản ứng lại.
Phòng vệ phản công
Một khi người dẫn đầu thị trường đã bảo vệ bên sườn, hoặc đã triển khai các biện pháp
ngăn ngừa mà vẫn bị tấn công thì nó phải phản công lại. N ó không thể thụ động trước việc đối
thủ cạnh tranh cắt giảm giá , cải tiến sản phNm hay tìm cách xâm chiếm thị trường của mình
được. Tuy vậy, kinh nghiệm cho thấy doanh nghiệp dẫn đầu thị trường không nên ti
ến hành
phản công ngay mà tạm thời rút lui để tìm ra chỗ sai lầm, sơ hở trong chiến thuật của đối
phương để đánh đòn phản công quyết định thì mới chắc thành công. Cách phản công có hiệu
quả là đánh thẳng vào thị trường và sản phNm sinh lợi cao nhất của đối phương buộc nó phải
rút lui một phần nguồn lực về để bảo vệ.
Phòng vệ cơ động

Trên thực tế, phòng vệ cơ động được vận dụng nhiều hơn phòng vệ vị thế hiện có của
người dẫn đầu thị trường. Phòng vệ cơ động bao gồm sự mở rộng thị trường lân cận mà người
dẫn đầu thị trường có thể dùng như những cơ sở tương lai cho sự phòng vệ cũng như tấn công


18
của mình. Doanh nghiệp cần đầu tư vào các khu vực mới này thông qua việc mở rộng thị
trường và đa dạng hóa sản phNm. N hững chiến lược này có ý nghĩa tạo ra cho doanh nghiệp
khả năng tiến công liên tục hoặc tung ra những đòn trả đũa.
Việc mở rộng thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải chuyển trọng tâm từ sản phNm hiện
tại sang nhu cầu cơ bản chung và tập trung nghiên cứu , phát triển toàn bộ công nghệ gắn liền
với nhu cầu đó. Doanh nghiệp cũng không nên mở rộng thị trường quá mức sẽ làm phân tán
nguồn lực trên thị trường hiện tại. Cần tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc mục tiêu
(theo đuổi một mục tiêu được xác định rỏ ràng và có thể đạt được) và nguyên tắc tập trung
(dồn lực lượng vào điểm yếu của đối phương). Armstrong Work Industrien tiêu biểu cho công
ty thực hành chiến lược mở rộng thị trường thành công bằng cách xác định lại lĩnh vực kinh
doanh của mình từ “vật liệu phủ sàn” sang “vật liệu trang trí phòng” và đạt được sự cân đối
chung giữa việc tăng trưởng và phòng thủ.
Phòng vệ co cụm
Một khi doanh nghiệp không còn bảo vệ được toàn bộ thị trường của mình nữa vì
nguồn lực quá dàn trãi và vì đối thủ cạnh tranh đang lấn dần trên một số phân đoạn thị trường
thì cách tốt nhất là nên co cụm lại, tức là rút lui chiến lược. Việc rút lui chiến lược không có
nghĩa là từ bỏ thị trường, mà là từ bỏ những phân đoạn thị trường yếu kém và tập trung
nguồn lực sang những phân đoạn thị trường mạnh hơn.
• Mở rộng thị phần
N hững người dẫn đầu thị trường cũng có thể phát triển bằng cách làm tăng hơn nữa thị
phần của mình. Thực tiễn kinh doanh ở các nước phát triển cho thấy rằng giữa thị phần chiếm
lĩnh và khả năng sinh lời có mối quan hệ khá chặt chẽ. Khả năng sinh lời của doanh nghiệp
(được đánh giá bằng tỉ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn đầu tư - ROI) tăng tỉ lệ thuận với
mức tăng của thị phần tương đối của nó trên thị trường mà doanh nghiệp phục vụ. Điều này đã

làm cho nhiều doanh nghiệp theo đuổi các chiến lược mở rộng thị phần và lấy đó làm mục
tiêu, bởi vì nó không chỉ tạo ra nhiều lợi nhuận, mà còn tạo ra khả năng sinh lời lớn hơn.
Tuy nhiên ,các doanh nghiệp không được nghĩ rằng cứ tăng được thị phần trên thị
trường mà mình phục vụ là đương nhiên sẽ tăng khả năng sinh lời. Điều này còn tùy thuộc
nhiều vào chiến lược tăng thị phần của doanh nghiệp đó. Đôi khi chi phí cho việc tăng thị
phần có thể vượt quá giá trị thu nhập của nó. Mercedes
đạt được lợi nhuận cao vì nó là một
công ty có thị phần lớn trên thị trường xe cao cấp mà nó phục vụ, cho dù công ty này có thị
phần thấp trên toàn bộ thị trường ôtô. N goài ra, Mercedes đạt đưọc thị phần lớn trên thị trường
mà nó phục vụ còn vì nó đã thực hiện tốt những việc khác, như tạo ra sản phNm chất lượng cao
và đạt được tốc độ quay vòng vốn nhanh cũng như kiể
m soát được giá thành sản phNm.
Theo các tác giả Buzzel và Wiersema , những công ty giành được mức tăng thị phần
lớn hơn các đối thủ cạnh tranh là do họ đã thành công trong ba lĩnh vực: Tạo được sản phNm
mới, nâng cao chất lượng sản phNm và tăng chi phí marketing một cách hợp lý.
3.2. Chiến lược của người thách thức thị trường
N hững doanh nghiệp chiếm hàng thứ hai, thứ ba hay thấp hơn trong một ngành công
nghiệp có thể áp dụng một trong hai chiến lược canh tranh. Họ có thể tấn công vào doanh
nghiệp dẫn đầu và các đối thủ khác trong một nỗ lực nhằm tăng thêm thị phần (những người
thách thức thị trường), hoặc họ có thể hợp tác với các đối thủ và không đụng chạm đến ai cả
(những người theo đuổi thị trường).


19
Có những trường hợp những người thách thức thị trường đã đuổi kịp hay vượt qua
những người dẫn đầu thị trường. Canon chỉ có qui mô khoảng một phần mười Xerox vào
những năm 1970, ngày nay đã sản xuất một lượng máy photocopy nhiều hơn cả Xerox. Toyota
ngày nay sản xuất nhiều xe hơn General Motors, British Airway đã vận chuyển khách quốc tế
nhiều hơn Pan Am.
Sau đây chúng ta sẽ khảo sát những chiến lược cạnh tranh có thể có đối với những

người thách thức thị trường.
• Xác định mục tiêu chiến lược và đối thủ canh tranh
N gười thách thức thị trường trước hết phải xác định mục tiêu chiến lược của mình.
Phần lớn những người thách thức thị trường tìm cách tăng khả năng sinh lợi nhờ vào việc tăng
thị phần. Thế nhưng, mục tiêu chiến lược đó lại tùy thuộc vào đối thủ là ai. Trong hầu hết các
trường hợp, doanh nghiệp có thể chọn đểî thách thức những đối thủ nằm trong số ba loại sau
đây :
- Doanh nghiệp có thể tấn công vào ngườiì dẫn đầu thị trường. Đây là một chiến
lược có nhiều rủi ro, nhưng có khả năng thành công nếu ngườiì dẫn đầu thị trường không thực
sự mạnh và không phục vụ tốt thị trường. Cơ sở để kiểm tra điều này là nhu cầu hay mức độ
thỏa mãn của người tiêu dùng. N gười thách thức thị trường có thể tấn công vào những phân
đoạn thị trường mà người đẫn đầu không phục vụ hay phục vụ không tốt, hoặc đổi mới một
cách mạnh mẽ hơn đối thủ trên toàn bộ phân đoạn thị trường đó.
- Doanh nghiệp có thể tấn công vào những doanh nghiệp cùng tầm cỡ với mình nếu
những doanh nghiệp đó có những điểm yếu, như đang gặp khó khăn về tài chính hay không
hoàn thành được những mục tiêu dự kiến của mình .
- Doanh nghiệp có thể tấn công vào các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương nếu các doanh
nghiệp đó cũng đang gặp phải những khó khăn về tài chính hay không có khả năng hoàn thành
được mục tiêu đề ra.
Việc lý giải để chọn đối thủ cạnh tranh và mục tiêu chiến lược là cần thiết cho sự phân
tích cạnh tranh có hệ thống vì hai vấn đề này có liên quan chặt chẽ với nhau. Mỗi doanh
nghiệp phải thu nhập thông tin về các đối thủ cạnh tranh, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, qui
mô và năng lực cạnh tranh của họ, trên cơ sở đó mà xác định mục tiêu tấn công cho phù hợp.
N ếu doanh nghiệp tấn công đi sau người đẫn đầu thị trường, thì mục tiêu của nó là giành lấy
một thị phần nhất định. N hư Bic không có ảo tưởng giành vị trí số một của Gillette trên thị
trường dao cạo râu, mà chỉ muốn kiếm một thị phần lớn hơn mức
đã có. N ếu doanh nghiệp tấn
công đi sau một doanh nghiệp nhỏ hơn, thì mục tiêu của nó có thể là đánh bại doanh nghiệp
này. N guyên tắc cơ bản ở đây vẫn là: mọi cố gắng thách thức thị trường đều phải nhằm vào
một mục tiêu được xác định rõ ràng, dứt khoát và có thể đạt được.

• Chọn chiến lược tấn công
Bằng cách nào người thách thức th
ị trường có thể tấn công một cách tốt nhất vào đối
thủ đã chọn và đạt được các mục tiêu chiến lược? N guyên tắc tập trung của chiến lược đòi hỏi
doanh nghiệp phải tập trung những lục lượng quan trọng nhất vào thời điểm quyết định và ưu
tiên cho mục tiêu quyết định. Doanh nghiệp thách thức thị trường có thể vận dụng năm chiến
lược tấn công sau đây.
Tấn công trực diện


20
Doanh nghiệp có thể tung ra một cuộc tấn công trực diện bằng cách tập trung các điểm
mạnh của mình của mình để chống lại các điểm mạnh của đối thủ. Và để cho một cuộc tấn
công trực diện giành thắng lợi, người tấn công phải có ưu thế về sức mạnh so với đối thủ cạnh
tranh. Thông thường người thách thức sẽ tấn công trực diện đối thủ bắng các ưu thế về sản
phNm, giá cả và quảng cáo N ếu người tấn công trực diện có lực lượng yếu hơn thì hầu hết các
cuộc tấn công trực diện đều không thành công. General Motors và Xerox đã thất bại khi tung
ra những đòn tấn công trực diện vào IBM mà coi thường khả năng phòng thủ vững chắc của
công ty này.
Tấn công bên sườn.
Đối thủ thường tập trung tiềm lực bảo vệ những vị thế mạnh nhất mà theo dự đoán của
họ là sẽ bị tấn công. Do đó sẽ ít có khả năng bảo vệ tốt những điểm yếu khác. Chính những
điểm yếu này sẽ là đối tượng cho những người thách thức tấn công. N gười thách thức có thể
tấn công vào điểm mạnh của đối thủ để phân tán bớt nguồn lực của nó , rồi sau đó sẽ tấn công
thực sự vào điểm yếu sơ hở của đối thủ. Chiến thuật này thường làm cho người phòng thủ mất
cảnh giác và nó đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp có nguồn lực ít hơn
đối thủ cạnh tranh.
Tấn công bao vây.
Tấn công bên sườn đòi hỏi việc tìm ra những sơ hở trên thị trường hiện tại của đối thủ.
Tấn công bao vây, ngược lại, bao hàm việc tung ra một cuộc tấn công trên nhiều trận tuyến, do

đó đối thủ phải bảo vệ phía trước, bên cạnh và đắng sau ngay lập tức. Để thực hiện chiến lược
này thành công người tấn công phải có ưu thế về nguồn lực hơn, có khả năng cung ứng cho thị
trường tốt hơn và nhiều lợi ích hơn đối thủ cạnh tranh , sao cho có thể thuyết phục khách hàng
rắng sản phNm và dịch vụ của nó đem lại cho họ nhiều sự thỏa mãn hơn đối thủ.
Tấn công đường vòng.
Cuộc tấn công đường vòng là một chiến lược cạnh tranh gián tiếp, tránh được việc
phải đương đầu trực tiếp với đối thủ. N gười thách thức tấn công vòng qua đối thủ và nhằm vào
những thị trường dễ hơn để mở rộng cơ sở nguồn lực của mình. Chiến lược này có thể triển
khai theo ba hướng: Đa dạng hóa sang những sản phNm không liên quan đến những sản phNm
hiện có; đa dạng hóa sang những thị trường mới; nhảy vào những lĩnh vực công nghệ mới để
tạo ưu thế m
ới và loại bỏ những sản phNm hiện có. N hư trường hợp Colgate đầu những năm
1970 đã thực hiện chiến lược tấn công đường vòng đối với P & G có nguồn lực lớn gấp ba lần
bằng cách tăng cường vị trí dẫn đầu của mình về xà phòng và chất tNy cứng ở nước ngoài và
đa dạng hóa sang các thị trường không phải thế mạnh của P & G ở
trong nước như các sản
phNm dệt, sản phNm phục vụ bệnh viện, mỹ phNm, thực phNm và dụng cụ thể thao để tăng qui
mô kinh doanh từ một nữa lên ba phần tư so với P & G.
Tấn công du kích.
Tấn công theo kiểu du kích là sự lựa chọn khác có thể có được đối với người thách
thức thị trường, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ và yếu kém tài chính.
N hà thách thức thực hiện những cuộc tấn công nhỏ, định kỳ để quấy rối làm suy yếu
lực lượng và tinh thần đối thủ, hy vọng rằng dần dần sẽ xây dựng được chỗ đứng ổn định trên
thị trường.
Các cuộc tấn công du kích thường do một doanh nghiệp nhỏ hơn sủ dụng để chống lại
một doanh nghiệp lớn hơn và thường tập trung vào những thị trường nhỏ hẹp hay các nguồn


21
cung ứng của đối thủ, hướng họ vào những cuộc tấn công không có khả năng sinh lời và buộc

họ phải dàn trãi nguồn lực. Các phương tiện được sử dụng phổ biến là cắt giảm giá có chọn
lọc, tăng cường các đợt khuyến mãi chớp nhoáng, Triết lý ở đây là người tấn công có thế lực
yếu hơn đối thủ nếu tấn công nhiều trận nhỏ sẽ có tác dụng tích lũy lớn hơn là tấn công một
vài trận lớn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tấn công du kích liên tục là ít tốn kém,
mặc dù nó có thể ít tốn kém hơn tấn công trực diện hay tấn công bao vây.

N hà thách thức thị trường đôi khi phải vươn xa hơn 5 chiến lược tấn công kể trên và
phát triển những chiến lược cạnh tranh cụ thể như:
Giảm giá: N hà thách thức thị trường có thể cung ứng sản phNm tương tự ở mức giá
thấp hơn đối thủ, hay còn gọi là chiết khấu bán lẻ. Để thực hiện chiến lược này, nó cần
thỏa mãn 3 điều kiện: thứ nhất nó phải thuyết phục được khách hàng rằng sản phNm và
dịch vụ của mình hoàn toàn tương đương với nhà dẫn đạo, thứ hai, khách hàng phải là
những người nhạy cảm với giá, thứ ba, cần đảm bảo nhà dẫn đạo sẽ không cắt giảm giá
dưới bất kỳ áp lực của đối thủ.
Sản phẩm rẻ hơn: nhà thách thức có thể cung ứng một sản phNm có chất lượng trung
bình hoặc thấp ở mức giá thấp hơn rất nhiều. Chẳng hạn, một hãng bánh ngọt có thể
bán những chiếc bánh “kém ngon” hơn một chút ở mức giá thấp hơn một nửa so với
hãng lớn nhất. Tuy nhiên rủi ro ở đây là nhà thách thức có thể bị tấn công bởi những
đối thủ sẵn sàng đưa ra mức giá thậm chí thấp hơn rất nhiều lần.
Sản phẩm cấp cao. N hà thách thức cũng có thể đưa ra một sản phNm có chất lượng
vượt trội ở mức giá cao hơn nhà dẫn đạo.
Đa dạng hóa sản phẩm. N hà thách thức có thể tấn công bằng cách tung ra một danh
mục sản phNm đa dạng hơn nhà dẫn đạo, giúp khách hàng có thêm nhiều sự lựa chọn.
Cải tiến sản phẩm: N hà thách thức có thể theo đuổi chiến lược cải tiến sản phNm. Hãng
3M thường tiến vào thị trường mới bằng cách tung ra những phát minh mới.
Cải thiện chất lượng dịch vụ: N hà thách thức có thể cung ứng thêm những dịch vụ mới
hoặc tốt hơn cho khách hàng. Chẳng hạn hãng cho thuê xe hơi Avis nổi tiếng với
slogan “Chúng tôi chỉ đứng thứ hai. N hưng chúng tôi sẽ cố gắng phục vụ tốt hơn”, dựa
trên lời hứa cung ứng những chiếc ôtô sạch sẽ đi kèm những dịch vụ nhanh hơn nhà
dẫn đạo Hertz

Tăng cường quảng cáo và cổ động: một số nhà thách thức lựa chọn cách thức tấn công
nhà lãnh đạo bằng cách gia tăng chi phí cho quảng cáo và cổ động. Tuy nhiên chiến
lược này sẽ không mang lại hiệu quả cao nếu sản phNm hoặc thông điệp quảng cáo của
người thách thức không thực sự vượt trội hơn so với đối thủ.

3.3. Chiến lược của ngườ
i theo đuổi thị trường
Có nhiều doanh nghiệp đứng hàng thứ hai chủ trương chiến lược đi theo hơn là thách
thức người đứng đầu thị trường. Theo Levit, một chiến lược bắt chước hay cải tiến sản phNm
của người đi theo thị trường có thể đạt mức sinh lời không kém hay thậm chí còn cao hơn
chiến lược phát triển sản phNm mới của người d
ẫn đầu thị trường cho dù qui mô kinh doanh có
thể nhỏ hơn, bởi vì họ không phải chịu gánh nặng chi phí để nghiên cứu, phát triển và thương
mại hóa sản phNm mới như người đẫn đầu thị trường
9
.


9
Theodore Levitt, “Innovative Imitation”, Harvard Business Review, Sep – Oct 1966


22
Chiến lược đi theo thị trường được áp dụng phổ biến trong những ngành có sản phNm
đồng nhất như sắt thép, phân bón, hóa chất là nơi ít có cơ hội tạo sự khác biệt về sản phNm,
hình ảnh hay chất lượng dịch vụ, nhưng có sự nhạy cảm về giá rất cao.
Một người đi theo thị trường phải biết làm cách nào để giữ các khách hàng hiện có và
đạt được thêm một số khách hàng mới. Mỗi ngườiì đi theo thị trường đều cố gắng mang đến
cho khách hàng mục tiêu của mình những lợi điểm riêng về địa điểm, dịch vụ, tài chính.
N gười đi theo thị trường phải biết giữ cho chi phí sản xuất của mình thấp, chất lượng sản

phNm cao, và dịch vụ tốt. Doanh nghiệp cũng phải nhảy vào những thị trường mới, khi những
thị trường này mở rộng. Đi theo thị trường không phải là thụ động làm giống theo, cũng không
phải là bản sao của người dẫn đầu thị trường. N gười đi theo thị trường phải xác định con
đường phát triển, nhưng là một con đường không tạo ra sự trả đũa có tính cạnh tranh. Có thể
phân biệt 3 chiến lược phổ biến của người đi theo thị trường :
- Sao chép. Ở đây, người đi theo thị trường làm giống theo người dẫn đầu cả về sản
phNm lẫn cách phân phối và quảng cáo mà không có một sự sáng tạo hay khác biệt nào. Thực
chất đây là một kiểu ăn bám theo đầu tư của người dẫn đầu thị trường.
- Nhái kiểu. N gười đi theo thị trường cố gắng duy trì một số điểm khác biệt về bao gói,
quảng cáo nhưng vẫn đi theo người dẫn đầu trong phạm vi những đổi mới về thị trường và
sản phNm, mức giá cơ bản và phân phối.
- Cải tiến. Doanh nghiệp này theo sát người dẫn đầu ở một vài điểm, và đôi khi theo
cách thức riêng của mình, họ cải tiến sản phNm mang tính đổi mới hoàn toàn, nhưng tránh
cạnh tranh trực tiếp bằng cách bán chúng trên các thị trường khác. N gười đi theo thị trường
này thường trở thành người thách thức tương lai.
3.4. Chiến lược của người lấp chỗ trống thị trường
Hầu như trong mọi ngành đều có những doanh nghiệp nhỏ chuyên môn hóa vào những
phần thị trường mà ở đó họ tránh được sự đụng chạm với các doanh nghiệp lớn. N hững doanh
nghiệp nhỏ này cố tìm lấy một hoặc nhiều chỗ an toàn và có lợi trên thị trường, chiếm những
chỗ trống của thị trường mà họ có thể phục vụ một cách có hiệu quả thông qua sự chuyên môn
hóa mà những doanh nghiệp lớn ít hoặc không quan tâm đến. Họ phải cố gắng hiểu rõ khách
hàng để có thể phục vụ tốt hơn những người tình cờ cho khoảng trống thị trường đó.
N gười
lấp chỗ trống thị trường thường đạt lợi nhuận cao, trong khi người bán đại trà đạt được khối
lượng lớn.
Mỗi chỗ trống lý tưởng ở thị trường có những đặc điểm sau :
- Chỗ trống ấy có quy mô và mãi lực đủ để có thể sinh lời.
- Chỗ trống ấy có tiềm năng tăng trưởng.
- Chỗ trống ấy không được những người dẫn đầu thị trường để ý đến.
- Doanh nghiệp có những kỹ năng cần thiết và nguồn lực để phục vụ chỗ trống ấy của thị

trường một cách có hiệu quả.
- Doanh nghiệp có thể phòng vệ chống lại một cuộc tấn công của đối thủ mạnh hơn
thông qua sự mến chuộng của khách hàng mà doanh nghiệp đã gây dựng lên.
Tư tưởng then chốt trong nghệ thuật lấp chỗ trống thị trường là sự chuyên môn hóa.
Doanh nghiệp phải chuyên môn hóa theo các phân đoạn thị trường, khách hàng, sản phNm,


23
marketing-mix. N gười lấp chỗ trống thị trường có thể thực hiện chuyên môn hóa trong các
lĩnh vực sau đây.
Chuyên môn hóa theo khách hàng sử dụng cuối cùng . Doanh nghiệp chuyên môn hóa
trong việc phục vụ một loại khách hàng sử dụng cuuói cùng nào đó. Ví dụ, một doanh nghiệp
pháp lý có thể chuyên hóa trong các thị trường luật hình sự, dân sự, hay thương mại
10
.
Chuyên môn hóa theo chuỗi giá trị sản xuất - phân phối sản phẩm. Doanh nghiệp
chuyên hóa theo các giai đoạn trong chu kỳ sản xuất - phân phối.
Chuyên môn hóa theo qui mô khách hàng. Doanh nghiệp tập trung vào việc bán cho
những khách hàng quy mô nhỏ, trung bình hay lớn. N hiều người lấp chỗ trống thị trường
chuyên hóa vào việc phục vụ loại khách hàng nhỏ mà các doanh nghiệp lớn không quan tâm.
Chuyên môn hóa theo khách hàng đặc biệt. Doanh nghiệp giới hạn việc bán cho một
hoặc vài khách hàng lớn chủ yếu nào đó.
Chuyên môn hóa theo địa lý. Doanh nghiệp chỉ bán hàng trong phạm vi một địa
phương, một miền hay một khu vực nào đó của thị trường.
Chuyên môn hóa theo sản phẩm hay nhóm sản phẩm. Doanh nghiệp chỉ sản xuất loại
một sản phNm hay một nhóm sản phNm.
Chuyên môn hóa theo đặc tính sản phẩm. Doanh nghiệp chuyên hóa vào việc sản xuất
một loại sản phNm nhất định hay một sản phNm có đặc tính nhất định.
Chuyên môn hóa theo đặt hàng chuyên biệt. Doanh nghiệp sản xuất những sản
phNm thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng.

Chuyên môn hóa theo giá cả/ chất lượng. Doanh nghiệp hoạt động ở đầu cao hoặc đầu
thấp của thị trường theo chất lượng sản phNm và mức giá tương ứng.
Chuyên môn hóa theo dịch vụ. Doanh nghiệp cung cấp một hoặc nhiều dịch vụ mà ở
doanh nghiệp khác không thực hiện.
Chuyên môn hóa theo kênh phân phối. Doanh nghiệp chuyên phục vụ một kênh phân
phối duy nhất.
Không có một chỗ trống thị trường nào là an toàn tuyệt đối và không có đối thủ cạnh
tranh tiềm tàng. Chiến lược lấp chỗ trống thị trường có thể gặp phải những rủi ro do thị trường
hết nhu cầu hay bị đối thủ tấn công. Vì thế, doanh nghiệp cần phả
i không ngừng củng cố vị thế
của chỗ trống thị trường hiện có, đồng thời khai thác thêm những chỗ trống mới trên thị
trường để giảm bớt nguy cơ và duy trì khả năng sống còn của mình.
4. CÂN BẰNG ĐNNH HƯỚNG THEO KHÁCH HÀNG VÀ ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh thường gặp những trường hợp doanh nghiệp tập
trung nỗ l
ực và sự quan tâm của mình vào đối thủ cạnh tranh đến mức sao nhãng việc tập
trung vào khách hàng, hay ngược lại. Cả hai xu hướng này đều dẫn đến những kết quả không
mấy khả quan. Do vậy, các doanh nghiệp phải đảm bảo sự cân bằng giữa định hướng theo
khách hàng và định hướng theo đối thủ cạnh tranh.
4.1. Doanh nghiệp tập trung vào đối thủ cạnh tranh

10
Bro Uttal, “Pitching Computers to Small Businesses”, Fortune, April 1, 1985, pp.95-104


24
Một doanh nghiệp tập trung vào đối thủ cạnh tranh hay lấy đối thủ cạnh tranh làm
trung tâm là doanh nghiệp đề ra các giải pháp của mình cơ bản dựa vào những phản ứng và
hành động của đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp đó theo dõi các hoạt động và thị phần của đối
thủ cạnh tranh trên thị trường. Cách thức tiến hành của doanh nghiệp này như sau:

Tình hình :
- Đối thủ cạnh tranh X giảm giá bán ở Hà N ội và làm giảm thị phần của công ty 3%.
- Đối thủ cạnh tranh Y đang mở rộng mạng lưới phân phối ở thành phố Hồ Chí Minh
và làm giảm doanh số của công ty.
- Đối thủ cạnh tranh Z đang tung ra một dịch vụ mới ở Cần Thơ và khách hàng bắt đầu
dùng thử.
Giải pháp :
- Công ty sẽ đáp lại việc hạ giá của đối thủ ở Hà N ội bằng cách giảm giá sản phNm của
mình.
- Công ty sẽ tăng thêm ngân sách quảng cáo ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Công ty sẽ tăng cường chi phí giới thiệu sản phNm tại Cần Thơ.
Ưu điểm của kiểu hoạch định chiến lược này là giúp cho doanh nghiệp triển khai định
hướng chống trả. N ó rèn luyện cho những người làm marketing khả năng cảnh giác, luôn sẳn
sàng theo dõi sát sao những điểm yếu của doanh nghiệp và của đối thủ để có giải pháp bảo vệ
hay tấn công đối thủ có hiệu quả. Hạn chế là doanh nghiệp đưa ra quá nhiều giải pháp của
mình dựa trên các giải pháp của đối thủ cạnh tranh và bị chi phối bởi các giải pháp đó của đối
thủ. Kết quả là doanh nghiệp không hành động theo hướng đã định trước để hướng về mục
tiêu cơ bản là thỏa mãn tốt nhất lợi ích của khách hàng.
4.2. Doanh nghiệp tập trung vào khách hàng
Một doanh nghiệp lấy khách hàng làm trung tâm cho hoạt động của mình sẽ tập trung
nhiều hơn vào việc phát triển khách hàng khi hoạch định các chiến lược của mình.
Doanhnghiệp sẽ quan tâm đến những hướng phát triển sau đây.
Tình hình :
- Tổng thị trường có mức tăng trưởng hàng năm 5 %.
- Phân đoạn thị trường nhạy cảm với giá c
ả tăng 10 %.
- Khách hàng mua theo hợp đồng cung ứng định kỳ tăng nhanh , nhưng có xu hướng
không quan hệ lâu dài với nhà cung cấp nào.
Giải pháp :
- Công ty sẽ tìm cách giảm chi phí để giảm giá nhằm thu hút thêm các khách hàng nhạy

cảm với giá cả.
- Công ty cố gắng tranh thủ các hợp đồng có thể ký kết được, nhưng không tập trung nỗ
lực vào nhóm khách hàng không trung thành đó.
Các doanh nghiệp định hướng theo khách hàng thường có vị thế tốt hơn các doanh
nghiệp định hướng theo đối thủ cạnh tranh trong việc phát hiện các cơ hội mới và đưa ra
những chiến lược có ý nghĩa lâu dài. Qua việc theo sát khách hàng, doanh nghiệp hiểu đưọc


25
nhóm khách hàng nào và những nhu cầu mới nào của họ cần ưu tiên phục vụ trong khả năng
nguồn lực cho phép và phù hợp với mục tiêu của mình.
Trên thực tế hiện nay thì mỗi doanh nghiệp phải theo dõi cả khách hàng lẫn đối thủ cạnh
tranh. Các doanh nghiệp thường triển khai quá trình hoạt động của mình theo bốn cách định
hướng. Trong giai đoạn đầu tiên, các doanh nghiệp ít chú ý đến khách hàng cũng như đối thủ
cạnh tranh (định hướng theo sản phNm). Ở giai đoạn thứ hai, họ bắt đầu chúy đến khách hàng
(định hướng theo khách hàng). Ở giai đoạn thứ ba họ lại chú ý hơn đến đối thủ cạnh tranh
(định hướng theo đối thủ cạnh tranh). Trong giai đoạn hiện nay họ cần chú ý đến cả khách
hàng lẫn đối thủ cạnh tranh (định hướng theo thị trường).
Tóm tắt
1. N hận diện đối thủ cạnh tranh là một nhiệm vụ sống còn của các công ty kinh doanh,
Micheal Porter đưa ra mô hình năm lực lượng cạnh tranh nhằm xác định mức độ hấp
dẫn của ngành bao gồm các đối thủ thâm nhập tiềm năng, sản phNm thay thế, nhà cung
ứng, khách hàng và các đối thủ cạnh tranh trong ngành.
2. Để xác định các đối thủ cạnh tranh, chúng ta có thể sử dụng cách tiếp cận ngành hoặc
thị trường về cạnh tranh. Với cách tiếp cận ngành, các công ty trong ngành được phân
loại theo số lượng người bán, mức độ khác biệt của sản phNm, sự có mặt hoặc không
có của các rào cản thâm nhập, thay thế và xuất ngành, cấu trúc chi phí, mức độ tích
hợp dọc và mức độ toàn cầu hóa.
3. Để phát triển một chiến lược marketing hiệu quả, công ty phải nghiên cứu các đối thủ
cạnh tranh của mình cũng như những khách hàng hiện tại và tiềm năng. Công ty cần

phải xác định chiến lược, mục tiêu, điểm mạnh, điểm yếu cũng như phản ứng của họ
nhằm có những đấu pháp phù hợp. Công ty cũng cần biết cách thiết kế một hệ thống
tình báo cạnh tranh hiệu quả.
4. Việc lựa chọn các đối thủ cạnh tranh để tấn công và tránh phải dựa trên phân tích giá
trị khách hàng mà các đối thủ khác nhau hướng đến cung ứng cho khách hàng. N goài
ra, việc phân loại các đối thủ cạnh tranh mạnh so với yếu, gần hoặc xa, tốt so với xấu
cũng giúp quyết định tấn công hay nên tránh đối thủ nào.
5. Theo Michael Porter có ba cách tiếp cận cơ bản làm cơ sở cho tư duy chiến lược là dẫn
đạo về giá, tạo đặc điểm khác biệt hoặc tập trung vào một vài phân đo
ạn thị trường.
6. Tùy thuộc vào vị thế trong ngành, mỗi công ty có thể theo đuổi các chiến lược cạnh
tranh phù hợp với vị thế của nình. Với vị thế của người dẫn đạo thị trường, công ty có
thể sử dụng một trong ba chiến lược: mở rộng toàn bộ thị trường, bảo vệ thị phần hoặc
phát triển thị phần. N gười thách thức thị trường phải xác định mục tiêu chiến lược của
mình cũng như của đối thủ cạnh tranh để lựa chọn chiến lược tấn công. Chiến lược của
người theo đuổi thị trường có thể là sao chép, nhái kiểu hoặc cải tiến nhằm mục đích
luôn bám sát những tiến triển trong ngành. Cuối cùng, những người lấp lỗ trống thị
trường ch
ọn cách chuyên môn hóa vào những phân đoạn ở đó họ tránh được sự va
chạm với các doanh nghiệp lớn.

×