Tải bản đầy đủ (.docx) (145 trang)

ON THI 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.44 KB, 145 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN I: ĐỌC HIỂU VĂN BẢN I.. NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CÁC PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT. -. Tự sự. -. Miêu tả. -. Biểu cảm. -. Thuyết minh. -. Nghị luận. -. Hành chính - công vụ BIỆN PHÁP TU TỪ 1. Tu từ từ vựng – ngữ nghĩa: a. So sánh liên tưởng b. Nhân hóa c. Ẩn dụ d. Hoán dụ e. Điệp ngữ f. Chơi chữ g. Nói quá h. Nói giảm nói tránh i. Tương phản- đối lập,… 2. Tu từ ngữ âm: a. Điệp âm b. Điệp vần c. Hài thanh d. Nhịp điệu (ngắt nhịp) e. Âm hưởng (giọng điệu) 3. Tu từ cú pháp: a. Lặp cú pháp b. Phép liệt kê c. Chêm xen d. Câu hỏi tu từ CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN. -. Giải thích.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> -. Phân tích. -. Chứng minh. -. Bình luận. -. So sánh. -. Bác bỏ TỪ, CẤU TẠO CỦA TỪ VÀ NGHĨA CỦA TỪ 1. Từ (từ đơn, từ phức) 2. Nghĩa của từ 3. Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ 4. Từ loại (danh từ, tính từ, động từ,…) 5. Từ Hán Việt/ Từ thuần Việt 6. Từ đồng nghĩa 7. Từ trái nghĩa 8. Từ đồng âm 9. Thành ngữ 10 Điển tích 11. Điển cố CÂU 1. Câu chia theo cấu tạo ngữ pháp a. Câu đơn b. Câu ghép c. Câu phức 2. Câu chia theo mục đích phát ngôn(nói) a. Câu tường thuật (kể) b Câu cầu khiến (mệnh lệnh) c. Câu cảm thán d. Câu nghi vấn e. Câu phủ định f. Câu phủ định của phủ định (Khẳng định) PHONG CÁCH NGÔN NGỮ 1. PCNN SINH HOẠT 1.1. Tính cụ thể 1.2. Tính cảm xúc 1.3. Tính cá thể.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> 2. PCNN NGHỆ THUẬT 2.1. Tính hình tượng 2.2. Tính truyền cảm 2.3. Tính cá thể hóa 3. PCNN BÁO CHÍ 3.1. Tính thông tin thời sự 3.2. Tính ngắn gọn 3.3 Tính sinh động hấp dẫn 4. PCNN CHÍNH LUẬN 4.1. Tính công khai về qua điểm chính trị 4.2. Tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận 4.3. Tính truyền cảm, thuyết phục 5. PCNN KHOA HỌC 5.1. Tính khái quát trừu tượng 5.2. Tính lí trí lôgic 5.3. Tính khách quan, phi cá thể 6. PCNN HÀNH CHÍNH 6.1. Tính khuôn mẫu 6.2. Tính minh xác 6.3. Tính công vụ MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC 1. THƠ 1.1. Phân loại theo nội dung biểu hiện - Thơ trữ tình: Đi sâu vào tâm tư, tình cảm, những chiêm nghiệm của con người, cuộc đời - Thơ tự sự: Cảm nghĩ, vận động theo mạch kể chuyện - Thơ trào phúng: Phủ nhận điều xảy ra bằng lối viết đùa cợt, mỉa mai, khôi hài (Giúp học sinh nắm khái niệm nhân vật trữ tình và phân biệt nhân vật trữ tình là chính tác giả hay nhân vật trữ tình là do nhà thơ hóa thân vào nhân vật khác,..) 1.2. Phân loại theo cách thức tổ chức: (bài Luật thơ lớp 12, tập một) - Thơ cách luật: Viết theo luật thơ đã định - Thơ tợ do - Thơ văn xuôi 2.TRUYỆN 2.1. Trong văn học Dân gian.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Thần thoại - Truyền thuyết - Truyện cổ tích….. 2.2. Trong văn học Trung đại - Truyện viết bằng chữ Hán - Truyện viết bằng chữ Nôm 2.3. Trong văn học Hiện đại - Truyện ngắn - Truyện vừa - Truyện dài (tiểu thuyết) 3. KÍ 3.1. Bút kí 3.2. Hồi kí 3.3. Nhật kí 3.4. Du ký…. 4. KỊCH 4.1. Xét về nội dung của xung đột kịch: - Bi kịch - Hài kịch - Chính kịch 4.2. Xét về hình thức ngôn ngữ trình diễn - Kịch thơ - Kịch nói - Ca kịch 5. NGHỊ LUẬN 5.1. Nghị luận là một loại văn đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệt thuật, đạo đức, triết học) 5.2. Xét về nội dung bàn luận (2 thể) - Văn chính luận - Văn phê bình văn học - Thời Trung đại gồm: Chiếu, Cáo, Hịch,… - Thời Hiện đại gồm: Tuyên ngôn, Lời kêu gọi, Phê bình, bút chiến,… NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA VĂN BẢN 1. CÁC KHÁI NIỆM THƯỜNG ĐƯỢC COI LÀ THUỘC VỀ NỘI DUNG.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> 1.1. Đề tài 1.2. Chủ để 1.3. Tư tưởng của văn bản 1.4. Cảm hứng nghệ thuật 2. CÁC KHÁI NIỆM THƯỜNG ĐƯỢC COI LÀ THUỘC VỀ HÌNH THỨC 2.1. Ngôn từ 2.2. Kết cấu 2.3. Thể loại II.. MỘT SỐ BÀI TẬP THỰC HÀNH. Đề 1: Cho đoạn thơ: “Chỉ có thuyền mới hiểu Biển mênh mông nhường nào Chỉ có biển mới biết Thuyền đi đâu, về đâu Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau – rạn vỡ”. (Xuân Quỳnh – “Thuyền và biển”) 1/ Đoạn thơ được viết theo thể thơ nào? Thể thơ đó có tác dụng ra sao trong việc diễn đạt nội dung đoạn thơ? 2/ Nội dung của hai đoạn thơ trên là gi? 3/ Nêu biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng? Tác dung? Đề 2: Đọc kĩ bài thơ sau và trả lời các câu hỏi ở dưới: Trăng nở nụ cười Đâu Thị Nở, đâu Chí Phèo Đâu làng Vũ Đại đói nghèo Nam Cao Vẫn vườn chuối gió lao xao Sông Châu vẫn chảy nôn nao mạn thuyền Ả ngớ ngẩn Gã khùng điên Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người Vườn sông trăng nở nụ cười Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau Giữa đời vàng lẫn với thau Lòng tin còn chút về sau để dành Tình yêu nên vị cháo hành Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi. (Lê Đình Cánh) 1/ Xác định thể thơ? Cách gieo vần?.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 2/ Bài thơ giúp em liên tưởng đến tác phẩm nào đã học trong chương trình phổ thông? 3/ Câu thơ: “Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người” có ý nghĩa gì? Liên hệ với nhân vật chính trong tác phẩm mà em vừa liên hệ ở câu 2. 4/ Vị cháo hành được nhắc đến trong hai câu thơ cuối là một chi tiết nghệ thuật đặc sẳc trong một tác phẩm của Nam Cao. Hãy nêu ý nghĩa của hai câu thơ này với chi tiết nghệ thuật ấy? Đề 4: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới. Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành (Trích “Tây Tiến” – Quang Dũng) 1) Văn bản trên được viết theo thể thơ gì? 2) Nêu nội dung cơ bản của văn bản 3) Văn bản có sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, anh/ chị hãy liệt kê những từ ngữ đó và nêu tác dụng của chúng. 4) Chỉ ra phép tu từ nói giảm được sử dụng trong văn bản và nêu tác dụng của phép tu từ đó. Đề 4: Đọc và trả lời các câu sau Đất Nước (Nguyễn Đình Thi) Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nước chúng ta, nước những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về 1. Nêu nội dung đoạn thơ? Đoạn thơ được viết theo thể thơ gì? 2. Trong ba dòng thơ “Gió thổi rừng tre phấp phới/ Trời thu thay áo mới/ Trong biếc nói cười thiết tha”, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì? Hãy nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó. 3. Đoạn thơ từ câu “Trời xanh đây là của chúng ta” đến câu “Những buổi ngày xưa vọng nói về” có sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ. Hãy nêu tác dụng của biện pháp tu từ điệp ngữ đó. 4. Cả đoạn thơ cho ở đề bài tập trung miêu tả hình ảnh gì? Hình ảnh đó hiện ra như thế nào ?.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> 5. Hãy ghi lại cảm xúc của nhà thơ mà em cảm nhận được qua đoạn thơ trên. 6. Chữ “khuất” trong câu thơ “Nước chúng ta, nước những người chưa bao giờ khuất” có ý nghĩa gì ? Đề 6: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời mà biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… (Trích “Chí Phèo” – Nam Cao). 1) Văn bản trên nói về điều gì? 2) Tác giả đã sử dụng những kiểu câu nào? 3) Trong văn bản trên, Chí Phèo đã chửi những ai? Tiếng chửi của Chí có ý nghĩa gì? 4) Đặt tiêu đề cho văn bản trên. Đề 7: Đọc bài ca dao sau và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới Thương thay thân phận con tằm Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay con kiến li ti Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con quốc giữa trời Dầu kêu ra máu có người nào nghe. 1. Bài ca dao có những hình ảnh gì? Được khắc họa như thế nào? Có những đặc điểm gì chung. 2. Tác giả dân gian đã sử dụng biện pháp tu từ nào? Nêu ý tác dụng của việc sử dụng phép tu từ đó. 1) Chủ đề của bài ca dao là gì? 2) Anh, chị hãy đặt nhan đề cho bài ca dao trên. Đề 8: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới. ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG Có con ếch sống lâu ngày trong một cái giếng nọ. Xung quanh chỉ có vài con nhái, cua, ốc bé nhỏ. Hàng ngày, nó cất tiếng kêu ồm ộp làm vang động cả giếng, khiến các con vật kia rất hoảng sợ. Ếch cứ tưởng bầu trời bé bằng cái vung và nó thì oai như một vị chúa tể. Một năm nọ, trời mưa to làm.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> nước dềnh lên, tràn bờ, đưa ếch ra ngoài. Quen thói cũ… nó nhâng nháo đưa mắt lên nhìn bầu trời chả thèm để ý đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹp. 1) Văn bản trên thuộc loại truyện gì? 2) Khi sống dưới giếng ếch như thế nào? Khi lên bờ ếch như thế nào? 3. Ếch là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho ai? Bầu trời và giếng tượng trưng cho điều gì? 4. Câu chuyện trên để lại cho anh, chị bài học gì? Đề 10: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới: "Chưa bao giờ cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng đàn đáy buổi này. Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào, liễm kiết (kết tụ lại) cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết ra được. Nó là nỗi ủ kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống thở than của một cảnh ngộ tri âm...Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của bể chiều đứt chân sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào cỡ cuối thu dầm dề mưa ẩm và nhức nhối xương tủy. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cành... Nó là cái oan uổng nghìn đời của cuộc sống thanh âm. Nó là sự khốn nạn khốn đốn của chỉ tơ con phím" ( Trích từ Chùa đàn - Nguyễn Tuân) 1. Hãy nêu chủ đề của đoạn trích? Thử đặt nhan đề đoạn trích? 2. Trong đoạn văn có rất nhiều câu bắt đầu bằng từ "Nó"được lặp lại nhiều lần. Biện pháp tu từ được sử dụng là gì? Tác dụng của biện pháp tu từ ấy? 3. Biện pháp tu từ nào đã được sử dụng trong câu văn: "Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian" ? Tác dụng của biện pháp tu từ ấy? 4. Từ "Nó" được sử dụng trong các câu ở đoạn văn trích trên là ám chỉ ai, cái gì? Biện pháp tu từ gì được nhà văn sử dụng trong việc nhắc lại từ "Nó"? 5. Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân sử dụng rất nhiều tính từ chỉ tính chất. Anh/ chị hãy thống kê 5 từ láy chỉ tính chất. Đề 11: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu bên dưới: “... Với một tốc độ truyền tải như vũ bão, Internet nói chung, Facebook nói riêng hàm chứa nhiều thông tin không được kiểm chứng, sai sự thật, thậm chí độc hại. Vì thế, nó cực kì nguy hiểm, có thể gây ảnh hưởng xấu đến chính trị, kinh tế, đạo đức … và nhiều mặt của đời sống, có thể gây nguy hại cho quốc gia, tập thể hay các cá nhân. Do được sáng tạo trong môi trường ảo, thậm chí nặc danh nên nhiều “ngôn ngữ mạng” trở nên vô trách nhiệm, vô lương tâm và vô văn hóa… Không ít kẻ tung lên Facebook những ngôn ngữ tục tĩu, bẩn thỉu nhằm nói xấu, đả kích, thóa mạ người khác. Chưa kể đến những hiện tượng xuyên tạc tiếng Việt, viết tắt, kí hiệu đến kì quặc, tùy tiện đưa vào văn bản.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> những chữ z, f, w vốn không có trong hệ thống chữ cái tiếng Việt, làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt… Facebook kết nối thế giới ảo nhưng lại làm xói mòn và ảnh hưởng đến cách con người giao tiếp, thể hiện tình cảm. Nhiều bạn trẻ mải nói chuyện với người trên mạng mà quên giao tiếp với người thân, chỉ đắm chìm trong thế giới ảo mà thờ ơ, dửng dưng với mọi người, không muốn và không biết cách giao tiếp, thậm chí mất niềm tin nơi cuộc đời thực, có khi dẫn đến mặc cảm trong cô đơn, thu mình lại. Nhiều ông bà, cha mẹ thấy cô đơn khi con cháu họ chỉ “ôm” điện thoại, laptop…” (Trích “Bàn về Facebook với học sinh”, Lomonoxop. Edu.vn>Tin tức) a) Đoạn văn bản trên được viết theo phương thức biểu đạt nào là chính? b) Đoạn văn bản đề cập đến những tác hại nào của mạng xã hội Facebook? c) Bên cạnh tác hại khó lường, Facebook cũng có những tác dụng hữu ích. Anh/chị hãy tưởng tượng mình là tác giả bài viết trên để viết tiếp một đoạn văn (khoảng 5 – 7 câu) bàn về việc sử dụng mạng xã hội Facebook sao cho hiệu quả. Đề 12: Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu 1 - 4: “Ai có thể đếm được đã bao năm tháng, bao đời người đã đi qua mà cái Tết về đại thể vẫn là một? Tết gia đình. Tết dân tộc. Tết đậm đà phong vị cộng đồng, quãng giải lao giữa hai chặng đường vất vả, gian nan. Vẫn là ngày hăm ba cúng ông Táo, đêm ba mươi cúng tất niên, hái cành lộc. Vẫn là ngày mồng một he hé cửa đón đợi người xông nhà, dặn dò nhau ý tứ giữ gìn kiêng cữ cho khỏi dông cả năm dài. Ngày đầu xuân, cơm nguội không rang để cho đời khỏi khô kháo, nhà không quét cho tài lộc khỏi thất tán. Vẫn là mùi hương hoa ngan ngát nơi bàn thờ ấy. Vẫn là làn không khí mới mẻ, hơi bỡ ngỡ, trịnh trọng ấy. Vẫn những gương mặt cởi mở, chan hoà giữa khung cảnh trời đất tươi đẹp vì được niềm phấn chấn của con người thâm nhập giao hoà.” ( Trích Mùa lá rụng trong vườn-Ma Văn Kháng) Câu 1: Đoạn văn trên khẳng định điều gì? (0.25 điểm) Câu 2 : Biện pháp nghệ thuật được sử dụng nhiều nhất trong đoạn văn trên là gì? Nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó? (0.5 điểm) Câu 3 : Cụm từ hai chặng đường vất vả, gian nan là để chỉ điều gì? (0.5 điểm) Câu 4 : Đặt tiêu đề cho đoạn văn trên (0.25 điểm) Đọc đoạn thơ sau đây và trả lời câu hỏi từ Câu 5 đến Câu 8: Bão bùng thân bọc lấy thân Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Thương nhau tre không ở riêng Lũy thành từ đó mà nên hỡi người Chẳng may thân gãy cành rơi Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng Nòi tre đâu chịu mọc cong Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường Lưng trần phơi nắng phơi sương Có manh áo cộc tre nhường cho con (Tre Việt Nam – Nguyễn Duy) Câu 5. Hãy xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn thơ trên? (0,25 điểm) Câu 6. Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên. (0,5 điểm) Câu 7. Nêu 2 biện pháp tu từ tác giả sử dụng chủ yếu trong đoạn thơ trên. (0,5 điểm) Câu 8. Hai dòng thơ: “Lưng trần phơi nắng phơi sương/ Có manh áo cộc tre nhường cho con” biểu đạt vấn đề gì? (0,25 điểm) Đề 13: Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4: “ …Đi dưới chân những ngọn đồi dốc thoải dọc theo triền núi Chúa xanh thăm thẳm vào một buổi chiều ửng tím màu mây chàm. Từ đây nhìn về hướng Sông Thu Bồn, khu đền tháp Mỹ Sơn mờ tỏ trong những vòm cây như biết trôi đi cùng mây bay. Không biết có phải từ vọng tưởng mà ra, hay là gió Mỹ Sơn là thứ gió chất chứa đầy những tiếng vọng, bỗng dưng, chẳng can cớ gì đến thơ Quang Dũng, tôi lại ngâm tràn thơ ông như thi thố cùng âm vang gió núi “Một chút linh hồn nhỏ. Đi về chân núi xanh. Chiều tím về chầm chậm. Hoàng hôn nghe một mình.” Quả là tôi đang một mình nghe hoàng hôn Mỹ Sơn chầm chậm gieo vãi nên một thứ âm thanh xốn xang có sức vang hưởng đánh thức từng quá khứ… … Hoàng hôn đã sẫm rồi mà cái màu mây chàm như chưa chịu lặng yên với tháp. Có vẻ như trên những lối mòn vắng vẻ này, đang có những bước chân xưa trở về. Tiếng thơ mơ hồ trong gió, tranh vẽ mơ hồ trong mây bay, phút giây ấy tôi ngẫu hứng diễn dịch ra : “ Hoàng hôn nhuộm rồi, Mỹ Sơn lẫn vào sương khói. Áo chàm bay mây thấp thoáng la đà. Tôi lẫn vào em, em lẫn vào hoang vắng. Cây cỏ và người muôn điệu Apsara” !” (Mỹ Sơn “nhớ và quên”, Nguyễn Nhã Tiên) Câu 1. Đoạn trích trên thuộc thể loại gì? Câu 2. Đoạn trích trên có sự kết hợp của các phương thức biểu đạt nào? Câu 3. Nội dung chính của đoạn trích là gì?.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Câu 4. Hãy cho biết giá trị của những câu thơ được tác giả dẫn ra (những câu được in nghiêng) trong đoạn trích. Đọc đoạn thơ sau đây và trả lời các câu hỏi từ Câu 5 đến Câu 8: “… Ai chả biết chán đời là phải, Vội vàng chi đã mải lên tiên. Rượu ngon, không có bạn hiền, Không mua, không phải không tiền không mua. Câu thơ nghĩ đắn đo không viết, Viết đưa ai, ai biết mà đưa. Giường kia treo những hững hờ, Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn ! Bác chẳng ở, dẩu van chẳng ở; Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương, Tuổi già, hạt lệ như sương, Hơi đâu ép lấy hai hàng chưá chan ?” (Khóc Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Ngữ văn 11, tập 1, NXB Hà Nội 2002) Câu 5. Đoạn trích trên thuộc thể thơ gì? Câu 6. Từ không trong câu thơ Không mua, không phải không tiền không mua có phải là một sự lặp lại ngẫu nhiên hay không? Vì sao? Câu 7. Chủ đề của đoạn thơ? Câu 8. Qua đoạn thơ, anh (chị) rút ra bài học gì?.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> PHẦN II: NGHỊ LUẬN XÃ HỘI I.. NGHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN. 1/NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG , ĐẠO LÝ Đặt Từ khóa cho 3 phần theo kết cấu của bài văn, như sau : a. Mở bài: Gợi – Đưa – Báo + Gợi : là Gợi ý ra vấn đề cần nghị luận; + Đưa : là Đưa vấn đề cần nghị luận ra; + Báo : là Báo phải làm gì về vấn đề đưa ra nghị luận ( có tính chuyển ý ) b. Thân bài : Giải – Phân – Bác – Đánh + Giải: Giải thích rõ nội dung tư tưởng, đạo lí ( bằng cách giải thích các từ ngữ,các khái niệm…) + Phân:Phân tích các mặt đúng của tư tưởng, đạo lí (dùng dẫn chứng từ cuộc sống và văn học để chứng minh) + Bác: Bác bỏ những biểu hiện sai lệch liên quan đến tư tưởng, đạo lí (dùng dẫn chứng từ cuộc sống và văn học để chứng minh) + Đánh: Đánh giá ý nghĩa tư tưởng, đạo lí đã nghị luận c. Kết bài : Tóm – Rút – Phấn + Tóm : Tóm tắt, khái quát lại vấn đề đã nghị luận + Rút : Rút ra ý nghĩa, bài học nhận thức từ tư tưởng, đạo lí; + Phấn : Phấn đấu, suy nghĩ riêng của bản thân về vấn đề nghị luận; 2/NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG Đặt Từ khóa cho 3 phần theo kết cấu của bài văn, như sau : a. Mở bài: Gợi – Đưa – Báo + Gợi : là Gợi ý ra vấn đề cần nghị luận; + Đưa : sau khi gợi thì Đưa vấn đề cần nghị luận ra; + Báo : là Báo phải làm gì về vấn đề đưa ra nghị luận ( có tính chuyển ý ) b. Thân bài : Thực – Nguyên – Hậu – Biện + Thực : nêu lên Thực trạng hiện tượng đời sống đưa ra nghị luận; + Nguyên nhân: là Nguyên nhân nào xảy ra hiện tượng đời sống đó ( nguyên nhân khách quan và chủ quan ) + Hậu : là Hậu quả của hiện tượng đời sống mang lại, gồm có hậu quả tốt và hậu quả xấu; + Biện pháp : là Biện pháp tác động vào hiện tượng đời sống để ngăn chặn (nếu gây ra hậu quả xấu) hoặc phát triển (nếu hậu quả tốt) c. Kết bài : Tóm – Rút – Phấn.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> + Tóm : Tóm tắt, khái quát lại vấn đề đã nghị luận + Rút : Rút ra ý nghĩa, bài học từ hiện tượng đời sống đã nghị luận + Phấn : Phấn đấu, bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống đã nghị luận; 3/ THAM KHẢO : Dẫn chứng cho nghị luận xã hội 3.1.Những tấm gương dũng cảm hi sinh trong lịch sử -Anh hùng Phùng Văn Khầu: sinh ra và lớn lên ở Trùng Khánh- Cao Bằng. Chàng thanh niên người Tày bỏ nhà tham gia quân đội khi chưa tròn 16 tuổi. Vào pháo binh, ông được biên chế vào Binh chủng Pháo binh E675. Những ngày tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, theo yêu cầu của nhiệm vụ, khẩu đội của Phùng Văn Khầu phải vào trận địa trước. Chỉ với 9 người, ông và các đồng chí phải chiến đấu gấp ba bình thường. Đồng đội lần lượt hi sinh, chỉ còn mình ông, ông đã làm thay công việc của cả tám người. Trận đánh ấy, một mình ông tiêu diệt được 5 khẩu pháo 105ly, 6 khẩu đại liên, 4 lô cốt, 1 kho đạn của địch. -Anh hùng La Văn Cầu: Khao khát được giải phóng đất nước, La Văn Cầu mới 16 tuổi khai tăng lên 18 tuổi để được vào bộ đội. Anh đã tham gia chiến đấu 29 trận trong các cương vị chiến sĩ và chỉ huy. Tấm gương La Văn Cầu cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công và thành lá cờ đầu trong phong trào thi đua sử dụng bộc phá công đồn, một hình thức chiến thuật mới quân đội ta mở ra từ chiến dịch Biên giới 1950. -Anh hùng Thái Văn A: ông quê ở quảng Bình. Trong kháng chiến chống Mĩ, là chiến sĩ trinh sát trên đảo Cồn Cỏ, nơi bị máy bay và tàu chiến đánh phá ác liệt. Chân đài quan sát bị gãy, người bị thương nhưng Thái Văn A vẫn không rời vị trí, tiếp tục quan sát, theo dõi xác định vị trí mục tiêu cho đơn vị bắn. Ông đã góp phần cùng đơn vị bắn rơi 20 máy bay Mĩ và xác định vị trí có bom chưa nổ để công binh xử lí. -La Thị Tám: vào bộ đọi năm 1967. Chị luôn đứng trên một quả đồi cao, phía trái của ngã ba Đồng Lộc vào những lúc máy bay Mĩ ném bom để đém số lượng bom. Suốt 200 ngày đêm ròng rã, chị đã đếm được và cắm tiêu 1205 quả bom. -Phùng Ngọc Liêm: Tham gia Cách mạng, anh được Ban chỉ huy Biệt động xã Bạc Liêu phân công nhiệm vụ vừa trinh sát vừa đánh địch. Năm 1968, khi bị địch tập trung vây bắt, anh đã dũng cảm giật kích mìn để tiêu diet địch và đã anh dũng hi sinh. 3.2. Những tấm gương khoa học kiên trì vượt khó để đạt được thành công -Thomas Alva Edison: Ông bị điếc, không có khả năng học tập, năm 12 tuổi mới biết đọc. Khả năng viết lách của ông cũng rất kém ngay cả khi đã có những phát minh lớn của thời đại. Edison có hơn 1000 phát minh về những đồ vật trong cuộc sống: bóng đèn, máy ghi âm, máy hát, tàu điện… -Albert Einstein: Ông không có khả năng học tập, luôn xếp cuối lớp, có thể bị hội chứng Aspergers Syndrome một dạng của tự kỉ. Ông diễn đạt ý tưởng kém, 3 tuổi chưa biết nói, 7 tuổi mới biết đọc..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Tuy vậy ông là tác giả của thuyết tương đối, được coi là nhà bác học vĩ đại nhất mọi thời đại. -Stephen Hawking: Bị liệt thần kinh vận động (ALS), kèm theo teo cơ. Ông phải dùng xe lăn và máy tổng hợp giọng nói dựa trên máy tính để làm việc và giảng dạy. Ông là một trong những nhà vật lý thiên văn lớn nhất thời hiện đại, phát triển nhiều lý thuyết về nguồn gốc vũ trụ. Tác giả nhiều cuốn sách phổ biến khoa học nổi tiếng. -Newton: Có triệu chứng của căn bệnh Aspergers một chứng tâm thần phân liệt. Ông vô cùng khó khăn khi phải diễn đạt một điều gì đó. Đến 50 tuổi, ông trở nên bị suy sụp thần kinh nặng, hoang tưởng và thần kinh không ổn định. Nhưng vượt lên tất cả ông là một nhà bác học đại tài, là người khai sinh thuyết “vạn vật hấp dẫn”. -Michael Faraday: sinh ra trong một gia đình thợ rèn nghèo. Cả nhà phải sống lay lắt nhờ vào sự cứu trợ của cơ quan từ thiện. Michael Faraday đã nỗ lực học tập và trở thành một nhà khoa học lớn. Ông là người đầu tiên phát minh ra hiện tượng cảm ứng điện từ. 3.3. Những tấm gương vượt khó thành công ở xã hội đương đại -Lê Minh Tâm sinh năm 1990 ở Tây Ninh. Từ nhỏ đã đi bán vé số cùng những người anh bị mù để kiếm sống. Tâm đã vượt lên khó khăn để trở thành sinh viên năm nhất khoa văn trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. -Dù mới 10 tuổi nhưng Ngân Thị Đòa ở Thanh Hóa đã có ba năm ở một mình cùng với hai em để nuôi ước mơ biết chữ. Nhà xa, sợ bố mẹ không cho đi học, cô bé xin bố cho dựng một căn lều cạch trường nơi hai em đang theo học để bố mẹ không phải đưa mấy chị em đi học. Dù khó khăn, vất vả nhưng năm nào cô bé cũng đạt học sinh tiên tiến của trường. -David Peterson: 53 tuổi là thống đốc khiếm thị đầu tiên ở Mĩ. Khi 3 tháng tuổi, ông bị nhiễm trùng tai và bị ảnh hưởng đến thần kinh thị giác. Nhưng ông từ chối học chữ Braille, không sử dụng gậy hay chó dẫn đường mà cố gắng sống, học tập, làm việc như người bình thường. Ông tốt nghiệp loại ưu Đại học Columbia và trường Luật của Đại học Hofstra. 3.4. Những tấm gương sự đồng cảm, chia sẻ trong cuộc sống -Trần Hữu Hiệp: sinh năm 1988 tại Thanh Hóa. Trong vụ tàu mang số hiệu H29-BP tại Thành Phố Hồ Chí Minh, chàng thanh niên 25 tuổi không ngại nguy hiểm đối mặt với sóng dữ đã cứu sống năm người. Anh còn nhường chiếc áo phao mình đang mặc cho người phụ nữ đang đuối sức và rồi sau đó anh đã bị dòng nước dữ cuốn chìm. -Cô Minh Trần là chủ nhiệm mái ấm Minh Trần. Cho biết trong một lần đi làm từ thiện thấy trẻ nhỏ lang thang, cơ cực kiếm sống mà thấy đau xót. Cô đã quyết định lập mái ấm để giúp đỡ những mảnh đời cơ nhỡ. -Chị Bảy Thuận đã dành hơn 10000m2 đất tại huyện Củ Chi để làm nơi cưu mang các trẻ em cơ nhỡ, người già neo đơn và người không việc làm. Mỗi năm chị xây cất 40 căn nhà cho bà con nghèo huyện.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Hồng Ngư- Đồng Tháp. -Sư cô thích nữ Huệ Hương đã chăm sóc, nuôi dưỡng hơn 200 mảnh đời bất hạnh. Đó là những trẻ em mồ côi, người già cô đơn không nơi nương tựa và người tàn tật. -Ở nơi bản Cuôi nghèo khó thuộc tỉnh Quảng Trị, Thượng úy Nguyễn Xuân Thuyết và Thiếu úy Nguyễn Hữu Cường thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng Quảng Trị ngày qua ngày vượt 50 con sông suối với hàng chục km để dạy học, xóa mù chữ cho học sinh con em đồng bào địa phương. 3.5. Những vụ tiêu điểm hủy hoại môi trường -Chi nhánh Lâm trường Bố Trạch đã chặt hạ khá nhiều gỗ và sử dụng thuốc diệt cỏ làm trơ trụi hàng trăm ha rừng đầu nguồn. Họ ngấm ngầm chặt hạ những cây gỗ quí có đường kính khoảng 50- 70 cm đưa đi tiêu thụ và hưởng lợi. -Công ty Cổ phần Sonadezi Long Thành- Đồng Nai xả thải gây ô nhiễm ở rạch Ba Chèo. -Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương Mại- Cao su Liên Hiệp (Củ Chi- Thành phố Hồ Chí Minh) có hệ thống xử lí nước thải công suất 1800m3/ ngày đêm. Nhưng chỉ một phần nước thải được xử lí, số còn lại chảy thẳng ra rạch Vàm Sấu. Để tránh mất chi phí xử lí chất thải nguy hiểm, công ty còn không xây dựng kho, bãi lưu trữ chất thải nguy hiểm mà được đổ thẳng ra bãi đất phía sau công ty. - Khu công nghiệp Thụy Vân (Việt Trì- Phú Thọ) mỗi ngày xả thẳng ra môi trường hàng nghìn mét khối nước thải chưa qua xử lí. Không ai khác, người hứng chịu là người dân sinh sống dọc dòng sông từ khu công nghiệp chảy ra sông Hồng. -Đối tượng hủy hoại hơn 2,7 ha rừng: Phạm Văn Danh đã dùng cưa lốc chặt phá 2,7 ha rừng, giá trị thiệt hại về lâm sản là hơn 115 triệu đồng, giá trị thiệt hại về môi trường là 345 triệu đồng. 3.6. Lối sống buông thả và hậu quả của nó -Britney Spears: giống như nhiều ca sĩ nổi tiếng khác, Britney khởi đầu bằng việc tham gia các sâu truyền hình dành cho thiếu nhi. Ở lứa tuổi teen, cô được coi là thành công nhất và trở thành công chúa nhạc pop. Nhưng đến năm 2007, cô dính vào hang loạt scandal rồi cạo đầu đã gây ảnh hưởng đến sự nghiệp. -Miley Cyrus: đã dính vào hàng loạt scandal tai tiếng trong năm 2013. Từ cách ăn mặc, cách biểu diễn đã khiến công chúng phản đối dữ đội. -Justin Bieber: dính vào scandal và những cú trượt dài. Nối tiếp là những nghi án “đập đá”, nghiện “cỏ”. Sau đó người ta luôn thấy Justin Bieber có mặt ở hộp đêm và ra về khi đã say xỉn. -Amanda Bynes: nổi danh khi còn là diễn viên tuổi teen. Thế nhưng sau khi tuyên bố giã từ sự nghiệp năm 2010, Amanda tụt dốc thê thảm với những scandal về lối sống buông thả, có vấn đề về thần kinh, rắc rối với pháp luật như hút cần sa, nói chuyện điện thoại khi lái xe, đánh võng vào xe cảnh sát. -Cầu thủ Huy Hoàng bị phát hiện điều khiển ô tô trong tình trạng không tỉnh táo, có biểu hiện phê.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> thuốc. 3.7. Những vụ tiêu điểm gây xôn xao trong cộng đồng -Vụ đại án tham nhũng Vinalines: với hai án tử hình cho bị cáo Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc với hành vi cố ý làm trái các qui định của nhà nước về quản lí kinh tế gây hậu quả cho nền kinh tế đất nước, ảnh hưởng đến đường lối, chính sách của Đảng.Với vai trò chủ mưu, họ kí phê duyệt mua ụ nổi 83M gây thiệt hại 366,93 tỉ đồng. Mỗi người tham ô hơn 10 tỉ đồng. -Vị bác sĩ thẩm mĩ vứt xác phi tang. Đây là hành vi dã man, đó là bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường làm chết bệnh nhân Nguyễn Thị Thanh Huyền rồi phi tang ném xác nạn nhân. Vụ việc xảy ra ngày 19/10 vừa qua. -Vụ án 10 năm ngồi tù oan sai. Ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang bị kết án tù chung than. Cách đây 10 năm ở Bắc Giang xảy ra vụ án giết người, nạn nhân là chị Nguyễn Thị Hoan và ông Chấn bị tuyên án. Ngày 25/10/2013, Lý Nguyên Chung là hung thủ đã ra đầu thú và ông Chấn với 10 năm tù oan được thả. -Vụ bảo mẫu hành hạ dã man trẻ mầm non trên địa bàn Thủ Đức bị khởi tố với chủ cơ sở mầm non tư thục Phương Anh- Lê Thị Đông Phương và Nguyễn Lê Thiên Lý bị bắt về tội hành hạ người khác. Họ đã thừa nhận toàn bộ hành vi đánh đập, hăm dọa một cách tàn nhẫn đối với ít nhất 5 cháu tại cơ sở mầm non của mình. -Vụ chặt tay cướp SH: Hồ Duy Trúc- 20 tuổi đã lĩnh mức án tử hình, Trần Văn Luông- 25 tuổi lĩnh án tù chung thân về tội cướp tài sản. Trúc và đồng bọn thực hiện hành vi một cách tổ chức, sử dụng hung khí nguy hiểm, lợi dụng lúc trời tối và vắng người để thực hiện hàng loạt vụ cướp gây xôn xao dư luận, ảnh hưởng đến an ninh trật tự. 4. THAM KHẢO : Dẫn chứng cho nghị luận xã hội (tiếp theo) 4.1, Bill Gates sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hoa Kì. Từ nhỏ ông đã say mê toán học, từng đậu vào nghành luật của trường đại học Harvad nhưng với niềm say mê máy tính ông đã nghỉ học và cùng với một người bạn mở công ty Microsoft. Vượt qua nhiều khó khăn ông đã trở thành người giaìu nhất hành tinh và hiện nay ông giành 95% tài sản của mình để làm từ thiện -> Thành công nhờ sự tự học và niềm đam mê công việc. 4.2, Thuở thiếu thời Picaso là một hoạ sĩ vô danh, nghèo túng ở Pa ris. Đến lúc chỉ còn 15 đồng bạc, ông quyết định đánh canh bạc cuối cùng. Ông thuê sinh viên dạo các cửa hàng tranh và hỏi " Ở đây có bán tranh của Picaso không?". Chưa đầy một tháng tên rtuổi của ông đã nổi tiếng khắp Paris, tranh của ông bán đước và nổi tiếng từ đó -> Nếu không tự tạo cơ hội cho chính mình thì chẳng bao giờ ta có cơ hội cả. 4.3, Hàng triệu năm dài con người sống trong phấp phỏng lo sợ bởi sấm sét kinh hoàng. Franclin nhà bác học Mĩ đã dũng cảm thực hiện thí nghiệm làm cột thu lôi. Công việc đó có thể gây ra cái chết.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> cho ông bất cứ lúc nào. Sau nhiều năm đương đầu với sấm sét, năm 1752 Franklin đã thành công-> Sức mạnh của lòng dũng cảm. 4.4, Niu- tơn nhà toán học, vật lí học, cơ học, thiên văn học vĩ đại người Anh. Sinh ra thiếu tháng là một đứa trẻ yếu ớt, thường phải tránh những trò chơi hiếu động của bạn bè. Do đó ông đã tự tạo ra những trò chơi cho mình và trở thành người tài năng -> Những thiếu thốn của bản thân không thể thắng nổi sức mạnh của nghị lực. 4.5, Vladimir Putin- tổng thống Nga, được tạp chí Times( Mĩ) bình chọn là " nhân vật nổi bật của năm 2007", bằng sự lãnh đạo khôn ngoan và tài tình của mình ông đưa nước Nga trở thành một cường quốc trên thế giới. Uy tín của Putin và cả nước Nga đã được không chỉ Mĩ, Châu Âu mà cả thế giới phải tôn trọng -> Uy tín, danh dự là điều quan trọng tạo nên giá trị con người. 4.6, O. Henry ( 1862- 1910)- nhà văn trứ danh của nước Mĩ. Ông chưa từng được hưởng bất cứ sự giáo dục nào, hay bị bệnh tật dày vò, thuở nhỏ đi chăn bò, chăn dê, làm thuê. Từng làm kế toán nhưng bị tình nghi là ăn trộm tiền nên bị bắt bỏ tù. Sau khi ra tù ông bắt đầu viết truyện ngắn và trở nên nổi tiếng, tác phẩm của ông được nhiều người nghiên cứu và trở thành sách bắt buộc phải học ở đại học -> Thành công không có nghĩa là chưa từng thất bại. 4.7, Thầy Lí Quế Lâm (42tuổi), giáo viên trường tiểu học làng Nhị Bình- Tứ Xuyên. Suốt 19 năm dẫn học trò đếnd trường, vượt qua 5 chiếc thang gỗc dựng đứng trên vách núi cheo leo. Thầy trở thành một trong 10 nhân vật cảm động của Trung Quốc năm 2008 -> Tình yêu và sự tận tuỵ làm nên một nhân cách lớn. 4.8, Sinh ra trong một gia đình nghèo ở thành phố Odense, cuộc sống nghèo khổ, không lúc nào có đủ bành mì để ăn. Đi học lại luôn bị bạn bè chê cười vì ngoại hình xấu xí. Vượt qua tất cả với ước mơ trở thành nghệ sĩ, Andecxen đã lang thang lên thành phố Copenhaghen, đóng những vai kịch tầm thường, làm quét dọn. Cuối cùng nghị lực và tình yêu nghệ thuật đã giúp ông thành công. Những câu chuyện của ông mãi mãi tồn tại trong tâm trí độc giả, mang lại cho trẻ thơ niềm hạnh phúc, thắp lên những ước mơ đẹp -> Nghị lức và tình yêu nghệ thuật là những nhân tố để thành công. 4.9, Walt Disney là con thứ tư trong một gia đình nông dân nghèo, cha nghiện rượu, bài bạc. Sáu tuổi đã phải ra đồng làm việc. Mê vẽ nhưng vì không có tiền nên ông dùng than để vẽ lên giấy vệ sinh. Sau này cái tên Ư. Disney đã trở nên nổi tiếng thế giới với những bộ phim hoạt hình đỉnh cao. W. D đã từng nói về bốn điều làm nên cuộc đời mình: Tin tưởng: Tin vào bản thân mình. Suy nghĩ: Suy nghĩ về những giá trị mà mình muốn có. Mơ ước: mơ về những điều có thể đến dựa trên niềm tin vào bản thân và những giá trị của chính mình. Can đảm: can đảm để biến ước mơ thành hiện thực, dựa trên những niềm tin vào bản thân và những giá trị của chính mình..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> 4.10, Chieens dịch The Earth Hours( giờ trái đất) do quỹ bảo tồn thiên nhiên quốc tếtổ chức đã nhận được sự hưởng ứng của 62 quốc gia, hướng đến con số 1 tỷ người trên 1000 thành phố tham gia. Tất cả đã tắt đèn vào ngày thứ bảy cuối cùng của thánh ba lúc 20h30' để ủng hộ các hoạt động nhằm giảm thiểu những nguy cơ của sự biến đổi khí hậu toàn cầu - > mỗi chúng ta cần có những hành động thiết thực vì môi trường. 4.11, Là một trong số ít người Việt Nam nhiễm HIV/ AIDS dám công khai thân phận- Phạm Thị Huệ quê ở Hải Phòng đã được tạp chí Times bầu chọn là anh hùng Châu Á. Biết mình và chồng bị nhiễm bệnh nhưng chị đã chiến thằng bản thân, đóng góp sức lực còn lại cho cuộc đời. 2/ 2005 chị trở thành viên Liên Hợp Quốc. -> Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất. 4.12, Chu Văn An (1292- 1370)- nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối đời Trần, nổi tiếng cương trcj không cầu danh lợi. Ra làm quan vào đời Trần Dụ Tông (đầu thế kỉ XIV), chính sự suy đồi, nịnh thần lũng đoạn, ông dâng sớ xin chém bảy nịnh thần ( thất trảm sớ) nhưng không được chấp thuận. Ông treo ấn từ quan về quê dạy học, viết sách. Ông không vì trò làm quan to mà dựa dẫm, luôn thẳng thắn phê bình những trò thiếu lễ độ -> Tấm gương về lối sống trung thực, bất chấp khó khăn vẫn đấu tranh cho lẽ phải…. 4.13.Bốn lần bị bắt, 31 tháng bị cầm tù nhưng Mohandar Gandhi (1869-1948) vẫn kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của người Ấn. Trước khi chết do bị ám sát, ông nói: “Dù chỉ còn một giây tồn tại nhưng tôi cũng phải thực hiện cho bằng được nó, bởi đó là khát vọng của dân tộc.” Ông được nhân dân Ấn tôn sùng như một vị thánh, họ gọi ông là Mahatma – Đấng vĩ đại. => Tình yêu nước và tình yêu con người mạnh hơn cả cái chết. 4.14. Hồ Chí Minh ( 1890 -1969) Một trong những điểm đặc biệt của Hồ Chí Minh chính là sự giản dị, khiêm tốn, đã được cả thế giới ca ngợi và khâm phục. Một ngôi nhà sàn đơn sơ với các đồ đạc đủ dùng ở mức tối thiểu và cần thiết nhất. bộ bà ba nâu, bộ ka ki vàng và đôi dép cao su… Là lãnh tụ nhưng Người khiêm tốn với tất cả mọi người, cả người già và người trẻ. Đối với những người giúp việc thường xuyên bên mình, Bác thường gọi hết sức thân mật và trân trọng là cô, chú như những người trong gia đình. Đối với các vị nhân sĩ, trí thức khi tiếp chuyện Bác luôn thưa gửi rất lễ độ và đúng mực. Khi Quốc hội đề nghị tặng Bác Huân chương cao quý nhất của Nhà nước là Huân chương Sao Vàng, Người khiêm tốn từ chối và nói: Miền Nam còn chưa được giải phóng, khi nào thống nhất Đất Nước xin Quốc hội ủy quyền cho đồng bào miền Nam được thay mặt Quốc hội trao tặng thì tôi xin nhận… Trong Di chúc Người vẫn căn dặn lại “sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> 4.15. Người Nhật và vẻ đẹp của một phong cách văn hóa: Hồi World Cup năm 2002, tổ chức tại Hàn Quốc và Nhật Bản. Rất nhiều fan từ châu Âu sang Nhật xem bóng đá. Trong các sân vận động, sau khi trận đấu kết thúc, người xem ra về, nhưng người Nhật nán lại nhặt các vỏ đồ hộp, chai, lọ, rác vứt rải rác trong sân vận động, để mang ra thùng rác bên ngoài. Nhiều fan Tây thấy xấu hổ, cũng quay lại, học người Nhật, nhặt các vỏ chai lọ, đồ hộp, bao giấy mà mình vứt lại, mang ra thùng rác. Ý thức công cộng của người Nhật quả là đáng khâm phục. 4.16. Những tấm gương sáng trong lịch sử coi Tình thương là hạnh phúc của con người: + Vua Trần Nhân Tông trong một chuyến đi thăm quân sĩ đã cởi áo bào khoát cho một người lính giữa đêm đông lạnh giá. + Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng vào sinh ra tử với tướng sĩ dưới quyền trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, giành thắng lợi vẻ vang cho dân tộc. + Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi suốt đời đeo đuổi lí tưởng vì dân vì nước, gác sang một bên những oan ức, bất hạnh của riêng mình. + Người thanh niên Nguyễn Tất Thành xuất phát từ lòng yêu nước thương dân trong tình cảnh nô lệ nên đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Phương châm sống đúng đắn của Người là: Mình vì mọi người. Bác luôn lấy tình yêu thương con người làm mục đích và hạnh phúc cao nhất của cuộc đời mình. 4.17. Trong văn chương cũng như trong thực tế lịch sử có rất nhiều gương sáng hành động, thể hiện phẩm chất cao quý của con người: + Chàng Thạch Sanh: thật thà, dũng cảm, giàu lòng thương người, sẵn sàng cứu giúp kẻ bất hạnh. + Cậu bé làng Gióng: đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi, đem lại thái bình cho Đất Nước. + Từ Hải trong Truyện Kiều: cứu Thúy Kiều thoát khỏi cuộc sống lầu xanh, giúp nàng thực hiện công lí – báo ân báo oán. + Lục Vân Tiên: đánh tan bọn cướp cứu tiểu thư Kiều Nguyệt Nga. + Hai Bà Trưng: khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược nhà Hán. + Nguyễn Trãi: thực thi lời cha dạy theo phò tá Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, làm nên chiến thắng oanh liệt ngàn năm. + Anh hùng áo vải Nguyễn Huệ: đánh tan hai hơn hai mươi vạn quân Thanh đem lại cuộc sống thanh bình cho dân. + Chủ tịch Hồ Chí Minh: ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi xiềng xích nô lệ, giành độc lập tự do, thành lập nên nước VNDCCH..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> 4.18. Trong lịch sử của dân tộc có biết bao tấm gương về sống đẹp: Trần Hưng Đạo, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Trần Quốc Toản, chị Võ Thị Sáu, anh Kim Đồng, anh Nguyễn Văn Trỗi,...vĩ đại hơn cả là Bác Hồ kính yêu. Lại nhớ đến hơn 30 năm trước đây, người con gái Hà Nội Đặng Thuỳ Trâm xung phong vào chiến trường Quảng Ngãi gian khổ bản thân chịu những thiệt thòi nhưng chị vẫn dành một tình thương bao la cho những người quanh chị. Bất lực trước một ca mổ, chị đau đớn, lo lắng cho người em nuôi giờ này đang đè nặng tang tóc, đêm chị mất ngủ. Sống đẹp là như thế 4.19. Có một nhà thơ với bút danh "Hoàn Lương" từng nửa đời làm tướng cướp trên những chuyến tàu Đà Nẵng - Nha Trang, làm đại gia buôn lậu xảo quyệt, thi nhân ấy tên là "Nguyễn Đức Tân" (Đông Mỹ - Thanh Trì - Hà Nội). Nửa đời làm việc thất đức nhưng trong trại giam được nghe lời khuyên nhủ tâm tình của giám thi, như người tỉnh cơn mê anh tâm sự: “Đêm đêm nghe tiếng vọng vang Tiếng ngoài xã hội rộn ràng trong đêm Đã buồn lại thấy buồn thêm Khát thèm cuộc sống ấm êm ngoài đời” Và cuộc đời của tên tướng cướp ấy rẽ sang một ngả khác khi mãn hạn tù, anh trở thành một nhà thơ, một thành viên của đội Công an xã. Khi được hỏi làm thế nào mà cá sự thay đổi lớn trong anh như vậy, tướng cướp, thi nhân ấy trả lời nhờ có sự bao dung, tình yêu của người vợ hiền và của tất cả mọi người. 4.20. Có được những thành công trong cuộc sống chính là biết đi lên từ những thất bại + Pi ta go từ một cậu bé học kém toán đã trở thành nhà toán học, + Nước Nhật đi lên từ đại bại trong chiến tranh thế giới thứ hai, từ đổ nát hoang tàn do hai trái bom nguyên tử ném xuống Hirôsima và Naquasaki và trở thành một cường quốc – Ngày nay, đặc biệt là qua thảm họa sóng thần và động đất ở Nhật Bản vừa qua, trong cái nhìn của toàn thế giới, không còn là hình ảnh những tên phát xít Nhật tàn bạo đáng ghét mà là một dân tộc Nhật với những nét văn hóa đáng kính trọng … 4.21. Con người sẽ trở nên mạnh mẽ khi nhận thức, kiểm điểm bản thân một cách nghiêm túc, trung thực : Xô- cơ - rat bị tật nói ngọng, ông ý thức về hạn chế của mình nên luyện nói , tập diễn thuyết trước sóng biển và trở thành nhà hùng biện – Mạc Đĩnh Chi có ngoại hình xấu xí, đi thi suýt bị đánh hỏng đã dâng bài phú về hoa sen và được đỗ Trạng nguyên - sau đi sứ sang Trung Quốc được nễ trọng và được phong là Lưỡng quốc Trạng nguyên…. 4.22. Nick Vujicic (1982) là một nhà diễn thuyết truyền động lực người Úc gốc Serbia, khi được sinh ra đã không có tứ chi. Nick bị hội chứng tetra-amelia bẩm sinh, một loại rối loạn hiếm gặp, gây ra sự.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> thiếu vắng cả 4 chi. Từ thuở ấu thơ, anh đã phải đấu tranh cả về tinh thần, tình cảm cũng như thể xác, nhưng rồi cuối cùng anh đã quyết định đối mặt với khuyết tật của mình. Năm 17 tuổi, Nick thành lập tổ chức phi lợi nhuận của riêng mình với tên gọi Life Without Limbs (nghĩa là "Cuộc sống không có tay chân"). Vujicic đi khắp nơi trên thế giới để diễn thuyết truyền động lực về cuộc sống của một người khuyết tật mang hy vọng và mong muốn tìm được ý nghĩa cuộc sống. Anh đã tốt nghiệp đại học và trở thành một diễn giả nổi tiếng về chủ đề làm chủ cuộc sống. Hiện tại Nick đang sinh sống ở Mỹ. Tháng 5/2013, Nick đã lần đầu tiên đến Việt Nam trong sự chào đón nồng nhiệt của công chúng. *Nhữngcon số biết nói 1. Tính trên toàn thế giới, số người nhiễm HIV hiện nay là 45 triệu người. Trong đó, 50% là phụ nữ. Ấn Độ, Trung Quốc, Nga hợp lai chiếm 50% bệnh nhân. Có khoảng 14 triệu trẻ em trên thế giới có cha hoặc mẹ, hoặc cả hai qua đời vì nhiễm HIV => HIV/AIDS là một thảm họa, toàn nhân loại cần có những hành động thiết thực để ngăn chặn căn bệnh thế kỉ này. 2. Mỗi năm có khoảng 273 triệu tấn sản phẩm từ chất dẻo ra đời, trung bình mỗi người trên trái đất sử dụng 41 kg chất dẻo. Năm 2007 toàn thế giới đã dùng 1200 tỉ chiếc túi nilon mà phải mất 500- 1000 năm mới có thể thiêu hủy => đừng vì cái lợi trước mắt mà quên đi tác hại lâu dài. 3. Những con số biết nói về môi trường: - 14 chiếc túi nilon được làm ra tổn phí nhiên liêu cho 1 chiếc ô tô chạy 1km - 75% điện năng tiêu phí được tạo ra do các thiết bị điện vẫn được cắm điện nhưng không sử dụng. - 100 000 000 cây bị chặt để làm ra tất cả các tờ rơi quảng cáo, thư ngỏ, danh thiếp trên toàn thế giới mà người ta phát hào phóng, thậm chí vứt bỏ. - 10 triệu USD là ngân sách nhà nước Việt Nam chi cho vấn đề rác thải hàng năm. Trong khi không tiến hành phân loại và tái chế rác gây lãng phí 9 triệu USD. II.. MỘT SỐ ĐỀ THỰC HÀNH. Đề 1 Viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu ngạn ngữ Hi Lạp: “Cái rễ của học hành thì cay đắng nhưng quả của nó thì ngọt ngào”. DÀN Ý THAM KHẢO * Mở bài: -. Dẫn dắt vào đề bài.. -. Giới thiệu câu nói. (trích dẫn nguyên văn). -. Chuyển ý * Thân bài:.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> 1.. Giải thích: - Học hành là quá trình học và thực hành để mở mang kiến thức, nâng cao trình độ hiểu biết của mỗi người. - rễ đắng và quả ngọt là hình ảnh ẩn dụ chỉ công lao học hành và kết quả học tập. Câu ngạn ngữ thể hiện nhận thức sâu sắc về qui luật của học vấn và vai trò quan trọng của việc học hành đối với mỗi người.. 2.. . Phân tích – Chứng minh. Ý 1: Học hành có những chùm rễ đắng cay - Việc học đòi hỏi tốn thời gian, công sức, trải qua cả một quá trình. - Quá trình học tập có những khó khăn, vất vả, gian nan: chiếm lĩnh tri thức, luyện tập, thực hành… Để có thể giỏi giang, thành công đòi hỏi phải từng bước chinh phục những bậc thang học vấn. - Quá trình học tập có khi phải trải qua những thất bại, phải nếm vị cay đắng: điểm kém, bị quở mắng, thi hỏng…. Ý 2: Vị ngọt của quả tri thức hái được từ việc học hành - Vị ngọt của kết quả học tập trước hết là người học được nâng cao hiểu biết của bản thân, giàu có hơn về tri thức và tâm hồn, tự tin hơn trong cuộc sống. - Thành quả học tập mang lại niềm vui, niềm tự hào cho bản thân và gia đình. thầy cô giáo, nhà trường, quê hương… - Thành công trong học tập cũng chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng mới trên con đường lập nghiệp. - Phải biết chấp nhận đắng cay trong giai đoạn đầu để sau đó hưởng thành quả tốt đẹp lâu dài. * Dẫn chứng: + Ê-đi-xơn phải trải qua hàng nghìn thí nghiệm, phải tìm tòi không ngừng để phát minh ra bóng đền điện. + Măc-xim Gorki phải kiếm sống đủ thứ nghề vất vả nhưng không nguôi khát vọng học tập. Bằng con đường tự học đầy gian truân, say mê đọc sách tiếp cận ánh sáng văn minh nhân loại và trở thành nhà văn vĩ đại của nhân loại. ( Bút danh: Gor-ki có nghĩa là cay đắng) + Mạc Đĩnh Chi bắt đom đóm cho vào vỏ trứng để lấy ánh sáng đọc sách, sau đỗ trạng nguyên. 3.Đánh giá – mở rộng - Câu nói bao hàm một nhận thức đúng đắn, một lời khuyên tích cực: nhận thức được quá trình chiếm lĩnh tri thức, mỗi người cần có bản lĩnh, chủ động vượt qua khó khăn để thu nhận được thành quả tốt đẹp trong học tập. - Kết quả học tập nếu không từ công sức bản thân sẽ không bền, sẽ có lúc phải trả giá, sẽ trở thaành kẻ kém cõi trong cái nhìn của mọi người..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> 4. Bác bỏ- phê phán Trong thực tế, nhiều người lười biếng không chịu khó học hỏi, trau dồi kiến thức, không biết biến nhựa đắng thành quả ngọt dâng cho đời; hay có những người ỷ lại người khác, không nỗ lực, dẫn đến những hành động gian lận, không trung thực trong học tập * Kết bài: Khẳng định tư tưởng đạo lí vừa bàn luận. Nêu bài học: * Nhận thức: xem câu ngạn ngữ là phương châm nhắc nhở, động viên bản thân trong quá trình học tập. * Hành động: rèn ý thức vươn lên trong học tập, không đầu hàng gian nan thử thách, luôn hướng tới những ước mơ, khát vọng hái quả ngọt từ học vấn để thành công. Đề 2 Anh / chị nghĩ như thế nào về câu nói: “Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố” ( Trích Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm) DÀN Ý THAM KHẢO * Mở bài: -. Dẫn dắt vào đề bài.. -. Giới thiệu câu nói. (trích dẫn nguyên văn). -. Chuyển ý * Thân bài:. 1.. Giải thích: - giông tố ở đây dùng để chỉ cảnh gian nan đầy thử thách hoặc việc xảy ra dữ dội . - Câu nói khẳng định: cuộc đời có thể trải qua nhiều gian nan nhưng chớ cúi đầu trước khó khăn, chớ đầu hàng thử thách, gian nan. 2.Phân tích – chứng minh : Ý 1: Đời người cần trải qua những thử thách để trưởng thành: Câu nói trên là tiếng nói của một lớp trẻ sinh ra và lớn lên trong thời đại đầy bão táp. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc, họ sống thật đẹp và hào hùng.( Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Nguyễn Viết Xuân “nhằm thẳng quân thù mà bắn”…) - Trong gian khó, con người được rèn luyện như thép được tôi trong lửa; thực tế gian nan giúp con người hình thành được nhiều phẩm chất đáng quý: ý chí, nghị lực, bản lĩnh, sáng tạo, năng động,v.v… Ý 2: Không cúi đầu trước giông tố, vẻ đẹp nhân cách con người tỏa sáng:.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> - Dù trong hoàn cảnh nào, khi con người không cúi đầu trước thử thách, con người sẽ trưởng thành và nhân cách sẽ tỏa sáng (Ngô Bảo Châu và công trình nghiên cứu về Bổ đề cơ bản…, ) - Không cúi đầu trước gian khó, trước hết con người phải vượt lên chính mình, chiến thắng bản thân, xông xáo năng động trong cuộc sống. Đó cũng là sống đẹp. * Dẫn chứng: - Thực tế học tập, lao động của lớp trẻ hiện nay có bao tấm gương sống đẹp: + Những thủ khoa đại học nhà nghèo vượt khó: °Lê Minh Khiết – HS trương THPT chuyên Lê Khiết ( Quảng Ngãi) với hattrick thủ khoa: Thủ khoa Tốt nghiệp THPT (56 điểm), thủ khoa Đại học Ngoại thương TPHCM (28,5 điểm), thủ khoa Đại học Y dược TPHCM (29,5 điểm). °Vũ Văn Thanh,HS trường THPT Tô Hiệu, huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng) nhà nghèo, vừa đi học vừa làm thêm phụ hồ để có tiền phụ giúp gia đình và trang trải việc học, tự học và đỗ hai trường đại học: đỗ thủ khoa Đại học Hải Phòng và đỗ Đại học Ngoại thương (cơ sở Hà Nội). + Những người chiến đấu với căn bệnh nan y để sống có ích thật đáng khâm phục…: °Sự kiện tại TPHCM, với chủ đề “Vượt lên và chiến thắng”, 150 bệnh nhân ung thư đã tham gia thi đá bóng để chiến đấu với bệnh tật. Dù không thể bước nhanh hơn, dù các đấu thủ đã hoàn tất phần thi, một bệnh nhân 60 tuổi vẫn không bỏ cuộc và chia sẻ: “Tôi không thi để thắng thua với người khác, tôi chỉ muốn chiến thắng bản thân mình”. 3.. Đánh giá - bình luận: Câu nói thể hiện một quan niệm nhân sinh tích cực: sống không sợ gian nan, thử thách, phải có nghị lực và bản lĩnh. Câu nói ngắn gọn nhưng cô đúc, có nghĩa giáo dục sâu sắc đối với thế hệ trẻ. 4. Bác bỏ - Phê phán lối sống hèn nhát, cầu an, ngại khó… * Kết bài: Khẳng định tư tưởng đạo lí vừa bàn luận. Nêu bài học: * Nhận thức: Gian nan là thử thách của cuộc đời, con người được tôi luyện trong thử thách sẽ trưởng thành. * Hành động: dám nghĩ – dám làm, phải năng động, phải rèn luyện tu dưỡng những phẩm chất cần có ở những con người của thời đại mới có khả năng vượt qua mọi thử thách để thành công. Đề 3: Macxim Gorki từng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương”. Viết một bài văn không quá 400 từ trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.. a. Mở bài: -. Dẫn dắt vào đề bài..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> -. Giới thiệu câu nói. (trích dẫn nguyên văn). -. Chuyển ý b. Thân bài: 1/ Giải thích câu nói: ”Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương”. - "Lạnh" là cảm nhận về thể chất do sự hạ thấp về nhiệt độ của thời tiết, môi trường. => Cái lạnh khiến con người cần một bờ vai nương tựa, cần sự ấm áp, chở che -"Bắc Cực"- vùng cực Bắc của Trái Đất, nơi đây, cuộc sống diễn ra vô cùng khắc nghiệt -"Tình yêu thương" là biểu hiện của sự gắn bó, mối hoà hợp, và ý thức trách nhiệm của con người. Không có tình yêu thương, con người sẽ trở nên cô đơn và lạnh lẽo. =>tình yêu thương cho ta hơi ấm và sức mạnh để vượt qua những ngày giá lạnh, u tối, giúp ta chống chọi với những khắc nghiệt của cuộc sống. 2/ Phân tích, chứng minh câu nói - Vì sao nơi lạnh nhất thế giới khôgn phải bắc cực mà là nơi thiếu tình yêu thương + Bắc Cực không phải nơi lạnh nhất vì cái lạnh ở bắc cực chỉ là sự khắc nghiệt của thời tiết con người hoàn toàn có thể khắc phục được nếu sử dụng các phương tiện để giữ ấm cho cơ thể. + Mặt khác, con người là cá thể phát triển, không chỉ đòi hỏi những nhu cầu vật chất mà cần nhiều hơn cả những sự bù đắp về tinh thần. Tình yêu thương là nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người - Vai trò của tình yêu thương trong cuộc sống + Yêu thương tạo ra những mối quan hệ tốt đẹp +Cho con người niềm tin và sức mạnh để vượt qua bão tố của cuộc đời +Thiếu yêu thương, con người sẽ trở nên vô cảm, hẹp hòi, cuộc sống sẽ mất đi mối dây bền chặt, những mối quan hệ đáng lưu giữ 3/ Đánh giá, bàn luận ý nghĩa của câu nói: - Đây là quan niệm đúng đắn xuất phát từ nhận thức sâu rộng về cuộc đời -Một con người văn minh tiến bộ không chỉ cần những điều kiện vật chất mà còn cần những giá trị tinh thần phong phú, giàu tính nhân văn. - Làm thế nào để có tình yêu thương +Với người "cho" yêu thương: Không so đo, tính toán vị kỉ, luôn chân thành, cho đi mà không cần đáp trả ( Như cậu bé trong truyện "Người ăn xin" của Tuốc ghe-nhep). Cần yêu thương đúng cách (cha mẹ không nên nuông chiều con cái để thể hiện một tình yêu thương thực thụ, hãy yêu thương bằng cách giáo dục hợp lí) +Với người "nhận" yêu thương: Biết tiếp nhận tình cảm tốt đẹp và không đòi hỏi, sống là cho đâu chỉ.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> nhận riêng mình 4/ : Bác bỏ, phê phán : + Những ai không biết nuôi dưỡng tình thương. + Những ai dung dưỡng những tình thương mù quáng, để cho kẻ khác lợi dụng tình thương. * Kết bài: Khẳng định tư tưởng đạo lí vừa bàn luận. Nêu bài học: Nhận thức hành động. Đề 4: Euripides từng nói: “Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại tai ương của số phận ". Viết một bài văn không quá 400 từ trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên. a. Mở bài: -. Dẫn dắt vào đề bài.. -. Giới thiệu câu nói. (trích dẫn nguyên văn). -. Chuyển ý. b. Thân bài: 1/ Giải thích khái niệm của đề bài (câu nói) Giải thích câu nói: "Tại sao chỉ có nơi gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại tai ương số phận ?" Vì gia đình có giá trị bền vững và vô cùng to lớn không bất cứ thứ gì trên cõi đời này sánh được, cũng như không có bất cứ vật chất cũng như tinh thần nào thay thế nổi. Chính gia đình là cái nôi nuôi dưỡng, chở che cho ta khôn lớn?" - Suy ra vấn đề cần bàn bạc ở đây là: Vai trò, giá trị của gia đình đối với con người. 2/ Phân tích, chứng minh vấn đề: Có thể triển khai các ý: + Mỗi con người sinh ra và lớn lên, trưởng thành đều có sự ảnh hưởng, giáo dục to lớn từ truyền thống gia đình (dẫn chứng: văn học, cuộc sống). + Gia đình là cái nôi hạnh phúc của con người từ bao thế hệ: đùm bọc, chở che, giúp con người vượt qua được những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. 3/ Đánh giá, bàn luận mặt đúng đắn của câu nói: + Khẳng định câu nói đúng. Bởi đã nhìn nhận thấy được vai trò, giá trị to lớn của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người, là nền tảng để con người vươn lên trong cuộc sống. + Câu nói trên đã đặt ra vấn đề cho mỗi con người, xã hội: Bảo vệ, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc. Muốn làm được điều đó cần: trong gia đình mọi người phải biết thương yêu, đùm bọc chở che nhau; phê phán những hành vi bạo lực gia đình, thói gia trưởng.... 4/ Bác bỏ, phê phán mặt chưa thật đúng đắn của câu nói:.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> + Câu nói chưa hoàn toàn chính xác. Bởi trong thực tế cuộc sống, có rất nhiều người ngay từ khi sinh ra đã không được sự chở che, đùm bọc, giáp dục, nâng đỡ của gia đình nhưng vẫn thành đạt, trở thành con người hữu ích của xã hội. + Phê phán những người xem nhẹ vai trò của gia đình, thiếu trách nhiệm với gia đình… * Kết bài: Khẳng định tư tưởng đạo lí vừa bàn luận. Nêu bài học: Nhận thức hành động. Đề 5 : Viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu nói: Thất bại là mẹ thành công. Gợi ý MỞ BÀI : -. Dẫn dắt vào đề bài.. -. Giới thiệu câu nói. (trích dẫn nguyên văn). -. Chuyển ý THÂN BÀI : Ý 1. Giải thích Câu nói hàm chứa triết lý sống, cách sống mạnh mẽ: thất bại không được nản lòng, sau mỗi lần thất bại giúp ta tiến đến thành công Ý 2. Phân tích, Chứng minh - Trong cuộc đời mỗi con người, ai mà không có lần thất bại trong công việc, nhưng đừng vì thất bại (dù tới vài lần liên tiếp) mà nản lòng. Dẫn chứng - Có thất bại rồi mới có kinh nghiệm và rút ra bài học sau mỗi lần thất bại để sửa đổi lại lối suy nghĩ, cách làm việc và từ đó giúp ta tiến gần đến sự thành công. Dẫn chứng - Có được những thành công trong cuộc sống chính là biết đi lên từ những thất bại . Dẫn chứng. (Chú ý : Dẫn chứng phải tiêu biểu. Có thể lấy dẫn chứng từ cuộc đời của các nhà khoa học, các nhân vật lịch sử hoặc các nhân vật văn học…) Ý 3. Dánh giá - bình luận - Câu nói bao hàm một nhân sinh quan tích cực, một lời khuyên đúng đắn: sống mạnh mẽ, lạc quan và luôn có niềm tin vào mục đích sống tốt đẹp. - Có thể nêu ý kiến riêng của cá nhân về ý nghĩa của câu nói (Thí sinh có sự lí giải khác nhau nhưng cần lô gich và có sức thuyết phục). Y4. Bác bỏ - phê phán: * Kết bài:.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Khẳng định tư tưởng đạo lí vừa bàn luận. Nêu bài học: Nhận thức hành động. Đề 6 : Viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến của nhà văn Ban-dắc: Khi công nhận cái yếu của mình, con người trở nên mạnh mẽ. Gợi ý * Mở bài: -. Dẫn dắt vào đề bài.. -. Giới thiệu câu nói. (trích dẫn nguyên văn). -. Chuyển ý * Thân bài: * Ý 1. Giải thích ý kiến. - Công nhận cái yếu của mình tức là con người có đủ dũng cảm, trung thực và năng lực nhận thức để kiểm điểm bản thân một cách khách quan, toàn diện. - Điều ấy giúp con người có nghị lực, trưởng thành “trở nên mạnh mẽ” *Ý 2. Phân tích, Chứng minh ý kiến. - Trong mỗi con người, ai cũng có những thế mạnh và yếu. - Con người sẽ trở nên mạnh mẽ khi nhận thức, kiểm điểm bản thân một cách nghiêm túc, trung thực. - Vấn đề này đã được chứng minh trong thực tiễn cuộc sống ở nhiều lĩnh vực, trong những hoàn cảnh khác nhau (đưa những dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu.) *Ý 3. Đánh giá - bình luận ý kiến. + Vấn đề đặt ra đúng đắn, sâu sắc, có ý nghĩa định hướng cho con người trong nhận thức, lối sống. + Khi công nhận cái yếu của bản thân, cá nhân không tự cao, tự đại, biết ứng xử một cách khiêm tốn, đúng mực; biết nhìn nhận mọi người xung quanh một cách khách quan, đúng đắn; biết học tập vươn lên. + Đây không phải chỉ là vấn đề đặt ra với cá nhân mà còn có ý nghĩa với cả tập thể, quốc gia, dân tộc. (Học sinh có sự lí giải khác nhau nhưng cần hợp lí và có sức thuyết phục cao) Y4. Bác bỏ - phê phán: * Kết bài: Khẳng định tư tưởng đạo lí vừa bàn luận..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Nêu bài học: Nhận thức hành động. Đề 7 : “Điều gì có thể theo đuổi suốt cuộc đời” – Khổng Tử đáp: “Chỉ có lượng thứ mà thôi”. Từ những câu trả lời trên, anh/chị hãy trình bày trong một đoạn văn ngắn (không quá 400 từ) suy nghĩ của mình về sự lượng thứ, lòng khoan dung trong cuộc sống của mỗi con người. Gợi ý * Mở bài: -. Dẫn dắt vào đề bài.. -. Giới thiệu câu nói. (trích dẫn nguyên văn). -. Chuyển ý * Thân bài: * Ý 1. Giải thích. - Lời đáp của Khổng Tử cho thấy sự lượng thứ, khoan dung chính là cách ứng xử độ lượng, vị tha, biết hy sinh, nhường nhịn đối với người khác, biết bỏ qua những lỗi lầm của người khác gây ra cho mình hoặc cho xã hội. * Ý 2. Phân tích, Chứng minh. - Nhờ có lượng thứ, khoan dung làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp, con người sống gần gũi đáng yêu hơn. (đưa dẫn chứng minh họa) - Song lượng thứ, khoan dung cũng không phải là sự đồng nhất với nhu nhược hoặc bao che, dung túng, đồng tình với những khuyết điểm của người khác.(đưa dẫn chứng minh họa) * Ý 3. Đánh giá - bình luận. - Lượng thứ, khoan dung là một phẩm chất cao đẹp, một ứng xử cao thượng cần được thực hiện và ca ngợi. - Trong cuộc sống xã hội hiện đại ngày nay, nhiều người trở nên vô cảm, dửng dưng thiếu trách nhiệm và quên đi những truyền thống đạo lí tốt đẹp. Những con người ấy cần bị lên án. - Mỗi học sinh cần phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ văn hóa, tri thức để có sự hiểu biết phong phú, biết sống vị tha, bao dung hơn. Tích cực thực hành và bồi đắp lẽ sống khoan dung, sự lượng thứ từ những việc nhỏ xung quanh mình, với những người thân của mình;tích cực tham gia các hoạt động của cộng đồng, xã hội. -Y4. Bác bỏ - phê phán: * Kết bài: Khẳng định tư tưởng đạo lí vừa bàn luận. Nêu bài học: Nhận thức hành động..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> 2/ Nghị luận về hiện tượng đời sống Đề số 1: Viết bài văn ngắn khoảng 600 từ trình bày suy nghĩ của anh/chị về hiện tượng sau: "Mới đây, dư luận lại xôn xao về một cô thiếu nữ có "khuôn mặt ưa nhìn"đã phô ra trên Facebook cả một loạt ảnh ngồi ghếch chân trên bia mộ liệt sĩ..." (Theo Nỗi sợ hãi không muốn "học làm người"- Mục Góc nhìn của nhà thơ Trần Đăng Khoa-Tuổi trẻ và đời sống, số 152 ngày 14/1/2013) Phân tích đề - Yêu cầu về nội dung: Bàn về hiện tượng một thiếu nữ...cho cả thế giới "chiêm ngưỡng" -> Hiện tượng thể hiện hành vi phản cảm, thiếu văn hóa, đi ngược lại truyền thống đạo lí "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc,... - Yêu cầu về thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận. - Yêu cầu về phạm vi tư liệu: đời sống xã hội. Lập dàn ý a. Mở bài: Giới thiệu hiện tượng cần bàn. b. Thân bài: * Nêu bản chất của hiện tượng - giải thích hiện tượng - Hiện tượng thể hiện hành vi phản cảm, thiếu văn hóa, đi ngược lại truyền thống đạo lí "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc,... * Bàn luận thực trạng, nguyên nhân của hiện tượng bằng các thao tác phân tích, chứng minh - Thực trạng: Hiện nay tình trạng một bộ phận thanh, thiếu niên có suy nghĩ và hành động lệch lạc, có hành vi phản cảm, thiếu văn hóa, đi ngược lại truyền thống đạo lí… không ít (dẫn chứng cụ thể từ đời sống, lấy thông tin trên các phương tiện truyền thông). - Nguyên nhân: + Khách quan: thiếu vắng mối quan tâm, sự giáo dục của gia đình và nhà trường. Những ảnh hưởng của phim ảnh, intrernet, sự tràn lan của lối sống cá nhân thích làm nổi, thích gây sốc để nhiều người biết đến,... + Chủ quan: Nhiều thanh thiếu niên tuy được sinh ra và lớn lên ở môi trường giáo dục tốt nhưng lại có suy nghĩ và hành động lệch lạc, bởi họ không có ý thức hoàn thiện mình cũng như tự bồi đắp tâm hồn mình bằng những cách cư xử có văn hóa. * Hậu quả của hiện tượng: + Gây xôn xao, bất bình trong dư luận, làm tổn thương, xúc phạm đến những giá trị đạo đức, đi ngược lại truyền thống đạo lí tốt đẹp "Uống nước nhớ nguồn"..., tác động không tốt đến giới trẻ.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> + Bản thân người trong cuộc phải gánh chịu những lên án, bất bình của dư luận xã hội... * Giải pháp khắc phục: + Nâng cao nhận thức ở giới trẻ: nhà trường và đoàn thanh niên cần thường xuyên tổ chức các diễn đàn để tuyên truyền, giáo dục thanh niên về lối sống đẹp và giữ gìn truyền thống "Uống nước nhớ nguồn". + Những hình ảnh phản cảm trên cần được dư luận phê phán quyết liệt, gia đình và nhà trường phải nghiêm khác, nhắc nhở,... (Lưu ý cần đưa dẫn chứng thực tế để chứng minh) c. Kết bài: Bày tỏ ý kiến riêng về hiện tượng xã hội vừa nghị luận. - Thấy rõ sự cần thiết phải tích cực trau dồi nhân cách, bồi đắp nững giá trị đạo đức, văn hóa, đặc biệt là đạo lí "Uống nước nhớ nguồn". - Kiên quyết lên án và ngăn chặn những biểu hiện của lối sống vô cảm, thiếu văn hóa để xã hội lành mạnh, tiến bộ hơn. Đề số 2: "Trong thế gian này chúng ta xót xa không chỉ vì lời nói và hành động của những kẻ xấu mà còn là sự im lặng đáng sợ của những người tốt" (M.L.King) Anh/ chị hãy viết bài văn ngắn khoảng 600 từ bày tỏ suy nghĩ của mình về ý kiến trên. Phân tích đề - Yêu cầu về nội dung: Bàn về sự đau đớn, thất vọng do lời nói và hành động của kẻ xấu không lớn bằng việc những người tốt không có bất cứ phản ứng gì trước những việc làm của kẻ xấu-bệnh cô cảm. - Yêu cầu về thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận. - Yêu cầu về phạm vi tư liệu: đời sống xã hội. Lập dàn ý a. Mở bài: Giới thiệu hiện tượng cần bàn: Sự đau đớn, thất vọng do lời nói và hành động của kẻ xấu không lớn bằng việc những người tốt không có bất cứ phản ứng gì trước những việc làm của kẻ xấu và căn bệnh cô cảm. b. Thân bài: * Nêu bản chất của hiện tượng - giải thích hiện tượng - Cuộc sống là tổng hòa các mối quan hệ xã hội nên luôn luôn tồn tại hai loại người: xấu và tốt. Vì thế, ta thấy đau lòng vì hàng ngày, hàng giờ vẫn có những nhiều đáng tiếc xảy ra, chà đạp lên các giá trị.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> - Sự im lặng của người tốt là sự im lặng đáng sợ vì đó là phản ứng bất bình thường của người người mà từ trước đến nay ta trân trọng -> bệnh vô cảm -> Đây là lời cảnh báo nghiêm khắc về sự băng hoại các giá trị đạo đức trong xã hội hiện nay. Ý kiến này khẳng định: sự đau đớn, thất vọng do lời nói và hành động của kẻ xấu không lớn bằng việc những người tốt không có bất cứ phản ứng gì trước những việc làm của kẻ xấu. * Bàn luận thực trạng, nguyên nhân của hiện tượng bằng các thao tác phân tích, chứng minh - Thực trạng: hiện tượng khá phổ biến trong xã hội + lời nói, hành động của những kẻ xấu (d/c) + sự im lặng đáng sợ của những người tốt - bệnh thờ ơ, vô cảm - Nguyên nhân của hiện tượng: + Những kẻ xấu, những kẻ kém đạo đức. Chúng làm nhiều việc trái với chuẩn mực đạo đức xã hội chỉ mong vụ lợi cho bản thân, không nghĩ đến người khác, không quan tâm tới tập thể ( d/c) - Trước những bất công, vô lí, điều xấu xa đang xảy ra, trước nỗi đau của người khác… người vô cảm không có phản ứng gì bởi vì họ đã không dám lên tiếng, không dám đấu tranh để cho cuộc sống này tốt đẹp hơn. Tại sao họ im lặng? Vì họ thấy bất lực. Họ thấy cô độc. Họ mất niềm tin... * Hậu quả của hiện tượng: - Lời nói, hành dộng của kẻ xấu, sự thờ ơ vô cảm làm cho xã hội trở nên bất ổn, con người mất hết niềm tin vào những điều tốt đẹp (d/c) * Giải pháp khắc phục: + Nâng cao nhận thức ở giới trẻ: nhà trường và đoàn thanh niên …cần thường xuyên tổ chức các diễn đàn để tuyên truyền, giáo dục thanh niên về lối sống đẹp + Cần phê phán quyết liệt và nghiêm khắc nhắc nhở những cá nhân có hành vi xấu, vô cảm c. Kết bài: - Phải nhận thức rõ nhưng việc làm tốt – xấu xunh quanh cuộc sống của mình. Không làm ngơ trước cái xấu, cái ác, không có thái độ sống thờ ơ, vô cảm - Ủng hộ việc làm của những người tốt, có ý thức bảo vệ người khác để xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Đề số 3: “Trong quyển lưu bút cuối năm học, học sinh viết:“Nhưng mìn hứa sẽ mãi lè bẹn thân đeng wên teo dzà mái trừng iu zấu nì nha”.Xin tạm dịch: “ Nhưng mình hứa sẽ mãi là bạn thân, đừng quên tao và mái trường yêu dấu này nha”.Và đây nữa:“Gửi mail nhớ thim cái đuôi @ da heo chấm cơm nha, mi u bit ko, năm nay lại ko được học chung dzới nhau gùi”. Tạm dịch là: “Gửi mail nhớ thêm cái đuôi @ da heo chấm cơm nha, mấy bạn biết không, năm nay lại không được học chung với nhau rồi”..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> Phần chữ in đậm trong đoạn văn trên là những câu trích trong cuốn lưu bút của học sinh lớp 8 một trường chuyên Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh”. (Trích Ngôn ngữ chat - Việt Báo - 18/5/2006 - Tác giả Ngọc Mai) Hiện nay, trong sinh hoạt và học tập, một bộ phận lớp trẻ có thói quen sử dụng tiếng lóng trên mạng, còn gọi là “ngôn ngữ chat”, “ngôn ngữ SMS”, “ngôn ngữ @”,… như trong đoạn trích trên. Anh (chị) hãy viết bài văn ngắn khoảng 600 từ bày tỏ ý kiến của mình về việc này. Phân tích đề - Yêu cầu về nội dung: Bàn về thói quen sử dụng tiếng lóng trên mạng, còn gọi là “ngôn ngữ chat”, “ngôn ngữ SMS”, “ngôn ngữ @”,… - Yêu cầu về thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận. - Yêu cầu về phạm vi tư liệu: đời sống xã hội. Lập dàn ý a. Mở bài: Giới thiệu hiện tượng cần bàn. b. Thân bài * Nêu bản chất của hiện tượng - giải thích hiện tượng - Tiếng lóng trên mạng, ngôn ngữ chat, ngôn ngữ SMS, ngôn ngữ @.... là tên gọi chung của hình thức chữ viết dùng để tán gẩu trên mạng thông qua máy vi tính hoặc điện thoại di động. - Do sử dụng bàn phím máy tính và bàn phím điện thoại di động có một số bất tiện khi viết tiếng Việt, nên ban đầu có một số người nhất là giới trẻ có một sáng kiến viết tắt một cách tùy tiện cho nhanh. * Bàn luận thực trạng, nguyên nhân của hiện tượng bằng các thao tác phân tích, chứng minh - Thực trạng : + Lúc đầu xuất hiện trên mạng trên điện thoại, chat trên máy tính, nay lan dần sang các lĩnh vực khác như nói, viết các loại văn bản khác nhau trong sinh hoạt và học tập. + Lớp trẻ mắc phải nhiều nhất. Nguy hiểm hơn, căn bệnh này là căn bệnh mới trong học đường và lây lan rất mạnh. Nhiều thầy cô, nhiều phụ huynh, nhiều Sở giáo dục đã lên tiếng về việc này trên các phương tiện thông tin.. + Hiện tượng này lan dần theo thời gian. Đến nay, trở thành một thói quen trong một bộ phận không nhỏ của lớp trẻ hiện nay. - Nguyên nhân của hiện tượng trên + Do tiết kiệm thời gian khi "chat" mạng + Do tuổi trẻ nhạy bén với cái mới và muốn có một thế giới riêng, hoặc muốn tự khẳng định mình hoặc nũng nịu với bạn bè và người thân cho vui + Do tuổi trẻ vô tư, vô tình không thấy hết tác hại của hiện tượng trên….

<span class='text_page_counter'>(34)</span> * Hậu quả của hiện tượng trên: + Tạo nên một thói quen nói và viết chệch chuẩn, làm mất đi sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, hủy hoại giá trị truyền thống. + Ảnh hưởng đến tư duy, ảnh hưởng đến tâm lí của lớp trẻ. Đó là thói xấu nói năng, tư duy một cách tùy tiện, cẩu thả… * Cách khắc phục hiện tượng trên + Vì đây là một hiện tượng xã hội phát sinh từ cuộc sống cho nên không thể tẩy chay một cách máy móc một chiều, tránh cách xử lí cực đoan. + Giải thích thuyết phục lớp trẻ thấy được rằng sự vô tình của mình có thể gây nên một tác hại khó lường. + Tiếp thu có chọn lọc hiện tượng này và sử dụng đúng lúc đúng chỗ không được sử dụng tràn lan trong sinh hoạt và học tập. c. Kết bài: - Không đồng tình với những hành vi trên - Cẩn thận trọng khi tiếp xúc với những hiện tượng mới phát sinh trong cuộc sống hiện đại. Nhất là khi những hiện tượng này mâu thuẫn với những giá trị truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời. - Vì vậy, yêu cầu phải có cách ứng xử phù hợp với tính chất của từng hiện tượng để tiếp thu những cái mới mẻ, nhưng cũng không hủy hoại những giá trị truyền thống. Đề số 4: Trong một bài viết trên báo, có một bạn trẻ tâm sự: "Tôi ưa nói, ưa tranh luận, nhưng khi tôi 17 tuổi nếu tôi giơ tay phát biểu trước lớp về một vấn đề không đồng ý với quan điểm của thầy cô, tôi bị dòm ngó, tẩy chay, cười mỉa...Hình như ở Việt Nam, người ta rất khó chấp nhận chuyện người nhỏ hơn mình "sửa sai"hay tranh luận thẳng thắn với người lớn"(Đặng AnhSống đúng là chính mình, trang wep: tuoitre.vn ngày 9/9/2013). Từ góc độ của một người trẻ, anh/chị hãy viết bài văn ngắn khoảng 600 từ cho biết suy nghĩ của mình về ý kiến trên. Phân tích đề - Yêu cầu về nội dung: Ý kiến trên nêu lên một thực tế khá phổ biến trong xã hội Việt Nam: những người trẻ tuổi có tư duy độc lập, khi vượt qua rào cản tuổi tác có chủ kiến cá nhân thường phải đối mặt với cái nhìn và đánh giá mang tính định kiến của cộng đồng xã hội. - Yêu cầu về thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận. - Yêu cầu về phạm vi tư liệu: đời sống xã hội. Lập dàn ý a. Mở bài:.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Giới thiệu hiện tượng cần bàn. b. Thân bài: * Nêu bản chất của hiện tượng- giải thích hiện tượng - Ý kiến trên nêu lên một thực tế khá phổ biến trong xã hội Việt Nam: những người trẻ tuổi có tư duy độc lập, khi vượt qua rào cản tuổi tác có chủ kiến cá nhân thường phải đối mặt với cái nhìn và đánh giá mang tính định kiến của cộng đồng xã hội - Từ đấy, chính bản thân người trẻ cũng dễ mang tâm lí kém tự tin, luôn có thái độ rụt rè, thụ động khi bộc lộ chủ kiến, thậm chí không bao giờ nói ra suy nghĩ của mình trước đám đông * Bàn luận thực trạng, nguyên nhân của hiện tượng bằng các thao tác phân tích, chứng minh - Lí giải nguyên nhân dẫn đến hiện tượng + Xã hội Việt Nam vốn có truyền thống "kính lão đắc thọ", người trẻ tuổi phải luôn lắng nghe và tôn trọng người lớn tuổi hơn để học tập kinh nghiệm sống. Nề nếp này được duy trì trong các môi trường sinh hoạt khác nhau của người Việt, từ cấp độ gia đình, nhà trường đến phạm vi toàn xã hội. + Nhìn chung trong xã hội Á Đông nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng, con người có khuynh hướng sống khép mình, giấu cái tôi cá nhân đi chứ không chủ động bộc phát cái tôi mạnh mẽ như người phương Tây. Vì vậy, người Việt Nam có tâm lí ngại nói lên suy nghĩ riêng trước đám đông, đặc biệt là người trẻ tuổi. - Thực trạng của hiện tượng : + Hiện tượng được đề cập là hiện tượng khá phổ biến trong trường học của Việt Nam. Với lối giảng dạy truyền thống và nếp sống của cộng đồng, học sinh của nước ta khá thụ Động trong họ tập, gần như chỉ tiếp thu kiến thức một chiều và ít khi đặt ra câu hỏi hay đưa ra những suy nghĩ đi ngược lại với điều được dạy. Tuy nhiên, cũng có một số học sinh dám bộc lộ chủ kiến của mình thì lại ít được gv khuyến khích, thậm chí còn bị bác bỏ, bị phủ nhận. + Ở cấp độ xã hội, hiện tượng này cũng xuất hiện rất nhiều. Người trẻ tuổi thường bị nhìn nhận là "trẻ người non dạ", "ngựa non háu đá", "trứng khôn hơn vịt". Vì vậy, đa phần người trẻ, những người giàu sức sống, sự năng động, sáng tạo trong tư duy và hành động nhất lại trở thành những cỗ máy câm lặng, ít dám bộc lộ bản thân. - Giải pháp khắc phục hiện tượng + Bộc lộ chủ kiến là một hành động tích cực, cần được khuyến khích và người trẻ cũng cần có ý thức về cách thức và thái độ khi thể hiện chủ kiến của mình: thẳng thắn, bộc trực, mạnh mẽ, biết bảo vệ ý kiến riêng nhưng không được kiêu căng, thất lễ với người khác. + Về phía những người lớn tuổi, những bậc tiền nhân và cả cộng đồng cần có cái nhìn rộng mở hơn với người trẻ, biết lắng nghe, chia sẻ và trao đổi ý kiến với họ, đồng thời đánh giá và nhìn nhận đúng.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> mức sự đóng góp của người trẻ chứ không nên có thái độ "dòm ngó, tẩy chay, cười mỉa" làm ảnh hưởng đến tinh thần và taamlis của thế hệ trẻ; Cần động viên và khuyến khích thế hệ trẻ biết sống chủ động, sống sáng tạo và bộc lộ mình hơn để góp phần thay đổi cuộc sống theo hướng tích cực. c. Kết bài: - Không đồng tình trước thói quen kì thị của một số người lớn tuổi truớc chính kiến của những người trẻ tuổi hơn - Nâng cao trình độ, suy nghĩ thấu đáo...-> dám bộc lộ chủ kiến của mình đồng thời tôn trọng ý kiến của người trẻ như mình. - Cần phải phân biệt giữa thái độ bộc lộ suy nghĩ của cá nhân để trao đổi, tranh luận với người khác với thái độ chống đối, tiếu tôn trọng, thậm chí xấc xược, hỗn láo với người lớn tuổi ở những người trẻ. - Khẳng định: Vấn đề tác giả Đặng Anh đặt ra là một vấn đề đáng suy nghĩ và có giá trị không chỉ đối với người trẻ mà đối với cả cộng đồng. Đề số 5: Viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày ý kiến của anh/chị về nạn bạo hành trong xã hội. Dàn ý: a. Mở bài: Giới thiệu về vấn nạn bạo hành trong xã hội b. Thân bài: * Nêu bản chất của hiện tượng- giải thích hiện tượng + Nạn bạo hành: sự hành hạ, xúc phạm người khác một cách thô bạo, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần của người khác, đang trở thành phổ biến hiện nay. + Nạn bạo hành: thể hiện ở nhiều góc độ, nhiều phương diện của đời sống xã hội. Nạn bạo hành diễn ra trong: gia đình, trường học, công sở… * Bàn luận thực trạng, nguyên nhân của hiện tượng bằng các thao tác phân tích, chứng minh + Hiện tượng khá phổ biến trong xã hội (d/c) + Do bản tính hung hăng, thiếu kiềm chế của một số người. + Do ảnh hưởng của phim ảnh mang tính bạo lực (nhất là đối với tầng lớp thanh thiếu niên). + Do áp lực cuộc sống. + Do sự thiếu kiên quyết trong cách xử lí nạn bạo hành. * Tác hại của hiện tượng. + Làm tổn hại đến sức khỏe, tinh thần của con người + Làm ảnh hưởng đến tâm lí, sự phát triển nhân cách, đặc biệt là tuổi trẻ * Đề xuất giải pháp..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> + Cần lên án đối với nạn bạo hành. + Cần xử lí nghiêm khắc hơn với những người trực tiếp thực hiện hành vi bạo hành. + Cần quan tâm, giúp đỡ kịp thời đối với nạn nhân của bạo hành. c. Kết bài: - Lên án hiện tượng - Bài học nhận thức và hành động của bản thân 3/ Một số đề văn để luyện tập: 1) ĐỀ 1: Trình bày trong một bài văn ngắn (không quá 400 từ) hiểu biết của anh/ chị về câu nói sau: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học). 2) ĐỀ 2: “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời,…” (“Đất Nước”- Trích “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm). Dựa vào những câu thơ trên, anh/ chị hãy phát biểu trong một bài văn ngắn (không quá 400 từ) ý kiến cá nhân về trách nhiệm của thế hệ thanh niên hiện nay với Đất Nước. 3) ĐỀ 3: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm nên” Dựa vào câu tục ngữ trên, hãy trình bày trong một bài văn ngắn (không quá 400 từ) suy nghĩ của anh/ chị về vai trò của thầy trong xã hội hiện nay. 4) ĐỀ 4: Viết bài văn ngắn (không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của mình về ý kiến của văn hòa Lỗ Tấn: “Ưóc mơ không phải là cái gì sẵn có cũng không phải là cái gì không thể có”. 5) ĐỀ 5: Trình bày trong một bài văn ngắn (không quá 400 từ) suy nghĩ của anh/ chị về câu nói của Lin-côn: “Xin hãy dạy cho con tôi chấp nhận : thi rớt còn vinh dự hơn gian lận trong thi cử”. 6) ĐỀ 6: Viết bài văn ngắn (không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của mình về ý kiến sau: Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống. 7) ĐỀ 7: Trình bày trong một bài văn không quá 400 từ suy nghĩ về chuyện thi đỗ, thi trượt trong thi cử. 8) ĐỀ 8: Viết bài văn ngắn (không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến của Ăng- ghen: “Trang bị quý nhất của con người là khiêm tốn và giản dị”..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> 9) ĐỀ 9: Viết bài văn ngắn (không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh/ chị về hiện tượng đời sống sau đây: Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, cây hoa dại vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp. 10) ĐỀ 10: Bàn về giá trị của việc đọc sách, Gor- ki nói: “Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên tôi tách ra khỏi con thú để lên tới gần con người”. Trình bày trong một bài văn ngắn (không quá 400 từ) quan điểm của anh/ chị về ý kiến trên. 11) ĐỀ 11: Trình bày trong một bài văn ngắn (không quá 400 từ) ý kiến của anh/ chị về nhận xét sau: Sự học như đi thuyền trên dòng nước ngược, không tiến ắt phải lùi. 12) ĐỀ 12: Văn hào Nga Lép Tôn- xtôi đã nói: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường.Không có lí tưởng thù không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Nêu suy nghĩ của anh/ chị về câu nói trên trong một bài văn ngắn (không quá 400 từ). 13) ĐỀ 13: Anh (chị) có suy nghĩ gì khi đọc câu nói của F.A.Clark: “Ai cũng muốn làm điều gì đó lớn lao, nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sống được tạo thành từ những điều rất nhỏ”. (Dẫn theo Hành trang vào đời, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2008) 14) ĐỀ 14 Châu Phi có câu chuyện: “Mỗi sáng, ở châu Phi có một con linh dương thức dậy. Nó biết rằng, nó phải chạy nhanh hơn con sư tử nhanh nhất, nếu không nó sẽ bị chết. Mỗi sáng, ở châu Phi có một con sư tử thức dậy. Nó biết rằng, nó phải chạy nhanh hơn con linh dương chậm nhất, nếu không nó sẽ bị chết đói. Điều quan trọng không phải việc bạn là sư tử hay linh dương. Khi mặt trời mọc, bạn nên bắt đầu chạy.” (Theo Frederman – Thế giới phẳng) Từ câu chuyện trên đến thái độ sống của anh/chị? 15) ĐỀ 15 “Bạn có yêu đời không? Vậy đừng phung phí thời gian vì chất liệu cuộc sống làm bằng thời gian.” ( Franklin) Quan điểm của anh ( chị ) về ý kiến trên như thế nào ? ( Bài viết không quá 400 từ ). 16) ĐỀ 16 “Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kĩ sư, nếu làm tròn trách nhiệm thì đều vẻ vang như nhau” (Hồ Chí Minh). Hãy viết bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> 17) ĐỀ 17 Viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) về câu danh ngôn “Hãy biết ơn những gì mình đang có, và cuối cùng bạn sẽ có nhiều hơn nữa. Nếu cứ muốn những gì bạn không có, bạn sẽ không bao giờ, không bao giờ có đủ ” (O. Uyn – phơ – rây) 18) ĐỀ 18 Cái gôc của đạo đức của luân lí là lòng nhân ái (Lê Duẩn) Hãy viết bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên. 19) ĐỀ 19 “ Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình”. ( Đời thừa- Nam Cao). Từ quan niệm trên, anh/ chị hãy viết một đoạn văn ngắn( 400 từ) trình bày suy nghĩ của của mình về kẻ mạnh trong mối quan hệ giữa người với người. 20) ĐỀ 20 Hạnh phúc giữ trong tay chỉ còn là hạt; hạnh phúc mang ra san sẻ mới trổ hoa. Ernest Hemingway Trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu nói trên. 21) ĐỀ 21 Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau đây của A. Lincoln: “Điều tôi muốn biết trước tiên không phải là bạn đã thất bại ra sao mà là bạn đã chấp nhận nó như thế nào”. 22) ĐỀ 22 Trình bày suy nghĩ của anh/chị (không quá 600 từ) về câu ngạn ngữ của Gruzia: “Học tập là hạt giống của kiến thức. Kiến thức là hạt giống của hạnh phúc” 23) ĐỀ 23 Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu danh ngôn sau: Tiền mua được tất cả, trừ hạnh phúc. (Viết không quá 400 từ) 24) ĐỀ 24 Có ý kiến cho rằng, “chỉ có những người cam chịu thất bại mới bị thất bại thật sự” (Nhiều tác giả, Nguyên lý của thành công, Nxb Văn hoá , 2009, tr. 68). Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> PHẦN III: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC Bài 1: TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN Phần một : tác giả. Xem SGK và tập học. Phần hai : Văn bản Tuyên ngôn Độc lập I/ Hoàn cảnh sáng tác và mục đích, đối tượng của TNĐL : xem SGK và tập học. II/ Văn bản 1. Nội dung: xem tập học. 2. Nghệ thuật : Xem tập học 3. Ý nghĩa văn bản : xem tập học B/ ĐỀ LUYỆN TẬP Đề : Chứng minh rằng Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh) là một áng văn chính luận mẫu mực. Mở bài : Xét về giá trị của bản Tuyên ngôn, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một văn kiện lịch sử vô giá mà còn là một ánh văn chính luận mẫu mực. Thân bài : 1/ Giới thiệu khái quát về bản TN (cần gọn) 2/ Chứng minh rằng Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh) là một áng văn chính luận mẫu mực. Dùng lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng rõ 5 luận điểm sau : 1/ Tuyên ngôn Độc lập mẫu mực về cách lập luận : Lập luận chặt chẽ. ( Nêu dẫn chứng, phân tích) 2/ Tuyên ngôn Độc lập mẫu mực về cách đưa lí lẽ : Lí lẽ đanh thép, sắc bén. ( Nêu dẫn chứng, phân tích) 3/ Tuyên ngôn Độc lập mẫu mực về cách chọn dẫn chứng: Dẫn chứng toàn diện, cụ thể, chính xác. ( Nêu dẫn chứng, phân tích) 4/ Tuyên ngôn Độc lập mẫu mực về cách trình bày : Bố cục ba phần rõ ràng, mạch lạc, nối kết với nhau bởi các quan hệ từ. . Ngoài ra, Tuyên ngôn Độc lập còn thành công ở cách dùng từ, sử dụng câu văn giàu hình ảnh, giàu sức thuyết phục,…. 3/ Đánh giá NT 2. Lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> 3. Ngôn ngữ vừa chính xác vừa chính xác vừa gợi cảm. 4. Giọng văn linh hoạt. Kết luận : TNĐL của Hồ Chí Minh xứng đáng là một áng văn chính luận mẫu mực. ********************************************************************************* Bài 2: TÂY TIẾN A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN I/ Tác giả -. Quang Dũng (1921-1988) là một người đa tài : làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc,…. -. Một hồn thơ lãng mạn, tài hoa : nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ giàu chất nhạc, chất họa. II/ Văn bản 1/ Hoàn cảnh sáng tác : Xem tập học. 2/ Nội dung : -. Bức tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng vô cùng. mĩ lệ, trữ tình và hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân trong cảm xúc “nhớ chơi vơi” về một người Tây Tiến : + Vùng đất xa xôi, hoang vắng, hùng vĩ, dữ dội, khắc nghiệt, đầy bí hiểm nhưng vô cùng thơ mộng, trữ tình. + Cảnh đêm liên hoan rực rỡ lung linh, chung vui với bản làng xứ lạ. + Cảnh thiên nhiên sông nước miền tây một chiều sương giăng hư ảo. + Hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân: gian khổ, hi sinh mà vẫn ngang tàng, tâm hồn vẫn trẻ trung, lãng mạn. -. Bức chân dung về người lính Tây Tiến trong nỗi “nhớ chơi vơi” về một thời. gian khổ mà hào hung : + Vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn. + Vẻ đẹp bi tráng. 3/ Nghệ thuật : Xem tập học. 4/ Ý nghĩa văn bản : Xem tập học. B/ ĐỀ LUYỆN TẬP : Đề 1 : Phân tích đọan thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng (THI TN THPT 2011) “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! ……………………………….. Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”... Mở bài :.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> -. Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài : làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,…Nhưng ông thành. công trước hết là một nhà thơ, một hồn thơ lãng mạn, diễn tả một cách tinh tế, tài hoa vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Bài thơ “Tây Tiến” ra đời vào cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã rời xa đơn vị của mình. -. Đoạn đầu bài thơ là nỗi nhớ về những kỉ niệm của một thời chinh chiến, những cuộc hành quân. gian khổ với thiên nhiên sông Mã vừa khắc nghiệt, vừa hùng vĩ, vừa dữ dội nhưng cũng thơ mộng. 1). Thân bài : Giới thiệu khái quát bài thơ (Cần gọn). - Tây Tiến là một cảm hứng bắt nguồn từ kỉ niệm, kỉ niệm về một đoạn đời chiến đấu, về một miền đất, kỉ niệm về những người đồng đội và cả những kỉ niệm khó quên về chính mình. Bởi thế, cảm xúc bao trùm cả bài thơ là nỗi nhớ. Nỗi nhớ bắt đầu từ một Tây Tiến hùng vĩ, dữ dội đầy thử thách đối với người chiến sĩ. Tiếp đến là một Tây Tiến lãng mạn, trữ tình với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người phương xa xứ lạ để rồi kết lại là bức tượng đài sừng sững về người lính Tây Tiến. Cuối cùng là mối hoài niệm trong tâm tưởng của nhà thơ. - Kết cấu bài thơ tuân theo logic của mạch hồi tưởng : Nỗi nhớ từ thực tại vọng về miền quá khứ và từ quá khứ quay về thực tại. - Đoạn đầu bài thơ là nỗi nhớ về những kỉ niệm của một thời chinh chiến, những cuộc hành quân gian khổ với thiên nhiên sông Mã vừa khắc nghiệt, dữ dội; vừa hùng vĩ, thơ mộng. 2). Phân tích đoạn thơ a/ Hai câu đầu là khái quát nỗi nhớ Tây Tiến “Sông Mã … nhớ chơi vơi” -. Mở đầu là một câu cảm thán, một tiếng gọi tha thiết bởi nỗi nhớ đơn vị cũ đang dâng trào. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!” - Dòng sông Mã là hình ảnh xuyên suốt bài thơ với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ đồng thời là một chứng nhân lịch sử. Có thể nói cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ. “ Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ mênh mông, da diết, thường trực, ám ảnh, bao trùm cả không gian, thời gian, đầy ắp trong lòng. b/ 6 câu tiếp theo là nỗi nhớ những chặng đường hành quân qua miền Tây Bắc hùng vĩ và dữ dội “ Sài Khao … mưa xa khơi” -. Hoang sơ, dữ dội và khắc nghiệt : + Ấn tượng sâu đậm nhất là ấn tượng về núi rừng miền Tây vùng biên giới Việt Lào : dữ dội, khắc nghiệt núi cao, dốc thẳm sương dày, mưa mịt mù trời đất, thú dữ gầm rú. Thật là âm u, hoang dã. Thiên nhiên là một mối đe dọa như vồ lấy con người để nuốt chửng. Chi tiết nào của thiên nhiên trong đoạn thơ này cũng chỉ độ cao nhất của gian nan thử thách. Sương thì dày như đặc lại để ngăn cản bước hành quân của người lính Tây Tiến. Dốc đã “ lên khúc khuỷu” lại còn “ dốc thăm thẳm”, điệp từ “ dốc” nhấn mạnh không gian hành quân phải qua những con đường hiểm trở. Sự xuất hiện dày đặc của.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> những thanh trắc trong câu thơ đã diễn tả đắc địa độ cao ngất trời của núi rừng miền Tây. Người lính đi trên đường mà như đi giữa cồn mây, mũi súng trên vai như chạm vào cả mây trên bầu trời. Từ “ ngửi” vừa ngộ nghĩnh vừa đầy ấn tượng – đó là cách nói dí dỏm, tinh nghịch của người lính trẻ. +. Nhà thơ liệt kê những địa danh miền sơn cước như Sài Khao, Mường Lát, … đó là nơi. hoang vu vắng vẻ, những địa bàn mà người lính đã đóng quân và đi qua. Nhà thơ cũng chọn lọc những hình ảnh đưa vào bài thơ gây ấn tượng mạnh như “ dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”, “ heo hút cồn mây”, “ ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” kết hợp những từ láy gợi hình “ khúc khuỷu” “ thăm thẳm”, “ heo hút”. “ Dốc khúc khuỷu” vì đường đi là núi đèo hiểm trở gập ghềnh, vừa lên cao đã vội đổ dốc, cứ thế gấp khúc nối tiếp nhau. “ Thăm thẳm” không chỉ đo chiều cao mà còn gợi ấn tượng về độ sâu, cảm giác như hút tầm mắt người, không biết đâu là giới hạn cuối cùng. Vượt qua cái “khúc khuỷu”, “ thăm thẳm” ấy, đoàn quân tưởng chừng đã ở giữa những đỉnh mây, vượt lên vô vàn dốc đèo khác. + Câu thơ “ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” có cấu trúc gấp khúc nhờ dấu phẩy ngăn cách giữa dòng, kết hợp nghệ thuật điệp ngữ và các từ đối lập “ cao, xuống” đã gợi tả con dường hành quân của người lính thật gian lao vất vả. + Câu thơ “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” được cấu tạo toàn thanh bằng gợi sự mềm dẻo, êm ái, tạo cảm giác nhẹ nhàng, êm ả và xoa mát cho cả khổ thơ. Đây cũng là phút giây thanh thản trong lòng người lính khi tạm dừng chân bên dốc núi. - Hùng vĩ, thơ mộng : thiên nhiên thật khắc nghiệt nhưng bên cạnh đó cũng ban tặng cho người lính một chút hương hoa của núi rừng làm cho những chiến sĩ Tây Tiến vơi bớt sự mệt mỏi trên bước đường hành quân “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. c/ Tây Tiến còn là những cuộc hành quân cực kì gian khổ : “Anh bạn dãi …. nếp xôi” -. Qua những chặng đường hành quân vượt đèo cao, vực sâu , người lính sao tránh khỏi những. giây phút mệt mỏi. Thơ của Quang Dũng như có một sức mạnh lôi cuốn cảm xúc vì những nét thực của cuộc sống là những nét đẹp của nghệ thuật. Bằng bút pháp hiện thực, ông không hề né tránh sự thật khắc nghiệt có khi tưởng chừng vượt quá sức chịu đựng của con người : “ Anh bạn … quên đời”. Trước những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt nổi nhưng người chiến sĩ Tây Tiến không hề chùng bước. Họ chỉ dừng bước khi không bước được nữa. Từ láy “ dãi dầu” gợi cảnh dầm mưa dãi nắng của những người lính khi họ phải sống nơi rừng thiêng nước độc. Sức chịu đựng có hạn, nhiều người đã nằm lại vĩnh viễn dọc biên cương tổ quốc. Điều này Quang Dũng còn nhắc lại ở khổ thơ sau : “ Rải rác biên cương … đời xanh”. Cách nhìn nhận về cái chết của người lính thật nhẹ nhàng, thanh thản, chết trên bước đường hành quân, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. -. Những cái chết như thế không thể làm họ sờn lòng bởi vì cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục,. người chiến sĩ vẫn vượt lên thử thách của núi rừng, của thiên nhiên, những đe dọa đang rình rập mỗi.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> bước đường. Các điệp từ “ chiều chiều”, “ đêm đêm” diễn tả âm thanh thật cụ thể : “ Chiều chiều oai linh … cọp trêu người”. Cái dữ dội của thiên nhiên được đẩy cao cực độ hiện ra trong âm thanh “ gầm thét” mạnh mẽ kia. Quang Dũng thật tài tình khi đưa địa danh vào thơ. Hai chữ “ Mường Hịch” không chỉ còn là một địa điểm cụ thể nơi đặt chỉ huy sở của mặt trận Tây Tiến mà trở nên đầy ám ảnh. Địa danh nào, cảnh vật nấy. Chỉ cần đọc hai tiếng “ Mường Hịch” đã thấy hiện diện lởn vởn của dấu chân cọp dữ vừa lướt qua. Tiếng gầm của rừng núi và tiếng gầm của chúa sơn lâm cùng lúc chứng tỏ oai linh tuyệt đối dữ dội của mình. Tất cả bề cao, bề sâu, bề rộng, sự kì bí, hoang sơ của địa hình Tây Tiến đã được chạm khắc bởi những nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ, khỏe khoắn. Buổi chiều cảnh vật thêm huyền bí, đêm xuống rừng càng hoang vu hơn. Đó là bút pháp lãng mạn. Những âm thanh rùng rợn, dữ dội qua nghệ thuật nhân hóa của tiếng “ thác gầm thét” hòa với “ cọp trêu người” tạo thành âm thanh hợp xướng vang động cả núi rừng. Từ đó, ta thấy những hiểm nguy thường xuyên đe dọa tính mạng của người lính trẻ. -. Tây Tiến không chỉ để lại những kỉ niệm đau buồn mà còn những kỉ niệm ấm lòng không bao. giờ quên của nghĩa tình đất nước, đồng bào. Kết thúc đoạn thơ là “Nhớ ôi Tây Tiến … nếp xôi”. Hình ảnh “ cơm lên khói”, “ thơm nếp xôi” tạo cảm giác êm dịu. Hai chữ “ nhớ ôi” làm lắng xuống tâm hồn bởi một niềm thương nhớ da diết, nhớ về những bữa cơm thân mật đầy ắp tình quân dân quanh nồi cơm bốc khói. Hai chữ “ mùa em” là cách dùng từ dí dỏm của những người lính khi họ đón nhận những gói xôi nếp và tấm lòng thơm thảo của những cô gái vùng Mai Châu. ==> Sức hấp dẫn chủ yếu của đoạn thơ là vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ của núi rừng Tây Bắc trải dài theo chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến. Nhà thơ đã chuẩn bị cho sự xuất hiện và cuốn hút của một Tây Tiến khác khi khép lại phần đấu bằng hai câu “ Nhớ ôi… nếp xôi”. 3/ Nghệ thuật -. Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.. -. Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các từ chỉ địa danh, từ tượng hình, từ Hán. Việt,… -. Kết hợp chất nhạc và chất họa.. => Tất cả những nt trên nhằm làm bật nỗi nhớ của nhà thơ về những kỉ niệm của một thời chinh chiến, những cuộc hành quân gian khổ với thiên nhiên sông Mã vừa khắc nghiệt, vừa hùng vĩ, vừa dữ dội nhưng cũng thơ mộng. Kết bài : Tóm lại, đoạn thơ phân tích đã vẽ nên một bức tranh hoành tráng về sự hiểm trở, hoang vu, hùng vĩ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc trải dài theo chặng đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> Sẽ không có Tây Tiến nếu như không có Quang Dũng. Tây Tiến được coi là tác phẩm xuất sắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp với bút pháp lãng mạn, đậm chất nhạc và chất họa của Quang Dũng. Đề 2: Em hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng: “ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Mở bài -. Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài : làm thơ, viết văn, vẽ tranh, … Nhưng ông thành công trước. hết là một nhà thơ, một hồn thơ lãng mạn, diễn tả một cách tinh tế, tài hoa vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Bài thơ “Tây Tiến” ra đời vào cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã rời xa đơn vị của mình. - Đoạn thơ là nỗi nhớ của nhà thơ về cảnh vật Tây Bắc thật tươi đẹp và thơ mộng còn con người thì duyên dáng đáng yêu. Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của thiên nhiên và con người nơi xứ lạ. “Doanh trại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . đong đưa” Thân bài: 1) Giới thiệu khái quát bài thơ (Cần gọn) - Tây Tiến là một cảm hứng bắt nguồn từ kỉ niệm, kỉ niệm về một đoạn đời chiến đấu, về một miền đất, kỉ niệm về những người đồng đội và cả những kỉ niệm khó quên về chính mình. Bởi thế, cảm xúc bao trùm cả bài thơ là nỗi nhớ. Nỗi nhớ bắt đầu từ một Tây Tiến hùng vĩ, dữ dội đầy thử thách đối với người chiến sĩ. Tiếp đến là một Tây Tiến lãng mạn, trữ tình với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người phương xa xứ lạ để rồi kết lại là bức tượng đài sừng sững về người lính Tây Tiến. Cuối cùng là mối hoài niệm trong tâm tưởng của nhà thơ. - Kết cấu bài thơ tuân theo logic của mạch hồi tưởng : Nỗi nhớ từ thực tại vọng về miền quá khứ và từ quá khứ quay về thực tại. - Đoạn hai của bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ về cảnh vật Tây Bắc thật tươi đẹp và thơ mộng..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> 2) Phân tích đoạn thơ a. Cảnh sinh họat vui vẻ đầy ấm tình dân quân - Trước hết tác giả tái hiện lại một đêm liên hoan văn nghệ vui vẻ giữa bộ đội và nhân dân Tây Bắc qua những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng “ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên chăn xây hồn thơ” - Cụm từ bừng lên thể hiện sự tưng bừng, bừng sáng. Tất cả doanh trại tràn trề ánh sáng. Ánh sáng “đuốc hoa”, của tình quân dân, của niềm vui, niềm lạc quan náo nức. - “Hội đuốc hoa” thể hiện một đêm hội thật nhộn nhịp sôi nổi. Nhưng ở một khía cạnh khác ta gặp nét tinh nghịch đầy ẩn ý : Hội đuốc hoa còn giúp người đọc nghĩ tới một đám cưới vui tươi, tràn trề hạnh phúc. - Trong khung cảnh đó, những cô gái Tây Bắc xuất hiện gây ấn tượng mạnh cho những chàng trai trẻ “Kìa em” là cái nhìn ngỡ ngàng, ngạc nhiên và vui sướng của các chàng trai Tây Tiến trước sự xuất hiện đột ngột, đẹp đẽ của những cô sơn nữ. - Những cô gái xinh đẹp, e thẹn, tình tứ trong vũ điệu đậm đà nồng nàn “Khèn lên man điệu nàng e ấp” khiến các chàng trai say mê, hạnh phúc theo từng vũ điệu ấy . - Màu sắc chan hòa âm thanh “tiếng khèn” sôi động và tình tứ làm sao. Các cô gái như những cô dâu đầy e ấp và hạnh phúc. - Mỗi tâm hồn như đang đọng lại những cảm xúc lâng lâng khó tả, họ như đang “xây hồn thơ”. Cảnh vật tươi tắn, trẻ trung. Con người ngất ngây, rạo rực. Đoạn thơ thể hiện cái nhìn chiêm ngưỡng say sưa mà đa tình của người lính Tây Tiến. b. Cảnh sông nước mênh mang, mờ ảo Đọan thơ tiếp theo khắc họa vẻ đẹp hoang dã nên thơ gợi lên cảm giác mênh mông mờ ảo “ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo nến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Cảnh ở đọan trên là cảnh trong đêm liên hoan tình tứ. Cảnh ở đọan thơ này là một buổi chiều “giăng mắc sương sa” ( Liên hệ : Nghìn đêm thăm thẳm sương dày) – Việt Bắc (Tố Hữu) - Âm điệu: nhịp nhàng, trữ tình tha thiết è gợi kỉ niệm êm đềm..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> - Những từ ngữ “chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ” è vẻ lại cảnh thiên nhiên hoang sơ, lặng lờ hoang vắng như thời tiền sử. Gợi cảm giác man mác dịu dàng trước những linh hồn lau lách nơi bến bờ sông Mã, tác giả nhân hóa những cây lau như thấu hiểu tâm tình của người lính trẻ. - Nổi bật trên dòng sông huyền thoại, dòng sông cổ tích - con Sông Mã là dáng hình mềm mại uyển chuyển của những cô gái người Thái trên chiếc thuyền độc mộc. cũng có thể đó là dáng đứng đẹp, hiên ngang, anh dũng của những chàng trai cô gái khi chèo thuyền trên sông Mã. - Người như hòa trong cảnh, cảnh có cái dữ dội (nước lũ) nhưng vẫn hịên lên vẻ đẹp duyên dáng “hoa đong đưa” - những cánh hoa “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ. è Qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, không tả mà chỉ gợi nhưng đã làm bật vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Chất thơ và chất nhạc hòa quyện. Cảnh vật và con người hòa hợp với nhau làm nổi bật vẻ đẹp cho nhau. 3/ Nghệ thuật -. Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.. -. Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các từ chỉ địa danh, từ tượng hình, từ Hán. Việt,… -. Kết hợp chất nhạc và chất họa.. => Tất cả những nt trên nhằm làm bật nỗi nhớ của nhà thơ về cảnh vật Tây Bắc thật tươi đẹp và thơ mộng còn con người Tây Bắc thì duyên dáng đáng yêu. Kết bài: Có thể nói ngòi bút Quang Dũng thật sự xuất thần, khi hạ bút viết lên những vần thơ tài hoa như thế. Cảnh vật thật có hồn. Hình ảnh con người mờ ảo trong chiều sương Châu Mộc. Chất thơ và chất nhạc khó tách bạch trong đọan thơ này. Vì thế, có người đã từng ca ngợi : “Tây Tiến biên cương mờ mịt khói Quân đi lớp lớp động cây rừng Bài thơ Tây Tiến con người ấy Vẫn sống muôn đời với núi sông” Đề 3: Trong bài thơ Tây Tiến Quang Dũng viết : “Tây Tíên đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Em hãy phân tích đoạn thơ trên. (THI HKI, 2013-2014) Mở bài : - Quang Dũng là một người đa tài : làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc,… Nhưng Quang Dũng thành công trước hết là một nhà thơ, một hồn thơ lãng mạn, diễn tả một cách tinh tế, tài hoa vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Bài thơ “Tây Tiến” ra đời vào cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã rời xa đơn vị của mình. - Tây Tiến là một cuộc hành quân dài trên một địa bàn rộng lớn mà đa phần là rừng núi hiểm trở, khắc nghiệt. Cho nên, đoàn quân Tây Tiến đã phải chịu đựng biết bao nhiêu là gian khổ, tưởng chừng như đã vượt qua giới hạn sức chịu đựng của con người. Đoạn thơ “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ………………………………………. Sông Mã gầm lên khúc độc hành” thể hiện cảm hứng bi tráng về cuộc chiến đấu gian khổ, hi sinh nhưng hết sức hào hùng của đoàn quân Tây Tiến. Thân bài : 1) Giới thiệu khái quát bài thơ (Cần gọn) - Tây Tiến là một cảm hứng bắt nguồn từ kỉ niệm, kỉ niệm về một đoạn đời chiến đấu, về một miền đất, về những người đồng đội và cả những kỉ niệm khó quên về chính mình. Bởi thế, cảm xúc bao trùm cả bài thơ là nỗi nhớ. Nỗi nhớ bắt đầu từ một Tây Tiến hùng vĩ, dữ dội đầy thử thách đối với người chiến sĩ. Tiếp đến là một Tây Tiến lãng mạn, trữ tình với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người phương xa xứ lạ để rồi kết lại là bức tượng đài sừng sững về người lính Tây Tiến. Cuối cùng là mối hoài niệm trong tâm tưởng của nhà thơ. - Kết cấu bài thơ tuân theo logic của mạch hồi tưởng : Nỗi nhớ từ thực tại vọng về miền quá khứ và từ quá khứ quay về thực tại. - Đoạn ba của bài thơ là bức chân dung sừng sững về người lính Tây Tiến được vẽ bằng những nét bút khác lạ, phi thường. 2) Phân tích đoạn thơ a) Hai câu đầu : ngoại hình chiến sĩ Tây Tiến độc đáo, ấn tượng, gân guốc “TT đoàn binh … dữ oai hùm” -. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên một cách độc đáo, khác thường qua chi tiết “ không mọc. tóc” và “quân xanh màu lá”. Đây là hình ảnh chân thực của người vệ quốc quân nổi tiếng một thời mà người ta vẫn gọi là anh “ vệ trọc”. Đơn vị đóng quân và chiến đấu trong vùng rừng núi hết sức gian.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> khổ, thiếu thốn thuốc men, bệnh sốt rét hoành hành đã khiến những người lính bị rụng tóc và nước da xanh tái. Hiện thực được khúc xạ qua bút pháp lãng mạn của Quang Dũng trở thành cách nói mang khẩu khí lính Tây Tiến, có cái gì đó dữ dội, ngang tàng, cứng cỏi : “ không mọc tóc” chứ không phải chứ không phải tóc không thể mọc vì sốt rét. Cách nói chủ động làm cho người lính Tây Tiến như từ cái dữ dội của rừng thiêng mà ra, xuất quỹ nhập thần trong mỗi nhiệm vụ. -. Quang Dũng muốn khắc họa ngoại hình của người lính với vẻ xanh xao, tiều tụy để làm nổi bật. tinh thần, khí phách hiên ngang, bất khuất của họ như chúa sơn lâm “dữ oai hùm” . Nét độc đáo của Quang Dũng là đã khắc họa hình ảnh của người lính bằng cách lãng mạn hóa những nét gian khổ để tạo nên biểu tượng của cả đoàn quân. Trong cái nhìn của nhà thơ, không còn hình ảnh người lính sốt rét đến rụng tóc mà chỉ còn hình ảnh “ đoàn binh không mọc tóc” lẫm liệt uy nghi. Cũng không còn hình ảnh người lính xanh xao vì đói rét, bệnh tật mà chỉ còn hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Cái hùng đã thay thế cho cái bi, cái tráng đã thay thế cho cái gian khổ, hi sinh và những chính cái gian khổ, hi sinh bỗng chốc trở thành biểu tượng độc đáo của đoàn quân TT. b) Hai câu tiếp theo “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thể hiện tâm hồn lãng mạn đầy mộng mơ của đoàn quân TT. -. Câu thơ trên nói về cái chí của người lính . Ý chí hào hùng ấy thể hiện trong ánh mắt “ trừng. gửi mộng qua biên giới”. Hình ảnh “ mắt trừng” vừa dữ dội vừa hào hùng, là chi tiết cực tả cái phẫn nộ sôi sục của nội tâm luôn hướng về nhiệm vụ chiến đấu. Đó là ánh mắt của những trang kiếm khách, những tráng sĩ ngày xưa; ánh mắt của sự căm thù. Quang Dũng đã mượn vẻ đẹp xưa để xây dựng hình ảnh những người lính trẻ thời hiện đại. Những người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp dữ dội, hùng tráng thể hiện ý chí, ước mơ trả thù nhà, đền nợ nước, mộng lập công danh nơi biên cương xa xôi. -. Câu thơ dưới nói về cái tình . Đó là cái tình bâng khuâng, nhung nhớ được thể hiện qua niềm. mơ tưởng về một “ dáng kiều thơm” ở Hà Thành. Nếu người lính trong “Đồng chí” (Chính Hữu ) nhớ “ giếng nước, gốc đa”, thì người lính của Quang Dũng lại nhớ “dáng kiều thơm” ở Hà Nội. Nhà thơ đã thể hiện đúng bản chất của người lính vốn xuất thân là học sinh, sinh viên, trí thức trẻ của đất thủ đô. Hơn nữa, hình ảnh “ dáng kiều thơm” không hề làm giảm sút ý chí chiến đấu của họ mà trái lại nó là động lực thôi thúc người chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn gian khổ, là lời thúc giục họ tiến lên phía trước, cũng là sợi dây thiêng liêng của niềm tin để họ vượt qua bom đạn trở về quê hương. ==> Hình ảnh đối lập “ mắt trừng” và “đêm mơ” phản ánh rất chính xác vẻ đẹp trong tâm hồn của người lính Tây Tiến dữ dội và lãng mạn. Trong các anh có hai con người : chiến sĩ và nghệ sĩ luôn tồn tại song song. c) Bốn câu thơ còn lại : ý chí quyết tâm của người lính.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> “Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành” -. Bốn câu thơ nói về sự hi sinh, về cái chết của người lính. Thật bi nhưng cũng thật hùng tráng.. Quang Dũng không né tránh mà ông đã nói lên một sự thật mang tính chất quy luật của chiến tranh. -. Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” đã vẽ nên một bức tranh hết sức bi tráng về cái chết. của người lính. Câu thơ có 7 chữ nhưng hàm chứa một lượng thông tin lớn. Nếu đứng riêng một mình, ấn tượng bi thảm của câu thơ càng ghê gớm. -. Nhưng các câu thơ còn lại đã nâng cái bi thảm lên thành cái bi tráng. + Tác giả đã nói lên đựơc cái cốt lõi trong nhân cách của người lính : “ Chiến trường đi chẳng. tiếc đời xanh”. Câu thơ giống như một triết lí sống, một phương châm sống : “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Họ ra đi là quyết tâm chiến đấu không hẹn ngày về, sẵn sàng hi sinh tuổi trẻ, cuộc đời của mình cho quê hương. Vượt lên tất cả là khát vọng được ra đi, được dâng hiến, được xả thân. Hào khí của thời đại đã ùa vào chắp cánh cho câu thơ này. Tinh thần “một đi không trở lại” của những người chinh phu tráng sĩ thời xưa đã gửi gắm trong cách diễn đạt khẩu khí ấy để trở thành lí tưởng khát vọng của người chiến sĩ. + Câu thơ nói về cái chết nghe nhẹ tênh : “ Áo bào thay chiếu anh về đất”. Sao mà bi tráng thế! Chết là thực và đây cũng là một chi tiết mang tính chân thực : những người lính Tây Tiến khi chết không có được manh chiếu để bó thây mà chỉ được chôn xuống lòng đất trong chính bộ quân phục của mình. Nhưng Quang Dũng đã nói khác đi bằng hình ảnh “ áo bào thay chiếu”. Đó chính là tấm áo mà người chiến sĩ đã mặc và chiến đấu cho đến giờ phút cuối cùng. Quang Dũng còn tinh tế khi dùng từ “ về đất”. “Về đất” không chỉ có nghĩa là được chôn xuống đất mà còn có nghĩa là về với lòng đất mẹ sau khi đã thực hiện xong nhiệm vụ của mình. Các từ Hán Việt : chiến trường, biên cương, viễn xứ, áo bào đã góp phần thể hiện sự trang trọng khi miêu tả những mất mát hi sinh của người lính Tây Tiến. + Bi tráng nhất có lẽ là câu thơ kết thúc : “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Có cái chết nào mà không gây đau thương! Càng đau buồn hơn nữa khi chứng kiến cái chết của những người lính còn rất trẻ. Trước cái chết ấy, không chỉ có người khóc mà dòng sông Mã cũng gầm lên. Thiên nhiên, tạo vật cũng đau xót. Câu thơ mang âm hưởng hùng tráng. Chữ “ gầm” được trao cho dòng sông Mã, trở thành một tiếng khóc lớn. Nó vừa như tiếng kèn đưa tiễn linh cữu người lính về cõi vĩnh hằng, vừa nâng người lính lên tầm sử thi hoành tráng. Cái chết lớn cần phải có tiếng khóc lớn như thế ! ==> Đoạn thơ có sự kết hợp giữa bút pháp lãng mạn và màu sắc bi tráng. Bút pháp lãng mạn chủ yếu được bộc lộ qua 4 câu đầu. Tác giả nhiều lần viết về cái bi, sự mất mát, song buồn mà không ủy mị cúi đầu, mất mát mà vẫn cứng cỏi, gân guốc. Màu sắc bi tráng chủ yếu được thể hiện.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> trong 4 câu thơ còn lại. Cái bi hiện ra qua hình ảnh những nấm mồ hoang lạnh dọc đường hành quân, người chiến sĩ hi sinh không có cả manh chiếu tạm. Nhưng cái tráng của khát vọng cống hiến đời xanh cho Tổ quốc, cái tráng của “ áo bào thay chiếu”, cái tráng của điệu kèn thiên nhiên “ gầm lên” dữ dội, cuồn cuộn đổ về xuôi đã nâng đỡ hình ảnh thơ và truyền cảm xúc bi tráng vào lòng người. 3/ Nghệ thuật : -. Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.. -. Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các từ chỉ địa danh, từ tượng hình, từ Hán. Việt,… -. Kết hợp chất nhạc và chất họa.. è Với sự kết hợp nhuần nhuyễn các nt trên, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài sừng sững về người lính Tây Tiến : mất mát, hi sinh nhưng vẫn hào hùng, hào hoa lãng mạn, đậm chất bi tráng. Kết bài : -. Tóm lại, bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn, giọng thơ bi tráng hào hùng cùng với nhiều biện. pháp nghệ thuật, chỉ với tám câu thơ, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa được một cách đầy đủ, rõ nét hình tượng người lính Tây Tiến, những con người hào hùng, hào hoa, lãng mạn, sống anh dũng, chết vẻ vang. -. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ Tây Tiến nói chung như một thư viện cất giữ những kỉ niệm về một. thời kháng chiến hào hùng của dân tộc; cũng như một bảo tàng lịch sử về cuộc chiến tranh giữ nước, cất giữ những bức tượng đài nghệ thuật về người lính, để tượng đài ấy mãi mãi bất tử với lòng người, với thời gian. Đề 4 : Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. MỞ BÀI: - Quang Dũng là một người đa tài : làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc,… Nhưng Quang Dũng thành công trước hết là một nhà thơ, một hồn thơ lãng mạn, tài hoa. Bài thơ “Tây Tiến” ra đời vào cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã rời xa đơn vị của mình. - Bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc nhất là hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp bi tráng; đậm chất lãng mạn, hào hoa bay bổng, mang dấu ấn riếng của hồn thơ Quang Dũng. THÂN BÀI: 1) Về tính bi tráng: - Khi nói đến tính chất bi tráng của một tác phẩm văn học nào đó, người ta thường nói đến sự song song, hòa quyện giữa hai yếu tố “bi” và “tráng”. “Bi” là đau buồn còn “tráng” là khỏe khoắn, mạnh mẽ, hào hùng. “Bi tráng” là nói đến đau buồn do gian khổ, bệnh tật, mất mát, hi sinh nhưng lại hào hùng, không than vãn, không khổ lụy..

<span class='text_page_counter'>(52)</span> - Vẻ đẹp “bi tráng” của người lính Tây Tiến thể hiện ở sự hào hùng, mãnh liệt; ý chí chiến đấu quên mình, tâm hồn hào hoa, lãng mạn giữa bao gian khổ và hi sinh. Họ “bi” mà không “lụy”, buồn đau mà hùng tráng, mất mát, hi sinh mà vẫn lạc quan, yêu đời. 2) Người lính tây Tiến phải chiến đấu và đối mặt với nỗi “bi thương” - Các anh phải chiến đấu trong hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt, hoang dại, bí hiểm, dữ dằn của núi cao, vực sâu, dốc thẳm; với mưa rừng, thác gầm, cọp dữ . . . Đó là “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi…” Hay “ Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Hoặc: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” - Các anh phải chiến đấu giữa một thực tế chiến tranh tàn khốc, người lính có thể ngã xuống vì sốt rét, vì bệnh tật (thiếu thuốc trầm trọng – thuốc quí hơn vàng); vì đói khổ, vì bom đạn . . . . “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm” - Cái chết đồng hành với mỗi bước chân trên đường chiến trận : “Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” 3) Giữa “bi thương” của chiến tranh tàn khốc, người lính Tây Tiến ngời sáng vẻ đẹp hào hùng, lẫm liệt; tâm hồn lãng mạn, hào hoa. a. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, lẫm liệt – có bóng dáng của tráng sĩ xưa nhưng cũng rất thời đại, rất mới mẻ: -. Các anh bước vào cuộc chiến đấu khốc liệt với tư thế hiên ngang, bất chấp hiện thực nghiệt ngã. (“Heo hút cồn mây súng ngửi trời” . . . / “ . . . đoàn binh không mọc tóc” – “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” – xem phần phân tích các đề trên) è thể hiện sự hiên ngang, bất khuất của người lính Tây Tiến. -. Các anh luôn tiềm tàng một tinh thần bất khuất, ý chí chiến đấu quên mình : (có người “dãi dầu. không bước nữa” – “Gục lên súng mũ bỏ quên đời” nhưng hồn họ vẫn theo đồng đội bước tiếp “Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳm” . . . ) -. Cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. nhưng cái bi thương ấy lại mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vỉ Tổ quốc “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> - Các anh hi sinh một cách thanh thản, xem cái chết nhẹ như lông hồng ( “Áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành”) b. Vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa: -. Vẻ đẹp lãng mạn không chỉ ở vẻ ngoài “oai hùm”, “phóng túng” . . . mà các anh còn là những con người có tâm hồn lãng mạn, đa cảm, xúc động và có cái nhìn tinh tế, mộng mơ : Cảm nhận được từng làn hương hoa đêm “Mường lát hoa về trong đêm hơi”, từng mùi thơm của “cơm lên khói”, “thơm nếp xôi”, . . .. -. Có những câu thơ như những khoảnh khắc thăng hoa đầy lãng mạn trong chiến tranh tàn khốc: “ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ”. -. Đôi mắt lãng mạn của người lính còn cảm nhận được vẻ đẹp đây chất thơ của thiên nhiên, con người, cuộc sống miền Tây Tổ quốc: “ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo nến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” è Những câu thơ đem đến cho người đọc sự cảm nhận sâu sắc về thế giới của cái đẹp của thi ca, nhạc họa, của tình yêu và tình người luôn hiện hữu, bất chấp hiện tại gian nan khắc nghiệt, bất chấp cái chết luôn đồng hành . . . -. Cũng bằng cảm quan đầy chất lãng mạn, lí tưởng hóa, sự hi sinh của những người lính vô danh đã. được biểu hiện bằng hình tượng thơ mang vẻ đẹp thiêng liêng, kì vĩ . . . .. “ Áo bào thay. chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành” 4) Vẻ đẹp bi tráng là đặc điểm chủ đạo và là điểm khác biệt giữa hình tượng người lính trong Tây Tiến so với hình tượng người lính trong các tác phẩm của thơ ca thời kì chống pháp (Cá nước – Tố Hữu; Đồng chí – Chính Hữu; Nhớ - Hồng Nguyên . . . ) Nguyên nhân khác biệt: - Thứ nhất : những người lính Tây Tiến hầu hết là những chàng trai trí thức đất Hà Thành – đất kinh kì, hoa lệ. Thuở ấy, họ ra đi với ý chí chiến đấu mạnh mẽ nhưng tâm hồn vẫn đậm chất lãng mạn, bay bổng. Viết về người lính của đất kinh kì đầy lãng mạn bằng một giọng điệu bi hùng và những hình ảnh có chất cổ điển, lí tưởng hóa như vậy là phù hợp. - Thứ hai : xuất phát từ tâm hồn của chính chủ thể trữ tình : hồn thơ Quang Dũng (tác giả). Một Quang Dũng đa tài, lãng mạn, hào hoa . . . đã tạo nên một Tây Tiến bi tráng, hào hùng. 5/ Đánh giá nd, nt:.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> -. Vẻ đẹp bi tráng là sự thể hiện cao nhất của nguồn cảm hứng lãng mạn. Chính tính chất bi. tráng ấy đã tạo nên tượng đài bất tử về người lính TT. -. Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.. -. Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các từ chỉ địa danh, từ tượng hình, từ Hán. Việt,… -. Kết hợp chất nhạc và chất họa.. KẾT BÀI: - Nhận định tổng quát về đặc trưng của hình tượng nghệ thuật: chất lãng mạn và chất anh hùng trong hình tượng người lính không thể tách rời, không mâu thuẫn mà luôn hòa nhập để tạo nên vẻ đẹp vừa lí tưởng, vừa hiện thực của hình tượng thơ. -. Nhận định tổng quát về đóng góp của Quang Dũng trong cách biểu hiện hình tượng người lính. trong thơ kháng chiến chống Pháp. Bài 3: VIỆT BẮC A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN Phần một : tác giả Tố Hữu I/ Vài nét về tiểu sử : Xem SGK II/ Đường cách mạng, đường thơ : Xem SGK và tập học. III/ Phong cách thơ (Phong cách nghệ thuật) Tố Hữu : Xem tập học. Phần hai : bài thơ Việt Bắc I/ Hoàn cảnh sáng tác: Xem tập học II/ Văn bản 1/ Nội dung -. Tám câu thơ đầu : khung cảnh chia tay và tâm trạng của con người. + Bốn câu trên : lời ướm hỏi, khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn. cội, tình nghĩa; qua đó, thể hiện tâm trạng của người ở lại. + Bốn câu thơ tiếp : tiếng lòng người về xuôi bâng khuâng lưu luyến. -. Tám mươi hai câu sau : những kỉ niệm về Việt Bắc hiện lên trong hoài niệm. + Mười hai câu hỏi : gợi lên những kỉ niệm ở VB trong những năm tháng qua, khơi gợi, nhắc. nhớ những kỉ niệm trong những năm cách mạng và kháng chiến. Việt Bắc từng là chiến khu an toàn, nhân dân ân tình, thủy chung, hết lòng với cách mạng và kháng chiến. + Bảy mươi câu đáp : mượn lời đáp của người về xuôi, nhà thơ bộc lộ nỗi nhớ da diết với Việt Bắc; qua đó, dựng lên hình ảnh chiến khu trong kháng chiến anh hùng và tình nghĩa thủy chung. Nội dung chủ đạo là nỗi nhớ Việt Bắc, những kỉ niệm về Việt Bắc (bốn câu đầu đoạn khẳng định tình.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> nghĩa thủy chung son sắc; hai mươi tám câu tiếp nói về nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng và con người, cuộc sống nơi đây; hai mươi tám câu tiếp theo nói về cuộc kháng chiến anh hùng; mười sáu câu cuối đoạn thể hiện nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc, những kỉ niệm về cuộc kháng chiến). 2/ Nghệ thuật : Xem tập học. 3/ Ý nghĩa văn bản : Xem tập học. B – ĐỀ LUYỆN TẬP: ĐỀ 1: Cảm nhận về đoạn thơ sau đây trong bài thờ “Việt Bắc” của Tố Hữu: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không? Nhìn cây nhớ núi , nhìn song nhớ nguồn Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi Aó chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. I. Mở bài : - Tác giả, tác phẩm. - Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân ly: “Mình về mình có nhớ ta …. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. II. Thân bài: 1. Toàn đoạn thơ có 8 câu, được viết theo thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng tha thiết mang âm hưởng của ca dao dân ca, là lời ướm hỏi và sự giãi bày nỗi niễm, cảm xúc của cả người đi lẫn người ở lại. 2. a. Trước hết, mở đầu đoạn thơ là 4 câu thơđầu là lời ướm hỏi chân thành của Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong giây phút ban đầu của cuộc chia tay: “Mình về mình có nhớ ta. … Nhìn cây nhớ núi nhìn song nhớ nguồn”. - Gịong thơ như chảy ra từ trong nguồn mạch của ca dao..

<span class='text_page_counter'>(56)</span> + Cách xưng hô “mình- ta” cứ như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa trong dân gian .Đại từ “mình” trong dân gian chỉ thể hiện ở cao trào của tình yêu khi hai con người hoá thân thành một. Ở đây, tác giả lấy phép màu nhiệm của tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa các bộ với nhân dân. + Điệp ngữ và kết cấu câu hỏi tu từ “ mình về mình có nhớ”được láy lại 2 lần như khơi vào trong kỷ niệm của người đi và người ở. + Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm…” làm cho nỗi nhớ càng như thăm thẳm .Con số mười lăm nămvừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười lăm năm các mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc ( như mối tình Kim- Kiều qua bao nhiêu năm thử thách vẫn hướng về nhau). +Cách dùng hình ảnh gợi ý niệm về không gian “cây…núi”; “sông…nguồn” làm cho nỗi nhớ bồng bềnh, thăm thẳm . Các cặp hình ảnh “ cây-núi”; “sông-nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo.--> gợi được không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Ngoài ra, nó còn gợi lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ dân mà ra. Nhớ về nhân dân, như nhớ về cội nguồn  Cách liên tưởng so sánh trong bài thơ đã nới rộng về không gian của nỗi nhớ, làm cho kỷ niệm cứ được tuôn ra tầng tầng lớp lớp. b.Tiếp theo, 4 câu sau là sự thể hiện tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến, bịn rịn của người đi với người ở lại Tiếng ai tha thiết bên cồn …. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. -Giây phút chia li trong tưởng tượng diễn ra cực kỳ sâu sắc với những cảm xúc ghìm nén trong tâm trạng của người đi : + Đại từ “ai” phiếm chỉ tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ ( như cách bày tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…). + Những từ láy “ tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” diễ tả chính xác con sóng lòng đang dấy lên trong tâm hồn nhà thơ lúc phân ly. + Hình ảnh hoán dụ “Aó chàm” ( chỉ người Việt Bắc) đã thể hiện tình cảm gắn bó của nhà thơ với những người dân Việt Bắc giản dị, nghèo khổ mà sâu đậm ân tình. + Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả mộc cách thân tình cái ngập ngừng , bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở.Kỷ vật trao rồi mà mà lòng vẫn quyến luyến không thể rời xa..

<span class='text_page_counter'>(57)</span> III. Kết bài: - Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. - Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. -Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với “Việt Bắc”. Đề 2 : Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Việt Bắc ” của Tố Hữu: “Nhớ gì nhơ nhớ người yêu Trăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương. Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi” Mở bài : - Giới thiệu ngắn gọn tác giả, hoàn cảnh sang tác của bài thơ. - Đoạn thơ “ Nhớ gì như nhớ người yêu……Mình đây , ta đó đắng cay ngọt bùi thuộc phần 2 của bài thơ Việt Bắc - Sau bối cảnh phân li là lời đối đáp của kẻ ở người đi : người ở lại nhắn nhủ người ra đi mười hai dòng lục bát.Còn người đi đáp lại người ở lại những 72 dòng. Trong 72 dòng ấy, nỗi nhớ được khơi ra chồng chất; vàmột trong nhiều nỗi nhớ ấy có nỗi nhớ da diết “ như nhớ người yêu” của người đi. .II. Thân bài: 1. Trước hết, ở 2 câu đầu của đoạn thơ : “Nhớ gì như nhớ người yêu. Trăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương” - Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. - Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian :vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược - nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu .Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm..

<span class='text_page_counter'>(58)</span> 2. Đến hai câu thơ tiếp, tình yêu như chuyển thành nỗi nhớ trong tình cảm gia đình. Toàn không gian núi rừng Việt Bắc được gói gọn trong không khí gia đình ấm áp tình thương. “Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” - Nỗi nhớ không còn mông lung, mơ mộng nữa mà đã cụ thể trong những bản làng, những mái nhà thấp thoáng trong những làn khói sương hư ảo. ( Hình ảnh khói sươnglà đặc điểm của cuộc sống Việt Bắc, vừa là khói sương của thiên nhiên, đồng thời như là hơi ấm của tình đời, tình người toả ra) .Có hình ảnh của ai đó đang chờ đợi bên bếp lửa suốt đêm dài thao thức ( cứ như cảnh vợ chờ cơm chồng). Quan hệ giữa cán bộ và nhân dân như tụ họp ở ngọn lửa bất diệt thiêng liêng ấy. 3.Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bác.Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi : “Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy suối Lê vơi đầy Ta đi ta nhớ những ngày, Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi” - Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác. + Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu ,lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chungmô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng. + Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa danh lịch sử , đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng- nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt . à Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được. III. Kết :Đoạn thơ là những hồi ức và nỗi nhớ thương da diết của người đi với Việt Bắc.--> Tấm lòng của CBKC với Việt Bắc sâu đậm ân tình.Đoạn thơ còn là sự thể hiện thành công phong cách thơ Tố Hữu : ngọt ngào tha thiết và đậm đà tính dân tộc..... Đề 3 : Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu : “ Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu sung bạn cùng mũ nan.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Dân công đỏ đước từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sang như ngày mai lên Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”. ( Theo Văn học 12- tập một). I. Mở bài ( vận dụng cách mở bài của đề 1 và đề 2). II. Thân bài : *Cần là rõ các nội dung cần phân tích trong đoạn thơ : - Đoạn thơ ghi lại cảnh tượng hào hùng , sôi động, đầy khí thế của cuộc kháng chiến chống Pháp . Cảnh tượng ấy được đặc tả qua : 1. Hai câu đầu 2. 6 câu tiếp. : Hình ảnh con đường Việt Bắc trong đêm kháng chiến. : Sức mạnh từ sự hợp lực của quân dân và niềm lạc quan, niềm tin của quân. dân trong cuộc kháng chiến gian khổ. 3.4 câu tiếp. : Niềm vui chiến thắng trên khắp mọi miền của Tổ quốc.. *Nội dung trên được nhà thơ biểu đạt qua các phương tiện nghệ thuật đặc sắc: 1.Cách chọn lọc những từ ngữ , hình ảnh gợi tả, gợi cảm ( rầm rập; điệp điệp trùng trùng; ánh sao đầu súng; bước chân nát đá…). 2. Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ ( phép điệp; so sánh; cường điệu, liệt kê…). 3. Gịong thơ sôi nổi, hào hùng thể hiện khí thế ra trận của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp. => Đoạn thơ thể hiện sâu sắc khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn . III. Kết bài ( vận dụng cách kết của các dàn bài của đề 1và đề 2) ĐỀ 4: Phần tích ( hay cảm nhận) về đoạn thơ sau đây trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu: “Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.” I. Mở bài (hs tự viết). II. Thân bài: 1. Hai câu đầu : Khái quát nỗi nhớ. - Hoa và người là những gì đẹp nhất của núi rừng Việt Bắc.“Hoa” là cách nói của nghệ thuật tượng trưng cho thiên nhiên và cũng là một bộ phận của thiên nhiên. - Trong nỗi nhớ của người về, hoa và người là hai hình ảnh đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên; người là sản phẩm kỳ diệu tuyệt vời của tạo hoá. Vì vậy, khi nhớ người thì hiện lên bong hoa, khi nhớ hoa thì hiện lên bóng người à ngụ ý ngợi ca vẻ đẹp người ở lại. 2. Tám câu sau : Một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc phong phú, rực rỡ, tươi thắm tượng trưng cho vẻ đẹp của bốn mùa: a.Trước hết, bức tranh mùa đông với “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”: - Mùa đông xuất hiện bằng màu một gam màu lạnh- nền xanh mênh mông tĩnh lặng của rừng già à gợi ra một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, xa vắng…Trên cái nền màu lạnh ấy lại nổi lên một gam màu nóng của “hoa chuối đỏ tươi” ( ở đây có thể liên tưởng : màu đỏ của hoa chuối gợi ra ý nghĩa tượng trưng cho màu đỏ của cách mạng mới được nhen nhóm, như xua đi cái lạnh ngàn năm của núi rừng mùa đông ). b.Tiếp theo,bức tranh mùa xuân với “Mơ nở trắng rừng” - một mùa xuân tràn ngập màu trắng của hoa mơà gợi sự dịu dàng, tinh khiết, thanh bạch, mộng mơ của tạo vật.Hai tiếng “trắng rừng” như làm cho khắp núi rừng bừng sang hẳn lên.Đây là hình ảnh giàu tính hiện thực nhưng thấp thoáng ý nghĩa tượng trưng : nó như gợi lên nét đẹp trong sang trong tâm hồn của con người Việt Bắc. Có thể nói, màu trắng của hoa mơ là màu sắc đặc trưng của núi rừng Việt Bắc. c. Bức tranh mùa hè hiện lên trong nỗi nhớ người đi không chỉ có màu sắc, đường nét, ánh sang mà còn có cả âm thanh ngân vang của tiếng ve gọi hè:”ve kêu rừng phách…” . Ve kêu gọi hè, hè về là rừng phách chuyển màu .Sống ở Việt Bắc, con người thường hay có cảm xúc bang khuâng trước những hình ảnh kỳ lạ của rừng phách : trong những ngày cuối xuân, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Khi tiếng ve cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Cách dùng từ “đổ”khá tinh tế, nhấn mạnh sự mau lẹ đột ngột của quá trình chuyển đổi của cây lá, nó diễn tả sức mạnh của những trận mưa hoa vàng khi gió thổi, ve kêu gọi hè. d. Bộ bức tranh bốn mùa kết thúc bằng bức tranh thu : đêm thu có ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành khung cảnh huyền ảo. Cảnh tượng này thích hợp với việc bộc lộ tâm tư thầm kín dành cho bộc.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> lộ tâm tư thầm kín dành cho thời điểm kết thúc những cuộc hát giao duyên . Câu thơ gợi không khí thanh bình,yên ả, báo hiệu sự bắt đầu cuộc sống yên vui. Câu thơ cũng gợi sự hoà hợp giữa thiên nhiên ( rừng thu) với vũ trụ ( trăng) với cuộc sống thanh bình yên vui trong sự hoà hợp của những tấm lòng nhân ái giữa người đi và người ở lại. 3. Hình ảnh con người Việt Bắc : - Bên cạnh nỗi nhớ thiên nhiên là nỗi nhớ con người Việt Bắc.Con người là hình ảnh luôn được đan cài, xen kẽ, hoà hợp với thiên nhiên. Sau mỗi câu lục nói về hoa là đến câu bát nói về người . Con người gắn bó khăng khít với thiên nhiên làm cho thiên nhiên bớt vẻ hoang sơ và thêm có hồn. Giữa thiên nhiên gợi cảm, con người hiện lên thật bình dị, đáng yêu và luôn gắn bó với lao động : - Hình ảnh con người trong mùa đông hiện lên với một dáng vẻ, tư thế hiên ngang trong lao động “ dao gài thắt lưng”; mùa xuân lại gắn với bàn tay dịu dàng, cần mẫn của các cô gái“chuốt từng sợi giang” ( hình ảnh giống như cảnh phim quay chậm, không chỉ giúp người đọc thấy rõ đường nét, hình khối, động tác của người lao động mà còn thấy cả ý nghĩ đắn đo, thận trọng, tỉ mỉ trong từng công việc). - Hình ảnh “Cô gái hái măng một mình” trong mùa hạ vừa gợi sự cần cù, chăm chỉ, kiên nhần lại vừa gợi cái không gian bao la, mênh mông của núi rừng Việt Bắc. - Nhớ người Việt Bắc, người về còn nhớ cả “ tiếng hát ân tình thuỷ chung” . Đó là tâm hồn, là tình cảm của những con người miệt mài, chăm chỉ với công việc, lặng lẽ cưu mang trong mình những rung động, cảm xúc trước đất trời, trước cuộc đời. III. Kết bài : -. Trong bộ tranh bốn màu này, hoa- người đều đẹp lung linh, rạng rỡ, gắn bó mật thiết với nhau : hoa đứng cạnh người, người đứng cạnh hoa …tất cả như càng làm tôn lên vẻ đẹp của nhau.. -. Bức tranh như in rõ dấu ấn của tấm lòng nhà thơ với cái nhìn chứa chan tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người của nhà thơ. Đề 5: Phân tích đoạn thơ sau: “Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> Mình về, có nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa…” (Trích “Việt Bắc” – Tố Hữu) I. Mở bài: - Việt Bắc là một khúc hát trữ tình chính trị, thuộc số những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. - Tác phẩm thể hiện ân tình sâu nặng, đằm thắm của người cách mạng đối với quê hương Việt Bắc. Đồng thời là những dịng xc cảm đầy cảm động về nghĩa tình ăm ắp lưu luyến nhớ nhung của người Việt Bắc đối với những cán bộ kháng chiến - Trích dẫn thơ. II. Thân bài: * Lời của Việt Bắc chỉ có 12 câu lục bát nhưng tất cả đều xoáy vào kỉ niệm không thể nào quên của những ngày CM còn trứng nước: - Kỉ niệm của một thời vận động đấu tranh cách mạng gian nan và khổ cực.Những từ ngữ, những hình ảnh chỉ cần nhắc cũng gợi ra nỗi nhớ cảm động: “Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù -> Hình ảnh “mưa nguồn – suối lũ – mây mù” vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng cho những khó khăn, thử thách, khốn khó, cơ cực mà đồng bào và cán bộ đã phải chịu đựng và vượt qua - Đó là những kỉ niệm thắm thiết nghĩa tình sâu nặng: + Cũng chính trong hoàn cảnh đó, Việt Bắc và con người VB càng “ đậm đà lòng son”, cưu mang cách mạng và những người con cách mạng. Bốn chữ “đậm đà lòng son” cứ ấm nóng, tỏa sáng không chỉ trong bài thơ mà cả ở trong lòng người. + Câu thơ “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” tạo ra một tiểu đối vừa gợi sự gian khổ, vừa như cụ thể hóa mối thù của cách mạng: phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Mối thù dân tộc như đè nặng lên vai của mọi người. - Kỉ niệm về những năm tháng vẻ vang, oanh liệt thời tiền khởi nghĩa +“Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh” -> Với những người trong cuộc chỉ cần gợi nhớ như vậy là đủ. Kết thúc giai đoạn lịch sử này là những ngày sôi động của Tổng khởi nghĩa CMT8 +. “Mình đi, mình có nhớ mình. Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa…”.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> -> Những địa danh, những sự kiện lịch sử, mái đìng Hồng Thái, cây đa Tân Trào được nhắc đến đã tạo nên trong lòng mọi người niệm tự hào về những ngày tháng Tám mùa thu 1945, cách mạng bùng lên giành độc lập. b. Đặc sắc nghệ thuật: - Đoạn thơ ngắn 12 câu đã điệp 8 từ “mình” và 6 từ “nhớ, có nhớ”. Những từ “mình” điệp ở đầu mỗi câu thơ đã tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào. Những từ “nhớ, có nhớ” gợi đến âm hưởng của ca dao, dân ca, góp phần diễn tả một cách cảm động tràn đầy nỗi nhớ về cái nôi VB – quê hương cách mạng. - Bằng giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết của ca dao, dân ca, của điệu thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc, Tố Hữu nhắn nhủ với chúng ta hãy nhớ mãi, hãy giữ lấy cái đạo lí ân tình thủy chung quý báu của cách mạng. III. Kết bài: Từ đạo lí truyền thống của dân tộc, tác giả đã nâng thành một tình cảm mới, in đậm nét thời đại, góp phần làm nổi bật chủ đề của toàn bài: ân tình cách mạng. VB là quê hương chung của mọi người, là cội nguồn của sức mạnh làm nên thắng lợi của cách mạng, của kháng chiến. Đề 6: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu: Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi… Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô. Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa… (Ngữ văn 12, Tập một, tr.111, NXB Giáo dục - 2009) I. Mở bài: - Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam . Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng , những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ. - Giới thiệu bài thơ và đoạn thơ :.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> + Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi. Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Tháng 10/1954, trung ương Đảng, chính phủ và Hồ Chủ tịch từ giã Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội. Một trang lịch sử mới của dân tộc đã mở ra. Tố Hữu là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Sự kiện lịch sử đó đã mang lại cho Tố Hữu cảm xúc để viết nên bài thơ Việt Bắc . + Đoạn thơ trong đề bài thuộc phần lời thơ của người cán bộ cách mạng về xuôi trả lời người Việt Bắc. Toàn bộ đoạn thơ thể hiện tình cảm thương nhớ của người cán bộ cách mạng đối với cảnh vật, con người, kỷ niệm ở Việt Bắc trong những năm kháng chiến vừa qua. II. Thân bài: - Trước hết, đó là tình cảm thương nhớ đối với kỷ niệm những ngày tháng đồng cam cộng khổ (4 câu đầu). + Từ xưng hô “mình, ta” : thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa người cán bộ cách mạng và Việt Bắc. + Ta đi ta nhớ, mình đây ta đó : kết cấu đối xứng thể hiện giọng thơ rắn rỏi, nói lên tình cảm gắn bó tha thiết, nhớ thương của người cán bộ đối với Việt Bắc. + Đắng cay, ngọt bùi : từ ngữ tương phản nói lên kỷ niệm phong phú, sâu sắc của cán bộ trong những tháng ngày gian khổ nơi Việt Bắc và với người dân Việt Bắc. + Chia, sẻ, đắp cùng : những động từ bộc lộ tình cảm đồng cam cộng khổ của Việt Bắc và cách mạng. - 2 câu tiếp : Trong nỗi nhớ của người cán bộ, hình ảnh người dân Việt Bắc hiện lên chân thật và đầy xúc động với hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng / địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”. Đó là người lao động nghèo khổ, neo đơn nhưng dạt dào ân tình với cách mạng, không ngại vất vả, cực khổ lao động góp phần tạo nên lương thực cho cách mạng nuôi quân. Hình ảnh thơ giàu sức gợi, phản ánh tình cảm sắc son của đồng bào dân tộc đối với cách mạng. + Nắng cháy lưng : hình ảnh hiện thực có sức gợi thời tiết khắc nghiệt, qua đó nói lên sự vất vả, gian khổ. + Địu con lên rẫy : lời thơ giản dị, cũng là hình ảnh hiện thực, gợi lên hoàn cảnh neo đơn của người mẹ dân tộc. + Từ đó tình cảm sắc son cao đẹp của người dân tộc đối với cách mạng càng hiện lên rõ nét. - 4 câu tiếp theo : Con người và cảnh vật gắn bó với nhau. Nhớ về con người Việt Bắc, người cán bộ cách mạng lại nhớ trở lại những kỷ niệm gắn bó ở Việt Bắc. Đó là kỷ niệm với những lớp học bình dân học vụ (lớp học i tờ), những đêm liên hoan văn nghệ giữa núi rừng, những ngày tháng công tác ở cơ quan, gian nan nhưng lạc quan, đầy ắp yêu thương với tiếng hát , tiếng ca vang dội cả núi rừng. + Đồng khuya đuốc sáng : lời thơ gợi lên hình ảnh những đêm liên hoan văn nghệ, vui vẻ tưng bừng nơi rừng núi. + Ca vang núi đèo : lời thơ mang tính chất ẩn dụ, phản ánh tinh thần lạc quan, tình cảm đoàn kết gắn.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> bó giữa cách mạng và người dân Việt Bắc. - 2 câu cuối : cảnh vật Việt Bắc với nét gợi cảm trong buổi chiều và đêm tối, hiện lên sống động, tha thiết trong nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi. + Từ nghi vấn “sao” kết hợp với “nhớ” làm cho giọng thơ trở nên tha thiết, phù hợp với tâm trạng của người cán bộ cách mạng về xuôi. + Rừng chiều, suối xa : hình ảnh thơ gợi lên khung cảnh trữ tình, gợi cảm của núi rừng Việt Bắc. + Cảnh vật được mô tả với chi tiết về âm thanh (tiếng mỏ, chày đêm nện cối) thể hiện khung cảnh đặc trưng của núi rừng. Am thanh vang vọng gợi tới những ký ức xa xôi nhưng tha thiết và đầy ám ảnh trong tâm tư của những kẻ chia li. - Xuyên suốt phần thơ là sự hiện diện của điệp từ “nhớ” được sử dụng 5 lần, trong đó 3 lần được kết hợp với từ “sao” đã tạo nên giọng thơ đầy ắp cảm xúc, đầy ắp nhớ thương ở người cán bộ ra đi. - Về nghệ thuật : + Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ của ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại đối đáp với nhau. Nhưng ở đây, cấu tứ đó được thể hiện một cách gián tiếp qua việc sử dụng từ “mình, ta” trong lời của người cán bộ cách mạng. + Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống. Nhà thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp điệu uyển chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư. + Về ngôn ngữ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa. III. Kết bài: - Về nội dung : cả phần thơ là một khúc tình ca tha thiết thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc. Nó có cội nguồn sâu xa từ tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam. Phần thơ khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu : Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống yêu nước quý báu, anh hùng, bất khuất, nhân nghĩa thủy chung của cách mạng, của con người Việt Nam. - Đánh giá chung: Đây chỉ là một đoạn thơ 12 câu trong tổng số 150 câu của bài thơ nhưng những thành công của nó về nội dung và nghệ thuật có thể xem là tiêu biểu cho giá trị của cả bài thơ. Mỗi câu thơ, lời thơ của đoạn thơ này một khi đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc sẽ tạo nên được những rung động, những nghĩ suy để nhớ mãi lời nhắn nhủ về ân tình thủy chung, đoàn kết gắn bó giữa cách mạng và nhân dân như ý nghĩa sâu xa của thông điệp mà Tố Hữu muốn nhắn gửi trong bài thơ này. ********************************************************************************* Bài 4: ĐẤT NƯỚC.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> Nguyễn Khoa Điềm A. KIẾN THỨC CƠ BẢN I. TÁC GIẢ - Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế .Ông sinh trưởng trong một gia đình trí thức cách mạng. - Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ. -. Thơ giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. II. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác bản trường ca “Mặt đường khát vọng”: - Hoàn cảnh sáng tác : Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971, tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc. - Mục đích: Bản trường ca ra đời nhằm thức tỉnh tuổi trẻ thành thị ở các vùng tạm chiếm ở miền Nam nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân,đất nước.Từ đó, kêu gọi, khích lệ mọi người đứng lên, xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. III. NỘI DUNG : Có 2 phần -. Phần 1: nêu lên cách cảm nhận độc đáo về quá trình hình thành, phát triển. của đất nước; từ đó khơi dậy ý thức về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, đất nước. + Đất nước được hình thành từ những gì bé nhỏ, gần gũi, riêng tư trong cuộc sống của mỗi con người. “Khi ta lớn lên … có từ ngày đó”…/118 + Đất nước là sự hòa quyện không thể tách rời giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc. “Đất là nơi anh đến trường … giỗ Tổ”/118,119 + Mỗi người phải có trách nhiệm với đất nước. “Trong anh và em… muôn đời”/119,120 -. Phần 2: tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” được thể hiện qua ba chiều cảm. nhận về đất nước. + Từ không gian địa lí. “Những người vợ… đã hóa núi song ta”/120 + Từ thời gian lịch sử. “Em ơi em … đánh bại”/121 + Từ bản sắc văn hóa. “Để ĐN này ... dáng sông xuôi”.... Qua đó, nhà thơ khẳng định, ngợi ca công lao vĩ đại của nhân dân trên hành trình dựng nước và giữ nước. IV. Nghệ thuật : Xem tập học. V/ Ý nghĩa văn bản : Xem tập học. B – ĐỀ LUYỆN TẬP ĐỀ 1: Cảm nhận về đoạn thơ sau trích trong “ Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm..

<span class='text_page_counter'>(67)</span> “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó…” I/ Mở bài (HS tự làm) II/ Thân bài : Ở hai câu thơ đầu của đọan thơ, Tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất nước.Đất nước có từ bao giờ ? Để trả lời cho câu hỏi này, nhà thơ đã viết : “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi, Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. - Tham vọng tính tuổi của Đất nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái “ngày xửa ngày xưa” ( thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừu tượng, không xác định. Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc huyền thoại. Song chính ở “cái ngày xửa ngày xưa” đó, nhà thơ đã giúp cho chúng ta nhận thức được : Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết .Chỉ biết rằng : khi ta cất tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu. - Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của đất nước, nhà thơ còn nỗ lực hình dung về khởi đầu và quá trình trưởng thành của đất nước: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn, Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” + Phải chăng, khởi thủy của đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Ở đây,hình ảnh “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích,ca dao,tục ngữ.Bởi lẽ,“miếng trầu”là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chungcủa tâm hồn dân tộc.Từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ văn hiện đại, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước. - Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc sống lao động cần cù vất vả của nhân dân :.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> “Tóc mẹ búi sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên, Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng…”. + Đọan thơ, bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng , nhà thơ đã đưa người đọc trở về với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh “tóc mẹ búi sau đầu”, gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt; và những câu ca dao xưa ca ngợi vẻ đẹp đậm tình nặng nghĩa trong cuộc sống vợ chồng “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. + Không những vậy, hình ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về đất nước gắn với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bản… =>- Có thể nói, - Đọan thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn đất nước - một câu hỏi quen thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất mới lạ : nhà thơ không tạo ra khỏang cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước hoặc dùng những hình ảnh mĩ lệ , mang tính biểu tượng để cảm nhận và lý giải , mà dùng cách nói rất đỗi giản dị,tự nhiên với những gì gần gũi , thân thiết , bình dị nhất. - Gịong thơ thâm trầm, trang nghiêm; cấu trúc thơ theo lối tăng cấp :Đất nước đã có; Đất Nước bắt đầu; Đất Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho người đọc hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa hai từ Đất Nước ( vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói về đất nước , quê hương của mình. III/ Kết bài : - Tóm lại, chín câu thơ mở đầu cho đọan trích “Đất Nước” đã thật sự để lại những ấn tượng và cảm xúc sâu sắc cho người đọc về sự sinh thành và trưởng thành của đất nước. + Bởi lẽ, đọan thơ đã giúp cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, những ai mà còn có những nhận thức mơ hồ về đất nước mình thật sự phải suy gẫm. + Bởi lẽ, đọan thơ còn cho chúng ta hiểu được đất nước thật thân thương và gần gũi biết nhường nào .Từ đó đọan thơ bồi dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu đất nước, quê hương mình và biến tình yêu ấy bằng thái độ, hành động dựng xây , bảo vệ đất nước. Đề 2: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” ( Trích trường ca “ Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.” I/ Mở bài : (HS tự làm)) Đọan thơ sau đây trong “Đất Nước” có thể xem như là những định nghĩa về đất nước thật mới mẻ và độc đáo của nhà thơ : “ Đất là nơi anh đến trường …………………………………. Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. II/ Thân bài : - Nếu như chín câu thơ đầu của đọan thơ là sự trả lời của nhà thơ cho câu hỏi : Đất nước có từ bao giờ? Thì ở 16 câu thơ này, nhà thơ tiếp tục bày tỏ sự cảm nhận của mình về đất nước để trả lời cho câu hỏi : Đất nước là gì? - Câu hỏi đã được nhà thơ trả lời bằng cách nêu ra những định nghĩa về đất nước ở hai phương diện : không gian địa lý và thời gian lịch sử . + Trước hết, về không gian địa lý, đất nước là nơi sinh sống của mỗi người : “ Đất là nơi anh đến trường, Nước là nơi em tắm”. + Không những vậy , đất nước còn là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở say đắm, thiết tha .Đó là “ nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Đất nước còn là núi sông, rừng bể,là“hòn núi bạc”,là.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> “nước biển khơi”.Và còn nữa, đất nước còn không gian sinh tồn của cộng đồng qua nhiều thế hệ với “những ai đã khuất…những ai bây giờ…” + Cùng với cách cảm nhận về đất nước ở phương diện không gian địa lý, nhà thơ còn cảm nhận đất nước ở phương diện thời gian lịch sử .Ở phương diện này, đất nước có cả chiều sâu và bề dày được nhận thức từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ . * Đọan thơ với cấu trúc ngôn ngữ “ Đất là…, Nước là…Đất Nước là…” , nhà thơ đã định nghĩa bằng cách tư duy “chiết tự” để giải thích, cắt nghĩa hai tiếng Đất Nước thiêng liêng bằng tinh thần luận lí chân xác.Nếu tách ra làm những thành tố ngôn ngữ độc lập thì Đất và Nướcchỉ có ý nghĩa là không gian sinh tồn về mặt vật chất của con người cá thể.Nhưng nếu hợp thành một danh từ thì “Đất Nước” lại có ý nghĩa tinh thần thiêng liêng, chỉ không gian sinh sống của cả một cộng đồng người như anh em một nhà. => Tóm lại, bằng cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian nhà thơ đã lý giải một cách sinh động , cụ thể cho câu hỏi : Đất nước là gì? Từ đó , hình ảnh đất nước hiện lên qua đọan thơ vừa gần gũi - cụ thể, vừa thiêng liêng- khái quát trên cả bề rộng không gian địa lý mênh mông và thời gian lịch sử đằng đẵng của dân tộc. III/ Kết bài: - Có thể nói, đọan thơ là những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước từ chiều sâu văn hóa dân tộc, xuyên suốt chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của không gian đất nước. - Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian để cảm nhận và định nghĩa về đất.Từ đó , đọan thơ giúp cho chúng ta hiểu và gắn bó hơn với đất nước, quê hương mình bằng một tình yêu và ý thức trách nhiệm sâu sắc . * ĐỀ 3:Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm: “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời.” I/ Mở bài: (HS tự làm) - Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm của mỗi người với đất nước : “ Trong anh và em hôm nay, Đều có một phần Đất Nước ……………………………… Làm nên Đất Nước muôn đời”. II/ Thân bài : - Thật vậy, sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua những phương diện không gian- địa lý,thời gian- lịch sử,phong tục- văn hóa …, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến khẳng định : “ Trong anh và em hôm nay, Đều có một phần Đất Nước”. + .Đây là một sự thực mà mỗi người Việt Nam ai cũng đều cảm thấy.Đất nước đã hóa thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn lên trên đất nước này.Mỗi người Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm,nếp nghĩ và cách sống của mình. - Từ việc khẳng định: đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người,nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước bằng những dòng thơ giàu chất chính luận : “Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn”. - Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và niềm tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng thắm”; “vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (“Khi /Khi; Đất Nước / Đất Nước),nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp: đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân với cộng đồng..

<span class='text_page_counter'>(72)</span> - Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với tình yêu lớn của đất nước; nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước : “Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng”. Có thể nói, ba dòng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước.Thế hệ sau “con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến những tháng ngày mơ mộng”.Đất nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai. - Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người : “ Em ơi em Đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” => Bằng giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “phải biết - phải biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó, san sẻ, hóa thân” …nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng cũng lànhắn nhủ với mọi người ( nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước. Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự dặn mình - dặn người của nhà thơ. III/ Kết bài: - Tóm lại, đây là một trong những đọan thơ hay và sâu sắc trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm .Bởi lẽ, qua đọan thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa mỗi người với đất nước.Từ đó, ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với đất nước quê hương. - Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp trong phong cách thơ trữ tình- chính luận của nhà thơ. * Đề 4:Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm : “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau còn góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” I/ Mở bài : (HS tự làm) - Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên không gian địa lý - bức tranh văn hóa đất nước muôn màu muôn vẻ : “ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu, ………………………………………………………………………… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. II/ Thân bài : - Đây là 12 câu thơ mở đầu phần hai của đọan thơ “Đất Nước” với nội dung ngợi ca, khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. - Tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ,có chiều sâu địa lý về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Nhà thơ đã kể, liêt kêmột loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước.Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc.Những ngọn núi, những dòng sông kia chỉ trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với con người, được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử dân tộc. + Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượng văn hóa .Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những “ao đầm”…như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng… “ Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” + Thật sự, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến thì không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu.Cũng như nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận nét hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng.Nói cách khác, những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những núi Bút, non Nghiên không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi..

<span class='text_page_counter'>(74)</span> 2.Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân .Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này,đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này.Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”. => Với cấu trúc quy nạp ( đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh…đến khái quát mang tính triết lý) , dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh và những nét đẹp văn hóa dân tộc vô cùng phong phú, đa dạng trên khắp đất nước.Nên cuối cùng, nhà thơ đã khẳng định : trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa danh đều là một địac chỉ văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người Việt. III/ Kết bài: - Đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm : chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự ; ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng. - Viết về đề tài đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc . Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người. ĐỀ 5: Cảm nhận của anh/ chị về đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm : “Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm Đất Nước Năm tháng nào cũng người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> Nhưng em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và đã chết Giản dị và bình thản Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì đánh ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bạị” I/ Mở bài : (HS tự làm) - Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên lịch sử và truyền thống dựng nước và giữ nước : “ Em ơi em Hãy nhìn rất xa …………………… Có nội thù thì vùng lên đánh bại”. II/ Thân bài : - Sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lý- văn hóa muôn màu muôn vẻ, nhà thơ tiếp tục baỳ tỏ những suy tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch sử và truyền thống của đất nước. + Trước hết, nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là : người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị.Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”: “ Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” + Nhưng cũng có hàng triệu , hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống , họ đã “sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng tất cả, họ đều có công “ làm ra.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Đất Nước”. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất nước của nhà thơ.Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân : “Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh…’ + Với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như “hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên làng”…cũng như chính những con người vô danh bình dịđó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân.Không những vậy, họ còn luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu của mình. “Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại”. Ở đây, nhận thức về đất nước và lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền với lòng biết ơn nhân dân, bởi nhân dân mới là những chủ thể đích thực làm ra đất nước và bảo vệ đất nước. - Tóm lại, với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình…đọan thơ vừa là lời tâm tình,vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình. III/ Kết bài : - Chủ đề về đất nước, quê hương không phải là một chủ đề mới lạ trong văn học Việt Nam.Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ về đất nước của nhiều nhà thơ có tên tuổi…Nhưng,có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò to lớn của nhân dân với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và sâu sắc. - Đọan thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ Miền Nam thời chống Mỹ và tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại lai .Từ đó, đọan thơ đã làm sống lại truyền thống yêu nước hào hùng trong mỗi chúng ta. Đề 6: Cảm nhận đọan thơ sau đây trong đọan trích “ Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm: “Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại “yêu em từ thuở trong nôi”. Dạy anh biết.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> Biết quý công cầnm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. I/ Mở bài : (HS tự làm) - Đọan thơ sau đây là sự thể hiện sâu sắc những suy tư, nhận thức về đất nước của nhà thơ trên cơ sở tư tưởng Đất nước của Nhân dân : II/ Thân bài : Câu thơ mở đầu đọan thơ “ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên tòan đọan trích và cả Chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình- chính luận. - Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại.Như vậy cũng chính là đã sáng tạo ra đất nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân : “Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” Biết quý công cầnm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. + Đó là vẻ đẹp giàu lòng yêu thương của người Việt đã bắt nguồn từ thời xa xưa với những lời dân ca ngọt ngào “Yêu em từ thuở trong nôi, Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” + Và đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩahơn cả vật chất ngàn vàng.Ở đây, ý thơ của nhà thơ được gợi lên từ chính những câu ca dao một thời đi vào đời sống tâm hồn của dân tộc : “ Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” + Và đó còn là sự thể hiện của truyền thống kiên cường, bất khuất của trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.Vẻ đẹp của truyền thống anh hùng ấy cũng được làm nên từ những câu ca dao từng ca ngợi tinh thần quật khởi của dân tộc : “ Thù này ắt hẳn còn lâu Trồng tre nên gậy , gặp đâu đánh què” Từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính tinh cách, lẽ sống tâm hồn mình. Có thể nói,.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> + Tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được một cách sâu sắc Nhân dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình cảm trân trọng và yêu thương . + Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam.Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu …đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử.Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ , nhận thức ấy đã được nâng lên thành một tư tưởng có tầm cao mới. III/ Kết bài : - Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận, ngôn ngữ thơ mộc mạc, cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian…từ những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đọan thơ đã khắc sâu cho chúng ta những nhận thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước nhân dân. - Từ đó, đọan thơ bồi dưỡng thêm tình yêu Tổ quốc và niềm tự hào về con người Việt Nam cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong thời đaị hôm nay. ********************************************************************************* Bài 5: SÓNG A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN I/ Tác giả - Xuân Quỳnh ( 1942 – 1988 ), xuất thân từ một gia đình công chức, quê ở Hà Tây. - Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. II/ Văn bản 1/ Hoàn cảnh sáng tác, đề tài và chủ đề -. HCST : Bài thơ được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền, là một. bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào. - Đề tài : tình yêu. - Chủ đề : mượn hình tượng sóng để diễn tả tình yêu của người phụ nữ. Sóng là ẩn dụ cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu – một hình ảnh đẹp và xác đáng. 2/ Nội dung - Phần 1 : Sóng và em – những nét tương đồng( Khổ 1 Khổ7) + Cung bậc phong phú, trạng thái đối cực phức tạp, đầy bí ẩn, nghịch lí. + Khát vọng vươn xa, thoát khỏi những gì nhỏ hẹp, chật chội, tầm thường. + TY đầy bí ẩn, khó lí giải. + Luôn trăn trở, nhớ nhung và bao giờ cũng thủy chung son sắt..

<span class='text_page_counter'>(79)</span> - Phần 2 : Những suy tư, lo âu, trăn trở trước cuộc đời và khát vọng tình yêu (khổ 8,9). + Những suy tư, lo âu, trăn trở trước cuộc đời: ý thức được sự hữu hạn của đời người, sự mong manh của hạnh phúc. + Khát vọng sống hết mình trong tình yêu: khát vọng hóa thân thành sóng để bất tử hóa tình yêu. 3/ Nghệ thuật : Xem tập học. 4/ Ý nghĩa văn bản: Xem tập học. 5/ Ý nghĩa hình tượng sóng -. Sóng là hiện tượng tự nhiên tồn tại vĩnh hằng với thời gian.. -. Mượn hình tượng sóng làm biểu tượng của tình yêu với mong muốn tình yêu bất diệt bền vững như sóng. B/ ĐỀ LUYỆN TẬP Đề 1 : Phân tích bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh. Qua đó, anh/ chị cảm nhận được gì về tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Mở bài : -. Trong thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh được coi là nhà thơ nữ viết hay nhất về tình yêu.. Đặc sắc của thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói trực tiếp, chân thành và mãnh liệt bày tỏ những khát vọng tình yêu của một trái tim phụ nữ. -. Sóng là một trong hai bài thơ tình hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và thơ hiện đại Việt. Nam nói chung. Vẻ đẹp của bài thơ là hình tượng “sóng”. Thân bài : 1) Giới thiệu chung - Sóng là hiện tượng tự nhiên tồn tại vĩnh hằng với thời gian. Sóng ẩn dụ cho tình yêu và là sự hóa thân của nhà thơ. Như vậy, sóng và em tuy hai mà một. Tg mượn hình tượng sóng để làm biểu tượng cho tình yêu với mong muốn tình yêu của mình cũng bất diệt và vĩnh hằng như sóng. - Bởi vậy, sóng là hình tượng nt xuyên suốt bài thơ, là linh hồn của tp và cũng chính là trái tim “ dữ dội và dịu êm” của Xuân Quỳnh. “Sóng” cùng với “em” tạo thành cặp sóng đôi, gắn bó, quấn quýt xuyên suốt bài thơ. Trên cơ sở đó, nhà thơ bộc lộ mọi cung bậc tình cảm của mình về tình yêu. 2) Phân tích bài thơ a. Hai khổ thơ đầu : những băn khoăn trăn trở và trạng thái tâm lí trong tình yêu - Mở đầu bài thơ, sóng được thể hiện trong những trạng thái trái ngược : dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ. Qua bốn tính từ đi liền kết hợp với nt đối lập, nhà thơ diễn tả sinh động sắc thái đối nghịch của sóng : khi biển bình yên thì sóng dịu êm, lặng lẽ, khi biển động thì sóng dữ dội, ồn ào..

<span class='text_page_counter'>(80)</span> Sóng có những trạng thái thất thường và nó thấy “ sông không hiểu nổi mình” nên đã “ tìm ra tận bể” để tìm kiếm một lời lí giải. Trạng thái của sóng cũng là trạng thái tâm hồn của người con gái khi yêu. Tình yêu là một trạng thái tâm lí khác thường. Tình yêu có nhiều cung bậc, sắc thái, vừa đối lập, vừa thống nhất hài hòa. Người phụ nữ khi yêu họ cũng nhận thấy những biến động khác thường của lòng mình và họ khát khao vượt ra khỏi những giới hạn chật chội để tìm đến những miền bao la vô tận như sóng phải từ sông tìm ra biển. Nỗi khát vọng tìm tòi của họ có khi lên đến tột độ và ý tưởng này đã theo đuổi nhà thơ cho đến tận cùng của bài thơ. Đó là khát vọng hòa mình vào bể lớn của tình yêu “Sông không …. tận bể” - Ở khổ hai, hai câu đầu “ Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế” nói lên quy luật muôn thuở của sóng là lúc nào nó cũng có những trạng thái trái ngược như thế. Nếu còn biển, còn đại dương thì còn sóng và sóng vẫn lúc dữ dội, lúc dịu êm, khi ồn ào, khi lặng lẽ. Tình yêu cũng sẽ tồn tại muôn đời như sóng và cũng có những trạng thái tâm lí bất thường ấy. Hai câu thơ sau nhà thơ đã phân thân, tách mình ra khỏi sóng để nhấn mạnh thêm quy luật tình cảm của con người “Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” Nếu sóng mãi trường tồn thì khát vọng tình yêu cũng được cảm nhận như là nỗi khát khao vĩnh hằng, muôn thưở của nhân loại mà trước hết là của tuổi trẻ. Nhà thơ Xuân Diệu cũng cho rằng : “ Hãy để trẻ thơ nói cái ngon của kẹo. Hãy để cho tuổi trẻ nói hộ tình yêu”. => Tóm lại, hai khổ thơ đầu giàu chất suy tư. Từ sóng, XQ không chỉ khám phá và biểu đạt những quy luật của ty mà còn khẳng định khát vọng tình yêu muôn đời của nhân loại, của tuổi trẻ. b. Khổ 3,4 : Sự nhận thức, cắt nghĩa, lí giải về tình yêu - Khi yêu, người ta muốn giải thích, muốn tự nhận thức về tình yêu trong lòng mình. Đó là một quy luật tự nhiên của tâm lí. Người con gái đang yêu ở đây cũng vậy “ Trước muôn trùng…sóng lên?”. Điệp từ “ em nghĩ” càng làm rõ hơn sự suy tư. - Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Quỳnh dùng hai hình ảnh “sóng” và ‘gió” để nói về tình yêu. Tình yêu là sóng gió. Nhưng sóng thì “ bắt đầu từ gió”, còn gió thì “ bắt đầu từ đâu?”. Có lúc tưởng như nhà thơ lí giải được cái khởi nguồn của sóng gió, của tình yêu. Nhưng rồi nhà thơ đã bất lực : “ gió bắt đầu từ đâu?” và tình yêu bắt đầu từ đâu? Từ khi nào? Xuân Quỳnh đã thú nhận một cách thành thật nhưng cũng rất dễ thương và ý nhị sự bất lực của mình khi cố nhận thức, lí giải cái quy luật không thể cắt nghĩa được của tình yêu “ Sóng bắt đầu… yêu nhau”. Xuân Diệu – ông hoàng của thơ tình yêu dù là người “uống tình yêu đến dập cả môi” cũng đã bất lực khi đi tìm định nghĩa của tình yêu. Một triết gia phương Tây cũng đã từng nói : “ Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi”..

<span class='text_page_counter'>(81)</span> -. Soi vào lòng mình đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi về khởi nguồn của tình yêu, nhân vật trữ tình. ở đây đã nói lên được một quy luật sâu xa của tình yêu : tình yêu là sự bí ẩn mà con người không thể lí giải được. c. Khổ 5,6,7 : nhà thơ vừa phân thân vừa nhập thân vào sóng để nói lên cái đặc trưng cơ bản của tình yêu là nỗi nhớ và khát vọng về một tình yêu thủy chung . - Tình yêu đi liền với nỗi nhớ. Nỗi nhớ thật sâu đậm. Nỗi nhớ bao trùm cả không gian “ dưới lòng sâu, trên mặt nước”, cả thời gian “Ngày đêm … được”. Nỗi nhớ tràn ngập cả nỗi lòng, cả trong ý thức, tiềm thức và vô thức “Lòng em… thức”. Đến đây, nhà thơ đã phân thân ra khỏi sóng để trực tiếp bộc bạch nỗi nhớ da diết, mãnh liệt của mình. Nỗi nhớ đã trở thành thường trực. Cách nói có vẻ cường điệu nhưng đúng và chân thành cho thấy đây là tình yêu mãnh liệt. - Qua khổ 6, nhà thơ tiếp tục đưa ra những khái niệm không gian để nói lên mức độ của nỗi nhớ. Những từ “dẫu xuôi, dẫu ngược, phương Bắc, phương Nam” mang tính đối lập để diễn tả một điều là dù phương hướng, khoảng cách xa xôi bao nhiêu đi nữa thì lòng em vẫn thương, vẫn nhớ, vẫn “ hướng về anh một phương”. Câu thơ “ Hướng về anh một phương” như một lời khẳng định dứt khoát, mạnh mẽ. Nó giống như một lời thề. “ Một phương” ở đây là “phương anh”. Trong vũ trụ bao la có bốn phương tám hướng, còn đối với em trong tình yêu chỉ có một phương duy nhất là phương anh – phương tâm trạng, phương của người phụ nữ đang yêu tha thiết, say đắm. Đến đây ta bắt gặp một tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ trong tình yêu. è. Tóm lại. bằng những nt đối lập, ẩn dụ, điệp cấu trúc, điệp từ, nhân hóa và từ ngữ chỉ. phương hướng trái ngược nhau,… Xuân Quỳnh đã diễn tả chính xác nỗi nhớ cồn cào, da diết trong tình yêu. Những cặp từ sóng đôi tương ứng liền nhau : “sóng – bờ, trên – dưới, mơ – thức, anh – em” càng khắc họa đậm nét nỗi nhớ. -. Người phụ nữ đang yêu trong thơ Xuân Quỳnh mạnh bạo, chân thành bày tỏ những khát khao. của lòng mình. Đây là một điều mới mẻ trong đời và cả trong thơ. Đây là tình yêu hết mình, quên mình. Nó cũng đòi hỏi sự duy nhất, sự tuyệt đối, sự thủy chung. Điều này cho thấy quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh có gốc rễ từ trong tâm thức, truyền thống của dân tộc. Xuân Quỳnh yêu hết mình, yêu cuồng nhiệt, say đắm, cháy bỏng nhưng vẫn có nét dịu dàng của con gái chứ không vồ vập, ồn ào. -. Khổ thơ thứ 7 nói lên một quy luật của sóng : “ Con nào chẳng tới bờ. Dù muôn vời cách trở”.. Đây cũng là nhu cầu cần thỏa mãn của tình yêu : em luôn muốn có anh, bên anh “dù muôn vời cách trở”. d. Khổ 8,9 : quy luật của tự nhiên, quy luật của cuộc đời và khát vọng tình yêu vĩnh hằng “ Cuộc đời …. còn vỗ” -. Nhà thơ nói về sự hữu hạn của thời gian đời người so với sự vô hạn của thời gian vũ trụ, thời. gian cuộc đời. Trong thơ, Xuân Quỳnh rất nhạy cảm với thời gian. Ý thức về thời gian thường đi liền.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> với niềm lo âu và khao khát nắm bắt hạnh phúc trong hiện tại. Đối với Xuân Quỳnh, thời gian lúc này dường như còn ở phía trước, cuộc đời còn rất dài, rất rộng với chị. Tuy nhiên, ý thức về sự hữu hạn của thời gian đời người và sự mong manh, khó bền chặt của hạnh phúc đã hiện lên thành một thoáng lo âu trong chị. -. Xuân Quỳnh cũng ý thức được sự hữu hạn của đời người và cái vô hạn của tình yêu. Chị lo âu. nhưng không hề thất vọng và luôn thôi thúc cách sống tích cực : sống hết mình, sống mãnh liệt trong tình yêu để có thể vượt qua và thắng được cái hữu hạn của thời gian đời người. Không chỉ lúc trẻ tuổi mà sau này khi đã qua nhiều khổ đau, từng trải, cái khát vọng được còn mãi với tình yêu vẫn là một ước mơ tha thiết, khắc khoải : Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt đời thường ai chẳng có Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi. -. ( Tự hát ). Bài thơ kết thúc bằng niềm khao khát được sống hết mình cho tình yêu, trong tình yêu và đi. liền với nó là ước muốn vĩnh viễn hóa tình yêu của mình để nó sống mãi với thời gian. Đó là một khát vọng lớn. + Câu thơ “ Làm sao được tan ra” chứa đựng một niềm ao ước cháy bỏng, một khát vọng mãnh liệt vừa đằm thắm vừa sôi nổi. Hình ảnh trong khổ thơ đầy sáng tạo, tình yêu được ví với biển lớn, tâm hồn xao động mãnh liệt thành trăm con sóng cảm xúc vỗ miên man, bất tận. Những từ “ biển lớn”, “ ngàn năm” diễn tả những khái niệm không gian, thời gian rộng lớn vô cùng. Sự chuyển hóa liên tục của hai hình tượng sóng và em làm cho mạch xúc cảm càng thêm trữ tình. + Khổ thơ cuối bài là một câu hỏi tu từ như một ước muốn khôn cùng. Không có tình yêu thủy chung say đắm làm sao có được nhiều câu thơ như vậy. Bài thơ kết thúc mà lời thơ còn vang mãi. 3) Đánh giá nghệ thuật Xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết. Thể thơ 5 chữ với những dòng thơ không ngắt nhịp, giọng thơ kể lể tâm tình vừa êm ái nhẹ nhàng vừa thiết tha, hình tượng sóng với ý nghĩa ẩn dụ trở đi trở lại,… Tất cả tạo cho bài thơ có một âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng, ấn tượng trong lòng người đọc. Kết bài : -. “Sóng” là bài thơ tình tiêu biểu của Xuân Quỳnh. Đó là tiếng lòng vừa dữ dội, vừa dịu êm, vừa. thao thức không yên, vừa bồi hồi khát vọng. Nhà thơ đã khéo chọn sóng, một hình tượng giàu sức biểu cảm để thể hiện tình yêu như là một giá trị văn hóa lớn của con người. -. Qua “Sóng” của Xuân Quỳnh, người đọc càng thêm quý trái tim nồng nàn, đôn hậu của người. phụ nữ Việt Nam..

<span class='text_page_counter'>(83)</span> * Lưu ý : Đề ra thường cho phân tích/ cảm nhận về một đoạn thơ cụ thể. Nên học đề 1 rồi vận dụng cho các dạng đề này. Đề 2 : Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh. Qua đó, anh ( chị ) cảm nhận được gì về tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài thơ. (Vận dụng đề 1 để làm) Đề 3 : Sóng là bài thơ tình tiêu biểu của Xuân Quỳnh, thể hiện một tâm hồn luôn trăn trở, khát khao được yêu thương, gắn bó. Bình giảng đoạn thơ dưới đây để làm sáng tỏ nhận định trên: “Con sóng dưới lòng sâu .............. Hướng về anh một phương” Mở bài : -. Trong thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh được coi là nhà thơ nữ viết hay nhất về tình yêu.. Đặc sắc của thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói trực tiếp, chân thành và mãnh liệt bày tỏ những khát vọng tình yêu của một trái tim phụ nữ. - Sóng là bài thơ tình tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh - luôn luôn trăn trở, khát khao được yêu thương, gắn bó trong ty. Đoạn thơ : “Con sóng dưới lòng sâu .............. Hướng về anh một phương” thể hiện sâu sắc nỗi nhớ trong Ty. Thân bài : 1. Nỗi nhớ được biểu hiện bằng hình tượng " Sóng" Biện pháp nghệ thuật : - Dùng từ đối lập : dưới - trên; lòng sâu - mặt nước; - Dùng điệp từ "con sóng" ba lần; - Nhân cách hóa : "con sóng nhớ bờ, ngày đêm không ngủ". => Cách diễn đạt trên đây nhằm thể hiện nỗi nhớ dồn lên tầng tầng, lớp lớp như từng đợt sóng. Con sóng nhớ bờ thao thức, trào dâng tưởng chừng tới tột độ. Tất cả nhằm thể hiện nỗi nhớ da diết trong tâm hồn người con gái đang yêu. Nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp đan xen nhau, nối tiếp nhau, thôi thúc, giục giã. 2. Nỗi nhớ được biểu hiện trực tiếp.

<span class='text_page_counter'>(84)</span> Thường trực, liên tục, cho dù đó là đêm hay ngày: - "Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức - Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh - một phơng" Xuân Quỳnh đã tìm được cách nói đạt nhất để biểu hiện nỗi nhớ trong tình yêu : ngủ, thức ("dẫu xuôi", "dẫu ngược") đều không yên vì nhớ mong, vì đợi, chờ, vì hướng "về anh". Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh có màu sắc của ca dao: "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than" Đó là trạng thái bồn chồn, xao xuyến, không ổn định, bứt rứt như cắn xé, như giục giã lòng người, đứng ngồi không yên vì nỗi nhớ thường trực. 3. Nghệ thuật - Thể thơ năm chữ truyền thống; cách ngắt nhịp theo vần độc đáo, giàu sức liên tưởng. - Xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết. Kết bài : Đây là một trong những khổ thơ hay, bộc lộ nỗi nhớ khi đang yêu trong bài Sóng của Xuân Quỳnh. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của tác giả đợc khơi dậy khi đứng trước biển cả. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, là sự hoá thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ, lúc thì hoà nhập, lúc lại là sự phân thân của "em". Người phụ nữ trong bài thơ soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, thể hiện tâm trạng của mình khi đang yêu thật xác đáng và đẹp đẽ. ********************************************************************************* Bài 6: ĐÀN GHI TA CỦA LORCA A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN I/ Tác giả : Thanh Thảo -. Tên khai sinh là Hồ Thành Công, sinh năm 1946, quê ở Mộ Đức, Quãng Ngãi.. -. Thơ Thanh Thảo là tiếng nói của người trí thức nhiều suy tư trăn trở về cuộc sống. Nhà thơ. luôn tìm tòi, khám phá, sáng tạo tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, đem đến một mỹ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. -. Tác phẩm tiêu biểu : Những nguời đi tới biển (1977), Những ngọn sóng mặt trời (1984), Khối. vuông rubich (1985)… II/ Văn bản 1/ Xuất xứ.

<span class='text_page_counter'>(85)</span> -. Rút trong tập “Khối vuông rubich” ( 1985 ), là một trong những sáng tác tiêu biểu cho kiểu tư. duy thơ tượng trưng. -. Lor-ca ( 1898 – 1936 ): nhà thơ thiên tài của Tây Ban Nha, người có khát vọng tự do và khát. vọng cách tân nghệ thuật mãnh liệt, đã bị chính quyền phản động thân phát xít bắt giam và giết hại. 2/ Nội dung -. Hình tượng Lor-ca được nhà thơ phác họa bằng những nét vẽ mang dấu ấn của thơ siêu thực :. tiếng đàn bọt nước, áo choàng đỏ gắt, vầng trăng chếnh choáng, yên ngựa mỏi mòn…Lor-ca hiện lên mạnh mẽ song cũng thật lẻ loi trên con đường gập ghềnh xa thẳm. -. Bằng hệ thống hình ảnh vừa mang nghĩa thực vừa mang nghĩa ẩn dụ tượng trưng, tác giả đã tái. hiện cái chết bi thảm, dữ dội của Lor-ca. Nhưng bất chấp tất cả, tiếng đàn – linh hồn của người nghệ sĩ – vẫn sống. Trong tiếng đàn ấy, nỗi đau và tình yêu, cái chết và sự bất tử hòa quyện vào nhau. Lời thơ di chúc của Lor-ca được nhắc lại, hàm ẩn cả tình yêu đất nước, tình yêu nghệ thuật và khát vọng cách tân nghệ thuật mãnh liệt. -. Cái chết không thể tiêu diệt được tâm hồn và những sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca. Nhà cách. tân vĩ đại của đất nước TBN trở thành bất tử trong chính cuộc giã từ này. 3/ Nghệ thuật : Xem tập học. 4/ Ý nghĩa văn bản : Xem tập học. 5/ Chủ đề : Xem tập học. B/ ĐỀ LUYỆN TẬP Đề 1 : Phân tích/ Cảm nhận bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của nhà thơ Thanh Thảo. Mở bài : Tây Ban Nha là đất nước nổi tiếng với những chiếc cối xay gió cổ truyền, tiểu thuyết hiệp sĩ Đôn-ki-hô-tê vĩ đại và lễ hội đấu bò tót truyền thống. TBN còn là quê hương của cây đàn ghi ta với những bản nhạc, bài ca bốc lửa hoặc du dương gắn liền với tên tuổi của nhà thơ – nhạc sĩ Lor-ca mà cái chết của ông đã trở thành một trong những sự kiện bi thảm trong lịch sử TBN hiện đại. Nhớ về sự kiện này, nhà thơ Thanh Thảo đã viết bài thơ khá độc đáo - “Đàn ghi ta của Lor-ca” Thân bài : 1. Ý nghĩa nhan đề Đàn ghi ta là một loại nhạc cụ truyền thống của TBN, biểu tượng cho nghệ thuật của đất nước này nên còn dược gọi là Tây Ban cầm. Lor-ca là nhà thơ thiên tài của Tây Ban Nha, có khát vọng tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật, đã bị chính quyền phản động thân phát xít bắt giam và giết hại. Đàn ghi ta của Lor-ca là biểu tượng cho những cách tân nt của Lor-ca, là tiếng nói tâm hồn người nghệ sĩ, là biểu tượng của sự gắn bó giữa Lor-ca với âm nhạc và nghệ thuật. Nhan đề hé lộ hình tượng trung tâm của bài thơ : Lor-ca gắn liền với Đàn ghi - ta..

<span class='text_page_counter'>(86)</span> Như vậy, cách đặt tên bài thơ của Thanh Thảo vừa nói đến sự gắn bó máu thịt suốt đời của Lor-ca vơí âm nhạc, với cây đàn truyền thống của đất nước mình đồng thời còn thể hiện bản sắc linh hồn văn hoá của đất nước, con người Tây Ban Nha trong cảm quan yêu mến và kính trọng của người Việt. 2. Phân tích bài thơ a. Hình ảnh Lor-ca – con người tự do, người nghệ sĩ cách tân nghệ thuật đơn độc trong khung cảnh chính trị bạo tàn và nền nghệ thuật già nua TBN (Khổ1) - Mở đầu bài thơ, Lor-ca xuất hiện gắn với những hình ảnh biểu tượng của đất nước TBN “tiếng đàn và áo choàng đỏ gắt”. Cách giới thiệu nhân vật của TT cho thấy Lor-ca gắn bó máu thịt với quê hương mình, với truyền thống văn hóa của dt mình. + Và tiếng đàn ấy được Thanh Thảo diễn đạt thành “ Tiếng đàn bọt nước” với chuỗi hợp âm “li-la li-la li-la ”, cho thấy người nghệ sĩ đang bay bổng với những giai điệu mới, với khát vọng cách tân nghệ thuật nhưng đã bị thế lực bạo tàn hủy diệt. Hình ảnh ẩn dụ mới mẻ “ tiếng đàn bọt nước” còn thể hiện sự trong sáng nhưng mong manh, dễ vỡ của tiếng đàn, của khát vọng cách tân nt của Lor-ca. + Hình ảnh “ áo choàng đỏ gắt” (chiếc áo choàng đỏ chót trên mình những võ sĩ đấu bò tót) chính là vẻ đẹp hào hùng của Lor- ca không ngừng đấu tranh cho tự do, cho nghệ thuật trong bối cảnh bạo tàn. - Câu thơ mô phỏng tiếng đàn ghi ta “li-la li-la li-la” vang lên như điệp khúc rộn ràng mà du dương. Trên cái nền âm thanh quyến rũ ấy là hình ảnh người nghệ sĩ một mình một ngựa đi về miền cô đơn. Một loạt từ láy “lang thang, đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn” đã khắc họa sự lẻ loi, đơn độc ấy. Vì trong cuộc chiến đấu chống lại chế độ độc tài đen tối lúc bấy giờ, Lor-ca là người tiên phong “đi trước buổi bình minh” nên chưa có người đồng hành. Trong cơn say chếnh choáng của khát vọng đổi mới, Lor-ca đã có những sáng tạo vượt ra khỏi nền nghệ thuật già nua đương thời. èTóm lại, những hình ảnh, âm thanh trên mang tính ấn tượng, biểu tượng rất cao. Nó giúp ta hình dung và tưởng tượng về Lor-ca, nhà nghệ sĩ cách tân thiên tài nhưng mong manh, đơn độc. Qua đây, ta nhận thấy thái độ trân trọng, thấu hiểu của tg TT. b. Khổ 2,3 - 12 dòng tiếp theo : Cái chết bi tráng của Lorca và nỗi xót xa về sự cách tân nghệ thuật còn dang dở -. Đến khổ 2, tác giả chuyển ý và cảm xúc thật bất ngờ, không có dấu hiệu báo trước. Cái. chết của Lor-ca thật đột ngột, kinh hoàng, đau đớn. Chàng bị nhà cầm quyền thân phát xít giết hại. Chàng bị giết khi đang thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống “hát nghêu ngao”. Cái chết của người nghệ sĩ ấy diễn ra quá đột ngột, bất ngờ, làm chấn động cả nước TBN “bỗng kinh hoàng”. -. Hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ” gợi liên tưởng đến những cuộc đấu bò đẫm máu mà đôi khi. những đấu sĩ anh hùng cũng bị thương hoặc thiệt mạng. Nhưng chính hình ảnh này gợi lên cái chết.

<span class='text_page_counter'>(87)</span> thê thảm của Lor-ca. Vừa mới lúc trước là màu đỏ của ngọn lửa đấu tranh, của những khát vọng cháy bỏng, vậy mà giờ đây là màu đỏ của máu, của cái chết thảm khốc. Hình ảnh “Lor-ca bị điệu về bãi bắn” “ chàng đi như người mộng du” làm người đọc càng căm phẫn sự tàn ác, dã man của xh đương thời. Và đó cũng là bi kịch của những người ưu tú trong thời đại xh rối ren, tàn bạo. - Người nghệ sĩ ấy bị giết hại, tiếng hát yêu đời cũng bị dập tắt, khát vọng cách tân nt cũng tan vỡ, tiếng đàn không còn vẹn nguyên mà nó vỡ ra thành màu sắc “nâu, xanh”, thành hình khối “tròn - bọt nước vỡ tan”, thành đường nét “ròng ròng – máu chảy”. Mỗi tiếng ghi ta không chỉ là một hình dung về cái chết bi tráng, tức tưởi, nghẹn ngào của Lor-ca mà còn là một cảm nhận, một nỗi niềm của con người trước cái chết ấy. Trong 6 dòng thơ ở khổ 3, tg dùng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, nhân hóa, hoán dụ liên kết với phép điệp - lặp lại 4 lần cụm từ “ tiếng ghi-ta” để thể hiện cảm xúc mãnh liệt và đa chiều về cái chết của Lor-ca với thái độ tiếc thương, đồng cảm sâu sắc. Như vậy, Lor-ca đã phải dừng lại vĩnh viễn cuộc chiến đấu cho tự do, cho công lí và những khát vọng cách tân nt của chàng cũng theo đó mà như “ bọt nước vỡ tan”. -. Cuối cùng, hai dòng thơ khép lại khổ 3 đã được nhà thơ cố tình ngắt ra thành “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Nó vỡ vụn như tiếng đàn đứt ngang dây, như nỗi đau tan nát của con người trước cái chết của người nghệ sĩ giàu khát vọng và cống hiến. c. Khổ 4,5,6 - Đoạn cuối : Lor-ca và nghệ thuật của ông bất tử; những suy tư của của nhà thơ về cái chết của Lor-ca * Lor-ca và nghệ thuật của ông bất tử “không ai chôn cất …. đáy giếng” (khổ 4) - Lor-ca di chúc “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” với mong muốn xóa bỏ ảnh hưởng của mình để dọn đường cho thế hệ sau vươn tới. Thế nhưng, “không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang” Cách so sánh ấy của TT cho thấy, Lor-ca và NT của ông có sức sống mãnh liệt, bất tử với thời gian. Nó sẽ sống mãi “như cỏ mọc hoang”, mà “cỏ mọc hoang”thì không có thế lực tàn bạo nào tiêu diệt được. Cái bóng của Lor-ca quá lớn không dễ che lấp. Thế hệ sau vẫn say mê, ngưỡng mộ, trân trọng thành quả của thế hệ đi trước, chịu ảnh hưởng từ thế hệ đi trước. Điều đó cũng khẳng định cái đẹp không thể tiêu diệt và người tạo ra cái đẹp luôn bất tử. Mặt khác, “ tiếng đàn như cỏ mọc hoang” đồng nghĩa với nghệ thuật TBN đang thiếu vắng người dẫn đường..

<span class='text_page_counter'>(88)</span> -. Theo một số tài liệu, sau khi sát hại Lor-ca, bọn giết người đã vứt thi thể ông xuống giết để phi. tang, để giấu giếm tội ác của chúng. Nên TT đã viết : “ giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng”. Cho nên, “vầng trăng” vừa là hình ảnh ẩn dụ vừa là hình ảnh tượng trưng cho nghệ thuật, còn “ giọt nước mắt” và “ đáy giếng” là những hoán dụ về người nghệ sĩ Lor-ca. Hai câu thơ thể hiện một nỗi buồn trong sáng và rất đẹp của người nghệ sĩ chân chính. * Hai khổ thơ cuối là những suy tư của của nhà thơ về cái chết của Lor-ca Tác giả đã nói về cái chết của Lor-ca từ góc độ tướng số học. Theo đó, cái chết của người nghệ sĩ là một định mệnh đã đước báo trước trên đường rãnh của bàn tay. Dòng thơ thể hiện một thái độ chấp nhận định mệnh phũ phàng, chấp nhận sự ra đi của Lor-ca như một quy luật không thể khác. -. Lor-ca là nhà cách tân nghệ thuật, là người luôn ủng hộ cái mới. Lor-ca sẽ đau đớn khi những. khát vọng cách tân nt của ông không được người đời sau tiếp tục. Chính vì thế mà hình tượng “Lorca bơi sang ngang – trên chiếc ghita màu bạc” thật nhẹ nhàng, thanh thản. Đó còn là hành động dứt khoát “ chàng ném lá bùa cô gái Di-gan – vào xoáy nước – chàng ném trái tim mình – vào lặng yên bất chợt”. -. Tóm lại, nhà thơ Thanh Thảo đã chọn cho Lor-ca một cách ra đi thật đẹp, thật “ sang”,. thật đúng với tầm vóc và tư tưởng của người nghệ sĩ nổi tiếng. Bằng cách kết thúc này, Thanh Thảo đã phục sinh thành công thời khắc bi tráng của Lor-ca, dựng tượng đài Lor-ca trong lòng bạn đọc. -. Kết thúc bài thơ là những hợp âm “li-la li-la li-la…” vang lên như bài ca về sự bất tử của. một con người, ngợi ca người nghệ sĩ chân chính, ngợi ca con người sáng tạo. 3. Nghệ thuật Bài thơ hấp dẫn người đọc cũng bởi lối thơ siêu thực tượng trưng, ảnh hưởng từ nhà thơ thiên tài Lor-ca. Sử dụng thành công những thủ pháp tiêu biểu của thơ siêu thực, đặc biệt là chuỗi hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Ngôn ngữ thơ hàm súc, giàu sức gợi. Tất cả nhằm ca ngợi vẻ đẹp nhân cách, tài năng của Lor-ca –nhà thơ , nhà cách tân vĩ đại của văn học TBN và thế giới thế kỉ XX. Kết bài : Bài thơ là tình cảm yêu mến, trân trọng, ngưỡng mộ của Thanh Thảo đối với Lor-ca – người nghệ sĩ đã chiến đấu hết mình cho tự do, cho sự nghiệp cách tân nghệ thuật. Bài thơ giàu chất suy tư. Qua bài thơ ta cần biết trân trọng những thành quả của thế hệ đi trước nhưng cũng cần phải vươn tới không ngừng. Cảm ơn Thanh Thảo đã cho hiểu thêm về con người và đất nước TBN./..

<span class='text_page_counter'>(89)</span> Đề 2 : Hình tượng Lor-ca trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. MỞ BÀI: Tây Ban Nha là đất nước nổi tiếng với những chiếc cối xay gió cổ truyền, tiểu thuyết hiệp sĩ Đôn-ki-hô-tê vĩ đại và lễ hội đấu bò tót truyền thống. TBN còn là quê hương của cây đàn ghi ta với những bản nhạc, bài ca bốc lửa hoặc du dương gắn liền với tên tuổi của nhà thơ – nhạc sĩ Lor-ca mà cái chết của ông đã trở thành một trong những sự kiện bi thảm trong lịch sử TBN hiện đại. Nhớ về sự kiện này, nhà thơ Thanh Thảo đã viết bài thơ khá độc đáo - “Đàn ghi ta của Lor-ca. Bài thơ khắc họa thành công hình tượng Lor-ca - nghệ sĩ thiên tài Tây Ban Nha. THÂN BÀI (Vận dụng đề 1 để làm) KẾT BÀI. (Vận dụng đề 1 để làm). Đề 3 : Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau trong bài Đàn ghi ta của Lorca : Những tiếng đàn bọt nước ……………. tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy. MỞ BÀI : Tây Ban Nha là đất nước nổi tiếng với những chiếc cối xay gió cổ truyền, tiểu thuyết hiệp sĩ Đôn-ki-hô-tê vĩ đại và lễ hội đấu bò tót truyền thống. TBN còn là quê hương của cây đàn ghi ta với những bản nhạc, bài ca bốc lửa hoặc du dương gắn liền với tên tuổi của nhà thơ – nhạc sĩ Lor-ca mà cái chết của ông đã trở thành một trong những sự kiện bi thảm trong lịch sử TBN hiện đại. Nhớ về sự kiện này, nhà thơ Thanh Thảo đã viết bài thơ khá độc đáo - “Đàn ghi ta của Lor-ca” Bài thơ khắc họa thành công hình tượng Lor-ca - nghệ sĩ thiên tài Tây Ban Nha. Đoạn thơ “những tiếng đàn bọt nước ……………. tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”… là hình ảnh Lor-ca trong bối cảnh chính trị bạo tàn của Tây ban Nha và cái chết bi tráng của anh. THÂN BÀI : (Xem đề 1- mục 1, 2.a, 2.b và mục 3.) KẾT BÀI : (Xem đề 1) ********************************************************************************* Bài 7: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ.

<span class='text_page_counter'>(90)</span> A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN I/ Tác giả : Nguyễn Tuân -. Nguyễn Tuân ( 1910 – 1987 ), sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn.. -. Tính tình phóng khoáng và giàu lòng yêu nước.. -. Nét nổi bật trong PCNT Nguyễn Tuân là tài hoa, uyên bác.. II/ Văn bản 1/ Hoàn cảnh sáng tác/ Xuất xứ Người lái đò sông Đà là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 bài tùy bút của Nguyễn Tuân in trong tập Sông Đà (1960). 2/ Nội dung a/ Hình ảnh sông Đà : sông Đà trên trang văn Nuyễn Tuân hiện lên như một “nhân vật” có hai tính cách trái ngược: -. Hung bạo, dữ dằn : cảnh đá dựng thành vách, những đoạn đá chẹt dòng sông như cái yết. hầu; cảnh nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè; những hút nước sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào; những thạch trận, phòng tuyến sẵn sàng ăn chết con thuyền và người lái đò… -. Trữ tình và thơ mộng : dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc người thiếu nữ Tây. Bắc diễm kiều; nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đạp riêng; cảnh vật hai bên bờ sông Đà vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích, vừa trù phú, tràn trề nhựa sống… ==> Qua hình tượng sông Đà, NT thể hiện tình yêu mến thiết tha đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả sông Đà, NT đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới. b/ Hình ảnh ông lái đò -. Là vị chỉ huy cái thuyền sáu bơi chèo trong cuộc chiến đấu không cân sức với thiên nhiên dữ. dội, hiểm độc (sóng, nước, đá, gió…). Bằng trí dũng tuyệt vời và phong thái ung dung, tài hoa, người lái đò nắm lấy bờm sóng vượt qua trận thủy chiến ác liệt ( đá nổi, đá chìm, ba phòng tuyến trùng vi vây bủa...) thuần phục dòng sông. Ông nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn, bình tĩnh và hùng dũng ngay cả lúc đã bị thương. -. Nguyên nhân chiến thắng của ông lái đò : sự ngoan cường, dũng cảm và nhất là kinh nghiệm. sông nước. ==>. Hình ảnh ông lái đò cho thấy NT đã tìm được nhân vật mới : những con người đáng trân. trọng, ngợi ca, không thuộc tầng lớp đài các vang bóng một thời mà là những người lao động bình.

<span class='text_page_counter'>(91)</span> thường – chất vàng mười của Tây Bắc. Qua đây, nhà văn mốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày. 3/ Nghệ thuật :Xem tập học. 4/ Ý nghĩa văn bản : Xem tập học. 5/ Chủ đề : Qua hình ảnh con sông hung bạo và thơ mộng, người lái đò bình dị mà dũng cảm tài hoa, Nguyễn Tuân ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc của Tổ quốc. B/ ĐỀ LUYỆN TẬP Đề 1: Phân tích hình tượng sông Đà trong Tùy Bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. -. Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa , uyên bác , cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống .. -. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút .. -. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút Người lái đò sông Đà” .. -. Tác phẩm không chỉ ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên Sông Đà mà còn khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông này. II . TB - Trước hết , con sông đà được Nguyễn Tuân miêu tả là dòng sông hung bạo , dữ dội .. -. + Cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành: chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. + Quãng Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng , sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây. + Những cái hút nước xoáy tít. Có những thuyền đã bị nó hút tụt xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi dến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.. + Thác đá: ++ Tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo; ++ Đá bày thạch trận, nhằm ăn chết cái thuyền đơn độc.(Ở tuyến một, thác đá mở ra năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Ở tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu ngạn. Ở tuyến ba, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng luồng sinh để vượt qua).. è Nó là kẻ thù số một, sẵn sàng cướp đi mạng sống con người, có tâm địa độc như người dì ghẻ. -. Bên cạnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân con sông Đà lại rất trữ tình , gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. + Sông Đà hiền hoà, mềm mại, huyền ảo như mái tóc của một phụ nữ kiều diễm: “con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mây mù khói núi Mèo nương xuân”..

<span class='text_page_counter'>(92)</span> + Sắc nước biến đổi theo mùa: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích (nghĩa là một màu xanh trong và sáng); mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đổ như mặt người bâm đi vì rượu bữa . + Nắng sông Đà là “một màu nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. + Cảnh hai bên bờ sông mang không khí hoang dại, tĩnh lặng, nên thơ : ++ Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. ++ Một nương ngô nhú lên mấy lá non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp ++ Đàn hươu thơ ngộ ngẩng đầu ngơ ngác mơ một tiếng còi sương + Dưới sông đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. -> Không thấy đâu con sông Đà diện mạo và tâm địa độc ác, mà chỉ thấy tình cảm của dòng sông đối với con người như một cố nhân, xa thì thấy nhớ thương, gặp lại thì thấy mừng vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Còn con sông lại mang bao rung động yêu thương như nhớ những hòn đá xa xôi để lại nơi thượng nguồn . Khi tả con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn nhẹ nhàng, êm ái. Câu ngắn, vị ngữ diến tả trạng thái bình lặng, để lại trong lòng người âm hưởng mênh mang, thơ mộng . III . Kết bài Trong tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” , nhà văn Nguyễn Tuân đã rất thành công trong việc sử dụng nhiều thuạt ngữ của các ngành nghề khác nhau nhằm miêu tả vẻ hùng vĩ , thơ mộng của con sông Đà và mở ra bao liên tưởng độc đáo , bất ngờ trong tâm trí người đọc . Qua đó , ta thấy được tài hoa , vốn văn hoá uyên thâm và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân . Đồng thời ta còn thấy được cảm hứng ngợi ca , tự hào về chất vàng thiên nhiên , về giang sơn gấm vóc Việt Nam của tác giả . Đề 2 : Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân. . MỞ BÀI Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình. II. THÂN BÀI 1. Lai lịch và ngoại hình người lái đò sông Đà - Người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm. - - Ngoại hình ông lão : Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhãn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. -> ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở ông đò. 2. Tính cách người lái đò sông Đà - Ông lái đò là người từng trải: + Ngoại hình của người lái đò cho thấy đó thực sự là người từng trải, thành thạo nghề. + Người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần… + Ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở trông số 73 con thác của sông Đà. + Ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng trong “thiên anh hùng ca sông Đà”. è Nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà. -. Ông lái đò còn là một người giàu lòng dũng cảm : + Ông đã chế ngự được sông Đà bằng lòng dũng cảm, sự gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán. + Cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một : … Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đat nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn… + Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. + Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. + Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc.

<span class='text_page_counter'>(94)</span> binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc. -. Ông lái đò như một nghệ sĩ tài hoa : + Nhà văn trân trọng gọi là ông đò là tay lái ra hoa vì nghệ thuật của ông là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do. + Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. + Vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. + Xong trận, ông ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.. è Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét : Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, người lái đò chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm ! III. Kết bài Nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là nhân vật chính diện luôn được nhà văn chú ý mô tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu như trước cách mạng tháng Tám 1945, theo Nguyễn Tuân, cái tài hoa chỉ có ở lớp nhà nho trong quá khứ thì nay, trong Người lái đò sông Đà và nhiều tác phẩm khác, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động, trong hiện tại của đất nước. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động. ****************************************************************************** Bài 8: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> I/ Tác giả -. H.P.N.Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.. -. Ông chuyên viết về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của HPNT là ở sự kết hợp nhuần. nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí… tất cả được diễn đạt trong lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. II/ Văn bản 1/ Hoàn cảnh sáng tác/ Xuất xứ : “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên. Tác phẩm gồm ba phần, đoạn trích thuộc phần thứ nhất. 2/ Nội dung -. Thủy trình của Hương giang : + Ở nơi khởi nguồn : sông Hương có vẻ đẹp hoang dại, đầy cá tính, là bản trường ca của rừng già, là cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. +. Đến ngoại vi thành phố Huế : sông Hương như người con gái nằm ngủ mơ màng giữa. cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến dánh thức. Thủy trình của sông Hương khi bắt đầu về xuôi tựa một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích. + Đến giữa thành phố Huế : sông Hương như tìm được chính mình vui hẳn lên, mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Nó có những đường nét tinh tế, đẹp như điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. + Trước khi từ biệt Huế : sông Hương giống như người tình dịu dàng và chung thủy. Con sông như nàng Kiều trong đêm tình tự, trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước lúc đi xa. -. Dòng sông của lịch sử và thi ca : + Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu bao chiến công oanh. liệt của dân tộc. + Trong đời thường, sông Hương mang vẻ đẹp giản dị của một người con gái dịu dàng của đất nước. + Sông Hương là dòng sông của thi ca, nguồn cảm hứng bất tận cho các văn nghệ sĩ sáng tác. 3/ Nghệ thuật : Xem tập học. 4/ Ý nghĩa văn bản : Xem tập học. 5/ Ý nghĩa nhan đề : xem tập học B/ ĐỀ LUYỆN TẬP.

<span class='text_page_counter'>(96)</span> Đề 1 : Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương qua bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Mở bài : -. H.P.N.Tường là một trí thức yêu nước, gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn hiểu biết sâu rộng. trên nhiều lĩnh vực. Ông là nhà văn chuyên về bút kí. Sáng tác của ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận và tư duy đa chiều với lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa. -. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bút kí trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong cách của HPNT.. Trong bài bút kí, nhà văn đã miêu tả rất cụ thể và sinh động vẻ đẹp của con sông Hương từ nơi khởi nguồn đến khi rời kinh thành Huế. Thân bài : 1/ Vẻ đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên : được cảm nhận qua thủy trình Hương giang * Ở nơi khởi nguồn : -. Sông Hương được ví như “ một bản trường ca của rừng già ”. Ở nơi khởi nguồn của dòng. chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, vừa hùng tráng vừa trữ tình như bản trường ca bất tận của thiên nhiên : “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và có lúc nó cũng trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Câu văn dài được chia làm nhiều vế liên tục như gợi dậy cái dư vang của trường ca. Thủ pháp điệp cấu trúc với những động từ mạnh tự nó đã tạo nên âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa rừng già. -. Sông Hương được hình dung như “ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại ”, có. “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Đây là một liên tưởng thú vị và độc đáo. Những cô gái Bô-hê-miêng thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát, nhảy múa có vẻ đẹp man dại đầy quyến rũ. Ví sông Hương với những cô gái Di-gan, HPNT đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của con sông. - Ra khỏi rừng già, sông Hương mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ, được ví như “ người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Với cách viết này, HPNT đã đem đến một cái nhìn sâu sắc hơn về sông Hương, xem nó như một “đấng sáng tạo”, cội nguồn của văn hóa cố đô – cái mà s. Hương “không muốn bộc lộ”. Có lẽ, không có sông Hương thì khó có thể có văn hóa Huế ngày nay. => Tóm lại, với những NT liên tưởng, so sánh, nhân hóa, điệp cấu trúc, động từ mạnh, HPNT đã phát hiện và khắc họa vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung, đầy cá tính nhưng cũng rất dịu dàng của sông Hương. * Đến ngoại vi thành phố Huế :.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> -. Trong cảm nghĩ của nhà văn, sông Hương giống như “ người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh. đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”. Từ đây, thủy trình của sông Hương bắt đầu về xuôi dần về thành phố Huế tựa như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình nhân đích thực của mình. -. Dưới ngòi bút tài hoa của HPNT, sông Hương như người gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ. dài. Nó thể hiện một vóc dáng mới, đầy khao khát và lãng mạn : “ sông Hương chuyển dòng liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Hành trình đến với “ người tình mong đợi” của “ người con gái đẹp” ấy khá gian truân. Nhưng trong quá trình ấy, sông Hương có dịp thể hiện tất cả vẻ đẹp của mình với những đường cong gợi cảm. -. Có thể thấy, bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, HPNT. đã diễn tả một cách sinh động từng bước đi của sông Hương. Mỗi đường đi nước bước của con sông gắn liền với những địa danh khác nhau của xứ Huế đã được nhà văn dành cho một cách diễn đạt riêng, ấn tượng. Nhờ đó mà hành trình về xuôi của sông Hương không đơn điệu, nhàm chán mà trái lại nó khiến người đọc đi từ ngạc nhiên, thú vị này đến ngạc nhiên, thích thú khác. Từ những điểm cao như Vọng Cảnh, Tam Thai... “ ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa”, phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Thủ pháp nhân hóa và so sánh được sử dụng kết hợp với hệ thống ngôn từ giàu cảm xúc và hình ảnh cũng góp phần đáng kể vào việc khắc họa một dòng sông thơ mộng trữ tình. Tóm lại, HPNT đã vẽ lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế. Nhà văn không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí của dòng sông mà quan trọng hơn biến cái thủy trình ấy thành một hành trình của người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đó cũng chính là cảm nhận riêng, độc đáo và đầy thi vị của HPNT về sông Hương trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu. -. Đã có một cảm nhận đầy chất thơ về sông Hương nhưng HPNT còn thấy ở dòng sông này một. vẻ đẹp khác nữa. Vẻ đẹp ấy sâu lắng và cũng bí ẩn. Đó là “ vẻ đẹp trầm mặc”,“ như triết lí, như cổ thi” khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ và khi đi qua những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. => Tóm lại, bằng những nt liên tưởng, so sánh, nhân hóa, bút pháp vừa lãng mạn vừa hiện thực đã làm bật sông Hương như một cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu theo tiếng gọi vang vọng từ trái tim. * Đến giữa thành phố Huế : - Cuối cùng thì sông Hương cũng đã đến được thành phố thân yêu của mình. Nó vui hẳn lên, mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của ty. Khi đi qua tp, s. Hương trôi đi chậm, thực chậm, điệu chảy lặng lờ như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Ở đây, tg so sánh sông H với các sông.

<span class='text_page_counter'>(98)</span> khác trên tg để thấy sông H khác các con sông khác. Nó chỉ chảy vào một thành phố duy nhất và chảy chầm chậm, lưu luyến, bịn rịn như không muốn xa tp. -. Mượn câu nói của nhà triết học Hê-ra-clit, HPNT đã đem đến một kiến giải khác, đó là cách lí. giải từ trái tim : sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải chia xa. - Viết về sông Hương giữa lòng thành phố, HPNT không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Một trong số đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế. Ở góc nhìn âm nhạc, tác giả gọi sông Hương là “ người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya ”. Câu văn chất chứa tâm trạng, liên tưởng đến Nguyễn Du và Thúy Kiều. => Tóm lại, bằng những nt so sánh đầy mới lạ, bất ngờ cùng với nhân hóa, liên tưởng của tg làm s. H trở nên có hồn, có sự sống như một cô gái say đắm trong tình yêu. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa Huế và sông Hương được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tình yêu. * Trước khi từ biệt Huế : -. Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, “ ôm lấy đảo Cồn Hến”. quanh năm mơ màng trong sương khói rồi “ lưu luyến ra đi” giữa màu xanh biếc của vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Rồi như sực nhớ một điều gì chưa kịp nói, sông Hương “ đột ngột đổi dòng”, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp thành phố lần cuối. Đó là đặc điểm địa lí tự nhiên của dòng sông. Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy lại là biểu hiện của “ nỗi vương vấn”, thậm chí có chút “ lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung. Nhà văn hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi về với biển cả. Đây đúng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông thân thương của xứ Huế. ==> Qua những cảm nhận về sông Hương, có thể nhận thấy HPNT đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc và khám phá mới mẻ. Từ trong những cái nhìn ấy và qua giọng văn, ta thấy một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và thái độ trân trọng của nhà văn đối với dòng sông quê hương. 2/ Vẻ đẹp nhìn từ góc độ lịch sử, cuộc đời và thi ca -. Với lịch sử dân tộc : sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu bao chiến công. oanh liệt của dân tộc. Sông Hương là “ dòng sông biên thùy xa xôi” của đất nước các vua Hùng, là “ dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại Việt qua những thế kỉ trung đại”. Thế kỉ XVIII, sông Hương “ vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”. “ Nó sống hết lịch sử bi tráng của XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa”. Thế kỉ XX, sông Hương “ đi vào thời đại của CMT8 bằng những chiến công rung chuyển” để rối sau đó có.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt. -. Với cuộc đời : sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ. lá xanh biếc”. Trở về cuộc sống bình thường, sông Hương mang vẻ đẹp giản dị của “ một người con gái dịu dàng của đất nước”. Áo cưới Huế xưa, màu áo điều lục có vân thưa màu xanh chàm lồng lên màu đỏ bên trong tạo thành màu tím ẩn hiện, màu tím thủy chung, đấy cũng chính là màu của sương khói sông Hương. -. Với thi ca : sông Hương là nguồn đề tài, cảm hứng bất tận cho các văn nghệ sĩ. Tác giả cho. rằng có một dòng thi ca về sông Hương, và “ dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”: Tản Đà tinh tế khám phá sự thay màu thực bất ngờ “ dòng sông trắng, lá cây xanh”. Cao Bá Quát phát hiện ở sông vẻ đẹp hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh”. Bà Huyện Thanh Quan tìm thấy ở sông một nỗi “ quan hoài vạn cổ”. Và trong thơ Tố Hữu, sông Hương trở thành “sức mạnh phục sinh của tâm hồn”… ==> Bài kí mở đầu bằng một câu hỏi đầy trăn trở : “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” nhưng phải đến những dòng cuối cùng của bài bút kí nhà văn mới đưa ra câu trả lời. Và nhà văn đã chọn cho mình một cách trả lời thật ấn tượng, đậm chất trữ tình : “ Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”. Mượn huyền thoại này để giải thích cho câu hỏi “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, phải chăng nhà văn muốn khẳng định hai phẩm chất cao quý của sông Hương, cũng là hai vẻ đẹp còn mãi với thời gian của con sông này : vẻ đẹp vĩnh hằng và danh thơm muôn thưở. 3/ Nghệ thuật thể hiện : -. Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.. -. Ngôn từ phong phú, gợi hình, gợi cảm; câu văn giàu nhạc điệu.. -. Các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, so sánh được sử dụng một cách hiệu quả.. => Tạo ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của sông Hương. Kết bài : -. Sức hấp dẫn của bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” trước hết đến từ ngòi bút tài hoa của. HPNT. Nhà văn đã sáng tạo được những trang văn đẹp mà những trang văn ấy được dệt nên bởi một kho từ vựng phong phú, uyển chuyển và rất giàu hình ảnh. Các biện pháp nghệ thuật : ẩn dụ, nhân hóa, so sánh… gắn liền với những liên tưởng bất ngờ, thú vị cũng đã tạo nên những góc nhìn đa sắc về sông Hương, đưa người đọc đi từ thích thú này đến thích thú khác. -. Bài kí nói chung và đoạn văn nói riêng là kết tinh và tổng hòa đẹp đẽ của một tình yêu say đắm. đối với dòng sông, với quê huơng xứ sở và tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, am hiểu sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một sức liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo..

<span class='text_page_counter'>(100)</span> Bài 9: VỢ CHỒNG A PHỦ A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN I/ Tác giả -. Tô Hoài sinh năm 1920, tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê ở Hà Nội.. -. Là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục – gần 200 đầu sách - trong văn học hiện. đại VN. -. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng. khác nhau trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ vựng giàu có, nhiều khi rất bình dân, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc. II/ Văn bản 1/ Xuất xứ -. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trích từ “Truyện Tây Bắc”, được sáng tác năm 1953, là kết. quả chuyến đi của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Tám tháng sống gắn bó với đồng bào các dân tộc miền núi đã tạo cảm hứng cho ông sáng tác thành công tác phẩm này. -. Truyện Tây Bắc được tặng giải nhất của Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.. 2/ Tóm tắt truyện Truyện kể về đôi trai gái người Mông ( Mèo) là Mị và A Phủ : -. Mị sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, vì cha mẹ nợ bạc nhà thống lí nên Mị bị bắt về. làm con dâu gạt nợ. Đau khổ, tủi nhục, Mị định tự tử nhưng vì thương cha nên đành quay lại sống kiếp trâu ngựa trong nhà thống lí. Tuy nhẫn nhục, cam chịu nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng một tinh thần phản kháng mãnh liệt. -. A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động rất giỏi. Vì đánh A Sử (con thống lí Pá Tra) nên bị phạt. một trăm bạc trắng. Không có tiền, thống lí Pá Tra cho vay tiền, A Phủ phải ở đợ để trừ nợ. Do sơ ý để hổ vồ mất một con bò, A Phủ bị thống lí trói đứng vào cột đợi cho tới khi A Sử bắn được hổ về mới thả. -. Thương cảm trước cảnh A Phủ sắp chết, Mị đã táo bạo cắt dây trói cho A Phủ và cùng trốn. khỏi Hồng Ngài sang Phiềng Sa. Ở đây, họ thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giúp đỡ, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng bản làng bảo vệ quê hương. 3/ Nội dung a/ Nhân vật Mị - Cuộc sống thống khổ : Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử tàn tệ. Lúc đầu Mị phản kháng quyết liệt, cô định tự tử.

<span class='text_page_counter'>(101)</span> nhưng vì thương cha “ Mị không đành lòng chết”. Từ đó, cô chấp nhận làm con trâu, con ngựa cho nhà thống lí. Mị sống như chết “ suốt ngày lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, mất cả ý thức về cuộc sống (lời giới thiệu về Mị, công việc, không gian căn buồng của Mị,…). - Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc : mùa xuân đến ( thiên nhiên, tiếng sáo gọi bạn, bữa rượu,…), Mị đã thức tỉnh ( kỉ niệm sống dậy, sống với tiếng sáo, ý thức về thời gian, thân phận, …) và Mị muốn đi chơi ( thắp đèn, quấn tóc,…). Khi bị A Sử trói đứng vào cột, Mị “như không biết mình đang bị trói”, vẫn thả hồn theo tiếng sáo. - Sức phản kháng mạnh mẽ : lúc đầu thấy A Phủ bị trói, Mị dửng dưng “vô cảm”. Nhưng khi nhìn thấy “dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, Mị xúc động, nhớ lại mình cũng từng bị trói, đồng cảm với người, nhận ra tội ác của bọn thống trị. Tình thương, sự đồng cảm giai cấp, niềm khát khao tự do mãnh liệt, sự căm phẫn cái ác, … đã thôi thúc Mị cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát cho cuộc đời mình. b/ Nhân vật A Phủ -Số phận éo le, nạn nhân của hủ tục lạc hậu và cường quyền phong kiến miền núi : Là một chàng trai nghèo, mồ côi. A Phủ đánh A Sử rồi bị bắt, bị đánh đập, hành hạ dã man. Sau cuộc xử kiện lạ lùng, A Phủ trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. -Có phẩm chất tốt đẹp : sống tự lập, có cá tính mạnh mẽ, sức khỏe phi thường, dũng cảm, yêu tự do, yêu lđ, có sức sống tiềm tàng. c/ Giá trị của tác phẩm (hiện thực, nhân đạo) -Giá trị hiện thực : miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo, phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi (chứng minh bằng cuộc đời thống khổ của Mị và A Phủ). -Giá trị nhân đạo : thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi trước Cách mạng; tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn bạo của giai thống trị; trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc; … (chứng minh bằng cuộc đời thống khổ của Mị và A Phủ). 4/ Nghệ thuật : Xem tập học. 5/ Ý nghĩa văn bản Xem tập học. B/ LUYỆN TẬP Đề 1 : Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị từ đêm tình mùa xuân cho đến khi trốn khỏi Hồng Ngài 1. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm , nhân vật: - Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953..

<span class='text_page_counter'>(102)</span> - Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động. - Sức sống ấy đặc biệt được thể hiện qua diễn biến tâm trạng và hành động của Mị từ đêm tình mùa xuân cho đến khi trốn khỏi Hồng Ngài. 2. Vị trí đoạn trích : - Phần trích thể hiện rõ nét sức sống tiềm tàng của nhân vật. - Bối cảnh : Do bị đày đoạ, áp chế, Mị trở thành người phụ nữ “vô hồn”, mất cả cảm giác về thời gian lẫn không gian. Kiếp sống của Mị chẳng khác nào kiếp sống con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra. Tuy nhiên, sức sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. 3. Phân tích tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân cho đến khi trốn khỏi Hồng Ngài. - Tác động : Mùa xuân về trên rẻo cao, sặc sỡ những sắc màu, rộn rã những âm thanh. đặc biệt là đêm tình mùa xuân với tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng gọi bạn tình có ý nghĩa như “một hoàn cảnh điển hình” làm cho sức sống tiềm tàng trong con người Mị trỗi dậy một cách mãnh liệt. a. Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân.: -Tiếng sáo như chạm vào nỗi nhớ. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hồi. Mị ngồi nhẩm lại bài hát của người đang thổi - Ngày Tết, Mị cũng uống rượu: “Mị… cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say” => Tác động của ngoại cảnh và men rượu, Mị đã thoát khỏi tâm trạng dửng dưng - “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” -> lòng Mị đang phơi phới sống về những ngày trước. Mị thấy “trong lòng đột nhiên vui sướng… Mị trẻ lắm… Mị muốn đi chơi” -> Ý thức về bản thân trỗi dậy, Mị phẫn uất mãnh liệt và thấm thía nỗi tủi nhục của mình, Mị muốn chết -> trong khi đó, tiếng sáo, biểu tượng của khát vọng tự do và tình yêu tuổi trẻ “đang rập rờn” trong đầu Mị -. - Mị khêu to ngọn đèn cho sáng như thể khêu ngọn lửa của lòng ham sống, của sự khát khao -> Hành động này thúc đẩy hành động khác, không thể kìm nén được nữa. Nó là sự thôi thúc của trái tim như muốn phá vỡ những xiềng xích tàn bạo trong nhà thống lí Pá Tra, thách thức mọi ràng buộc khắt khe của nhà Pá Tra, của người chồng tàn ác - “Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa” chuẩn bị đi chơi ngày Tết. Nhưng giữa lúc lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, dâng lên mãnh liệt như sóng trào thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách khắc nghiệt, lạnh lùng. A Sử, chồng Mị thản nhiên “trói đứng Mị vào cột nhà” -> “Như không đang biết mình đang sợ bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”, quên mọi đau đớn về thể xác, “Mị đã vùng dậy bước đi”. b. Diễn biến tâm trạng, hành động của Mi trong đêm cởi trói cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài: - Bên cạnh bếp lửa, nhìn thấy A Phủ bị trói đứng một cách thảm khốc, mấy đêm đầu Mị vẫn thản nhiên vì chuyện đánh người, trói nguời ở nhà Pá Tra xảy ra như cơm bữa. Vả chăng, Mị cũng chỉ là.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> một nạn nhân bất lực. - Nhưng đêm nay, dưới ánh lửa “bập bùng” trông thấy hai hàng nước mắt “lấp lánh” bò xuống hai hõm má đã “xám đen lại của A Phủ”, Mị càng thương mình, càng thương người. Tình thương, niềm đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ ấy đã lấn át nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành động táo bạo: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài. - Đây là hành động tuy tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. Nó là một bước ngoặt trong tính cách và cuộc đời Mị. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục của mình, Mị đã vượt qua nhà ngục thống lí Pá Tra với biết bao thế lực hà khắc của cường quyền, hủ tục, lễ giáo phong kiến (con gái Mèo lấy chồng, suốt đời là cái đuôi con ngựa của chồng, chồng chết lại phải lấy anh hoặc em chồng). 4. Kết luận: - Qua diễn biến tâm trạng hành động của Mị, Tô Hoài trân trọng khát vọng sống mạnh mẽ của con người. Đó là ý nghĩa nhân đạo cơ bản của tác phẩm. - Khả năng phân tích ,miêu tả thiên nhiên và tâm lí sâu sắc, tinh tế của Tô Hoài. Đề 2 : Phân tích hình tượng nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (đoạn trích được học) của Tô Hoài. Mở bài - Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại, là nhà văn có tài nắm bắt nhanh nhạy những nét riêng biệt trong phong tục, tập quán của những miền đất mà ông từng đi qua. - Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm đã xây dựng thàng công nhân vật A Phủ mà qua đó nhà văn muốn tô đậm thêm bức tranh hiện thực về đời sống cơ cực, tăm tối của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Thân bài 1/ Giới thiệu sơ lược về cốt truyện, nhân vật (cần gọn) 2/ Phân tích nhân vật A Phủ a.A Phủ là chàng trai đau khổ nhưng cá tính mạnh mẽ: - Xuất thân: mồ côi cha mẹ từ nhỏ (mất gia đình trong một trận dịch đậu mùa), bị bán cho người Thái. A Phủ bỏ trốn, bước chân phiêu bạc, lang thang đã đưa A Phủ tới Hồng Ngài. - A Phủ là chàng trai khỏe mạnh, lao động giỏi : chạy nhanh như ngựa, săn bò tót rất giỏi, … Vì thế, A Phủ là niềm mơ ước của nhiều cô gái(DC) - Tuy nghèo khổ không lấy được vợ nhưng anh vẫn đi chơi ngày tết như bao người khác..

<span class='text_page_counter'>(104)</span> b.A Phủ có một cuộc đời nô lệ đầy máu và nước mắt : - Dám đánh A Sử - con quan khi nó đến phá cuộc chơi: ném con quay vào giữa mặt, nắm cái vòng cổ đập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. - Vì đánh A Sử mà A Phủ đã bị bắt trói như một con lợn, bị phạt vạ với lời kết án mày không trả hết nợ, đời con, đời cháu mày phải trả; - Khi xử phạt trong nhà thống lí, A Phủ không van xin một lời; c.Thảm họa đến với A Phủ và cuộc chạy trốn để tìm đến tự do và hạnh phúc: - A Phủ phải sống kiếp nô lệ trong nhà thống lí. Một mình sống ngoài rừng chăn bò, chăn ngựa cho nhà thống lí. - Mạng sống của A Phủ không bằng một con bò : để hổ bắt mất một con bò, A Phủ đã bị trói đứng vào cột, nhịn đói, nhịn khát, đau đớn bất lực. - Khi được Mị cắt dây cởi trói, A Phủ đã khuỵu xuống nhưng ý thức về sự sống trong A Phủ đã trỗi dậy nên quật sức vùng lên chạy. 3/ Nghệ thuật -Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình. -Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. -Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ. => Tạo ấn tượng sâu sắc về nhân vật A Phủ. Kết bài  Qua cuộc đời và số phận của A Phủ, Tô Hoài đã tố cáo tội ác dã man của giai cấp thống trị miền núi đã đẩy con người hiền lành, chất phác vào tình trạng thảm hại, bị cướp đoạt sức lao động, quyền làm người và trở thảnh nô lệ gạt nợ;  Nhà văn luôn thể hiện lòng thương cảm với những nổi khổ đau, bất hạnh của họ. Ông đống tình với sự phản kháng và mở ra cho hơ một lối thoát. Đề 3 : Phân tích giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ. Mở bài -Vợ chồng A Phủ là kết quả chuyến đi tám tháng của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Sự thành công của tác phẩm thể hiện ở việc khắc họa số phận hai nhân vật Mị và A Phủ. -Từ quá trình vượt lên số phận của hai nhân vật này, người đọc tìm thấy được giá trị nhân đạo của tác phẩm. Thân bài.

<span class='text_page_counter'>(105)</span> 1) Giải thích giá trị nhân đạo : lòng thương người – biểu hiện : cảm thương sâu sắc trước nỗi khổ của con người; thái độ trân trọng, tin tưởng vào giá trị cũng như khả năng vươn lên của con người; lên án những thế lực chà đạp lên quyền sống con người,... 2) Phân tích giá trị nhân đạo : * Luận điểm 1 : Truyện thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi trước Cách mạng : Tác giả có những trang miêu tả, thể hiện thái độ đầy xúc động về một đoạn đời bị đọa đày đau khổ của Mị và A Phủ trong nhà thống lí Pá Tra : -Mị và A Phủ đều xuất thân là những người mồ côi, nghèo khổ. Mị là con dâu gạt nợ còn A Phủ là đứa ở trừ nợ. -Trong gia đình thống lí : + Mị bị đối xử hết sức tồi tệ chẳng khác gì con vật, phải làm việc quanh năm suốt tháng chẳng lúc nào được nghỉ ngơi : “ Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi … suốt năm suốt đời như thế”. + A Phủ là chàng trai khỏe mạnh, gan góc, anh từng sống tự do như con chim trời giữa rừng núi, vậy mà phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ cho nhà thống lí vì tội đánh A Sử, anh phải “ đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ… ngoài gò, ngoài rừng”. -Mị và A Phủ đều bị tước đoạt tuổi trẻ, ước mơ : + Mị như bông hoa rừng chóng héo tàn, lúc nào cô cũng “ cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị sống mà như đã chết, “ mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” và căn buồng Mị nằm “ kín mít, một lỗ vuông bằng bàn tay… hay là nắng”. + A Phủ thì “ không còn có lúc nào trở về làng bên” và “ cũng chẳng muốn trở về bên ấy làm gì nữa”. => người đọc phải thổn thức, xót xa với số phận từng con người Tây Bắc. * Luận điểm 2 : Truyện lên án, tố cáo, phơi bày bản chất xấu xa tàn bạo của giai cấp thống trị : - Với Pá Tra : vạch trần bản chất thâm độc (cảnh xin Mị về làm dâu, cảnh phạt vạ, phạt tội A phủ,…) (dc/pt) - Với A Sử : lên án hành động đê tiện, tàn ác (bắt cóc Mị, cảnh trói đứng Mị,…) (dc/pt) => Bày tỏ thái độ phẫn nộ và lên án những thế lực chà đạp lên quyền sống con người. * Luận điểm 3 : Truyện còn thể hiện sự trân trọng và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng CM của nhân dân Tây Bắc : - Với Mị : + Ngoan hiền, hiếu thảo (dc/pt)..

<span class='text_page_counter'>(106)</span> + Lòng ham sống, khát vọng tự do và hạnh phúc (dc/pt). + Sức sống tiềm tàng, phản kháng mạnh mẽ và sự hồi sinh kỳ diệu (dc/pt). - Với A Phủ : chất phác, dũng cảm, yêu tự do, khát vọng sống và khả năng cách mạng (dc/pt). “ Đến đêm, A Phủ cúi xuống, nhai đứt hai vòng dây mây, nhích dãn dây trói một bên tay…” -> ý thức phản kháng để tự cứu mình. => Hai nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn và con đường giác ngộ cách mạng của nhân dân Tây Bắc. * Luận điểm 4 : Giải phóng con người khỏi ách áp bức - Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ . - Mị và A Phủ trốn sang Phiềng Sa làm lại cuộc đời. 3) Nghệ thuật thể hiện : đặc sắc trong khắc họa tính cách điển hình, trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế, giọng văn nhẹ nhàng, đậm màu sắc dân tộc và giàu chất thơ. 4) Đánh giá chung - Hai nhân vật vừa tiêu biểu cho giai cấp, vừa có cá tính riêng mạnh mẽ đã tạo nên giá trị nhân đạo cho tp. - Tư tưởng nhân đạo cách mạng giúp nhà văn mô tả quá trình người dân miền núi đến với cách mạng như một thực tế tất yếu. Kết bài -Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài và của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Yếu tố chính làm cho tác phẩm trở thành xuất sắc chính là giá trị nhân đạo sâu sắc. -Qua việc mô tả cuộc đời đau khổ của hai người nông dân miền núi dưới chế độ thực dân phong kiến ở Tây Bắc, Tô Hoài đã nêu lên một vấn đề bức xúc : phải giải phóng những người lao động bị áp bức bóc lột, phải giải phóng mọi sức sống đang bị các thế lực phong kiến kìm hãm, trói buộc. Đó chính là tư tưởng nhân đạo của nhà văn. Bài 10: VỢ NHẶT A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN I/ Tác giả : Xem SGK và tập học. II/ Văn bản 1/ Hoàn cảnh sáng tác: Xem tập học. 2/ Tóm tắt : Truyện kể về anh Tràng “ nhặt” được vợ trong nạn đói 1945. Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng - một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng : Việt Minh sẽ về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình. => Sống giữa cái đói đe dọa, cái chết rình rập nhưng họ vẫn yêu thương đùm bọc nhau, vẫn khao khát cuộc sống gia đình và hướng đến cách mạng, tin vào tương lai. 3/ Ý nghĩa nhan đề : Xem tập học 4/ Tình huống truyện : bất ngờ, éo le, độc đáo.(xem thêm trong tập học) 5/ Các nhân vật chính a. Nhân vật Tràng : nghèo, xấu trai nhưng tốt bụng và cởi mở ( giữa lúc đói, anh sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ ), luôn khát khao hạnh phúc và có ý thức xây dựng hạnh phúc. Câu “nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” đã ẩn chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình và Tràng đã “liều” đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, thấy nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng, Tràng cảm thấy yêu thương và gắn bó, có trách nhiệm với gia đình, nhận ra bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Anh cũng nghĩ tới sự đổi đời dù vẫn chưa ý thức thật đầy đủ (hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp và đám người đói đi phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo). b. Người “vợ nhặt” : là nạn nhân của nạn đói. Những xô đẩy dữ dội của hoàn cảnh đã khiến “thị” chao chát, thô tục và chấp nhận làm “vợ nhặt” để được sống. Tuy nhiên, sâu thẳm trong con người này vẫn khao khát một mái ấm. Và từ khi trở thành người vợ trong gia đình thì “thị” là một con người hoàn toàn khác : đảm đang, tháo vát, hiền hậu; hiếu thảo với mẹ chồng,… c. Bà cụ Tứ : một người mẹ nghèo khổ, rất mực thương con; một người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha; một con người lạc quan, có niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai. ==> Cả ba nhân vật đều có niềm khát khao sống, khao khát hạnh phúc, niềm tin và hi vọng vào tương lai tươi sáng ở ngay thời khắc khó khăn nhất, khi ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh như sợi tóc. Qua các nhân vật, nhà văn muốn thể hiện tư tưởng: “dù kề bên cái đói, cái chết, người ta vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai”. 6/ Giá trị tư tưởng của tác phẩm (giá trị nđ và hiện thực) -Giá trị hiện thực : Xem tập học. -Giá trị nhân đạo : Xem tập học. 7/ Nghệ thuật : Xem tập học. 8/ Ý nghĩa văn bản : Xem tập học. B/ ĐỀ LUYỆN TẬP (5 điểm) Đề 1 : Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt. Mở bài : - Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Truyện “Vợ nhặt” thành công với nhiều yếu tố, đặc.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật bà cụ Tứ. Đó là một người mẹ nghèo nhưng nhân hậu, vị tha, giàu tình yêu thương và một thế giới nội tâm vô cùng phong phú. -. Trước việc con trai có vợ một cách bất ngờ, bà cụ Tứ có một tâm trạng hết sức đặc biệt.. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả hết sức thành công thế giới nội tâm của bà cụ. Thân bài : 1/ Giới thiệu nhân vật -. Cụ Tứ là người mẹ góa bụa, già nua, nghèo khổ, sống cùng với con trai là Tràng trong một căn. nhà “đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” ở cuối xóm ngụ cư. Hình ảnh bà cụ Tứ xuất hiện ở nửa cuối của truyện với tiếng ho “húng hắng”, dáng đi “ lọng khọng” và “ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán” đã để lại ấn tượng khó phai về người mẹ mảnh mai hao gầy, tấm lưng còng vì sương gió của cuộc đời với tình thương con vô hạn. -. Trong khi gđ đang phải đối diện với nạn đói khủng khiếp thì Tràng lại có vợ. Hoàn cảnh trớ. trêu ấy khiến cụ có một tâm trạng hết sức phức tạp. 2/ Tâm trạng bà cụ Tứ khi con trai có vợ a/ Lúc đầu, bà ngạc nhiên đến sửng sờ Ngạc nhiên, bất ngờ là cảm giác đầu tiên ở người mẹ nghèo khi thấy con hôm nay sao quá “đon đả”, bà lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Bước chân bà “ phấp phỏng”, rồi bà “ đứng sững lại ” khi bà nhìn thấy người phụ nữ lạ trong nhà mình. Bao nhiêu câu hỏi dội về đầy băn khoăn : “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?...”. Người đàn bà chào đến lần thứ hai, bà cụ vẫn không hiểu ra : “ Ô hay, thế là thế nào nhỉ ?”. Quá ngạc nhiên, bà dường như không còn tin vào tai, vào mắt mình nữa. “ Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”, nhìn kĩ người đàn bà lần nữa vẫn chưa nhận ra người nào, bà lão nhìn con trai tỏ ý không hiểu. b/ Khi hiểu ra cơ sự, bà rất mừng nhưng lại vừa buồn, vừa tủi, vừa thương, vừa lo Bà lão “cúi đầu nín lặng”. Đằng sau cái “cúi đầu nín lặng” ấy là cả dòng cảm xúc tuôn trào với bao niềm vui, buồn tủi, lo âu. Bà vui mừng vì con mình đã có vợ, từ nay không còn cảnh đi sớm về trưa một mình. Hạnh phúc của con là niềm vui vô bờ bến của người mẹ. Nhưng trong hoàn cảnh này, bà lại rất lo, rất buồn, rất tủi và càng thương các con vì bà “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà tự trách bản thân “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Bà cụ nghẹn ngào, tủi thân tủi phận. Bà so sánh “ người ta” với “ mình” để chua chát, tự trách bản thân, để càng thương con trai hơn. Rồi bà lão khóc. Từ “ kẽ mắt kèm nhèm” ở độ tuổi bảy mươi “ rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Nước mắt của sự thương xót, tủi.

<span class='text_page_counter'>(109)</span> buồn. Nước mắt của nỗi lo lắng “ Biết rằng chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Trong hoàn cảnh khốn cùng này, bà cụ Tứ là hiện hữu của tình người. Bà cụ “ đăm đăm” nhìn chị vợ nhặt, bà không nghĩ cho mình mà chỉ nghĩ cho con trai và cô con dâu mới “ Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có vợ được”. Câu nói đầu tiên của bà với Tràng và thị là một câu nói chan chứa tình mẫu tử, tình người : “ Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Câu nói ấy của bà làm cho cuộc hôn nhân giữa Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau giữa chợ, giữa đường nữa. Nó cũng bình đẳng, đẹp đẽ như tất cả các cuộc hôn nhân mâm cao, cỗ đầy xưa nay. Vì cuộc hôn nhân nào mà chẳng xuất phát từ duyên phận vợ chồng. Bà dặn dò các con bảo nhau làm ăn. Bà gieo hi vọng cho các con : “ may ra ông giời cho khá, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Thương con là bản năng của người mẹ, nhưng vị tha, nhân hậu, sẵn sàng chấp nhận người đàn bà lạ làm con dâu trong hoàn cảnh khốn khó này là chuyện thật hiếm hoi. Đẹp biết bao tấm lòng người mẹ khi bà đã dang tay cứu sống một con người! Hình ảnh bà nhập nhoạng trong bóng tối, hướng đôi mắt đăm đăm nhìn ra ngoài, nhìn suốt cuộc đời mình, cuộc đời của những người thân … để phấp phỏng lo cho hiện tại và tương lai của các con cứ ám ảnh tâm trí người đọc. Bà “ nghẹn lời”, chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Trong buổi sáng hôm sau, tâm trạng bà cụ Tứ cũng rất phức tạp. Bà là người nhiều tuổi nhất trong gia đình, nhưng lại là nhân vật luôn hướng đến tương lai. Gương mặt bà “ nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà vui trong việc sửa sang vườn tược, dọn dẹp nhà cửa. Bà vui trong bữa ăn sáng, dù bữa ăn ngày đói thật thảm hại “ giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo loãng”. Thế nhưng, trong bữa ăn, bà cụ “ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”. Bà bàn với con : “ Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, rồi ngoảnh đi ngoảnh lại có ngay đàn gà cho mà xem”, bà đon đả mời “chè khoán”. Niềm vui của bà là liều thuốc tinh thần vô giá, là ngọn lửa của niềm tin vào tương lai tươi sáng cho cả gia đình. Đây là niềm vui vừa đáng trân trọng, vừa đáng thương. Vì niềm vui ấy không sao cất cánh lên được khi nó cứ bị những buồn, tủi, thương, lo níu kéo. Vui nhưng là sự vui gượng để động viên các con. Và khi nghe tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lại, bà cụ lại khóc. Vẫn là những giọt nước mắt lặng lẽ, cố giấu đi để các con không biết mình lo, mình buồn. Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ mang nét đẹp đạo lí truyền thống. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết, hết lòng thương con, nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha; dù ở hoàn cảnh nào vẫn tin tưởng vào cuộc sống, vào tương lai. Chuyện Tràng có vợ trong nạn đói 1945 khiến tâm trạng bà diễn biến phức tạp và Kim Lân đã diễn tả tinh tế, cảm động tâm trạng ấy..

<span class='text_page_counter'>(110)</span> 3/ Đánh giá về nt Xây dựng thành công nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã thể hiện tài năng miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Ông đã thấu hiểu và phân tích được một cách hợp lí những chuyển biến tâm trạng phức tạp của nhân vật. Lời văn giản dị, điềm đạm, ngôn từ một mạc, nhưng chắt lọc và giàu sức gợi cũng là những yếu tố làm nên sự thành công của Kim Lân khi xây dựng nhân vật này. Kết bài : Niềm vui của bà cụ Tứ tuy mong manh tưởng như không thể có được, nhất là niềm vui trong hoàn cảnh đói khát lúc bấy giờ. Nhưng dẫu sao ngọn lửa của người mẹ ấy vẫn đủ nhóm lên, giữ lấy niềm hi vọng vào hạnh phúc bất ngờ, nhỏ bé của con mình. Và hơn thế nữa, đó là niềm tin vào một ngày mai tươi sáng không phải cho mình mà cho con cháu mình. Cái đẹp đơn sơ mà hồn hậu, cái nhân ái vốn có trong bà cụ được Kim Lân diễn tả tinh tế bằng ngôn ngữ chọn lọc, cách miêu tả diễn biến tâm lí hợp lí đã khắc họa thêm vẻ đẹp tâm hồn của bà mẹ Việt Nam truyền thống. Đề 2 : Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt. (Đề thi HKII – 2013) Mở bài : Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Truyện “Vợ nhặt” thành công với nhiều yếu tố, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật bà cụ Tứ. Đó là một người mẹ nghèo nhưng nhân hậu, vị tha, giàu tình yêu thương và một thế giới nội tâm vô cùng phong phú. Thân bài : 1/ Giới thiệu nhân vật Cụ Tứ là người mẹ góa bụa, già nua, nghèo khổ, sống cùng với con trai là Tràng trong một căn nhà “đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” ở cuối xóm ngụ cư. Hình ảnh bà cụ xuất hiện ở nửa cuối của truyện với tiếng ho “húng hắng”, dáng đi “ lọng khọng” và “ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán” đã để lại ấn tượng khó phai về người mẹ mảnh mai hao gầy, tấm lưng còng vì sương gió của cuộc đời với tình thương con vô hạn và một thế giới nội tâm vô cùng phong phú. . 2/ Tính cách bà cụ Tứ - Một người mẹ nghèo khổ, rất mực thương con : giữa nạn đói, con trai lấy vợ, bà ngạc nhiên ngỡ ngàng, vừa vui vừa buồn tủi cho số kiếp nghèo, lo lắng cho hạnh phúc của con,… (dẫn chứng và phân tích – Xem đề 1) - Người mẹ nhân hậu, bao dung, đầy vị tha : thể hiện ở tình thương, sự đồng cảm với cảnh ngộ của nàng dâu, chấp nhận người đàn bà lạ làm con dâu ngay trong hoàn cảnh khốn khó,… (dẫn chứng và phân tích - Xem đề 1 ).

<span class='text_page_counter'>(111)</span> - Một người mẹ lạc quan, có niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai, hp tươi sang hơn : vun vén hp cho đôi vợ chồng trẻ, động viên con hướng đến tương lai,… (dẫn chứng và phân tích - Xem đề 1) 3/ Đánh giá chung về nt và nd - NT : Khắc họa nhân vật sinh động, ấn tượng, làm bật tính cách nv; khai thác diễn biến tâm lí nhân vật phù hợp; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giàu sức gợi; cách kể chuyện tự nhiên hấp dẫn, … - ND : Khắc họa được chân dung người mẹ nghèo dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt vẫn toát lên những phẩm chất cao đẹp của người mẹ VN nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh, thương con và có niềm tin vào tương lai; thể hiện sự đồng cảm, tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Kết bài : Cái đẹp đơn sơ mà hồn hậu, cái nhân ái vốn có trong bà cụ Tứ được Kim Lân diễn tả tinh tế trong cách sử dụng ngôn ngữ chọn lọc, trong cách miêu tả diễn biến tâm lí hợp lí đã khắc họa thêm vẻ đẹp tâm hồn của bà mẹ Việt Nam truyền thống. Đề 3 : Phân tích nhân vật Tràng trong truyện Vợ nhặt. (Đề thi TN THPT 2011) Mở bài : Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Truyện “Vợ nhặt” thành công với nhiều yếu tố, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật Tràng. Đó là chàng trai nghèo nhưng tốt bụng và luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Thân bài : 1/ Giới thiệu hoàn cảnh và ngoại hình nhân vật -. Tràng là dân ngụ cư, gia cảnh nghèo túng, anh sống với người mẹ đã già nua trong ngôi nhà. “đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, “ niêu bát, xống áo vứt bừa bộn”. Đó cũng là cái nghèo túng chung của cả xóm ngụ cư trong những ngày đói năm Ất Dậu 1945. -. Tràng có một ngoại hình xấu, thô kệch : “ hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai. bên quai hàm bạnh ra, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, lưng to rộng như lưng gấu, cái áo nâu tàng vắt một bên vai…”. Đã vậy, lời nói lại cọc cằn, thô lổ : “ bố ranh”, “làm đếch gì có vợ”. 2/ Thế nhưng, ở Tràng lại có phẩm chất, tính cách đáng quý -. Đáng quý nhất ở Tràng là tấm lòng yêu thương, đùm bọc, cưu mang những kẻ đói khổ cùng. cảnh ngộ. Giữa lúc đói, anh không chỉ sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ một bữa ăn mà còn dang rộng vòng tay yêu thương để cưu mang thị. Có lẽ, nhìn thấy thị “ rách như tổ đĩa” với “ khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt” khiến Tràng nhận ra cái chết đang rình rập bên cạnh người đàn bà đói khổ ấy. Một bữa ăn chỉ với “bốn bát bánh đúc” nhưng cũng đủ để ta nhận thấy tấm lòng nhân ái.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> của Tràng. Hành động ấy thật cao đẹp khi anh giúp một người cùng cảnh ngộ thoát khỏi cái chết kề bên. Không chỉ thế, Tràng còn “liều” đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Việc đón nhận thị - người vợ nhặt xuất phát từ lòng nhân ái và ước muốn có một gia đình hạnh phúc. -. Tràng luôn khát khao hạnh phúc gđ và có ý thức xây dựng hạnh phúc gđ.. + Câu nói “nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” đã ẩn chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình của Tràng. Sau bữa ăn và câu nói đùa ấy nào ngờ người đàn bà ấy theo Tràng về nhà thật. Lúc đầu, Tràng chợn nghĩ : “ thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi anh tặc lưỡi “ chậc, kệ !”. Và sau quyết định đó, trong lòng Tràng nảy sinh một tình cảm tốt đẹp với người đàn bà ấy. Có đến gần 20 lần trong tác phẩm, nhà văn miêu tả gương mặt Tràng biểu lộ niềm vui khi có vợ. Hạnh phúc thật “ mới mẻ”, “ lạ lẫm” làm người đàn ông cục mịch thô kệch ấy thấy xốn xang, quên đí cái đói khát của thực tại trước mắt. “ Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa”. Mà “ trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên”. Ấy thế nên “ Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở, tươi tỉnh khác ngày thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Trước sự ngạc nhiên, trêu chọc của người dân xóm ngụ cư, nếu “ thị ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia” thì “ hắn lại lấy vậy làm thích chí lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. + Việc có vợ bất ngờ, không dạm hỏi, cưới xin ấy khiến Tràng cũng lo lắng trong lúc đợi mẹ về. “ Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà ”. Và việc có vợ ấy cũng giúp Tràng nói năng văn vẻ hơn khi thưa chuyện với mẹ: “ Kìa nhà tôi nó chào u. Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…”. Tràng đã thuyết phục mẹ chấp nhận nàng dâu mới bằng duyên số và đã được sự đồng ý của mẹ cũng bằng duyên số : “ Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. + Việc có vợ của Tràng gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, và ngay cả Tràng nữa. Trong lúc chờ mẹ về, “ nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”. Thậm chí, sau một đêm làm chồng, “ việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Hạnh phúc đến bất ngờ khiến Tràng cứ ngỡ ngàng. + Việc nhặt vợ của anh Tràng đem đến nhiều sự thay đổi cho gia đình anh. Cái nhà vốn bừa bộn thì giờ đây trở nên tươm tất, sạch sẽ dưới bàn tay của người phụ nữ. “ Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gang ... Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hốt sạch ”. Hắn cũng nhận ra được sự thay đổi ở mẹ và vợ : “ Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏn lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh”. “ Bà.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. + Tình yêu, khát vọng hạnh phúc làm thăng hoa tâm hồn Tràng. Tràng cảm thấy yêu thương và gắn bó, có trách nhiệm với gia đình, nhận ra bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này “ Bỗng nhiên hắn thấy yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để góp phần tu sửa lại căn nhà”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói đang bủa vây. + Trong bữa ăn đầu tiên khi gia đình có thành viên mới, dù chỉ là cháo trắng, rau chuối, muối, cám nhưng cả nhà đều chất chứa niềm vui, hướng đến tương lai. Nghe tiếng trống thúc thuế và nghe lí giải của người vợ về việc phá kho thóc để chia cho người đói của Việt Minh, Tràng cảm thấy “ ân hận, tiếc rẻ, vẩn vơ”. Và từ đấy, trong óc Tràng thoáng hiện hình ảnh “ đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Đó là niềm tin vào sự đổi đời, vào cách mạng, hướng đến tương lai tốt đẹp của Tràng và gia đình. 3. Đánh giá nt và nd Nhà văn Kim Lân đã xuất sắc khi miêu tả những thay đổi tâm lí của nhân vật Tràng. Sự thay đổi ấy hợp với quy luật tự nhiên, khiến cho câu chuyện trở nên rất thật, rất sống động. Tác giả còn tạo được tình huống truyện độc đáo để nhân vật bộc lộ những phẩm chất, tính cách. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc phù hợp với tính cách nhân vật và xây dựng tình huống truyện độc đáo, …tất cả góp phần tạo nên nhân vật Tràng đầy ấn tượng trong lòng người đọc. Kết bài : Tóm lại, nhà văn Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và diễn tả sâu sắc tâm trạng của nhân vật Tràng – một nông dân ngụ cư, nghèo khó nhưng có tấm lòng nhân hậu và khát khao hạnh phúc gia đình. Truyện cũng đã góp phần khẳng định : trong bất cứ hoàn cảnh nào, người nông dân vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng; đó còn là niềm khát khao hạnh phúc gia đình, niềm tin bất diệt vào cuộc sống và tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa những con người lao động nghèo khổ ngay trên bờ vực của cái chết. Đề 4 : Phân tích nhân vật người “ vợ nhặt” trong truyện ngắn cùng tên. Mở bài :.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> - Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. - Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta. - Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật người vợ nhặt : nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt .Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói. II. Thân bài : 1/ Trước hết, về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệpnhư chị. - Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn : đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa. 2/ Về tính cách : a.Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh : Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…  Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói.Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người.Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động. b. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang . + Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”...) thật tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà : một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương….

<span class='text_page_counter'>(115)</span> + Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo. + Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai. III. Kết bài : -Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng.. - Bóng dáng. của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình.Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết….. Đề 5 : Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt. Mở bài : Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Truyện “Vợ nhặt” thành công với nhiều yếu tố và điều đặc biệt làm cho người đọc không thể quên tác phẩm chính giá trị nhân đạo sâu sắc của nó. Thân bài : 1/ Giải thích “ giá trị nhân đạo” : nhân đạo là lòng yêu thương con người, đặc biệt là lòng thương cảm sâu sắc trước nỗi khổ của con người; là thái độ trân trọng, tin tưởng vào giá trị cũng như khả năng vươn lên của con người; là ý thức phẫn nộ khi thấy con người bị xúc phạm, bị chà đạp; lên án mọi áp bức bất công chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. 2/ “ Vợ nhặt” là tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc a/ Tác phẩm bộc lộ niềm xót xa, thương cảm đối với cuộc sống bi đát của người nông dân nghèo trong nạn đói, qua đó tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phát xít đối với nhân dân ta : -Hình ảnh xóm ngụ cư trong ngày đói : xác người nằm còng queo bên đường, tiếng quạ gào thê thiết, tiếng hờ khóc trong đêm, mùi xác chết gây gây, dáng người ũ rũ, … Chi tiết hiện thực đã tố cáo tội ác của thực dân , phát xít đã huỷ diệt cs tới mức khủng khiếp. -Hình ảnh anh Tràng và người vợ nhặt giữa nạn đói : Tràng xuất hiện với ngoại hình xấu xí, thô kệch và cái đói làm cho anh càng khốn khổ hơn. Còn người vợ nhặt thì “ áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, chị sẵn sàng theo không Tràng để tiếp tục được sống..

<span class='text_page_counter'>(116)</span> -Qua hai hình ảnh trên, tác giả lên án tội ác của bọn thực dân phát xít đã đẩy nhân dân ta vào con đường cùng khiến thân phận con người trở nên rẻ rúng như cọng rơm, cọng rác có thể nhặt được ven đường. b/ Tác phẩm đi sâu khám phá, trân trọng, ngợi ca khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người : -Những khao khát hạnh phúc của Tràng thể hiện ở cái “ tặc lưỡi” có phần liều lĩnh, cảm giác mới mẻ mơn man khắp da thịt khi có vợ, những niềm vui lấn át nỗi lo âu trên đường dẫn vợ về nhà, cảm giác “ êm ái lửng lơ” sau đêm tân hôn,… -Ý thức bám lấy sự sống mạnh mẽ ở người vợ nhặt : chấp nhận theo không Tràng, vượt qua những hủ tục, lễ nghi của xã hội để đi tìm hạnh phúc cho chính mình. -Ý thức vun đắp cho cuộc sống ở các nhân vật : bà cụ Tứ bàn về việc nuôi gà, mẹ chồng cùng nàng dâu dọn dẹp nhà cửa tươm tất, gọn gang, … -Niềm hi vọng về một cuộc đổi đời : hình ảnh “ lá cờ đỏ” luôn vấn vương trong tâm trí Tràng. c/ Tác phẩm thể hiện lòng tin sâu sắc vào phẩm giá, vào lòng nhân hậu của con người : -Tấm lòng nhân hậu, thương người của Tràng, sự hào phóng, chu đáo, trân trọng hạnh phúc của anh : đãi người đàn bà ăn “ bốn bát bánh đúc”, “ mua cho thị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt”, “ ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Đó còn là tình nghĩa và trách nhiệm của anh đối với người vợ nhặt. -Tấm lòng nhân hậu của bà cụ Tứ : thương con rất mực, cảm thông với tình cảnh của nàng dâu, trăn trở về bổn phận làm mẹ, cố tạo niềm vui trong gia đình giữa những ngày đói thê thảm, “cái mặt bủng beo u ám” thường ngày của bà giờ cũng “ rạng rỡ hẳn lên”. -Khi về làm vợ, làm dâu, người vợ nhặt cũng đã thay đổi hoàn toàn, cái vẻ “ chao chát chỏng lỏn” không còn nữa, mà thay vào đó là một cô vợ “ hiền hậu đúng mực”, biết thu xếp, vun vén cho hạnh phúc gia đình. 3/ Đánh giá nghệ thuật -. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.. -. Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm lí tinh tế.. -. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.. => Tất cả đều góp phần làm bật giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Kết bài : -Nhân đạo trong Vợ nhặt không chỉ là nhân đạo mang tính truyền thống như yêu thương, bênh vực quyền sống cho con người rồi lại đi vào bế tắc như văn học trung đại và văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945. Kim Lân vượt qua giới hạn đó để trở thành nhân đạo cách mạng. Đó là niềm tin tưởng sâu sắc ở người lao động, tin tưởng vào khả năng cách mạng, và khát vọng sống mạnh mẽ của họ..

<span class='text_page_counter'>(117)</span> -Sự thành công của “Vợ nhặt” chính là kết quả của một cây bút tài năng, gắn bó sâu sắc với cuộc đời, biết yêu thương và trân trọng giá trị con người. ***************************************************************************. Bài 11: RỪNG XÀ NU A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN I/ Tác giả -. Tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu (bút danh khác là Nguyên Ngọc), sinh năm 1932, quê Quảng. Nam. -. Là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, gắn bó mật thiết với chiến trường Tây. Nguyên, đồng bào Tây Nguyên. II/ Văn bản 1/ Xuất xứ : được viết năm 1965, đăng trên tạp chí “Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung bộ, sau đó được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. 2/ Tóm tắt Sau ba năm đi lực lượng, Tnú trở về thăm làng Xô Man giữa bạt ngàn cây xà nu của núi rừng Tây Nguyên. Trong buổi tối ở nhà cụ Mết, dân làng đã nghe cụ kể chuyện về cuộc đời của Tnú. Những năm ấy, Mĩ, Diệm khủng bố rất dữ dội nhưng dân làng Xô Man vẫn tìm cách nuôi giấu cán bộ. Tnú và Mai là hai thiếu niên hăng hái vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Tnú được anh Quyết dìu dắt làm liên lạc, được học chữ, chẳng may bị bắt giam. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về làng cùng dân làng chuẩn bị vũ khí kháng chiến. Được tin này, bọn giặc kéo về làng khủng bố rất dữ dội đúng lúc đứa con đầu lòng của Tnú và Mai ra đời. Không bắt được Tnú, giặc bắt và tra tấn mẹ con Mai đến chết. Chứng kiến cảnh vợ con bị hành hạ dã man, Tnú không chịu nổi đã nhảy ra, tay trắng xông vào bọn lính cứu vợ con nhưng không cứu được. Tnú bị bắt và bị tra tấn bằng cách đốt mười đầu ngón tay anh bằng giẻ tẩm nhựa xà nu. Trước cảnh dã man đó, cụ Mết đã lãnh đạo dân làng Xô Man nổi dậy giết hết 10 tên giặc bằng giáo mác. Sau đó, Tnú gia nhập bộ đội giải phóng. Kết thúc truyện là cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị giữa những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời. 3/ Ý nghĩa nhan đề: Xem tập học 4/ Nội dung.

<span class='text_page_counter'>(118)</span> a/ Hình tượng cây xà nu : Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm xuyên suốt toàn bộ tp, chứa đựng cảm xúc của nhà văn và là linh hồn tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Hình tượng này có 2 lớp nghĩa : nghĩa thực và nghĩa biểu trưng. * Nghĩa thực : -. Đây là loại cây họ thông phổ biến ở TN, có 3 đặc tính : ham ánh sáng, có khả năng sinh sôi. mãnh liệt, có sức sống dẻo dai. -. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của người. dân Xô Man : gắn bó trong sinh hoạt hàng ngày; tham dự vào những sự kiện trọng đại của làng; thấm sâu vào suy nghĩ và cảm nhận của dân làng Xô Man; cây xà nu bảo vệ cho người dân làng Xô Man trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù. * Nghĩa biểu trưng : Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của nhân dân Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng : - Những thương tích, mất mát mà rừng xà nu phải gánh chịu “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” tượng trưng cho những mất mát, đau thương của dân làng Xô Man (anh Xút và bà Nhan bị giết dã man, mẹ con Mai bị tra tấn cho đến chết, T nú bị tàn tật suốt đời, ....); - Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu “... ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng....” tượng trưng cho niềm khao khát tự do, niềm tin vào lí tưởng cộng sản, vào Đảng, vào CM của làng Xô Man. - Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên,...” tượng trưng cho sự tiếp nối, kế thừa các thế hệ CM của dân làng Xô Man; - Sức sống dẻo dai của xà nu “Đạn đại bác không giết nổi chúng...Chúng vượt lên rất nhanh,... ” tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự kiên cường bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, đồng bào Tây Nguyên nói chung. => Cây xà nu được tác giả miêu tả đậm nét, công phu. Nó là hình tượng nghệ thuật độc đáo, là hiện thân cho vẻ đẹp phẩm chất của làng Xô Man nói riêng, đồng bào Tây Nguyên nói chung. b. Hình tượng những người con anh hùng Tây Nguyên b.1 ) Hình tượng nhân vật Tnú – người con vinh quang của làng XM Giới thiệu nv : Tnú mồ côi cha mẹ, lớn lên bằng tình yêu thương của dân làng XM, nhất là cụ Mết. Cụ Mết tự hào ”Nó là người Stra mình....Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Câu nói ấy cho thấy số phận anh bất hạnh nhưng tâm hồn trong sáng, cao đẹp. Anh là niềm tự hào của làng XM, hiện thân của làng XM với nhiều phẩm chất tốt đẹp : - Ngay từ nhỏ Tnú đã là người gan góc, dũng cảm, mưu trí :.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> + Giặc giết anh Xút, bà Nhan rất dã man nhưng Tnú vẫn không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ CM, làm liên lạc cho anh Quyết -> sớm giác ngộ CM, theo CM. + Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, tự lấy đá đập vào đầu “chảy máu ròng ròng” -> cá tính, gan góc, tự trọng. + Khi đi liên lạc : không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến -> mưu trí, gan dạ. + Bị giặc phục kích bắt “Tnú chỉ kịp nuốt luôn lá thư vào bụng”, dù bị tra tấn dã man Tnú vẫn không khai-> nhanh nhẹn, thông minh, dũng cảm. + Khi bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”. Rồi Tnú bị tù tại ngục Kon Tum 3 năm. - Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng : + Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê nhưng khi được phép của cấp trên mới về thăm. + Lòng trung thành tuyệt đối với CM được thể hiện : từ nhỏ đã thấm nhuần lời dạy của cụ Mết “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn” nên dù bị tra tấn dã man vẫn không khai báo. Lớn lên, khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay “Một ngón tay T nú bốc cháy. Hai ngón. Ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”. Ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết “người cộng sản không thèm kêu van” -> kiên cường, bất khuất, dũng cảm trước sự tra tấn của kẻ thù. - Tnú là người có một trái tim yêu thương và sục sôi căm thù giặc : + Tnú sống rất nghĩa tình : cảm động nghẹn ngào trước lời động viên khích lệ của anh Quyết “Sau này, nếu Mĩ – Diệm giết anh, Tnú phải làm cán bộ thay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi. Tnú giả ngủ không nghe. Nó lén chùi nước mắt giàn giụa …” ; đặc biệt là hình ảnh Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Hành động ấy được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù sục sôi. Tnú còn là người sống tình nghĩa với buôn làng - anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của làng Xô Man. + Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên : Tnú mang trong tim ba mối thù : . Thù của bản thân : lưng Tnú dọc ngang vết dao chém, mười đầu ngón tay bị đốt. là chứng tích tội ác của giặc mà Tnú sẽ mang theo suốt đời. . Thù của gia đình : vợ con anh chết thảm khốc dưới trận mưa roi sắt của giặc.. . Thù của buôn làng : Tnú không bao giờ quên hình ảnh những cánh rừng xà nu. bị tàn phá, những người dân vô tội bị sát hại như anh Xút, bà Nhan, anh Quyết… - Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời :.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> + Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ; bàn tay cầm đá đập vào đầu để tự trừng phạt vì học hay quên chữ, bàn tay yêu thương nắm chặt tay Mai trong ngày vượt ngục trở về, bàn tay ôm chặt mẹ con Mai trong đêm định mệnh, bàn tay đặt lên bụng mình và dõng dạc “Cộng sản ở đây này”, ... + Khi bị thương : đó là chứng tích đau thương của một thời, một đời, một dân tộc; là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác dã man của kẻ thù; thể hiện lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc và cầm súng chống trả kẻ thù. - Cuộc đời bi tráng và con đường đến với CM của Tnú điển hình cho con đường đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân lí của thời đại : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản CM “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”; đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để giải phóng dân tộc. + Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí cũng là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi trong tay không có vũ khí. + Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm rõ chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”- cụ Mết nói. + Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. => Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đến với CM của Tnú tiêu biểu cho số phận và con đường đến với CM của Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng. Tnú điển hình cho thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mĩ. b.2 ) Cụ Mết - Cụ Mết là “pho sử sống” của làng Xô man; người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối quá khứ với hiện tại; là “thủ lĩnh” tinh thần của làng, người định hướng con đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; là dấu gạch nối giữa Đảng và dân làng XM,…. - Ngoại hình : 60 tuổi nhưng vẫn khỏe mạnh “quắc thước”, “râu dài tới ngực và đen bóng , mắt sáng”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, “tiếng nói ồ ồ vang dội”,... -> thân hình vạm vỡ, cường tráng của cụ biểu trưng cho sức mạnh của làng XM. - Bản chất :.

<span class='text_page_counter'>(121)</span> + Nhân hậu (yêu thương, che chở cho làng, cho T nú; nhường những hạt muối quí hiếm cho người bệnh, …) nhưng rất nghiêm khắc “Ông cụ trừng mắt nhìn lũ trẻ, chúng nó cảm thấy cái nghiêm trang trong lời ông già, đứa nào đứa nấy ngồi im lặng thin thít” + Thông minh, mưu trí, giàu kinh nghiệm : suốt 5 năm liền không để cán bộ CM nào bị bắt. Cụ là người đưa ra chân lí : “Đánh Mĩ phải đánh lâu dài”, “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. + Một lòng trung thành với CM : nuôi giấu cán bộ CM, tin tưởng vào Đảng, vào CM “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”, chỉ huy thanh niên chống giặc,… + Kiên cường bất khuất trước kẻ thù : chỉ huy dân làng giết sạch bọn giặc trong đêm đồng khởi. - Dạy dỗ thế hệ trẻ phát huy truyền thống tốt đẹp của làng “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu …” => Cụ Mết là cây xà nu cổ thụ, tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất, lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết của làng Xô Man nói riêng, Tây Nguyên và cả dân tộc ta nói chung. b.3 ) Dít - Gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp nối các thế hệ đi trước (thay Tnú và Mai làm liên lạc, tiếp tế cho CM, dù bị giặc bắt và bắn từng viên đạn sượt qua tai, sém tóc, cày dưới chân nhưng cô bé vẫn bình thản, …). Đây là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt. - Hiện tại, Dít là cô bí thư có tinh thần kỉ luật cao (hỏi giấy phép của Tnú) nhưng cũng rất tình cảm “Sao anh về có một đêm thôi?” => Dít là “cây xà nu trưởng thành” giữa “đại ngàn Xô Man” hùng vĩ mà kẻ thù không thể nào hủy diệt được. b.4 ) Bé Heng : Hồn nhiên, lanh lợi, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít. => Bé Heng là “cây xà nu con” “mới mọc lên” để đưa cuộc chiến đến thắng lợi cuối cùng. 5/ Nghệ thuật : Xem tập học 6/ Ý nghĩa văn bản : Xem tập học B/ ĐỀ LUYỆN TẬP ( Câu 5 điểm) Đề 1 : Cảm nhận về hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của NTT. Mở bài : -. Gắn bó sâu nặng với chiến trường Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành đã có nhiều tác phẩm. nổi tiếng phản ánh sinh động cuộc chiến tranh vệ quốc anh dũng của nhân dân vùng đất này..

<span class='text_page_counter'>(122)</span> -. “Rừng xà nu” là bản hùng ca, ca ngợi ý chí kiên cường của người dân làng Xô Man trong cuộc. kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm đậm chất sử thi và chủ nghĩa anh hùng, một trong những thành công nổi bật là nhà văn đã xây dựng được hình tượng nghệ thuật độc đáo, giàu ý nghĩa đó là hình tượng cây xà nu. Thân bài : 1/ Hình tượng cây xà nu : Cây xà nu xuất hiện ở nhan đề, ở phần mở đầu, phần thân và phần cuối truyện. Nó trở thành hình tượng trung tâm, xuyên suốt toàn bộ tp, chứa đựng cảm xúc của nhà văn và là linh hồn tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Có 2 lớp nghĩa : nghĩa thực và nghĩa biểu trưng. a. Nghĩa thực : -. Đây là loại cây họ thông phổ biến ở TN, có 3 đặc tính : ham ánh sáng, có khả năng sinh sôi. mãnh liệt, có sức sống dẻo dai. -. Cây xà nu gắn bó mật thiết, trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh. thần của người dân làng Xô Man : + Cây xà nu có mặt trong sinh hoạt hàng ngày. Lửa xà nu trong bếp mỗi nhà, đống lửa nhà ưng bập bùng cũng tỏa ra từ củi xà nu, khói xà nu xông đen tấm bảng để anh Quyết dạy chữ cho Tnú và Mai, khói xà nu làm lấm lem mặt mũi lũ trẻ trong làng, ... + Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của làng. Khi nói về ngọn lửa xà nu, NTT đã khắc họa được nhiều chi tiết, hình ảnh mang tính sử thi, huyền thoại, thiêng liêng. Nó giống như một chứng nhân lịch sử chứng kiến bao buồn vui, thăng trầm của dân làng. Dưới ánh đuốc xà nu, Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết. Người làng Xô Man đêm đêm vào rừng tìm và mài vũ khí cũng dưới ánh lửa xà nu. Hình ảnh lửa xà nu cháy trên 10 đầu ngón tay của Tnú. Đuốc xà nu rực sáng trong đêm đồng khởi lấp loáng giáo mác với tiếng hô “ chém hết ” của cụ Mết, nó soi rõ xác 10 tên giặc trong đó có thằng Dục ác ôn đang giãy đành đạch trên vũng máu. Lửa xà nu tạo không khí linh thiêng, huyền thoại trong buổi tối cụ Mết kể chuyện về cuộc đời Tnú. Lửa xà nu cũng nhiều lần chứng kiến cụ Mết giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần kiên cường bất khuất cho người dân làng Xô Man. + Cây xà nu đã thấm sâu vào suy nghĩ và cảm nhận của dân làng Xô Man. Tnú cảm nhận ngực cụ Mết ”căng như một cây xà nu lớn”, cụ Mết tự hào ”không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. + Cây xà nu còn bảo vệ dân làng Xô Man trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù “ Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần ... Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Như vậy, cây xà nu đã dùng sinh mạng của mình ngăn cản làn đại bác để bảo vệ cho người dân làng Xô Man..

<span class='text_page_counter'>(123)</span> b. Nghĩa biểu trưng : Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của nhân dân Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng - đau thương mà anh hùng. Tác giả chọn cây xà nu, một loại cây gần gũi với đời sống của nhân dân Tây Nguyên, mang đặc trưng Tây Nguyên để tượng trưng cho số phận, phẩm chất, sức sống, vẻ đẹp của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên và nói rộng ra là nhân dân miền Nam. - Những thương tích, mất mát mà rừng xà nu phải gánh chịu “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” tượng trưng cho những mất mát, đau thương của dân làng Xô Man (anh Xút và bà Nhan bị giết dã man, mẹ con Mai bị tra tấn cho đến chết, T nú bị tàn tật suốt đời, ....); - Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu “... ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng....” tượng trưng cho niềm khao khát tự do, niềm tin vào lí tưởng cộng sản, vào Đảng, vào CM của làng Xô Man. - Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên,...” tượng trưng cho sự tiếp nối, kế thừa các thế hệ CM của dân làng Xô Man; - Sức sống dẻo dai của xà nu “Đạn đại bác không giết nổi chúng...Chúng vượt lên rất nhanh,... ” tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự kiên cường bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, đồng bào Tây Nguyên nói chung. => Tóm lại, cây xà nu được tác giả miêu tả đậm nét, công phu. Nó là hình tượng nghệ thuật độc đáo, là hiện thân cho vẻ đẹp của dân làng Xô Man nói riêng, đồng bào Tây Nguyên nói chung. 2/ Đánh giá chung về nghệ thuật và nội dung -. Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu – một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc – tạo nên màu. sắc sử thi và lãng mạn bay bổng cho thiên truyện. -. Lời văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, khi thâm trầm, khi tha thiết, trang nghiêm kết hợp. với nghệ thuật so sánh, nhân hóa, từ ngữ gợi hình, biểu cảm, NTT đã tạo cho ”Rừng xà nu” một giá trị đặc sắc. Phong cảnh rừng xà nu như được chạm, được khắc, có hình, có khối, có màu sắc, mùi vị. -. Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Nhà văn miêu tả. cây xà nu trong sự so sánh, đối chiếu thường xuyên với con người. Cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay một vùng núi rừng Tây Nguyên, mà còn biểu tượng cho cả miền Nam, cả dân tộc Việt Nam trong những ngày chống Mĩ đau thương mà anh dũng. Kết bài : NTT đã thành công khi khắc họa vẻ đẹp tráng lệ của rừng xà nu để nói lên khí phách anh hùng của dân làng Xô Man, của TN, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Qua hình tượng cây xà.

<span class='text_page_counter'>(124)</span> nu, tác giả đã thể hiện được không khí Tây Nguyên với những con người và loài cây bất diệt. Đó còn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc, mang một ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc trong văn học Việt Nam lúc bấy giờ. Đề 2 : Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của NTT. Từ đó, nêu bật ý nghĩa điển hình cho một số nhân vật và con đường cách mạng của dân làng Xô Man. Mở bài : -. Gắn bó sâu nặng với chiến trường Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành đã có nhiều tác phẩm. nổi tiếng phản ánh sinh động cuộc chiến tranh vệ quốc anh dũng của nhân dân vùng đất này. -. “Rừng xà nu” là bản hùng ca, ca ngợi ý chí kiên cường bất khuất của người dân làng Xô Man. trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm giàu chất sử thi và chủ nghĩa anh hùng, một trong những thành công nổi bật là nhà văn đã khắc họa thành công chân dung những người anh hùng của vùng đất này, trong số đó, tiêu biểu nhất là Tnú – một người con ưu tú, một cây xà nu đẹp nhất, dũng cảm nhất của giữa đại ngàn cây xà nu của núi rừng Tây Nguyên. Thân bài : 1/ Giới thiệu khái quát NTT đã dành phần lớn chiều dài tác phẩm để ghi lại lời kể chuyện của người già làng bên bếp lửa. Trong cái đêm đầm ấm ấy, câu chuyện chỉ kể chủ yếu về cuộc đời của người anh hùng Tnú. Nhân vật Tnú hiện lên qua lời kể trìu mến, thương yêu của cụ Mết; qua sự ngưỡng mộ, khâm phục của dân làng. Anh chính là người con ưu tú nhất của làng Xô Man anh hùng. Cuộc đời của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của đồng bào Tây Nguyên. 2/ Phân tích nhân vật Tnú (Xem mục 4.b. trên đây – chú ý 5 luận điểm) *** Ý nghĩa điển hình - Bi kịch của cuộc đời Tnú không phải là bi kịch riêng. Dân làng Xô Man cũng chịu nhiều nỗi đau thương như Tnú. Câu chuyện của Tnú mang ý nghĩa điển hình. Những phẩm chất đẹp đẽ của Tnú mang ý nghĩa điển hình cho người dân làng Xô Man, TN và con người Việt Nam. Đường đi của dân làng Xô Man chỉ có thể là con đường đấu tranh vũ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng để giải phóng dân tộc, buôn làng như cụ Mết đã nói : “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu : chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !” - Hình tượng rừng xà nu và Tnú có mối quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau. Rừng xà nu chỉ giữ được màu xanh bất diệt khi có những con người biết hi sinh như Tnú; sự hi sinh của những con người như Tnú góp phần làm cho những cánh rừng xà nu mãi mãi xanh tươi. 3/ Đánh giá nghệ thuật - Tác giả xây dựng nhân vật Tnú bằng nhiều nghệ thuật độc đáo. Tnú vừa có những nét cá tính sống động vừa mang phẩm chất cộng đồng. Lời văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, khi thâm trầm,.

<span class='text_page_counter'>(125)</span> khi tha thiết, trang nghiêm. Từ không gian kể chuyện, người kể chuyện đến nhân vật trong truyện đều mang đậm chất sử thi. -. Không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên thể hiện ở bức tranh thiên nhiên; ở ngôn ngữ, tâm lí,. hành động của các nhân vật, đặc biệt là Tnú. Kết bài : Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi theo cách mạng của nhân vật Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường theo cách mạng của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng..

<span class='text_page_counter'>(126)</span> Bài 12: NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN I/ Tác giả : Xem tập học 1/ Hoàn cảnh sáng tác : Xem tập học. 2/ Tóm tắt Việt quê ở Bến Tre, có người chi ruột tên là Chiến. Hai chị em cùng đi bộ đội một ngày. Trong một trận đánh lớn trong rừng cao su, Việt dùng thủ pháo diệt một xe bọc thép Mĩ. Nhưng Việt bị thương nặng, ngất trên chiến trường, bị lạc đơn vị ba ngày đêm. Tỉnh rồi lại mê, mê rồi lại tỉnh, anh nhớ lại những kỉ niệm vui buồn của tuổi thơ, nhớ lại ba má, anh chị em, nhớ chú Năm. Cả ba lẫn má đều hi sinh trong chiến tranh, Việt và chị Chiến ra đi đánh giặc để báo thù cho ba má, để giải phóng quê hương, tiếp tục trang sử anh hùng của gia đình. Anh Tánh dẫn đầu tiểu đội đi tìm Việt hết ba ngày, mấy lần đụng địch, lục suốt mặt trận của giặc mới tìm được Việt (lúc ấy anh vẫn đang trong tư thế sẵn sang chiến đấu : “ngón tay đặt ở cò súng, đạn đã lên nòng…”) và đưa anh về bệnh viện quân y. Lúc vết thương sắp lành, anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến. 3/ Nội dung a/ Nhân vật chính -. Việt : là một thanh niên mới lớn, rất hồn nhiên ( không sợ chết nhưng lại rất sợ ma, hay. tranh giành với chị, đi chiến đấu vẫn mang súng cao su trong người,…); có một tình yêu thương gia đình sâu đậm, một tính cách anh hùng, tinh thần chiến đấu gan dạ, kiên cường. Trong anh có dòng máu của những con người gan góc, sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc ( còn nhỏ mà dám tấn công kẻ giết cha, xin đi tòng quân và chiến đấu rất dũng cảm…). -. Chiến : là một cô gái mới lớn, tính khí vẫn còn nét trẻ con nhưng cũng là một người chị. biết nhường em, biết lo toan, tháo vát; vừa có những điểm giống mẹ, vừa có những nét riêng. Chiến căm thù giặc sâu sắc, gan góc, dũng cảm, lập được nhiều chiến công. b/ Chiến và Việt là hai “khúc sông” trong “dòng sông” truyền thống của gia đình. Hai chị em là sự tiếp nối thế hệ của chú Năm và má, song lại mang dấu ấn riêng của thế hệ trẻ Miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. 4/ Nghệ thuật : Xem tập học 5/ Ý nghĩa văn bản: Xem tập học B/ ĐỀ LUYỆN TẬP Đề 1 : Phân tích và so sánh tính cách của hai nhân vật Chiến và Việt trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi để làm rõ sự tiếp nối truyền thống gia đình của những người con. DÀN BÀI.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> Mở bài : -. N.Thi là cây bút có năng lực phân tích tâm lí nv sắc sảo. Văn N.Thi giàu chất hiện thực, có. nhiều chi tiết dữ dội, ác liệt về chiến tranh, đằm thắm chất trữ tình. Tất cả được diễn đạt bằng vốn ngôn ngữ phong phú, góc cạnh, đậm chất Nam Bộ. “Những đứa con trong gia đình” là tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ phong cách sáng tác ấy của ông. -. Tác phẩm kể về hai chị em Chiến và Việt, những người con trong một gia đình nông dân Nam. Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương, cách mạng. Bên cạnh những phẩm chất chung ấy, Chiến và Việt còn có những cá tính rất riêng. Phân tích những tính cách giống và khác nhau của họ, người đọc sẽ cảm nhận được sự hấp dẫn của tác phẩm. Thân bài : 1/ Hai nhân vật Chiến và Việt có nhiều nét giống nhau về tính cách. Họ cùng xuất thân từ một gia đình nông dân có mối thù sâu nặng với Mĩ – ngụy, ông nội và bố đều bị giặc giết hại, mẹ Việt chết vì bom. Hai chị em rất thương cha mẹ. Những hồi ức về mẹ luôn sống dậy trong lòng Việt. “ Hai chị em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?..” a/ Cả hai đều rất trẻ, ngây thơ như trẻ con : -. Chiến mười chín, Việt mười tám.. -. Giành nhau mọi thứ như trẻ con : tranh công trong việc bắt ếch, câu cá, đốt tàu giặc trên sông. Định Thủy, ghi tên tòng quân,… b/ Đều căm thù giặc sâu sắc, cùng một ý chí cầm súng đánh giặc trả thù cho ba má; dũng cảm, gan góc, lập được nhiều chiến công : -. Hai chị em giành nhau ghi tên tòng quân. Được chú Năm đồng ý cho cả hai nhập ngũ, thế là. hai chị em đều ra đi trong tâm trạng thù cha mẹ chưa trả thì chưa trở về. Chị Chiến bảo với Việt : “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu : Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !”. Câu nói thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết tâm trả thù. Việt đã hạ được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương, một mình nằm giữa chiến trường, toàn thân đau đớn, Việt vẫn ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu : “ đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng”. “ Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Nghe nổ súng, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Những lời lẽ ấy thể hiện lòng quyết tâm và sẵn sàng chiến đấu trong mọi hoàn cảnh để trả thù nhà – đền nợ nước; kiên cường, bất khuất, dũng cảm; tinh thần lạc quan cách mạng – vượt lên nỗi đau thể xác để tin tưởng vào ý chí và nghị lực bản thân; yêu nước, căm thù giặc sâu sắc; ....

<span class='text_page_counter'>(128)</span> c/ Cả Chiến và Việt đều giàu tình nghĩa với gia đình, rất mực thủy chung với quê hương và cách mạng : -. Việt bị thương nằm lại chiến trường, hồi ức về những người thân yêu lần lượt hiện lên trong. tâm trí Việt : + Má : rất mực thương chồng, thương con, đảm đang, tháo vát. Cuộc đời lam lũ, vất vả, chồng chất đau thương tang tóc, nhưng cắn răng nén chặt nỗi đau thương của mình để nuôi con đánh giặc. + Chú Năm : là tác giả cuốn sổ gia đình ghi chép tội ác của giặc và chiến công của các thành viên trong gia đình. Chú ủng hộ cho cả hai đứa cháu đi bộ đội. Việt nhớ rõ lời nhắn nhủ của chú Năm trước khi đi tòng quân : “Chú Năm nói mầy với tao đi kì này là ra chân trời góc biển, xa nhà thì ráng học chúng bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”. + Chị Chiến : nhường mọi thứ cho em, trừ việc đi tòng quân. Ấn tượng của Việt về chị Chiến đậm nét nhất chính là đêm trước khi đi tòng quân vì “ chị nói in như má vậy”… + Việt còn nhớ cả “ cái cằm nhọn hoắt của anh Tánh”, “ nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần động viên Việt tiến lên”, và cả cái dáng “ ốm nhom, một mảng tóc bị bom xăng làm cháy con sém như đuôi bò của chị hai”… => Từng người thân yêu cứ lần lượt hiện lên trong tâm trí Việt. Tất cả đều thân thương, gần gủi. -. Đoạn văn gây xúc động nhất là cảnh hai chị em khiêng bàn thờ má gửi sang nhà chú Năm. Việt. nghĩ : “Chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về ”. Việt khiêng trước, chị Chiến khiêng lịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, “ Việt thấy thương chị lạ”, còn mối thù thằng Mĩ “ thì có thể rờ thấy được vì nó đang đè nặng trên vai”. 2/ Tuy nhiên, ở Việt và Chiến còn có những điểm khác nhau Chị Chiến đảm đang, tháo vát chu toàn mọi việc : bố mẹ mất sớm, thay mẹ nuôi em, sắp xếp việc nhà chu đáo trước khi lên đường tòng quân. Nhà cho xã mượn làm trường học, ruộng đất chia cho bà con khác làm, hai công mía thì nhờ chú Năm thu hoạch để làm giỗ ba má, thằng út và bàn thờ ba má gửi chú Năm, …”. Mọi việc đều được Chiến thu xếp gọn khiến chú Năm rất hài lòng “Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Còn Việt, Việt thấy chị giống hệt má ngày trước. Việt nhỏ hơn Chiến một tuổi nên tính cách cũng trẻ con hơn. Khi chị Chiến nghiêm trang bàn việc nhà trước khi đi tòng quân thì Việt vô tư “chụp con đom đóm úp trong lòng bàn tay”, “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, rồi “ ngủ quên lúc nào không biết”. Khi đi bộ đội, tay cầm súng chiến đấu nhưng trong túi quần vẫn dắt theo cái ná thun và cách thương chị cũng rất con nít ( giấu đồng đội chuyện mình có chị gái vì sợ mất chị). Khi bị thương, Việt không sợ chết, không sợ giặc mà “sợ con ma cụt đầu”, “thằng chỏng thụt lưỡi”….

<span class='text_page_counter'>(129)</span> ==> Tất cả được kể qua dòng hồi tưởng của Việt khi bị trọng thương, một mình nằm lại chiến trường. Tác giả đã để cho Việt tự kể chuyện về mình bằng một ngôn ngữ, giọng điệu riêng nên nhân vật hiện lên cụ thể, sinh động. 3/ NT thể hiện -. Tình huống truyện độc đáo : Truyện kể theo dòng nội tâm của Việt khi liền mạch (lúc. tỉnh), khi gián đoạn (lúc ngất) của người trong cuộc làm câu chuyện trở nên chân thật hơn; có thể thay đổi đối tượng, không gian, thời gian, đan xen tự sự và trữ tình. -. Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh. Ngôn ngữ. bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam bộ. -. Giọng văn chân thật, tự nhiên, nhiều đoạn gây xúc động mạnh,…. -. NT khắc họa tính cách nhân vật : miêu tả tâm lí nv sắc sảo, đậm tính Nam bộ.. => Làm nổi bật tính cách đáng yêu của Việt và Chiến. Kết bài : -. Chiến và Việt là hai nhân vật trung tâm của truyện. Bản chất có nhiều nét giống nhau nhưng cá. tính thì thật phong phú, mỗi người mang một nét riêng và cả hai đều đáng yêu, đáng mến. -. Họ mang vẻ đẹp tiêu biểu cho thế hệ trẻ miền Nam, sẵn sàng cầm súng đánh Mĩ để trả thù nhà,. đền nợ nước..

<span class='text_page_counter'>(130)</span> Bài 13: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN I/ Tác giả -. Nguyễn Minh Châu ( 1930 - 1989 ) là cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi. mới. Ông là “một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” ( Nguyên Ngọc ). -. Nếu trước 1975, N.M.Châu là ngòi bút sử thi có khuynh hướng trữ tình lãng mạn thì từ đầu. thập kỉ 80 của thế kỉ XX đến khi mất, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. II/ Văn bản 1/ Hoàn cảnh sáng tác : Xem tập học. 2/ Tóm tắt Truyện kể về nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng được giao nhiệm vụ chụp một tấm ảnh về biển để bổ sung vào bộ ảnh lịch năm sau. Sau nhiều ngày phục kích, anh đã chụp được một bức ảnh tuyệt mĩ : đó là một chiếc thuyền ngoài xa đang rẻ làn sương sớm từ từ tiến thẳng vào bờ. Đang ngây ngất, rung động trước “cảnh đắt trời cho” thì P rất đỗi ngạc nhiên khi chứng kiến một sự thật phủ phàng : khi mũi thuyền tiến thẳng vào bờ, sau khi bước ra khỏi thuyền người đàn ông đánh vợ một cách dã man, người vợ cam chịu, đứa con vì thương mẹ nên đánh trả lại bố. Những ngày sau, cảnh tượng ấy cứ thế tiếp diễn,… Không thể chịu được, Phùng xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đánh trả, Phùng bị thương phải đưa vào bệnh xá của tòa án huyện. Tại tòa án huyện, chánh án Đẩu (bạn Phùng) đã mời người đàn bà đến để gq cho chị li hôn với người chồng độc ác. Nhưng một lần nữa, P và Đ hết sức ngạc nhiên vì người đàn bà cương quyết không chịu bỏ chồng. Chị đã kể lại câu chuyện đời mình như một lời giải thích. Phùng trở về, tấm ảnh không chỉ được chọn vào bộ lịch năm ấy mà còn là một bức tranh nghệ thuật được nhiều người ưa thích. Đó là bức ảnh đen trắng nhưng mỗi khi đứng trước tấm ảnh P lại thấy màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn thật kĩ, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người bà nghèo khổ lam lũ ấy bước ra từ bức tranh. 3/ Ý nghĩa nhan đề : Xem tập học 4/ Nội dung a/ Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng * Phát hiện thứ nhất : chiếc thuyền ngoài xa – một bức ảnh tuyệt mĩ. - Đó là cảnh chiếc thuyền đánh cá ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào “Một cảnh đắt trời cho”, đẹp như “bức tranh mực tàu của.

<span class='text_page_counter'>(131)</span> một danh họa thời cổ” mà từ “đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. - Bức ảnh đẹp đó khiến nghệ sĩ Phùng xúc động đến mức “bối rối” “trong trái tim như có một cái gì bóp thắt vào”, nó chứa đựng “chân lí của sự toàn thiện” làm dấy lên trong anh những cảm xúc thẩm mĩ, anh nhận thức : nghệ thuật góp phần gột rửa, thanh lọc tâm hồn, làm cho tâm hồn con người trở nên trong sáng, tinh khiết, thánh thiện vì “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. * Phát hiện thứ hai : chiếc thuyền lại gần – một cảnh tượng phi thẩm mĩ, một bức tranh cuộc đời, một sự thật nghiệt ngã. - Từ trong chiếc thuyền đẹp như mơ ấy, bước ra khỏi thuyền là một gã đàn ông to lớn, dữ dằn và theo sau là một người đàn bà ngoại hình xấu xí, mệt mỏi; người chồng đánh vợ một cách thô bạo, đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận hai cái bạt tai “ngã dúi xuống cát”. - Chứng kiến cảnh tượng này, người nghệ sĩ kinh ngạc đến mức chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”, Phùng như chết lặng, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt, bởi anh không thể ngờ đằng sau vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa lại là bi kịch của cuộc đời, là nơi ẩn chứa cái xấu xa, cái tàn ác. ==> Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn chỉ ra : cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn; không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bên ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong; NT và cuộc sống tuy đối lập nhau nhưng không thể tách rời nhau - NT chính là cđời. Xét về góc độ nghệ thuật : người nghệ sĩ phải tìm hiểu cuộc đời trong mối quan hệ đa chiều. b/ Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện -. Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng. chài nghèo khổ, lam lũ, … -. Câu chuyện đã giúp nghệ sĩ Phùng hiểu về người đàn bà hàng chài (một phụ. nữ xấu xí, nghèo khổ nhưng rất thương con, sống nhẫn nhục, kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, giàu đức hi sinh và lòng vị tha ); về người chồng của chị ( bất kể lúc nào thấy khổ quá là lôi vợ ra đánh); chánh án Đẩu (có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng kinh nghiệm sống chưa nhiều) và về chính mình ( sẵn sàng làm tất cả vì sự công bằng nhưng lại đơn giản trong cách nhìn nhận, suy nghĩ ). => Qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của các nhân vật, nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp : đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện tượng trong các mối quan hệ nhiều mặt, nhiều chiều. c. Người đàn bà hang chài d. Người chồng - Dáng vẻ thô kệch, khắc khổ, lam lũ nhưng mạnh mẽ và dữ dội : “Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền”, “mái tóc tổ quạ”, “chân đi chữ bát”, “hai con mắt độc dữ”,….

<span class='text_page_counter'>(132)</span> - Bản chất : Vốn là anh con “trai cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh đập vợ”, không rượu chè, vất vả làm ăn nuôi con nhưng vì “nghèo khổ, túng quẫn”, nhiều lo toan, cực nhọc nên trở thành người đàn ông độc ác, người chồng vũ phu. - Hành động, ngôn ngữ : đánh vợ dã man, độc ác, như thói quen : “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, đánh như để giải toả uất ức, để trút sạch tức giận buồn phiền “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh”. Lời lẽ cay độc, chì chiết “ Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!” => phản ánh 1 nhân cách bị tha hóa do hoàn cảnh sống. Đồng thời, tg đang gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về nạn bạo lực gđ. - Qua cái nhìn của người đàn bà : hắn là nạn nhân của hoàn cảnh nên đáng được cảm thông, chia sẻ. - Qua cái nhìn của chánh án Đẩu, nghệ sĩ Phùng và bé Phác : hắn là người vũ phu, độc ác, thủ phạm gây đau khổ cho người khác nên đáng căm phẫn, đáng lên án. => Người đàn ông vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ vừa là thủ phạm gây đau khổ cho những người thân – bạo hành gđ. Do đó, tg vừa lên án, vừa cảm thông sâu sắc với người lao động trong hoàn cảnh khốn cùng. e. Thằng bé Phác : - Rất thương mẹ nhưng bồng bột nông nổi theo kiểu trẻ con, theo cách của đứa con trai vùng biển. + Nó “lặng lẽ đưa ngón tay lên khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong nốt rỗ chằng chịt” + Nó “tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh” + Đánh trả lại bố - hành động nông nổi, trái đạo lí, cần lên án..  Phản ứng dữ dội, tình thương mẹ dạt dào. - Là nạn nhân của bạo lực gđ. => Bị đặt vào tình huống khó xử, nỗi đau khó giải quyết : đứng về ai, làm thế nào để trọn đạo làm con? f. Nghệ sĩ Phùng - Nhạy cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền và biển lúc bình minh. - Xúc động mãnh liệt trước tình trạng con người phải chịu sự bạo hành của cái xấu, cái ác. - Phát hiện vẻ đẹp tâm hồn con người : đằng sau dáng vẻ xấu xí của người đàn bà là tâm hồn yêu thương, vị tha, thấu hiểu lẽ đời. - Rút ra chân lí về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống :.

<span class='text_page_counter'>(133)</span> + Trước khi rung động trước cái đẹp nghệ thuật phải biết yêu ghét, vui buồn trước cuộc đời. + Phải biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người. g. Chánh án Đẩu – hiện thân cho luật pháp - Vị Bao Công của vùng biển, quan tâm người bất hạnh. - “Vỡ ra” nhiều vấn đề về cách nhìn nhận, đánh giá con người : + Cuộc đời người đàn bà hang chài không hề đơn giản. + Trong hoàn cảnh này, cách hành xử của người đàn bà là không thể khác. + Giải pháp “bỏ chồng” mà Đẩu áp dụng là không ổn, không thiết thực. => Luật pháp chưa sâu sát với cs của người dân. 5/Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy” - Mỗi lần nhìn kĩ bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”  chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời. - Nhưng nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”  hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời thường, là sự thật cuộc đời đằng sau bức tranh NT. => Quan niệm : nghệ thuật chân chính không thể rời xa cuộc đời mà phải là cuộc đời, luôn luôn vì cuộc đời, gắn với cuộc đời. 6/ Nghệ thuật : Xem tập học. 7/ Ý nghĩa văn bản : Xem tập học. B/ ĐỀ LUYỆN TẬP Đề 1 : Phân tích (cảm nhận) nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Mở bài -. NMC là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Chiếc. thuyền ngoài xa (1983) là một trong những sáng tác tiêu biểu in đậm phong cách tự sự - triết lí của ông. -. Nhà văn xây dựng thành công hình tượng người đàn bà hàng chài - đó là một người vợ hiểu. chồng, người mẹ thương con, giàu đức hi sinh, nhân hậu, vị tha, sắc sảo,... Đây là nhân vật để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm về cuộc sống. Thân bài 1/ Giới thiệu tình huống truyện (nên gọn) -. Nghệ sĩ Phùng được phân công đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh cho. cuốn lịch năm sau. Anh thấy cảnh chiếc thuyền ngoài xa, trong làn sương sớm, đẹp như tranh vẽ. Phùng nhanh chóng bấm máy, thu lấy hình ảnh không dễ gì gặp trong đời..

<span class='text_page_counter'>(134)</span> -. Khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng thấy hai vợ chồng hàng chài bước xuống. Anh chứng kiến. cảnh người chồng đánh vợ, đứa con vì thương mẹ đã dánh lại bố. Những ngày sau, cảnh ấy lại tiếp diễn. Phùng không ngờ sau cảnh đẹp như mơ là bao ngang trái, nghịch lí của cuộc đời. ==> Làm nổi bật tính cách nhân vật người chồng, người vợ, giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu rõ hơn về cs, đặc biệt là ở nhân vật người đàn bà hàng chài. 2/ Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài a. Là người có ngoại hình xấu, lam lũ, bất hạnh -. Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người. đàn bà tội nghiệp ấy. NMC đã gọi tên nhân vật một cách phiếm định : khi là “người đàn bà hàng chài”, khi là “ mụ”, lúc lại là “ chị ta”… Có lẽ tác giả muốn nhân vật này không phải là một cá nhân, mà là điển hình cho vẻ đẹp phẩm chất của những người đàn bà vùng biển. -. Đọc truyện, ấn tượng đầu tiên về nhân vật người đàn bà hàng chài là một người phụ nữ có. ngoại hình xấu, lam lũ, vất vả và bất hạnh. Theo câu chuyện chị kể thì từ nhỏ bà đã “là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa…Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai hàng chài”. -. Từ khi có chồng, cuộc đời chị càng lam lũ, vất vả, bất hạnh. Thuyền chật, con đông,. nghèo khổ, có khi biển động suốt hàng tháng,“ cả nhà toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Bởi vậy hình ảnh “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, ... Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng” cứ ám ảnh người đọc . - Một trong những điều hạnh phúc nhất của người phụ nữ khi có chồng là được chồng yêu thương. Người đàn bà trong câu chuyện lại không có được điều ấy. Mà ngược lại, bà luôn bị chồng đánh đập một cách tàn bạo. Lão chồng đã dùng chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa “ quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, miệng nguyền rủa ”. Cứ như thế : “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”- lời c. án Đẩu. Còn theo lời kể của bà thì “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu”, mà đàn ông đi thuyền ngày nào mà chẳng uống rượu. b. Là người sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời và giàu lòng vị tha Nghèo khổ, lam lũ, có lẽ cả thất học, nhưng bà lại là người sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời và giàu lòng vị tha. Điều đó được thể hiện rõ trong câu chuyện của chị ở tòa án huyện. - Chuyện bạo lực trong gia đình chị được giấu kín cho đến khi luật pháp can thiệp “Đây là lần thứ hai bà được chánh án Đẩu mời đến vì công việc gia đình”. Lúc đầu, bà có vẻ “sợ sệt, lúng túng”. Khi chánh án Đẩu có nhã ý giúp bà thoát khỏi gã chồng độc ác thì bà vái lạy lia lịa, van xin : “Quý tòa.

<span class='text_page_counter'>(135)</span> bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Trước sự ngạc nhiên của chánh án Đẩu và Phùng, bà cảm ơn lòng tốt của họ và kể lại cuộc đời mình như một lời giải thích. - Bà chân thành nói với Phùng và Đẩu nhưng thực sự đó cũng là lời nhận xét : “Các chú đâu có phải là người làm ăn cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Những lời ấy của người đàn bà không phải dễ nghe với Đẩu và Phùng, dù vậy họ phải công nhận bà là người sắc sảo và kín đáo :. “ người đàn bà chỉ lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa. đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi”. -. Trước người đàn bà, cả Đẩu và Phùng trở thành những “ đứa trẻ” chưa hiểu chuyện đời. Bà kể. để cho họ hiểu vì sao bà lại cam chịu khi bị chồng đánh, vì sao bà không chịu bỏ chồng. Bà kể về quá khứ của mình, kể về người chồng hồi trước “ cục tính nhưng hiền lành lắm” không bao giờ đánh đập bà. Bà kể về cuộc sống khó khăn của gia đình mình, thuyền chật, đông con đặc biệt là những ngày biển động phải “ ăn xương rồng luộc chấm muối”. Bà nói :“ cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật”. Và bà cũng lí giải nguyên nhân mình bị chồng đánh là do“ khổ quá”. Vì “ khổ quá” mà lão chồng đã đánh bà chứ không phải tàn bạo là bản chất của người chồng ấy. Sự khốn cùng, mong manh của đời sống chài lưới đã biến lão chồng thành kẻ vũ phu. Vì thế, trong câu chuyện bà đã không hề tố cáo, không hề tỏ thái độ căm hận người chồng. Không bênh vực, nhưng bà tỏ ra hiểu biết và cảm thông cho chồng. Hơn thế nữa, bà còn nhận lỗi về mình : “ giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Lời “ thú tội” chân thật và tê tái lòng người của bà có nhiều điều cần phải nghĩ suy. Nhưng rõ ràng, bà là một người sâu sắc, hiểu đời, giàu lòng vị tha. -. Bà kể tiếp với Đẩu và Phùng : “ Sau này con cái lớn lên, tôi xin lão … đưa tôi lên bờ mà. đánh”. Nghe bà kể, cả Đẩu và Phùng đều thốt lên : “ Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được!”. Thấy thế, bà liền giải thích : “ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông” . Vậy là bà “ xin được đánh” vì cần phải có người đàn ông ở trên thuyền để “chèo chống khi phong ba”. Và bà xin được đánh ở trên bờ là vì con đã lớn, bà không muốn chúng bị tổn thương. Một lí do thật đơn giản mà đến giờ Đẩu và Phùng mới hiểu. Một lần nữa, Phùng và Đẩu lại trở thành “ ngờ nghệch” trước người đàn bà. Điều đó chứng tỏ chị là người thấu hiểu lẽ đời, kín đáo “chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”. c/ Là người thương con vô hạn, giàu đức hi sinh, giàu lòng tự trọng Phẩm chất tốt đẹp nhất ở người đàn bà này là lòng thương con vô hạn, giàu đức hi sinh, giàu lòng tự trọng. - Lòng tự trọng : Nghệ sĩ Phùng từng chứng kiến cảnh bà bị chồng đánh một cách tàn bạo nhưng bà “ không chống trả”, “ không chạy trốn”, “ không hề kêu một tiếng”. Nhưng khi đứa con trai và Phùng xuất hiện để can thiệp thì : “người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau.

<span class='text_page_counter'>(136)</span> đớn, vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Đây chính là sự đau đớn, xấu hổ, nhục nhã của một con người có nhân cách, đầy lòng tự trọng. Vì bà không muốn người lạ và các con chứng kiến, thương xót cho cảnh bà bị chồng đánh. Đây cũng là lí do vì sao chánh án Đầu phải mời đến lần thứ hai thì chị mới “bật mí bí mật” cuộc đời mình! - Tình thương con vô hạn, giàu đức hi sinh : Vì con mà bà chấp nhận sự đau đớn trong những trận đòn tàn bạo của người chồng. Vì con mà bà khẩn thiết : “ Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Bởi vì bà hiểu “ đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa…. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Cũng vì thương con nên chị cầu xin chồng “lên bờ rồi đánh”. Chị sợ “đánh dưới thuyền” sẽ làm tổn thương con, bọn trẻ bị nhiễm thói xấu của cha chúng. Đó cũng là lí do chị đã gửi thằng Phác lên ở với ông ngoại, vì sợ nó sẽ làm điều dại dột với cha, bị nhiễm thói xấu từ cha. Điều này cho thấy chị lo xa và luôn nghĩ cho con. Niềm hp nhất của chị là khi “vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ”. Cho nên, khi Phùng hỏi bà “Cả đời chị có một lúc nào thật vui không?”, bà trả lời như không cần suy nghĩ : “Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”. Câu nói thật đơn giản nhưng thật thấm thía và cảm động. Qua những lời giãi bày chân thật, ta mới thấu hiểu được sự nhẫn nhục, đức hi sinh, tình thương con mênh mông của bà thật đáng khâm phục, đáng kính trọng biết nhường nào. è Người đàn bà hang chài và câu chuyện của chị ở tòa án đã để lại dấu ấn nhức nhối, đầy cảm động. Qua đó, NMC phát hiện bên trong vẻ ngoài xấu xí thô kệch là bản chất tốt đẹp của người lao động – “chất ngọc tâm hồn”. Câu chuyện nhắc ta phải có cái nhìn toàn diện, đa chiều về cs, về con người và về nt. 3/ Đánh giá nd, nt - Bức chân dung người đàn bà hàng chài được tác giả xây dựng bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc. Đó là tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Tác giả lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa. - Tóm lại, chị là người giàu tình thương và đức hi sinh, nhân hậu và vị tha. Chị hầu như không nghĩ đến mình, chị thấu hiểu cho chồng và tương lai của đàn con đông đúc kia. Như vậy, sự cam chịu, nhẫn nhục của chị không phải do mù quáng mà thấu hiểu và thương xót. Kết bài.

<span class='text_page_counter'>(137)</span> -. Nhân vật người đàn bà hang chài hiện thân cho tính cách của người lao động chất phác, lam lũ,. sống nhẫn nhục nhưng giàu tình thương và đức hi sinh, nhân hậu và vị tha. Bà là hiện thân cho cái đẹp khiêm nhường, thầm lặng, cái bí ẩn sâu xa của tâm hồn con người. -. Qua nhân vật người đàn bà, một mặt tác giả lên án bạo lực gđ, bày tỏ tình thương yêu đối với. những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ, mặt khác đặt vấn đề phải giải phóng con người ra khỏi đói nghèo, tăm tối. Đề 2 : Phân tích nghệ thuật tạo tình huống trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa của NMC. Mở bài : -. Trong các tác phẩm của mình, ở cả hai chặng đường văn học trước và sau 1975, NMC đều luôn. có ý thức tạo dựng những tình huống bất ngờ độc đáo. -. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa thành công ở nghệ thuật khắc họa nhân vật, xây dựng cốt. truyện, sử dụng ngôn ngữ linh hoạt… và đặc biệt là nghệ thuật tạo tình huống. Thân bài : 1/ Giải thích : tình huống truyện -. Tình huống truyện là một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự thành công của các tác phẩm. văn xuôi nghệ thuật, đồng thời cũng chính là nét riêng độc đáo trong phong cách nghệ thuật của mỗi tác giả. -. Theo Từ điển thuật ngữ văn học : Tình huống truyện được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa. nhân vật này với nhân vật khác hoặc giữa nhân vật với hoàn cảnh, môi trường, qua đó nhân vật bộc lộ rõ tâm trạng, tính cách hay thân phận, góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm. -. Theo NMC : Tình huống là “ cái tình thế xảy ra truyện”, “ là khoảnh khắc mà trong đó sự sống. hiện ra đậm đặc”, “ là cái khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người”. 2/ Các tình huống chính trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa a/ Tình huống thứ nhất : nhiếp ảnh Phùng choáng ngợp trước thiên nhiên của vùng phá nước thơ mộng. -. Bức tranh thiên nhiên vùng phá nước : đến với vùng phá nước, Phùng đã may mắn được. chứng kiến một “ cảnh đắt trời cho” với hình ảnh con thuyền dập dềnh trên biển mờ sương buổi ban mai đẹp như “ bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ” mà từ “đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Trên bức tranh đó còn có sự hiện diện của con người khiến nó trở nên sống động : “vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum”. -. Tâm trạng của Phùng : đứng trước bức cảnh đẹp đó, Phùng “ trở nên bối rối, trong trái tim như. có cái gì bóp thắt vào”, tưởng như “ vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, và anh bỗng thấy “ bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Đây là cảm giác hạnh phúc tột đỉnh của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp toàn bích của nghệ thuật trong thiên nhiên và cuộc sống. Khoảnh khắc chứng kiến cái đẹp ấy cũng chính là khoảnh khắc Phùng cảm nhận được giá trị chân – thiện – mĩ của cuộc đời. Cái đẹp của ngoại cảnh đã gột rửa tâm hồn Phùng. b/ Tình huống thứ hai : Phùng kinh ngạc chứng kiến cảnh bạo hành của gia đình người đàn bà hàng chài. -. Cảnh tượng mà Phùng chứng kiến : “ lão đàn ông lập tức trở nên hung hăng, mặt đỏ gay, lão. rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa… chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn tức giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà…”. Người đàn bà “ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. -. Thái độ của Phùng : kinh ngạc đến sửng sờ, “ cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Và chính khoảnh. khắc đó, Phùng nhận ra những sự thật cay đắng phũ phàng của cuộc đời đằng sau vẻ ngoài của nó. Niềm tin vào cái đẹp của nghệ thuật trong anh bắt đầu lung lay. ==> Cuộc đời vốn không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng biết bao nghịch lí. Ở đó có rất nhiều những phạm trù đối lập, những mâu thuẫn không thể dung hòa: đẹp xấu – thiện ác… c/ Tình huống thứ ba : Phùng và Đẩu ngạc nhiên khi người đàn bà hàng chài nhất định không chịu bỏ người chồng tàn ác, vũ phu. -. Lí lẽ của người đàn bà khi đến tòa án : chị ta chấp nhận tất cả những cay đắng phũ phàng là vì. con, chị ta sống cho con chứ không phải cho mình : “ Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. -. Khi nghe câu chuyện ấy, “ một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện. vùng biển”. Phùng và Đẩu nhận ra : cuộc đời thật đa sự và con người thật đa đoan. ==> Tác giả sáng tạo ra tình huống nghịch lí, oái oăm, trớ trêu với những biểu hiện : nghịch lí giữa đời sống và nghệ thuật, nghịch lí giữa cảnh đẹp của thiên nhiên thơ mộng trữ tình và di họa chiến tranh, nghịch lí giữa cảnh đẹp của thiên nhiên thơ mộng và cái đẹp vô hồn, nghịch lí giữa cảnh đẹp tuyệt đỉnh bên ngoài và cảnh con người lao động lam lũ, vất vả…Tình huống nghịch lí này xua tan màn khói lãng mạn phủ lên bức tranh thiên nhiên đẹp, làm trơ ra sự tàn nhẫn đời thường. Bài học trách nhiệm, lương tâm nghệ sĩ là phải nhận ra cái đẹp bên ngoài và mặt trái, đằng sau u ám, sần sùi của cái đẹp ấy. Kết bài :.

<span class='text_page_counter'>(139)</span> -. Ba tình huống trên tập trung thể hiện quá trình thay đổi trong nhận thức của Phùng – hóa thân. của nhà văn NMC. Cách nhìn nhận cuộc đời từ xa đến gần, từ phiến diện sơ lược đến đa diện tổng thể, mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. -. Rút ra bài học cho bản thân về cách nhìn đời, nhìn người.. ********************************************************************************* Bài 12: HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT A/ KIẾN THỨC CƠ BẢN I/ Tác giả : Xem tập học. II/ Văn bản : viết năm 1981, dựa theo cốt truyện cổ dân gian cùng tên, gồm 7 cảnh. Đoạn trích học là cảnh 7. 1/ Tóm tắt Vì tắc trách nên Nam Tào, Bắc Đẩu đã gạch nhầm tên một người lẽ ra chưa phải chết : đó là Trương Ba. Vợ Trương Ba thắp những nén hương và lên được thiên đình, gặp Đế Thích cùng Nam Tào, Bắc Đẩu. Đế Thích khuyên hai vị này sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba (thanh khiết) nhập vào xác anh hàng thịt (dung tục, thô lỗ) mới qua đời. Tại nhà anh hàng thịt, xác anh sống lại đội nắp quan tài lên, đòi về nhà Trương Ba. Mọi người lúc đầu ngỡ ngàng, sau đó đành để anh hàng thịt về nhà Trương Ba. Từ đây, hồn Trương Ba bị xác hàng thịt làm đổi dần tính nết : thích uống rượu, ăn ngon, nói năng thô lỗ, nước cờ hóa tầm thường, ... Gia đình không còn hạnh phúc, người thân xa lánh, căm ghét. Ý thức được điều đó, hồn TB dằn vặt, đau khổ. Hồn Trương Ba gọi Đế Thích xuống giải thoát. Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị - đứa bé con người hàng xóm – nhưng Trương Ba dứt khoát từ chối. Trương Ba chấp nhận cái chết và xin cho cu Tị được sống. Phần kết của vở kịch : hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây cỏ trong vườn trò chuyện với vợ. Cu Tị và bé Gái ăn na và gieo hạt “ cho nó mọc thành cây mới”. 2/ Nội dung : Gồm 4 màn a/ Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt -. Sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật hồn Trương Ba ngày. càng trở nên xa lạ với người thân. Hồn Trương Ba không muốn sống nhờ thân xác người khác, muốn rời xa thân xác kềnh càng, thô lỗ. Trong khi đó, xác hàng thịt lại giễu cợt, hồn Trương Ba đau khổ cực độ và thấy không thể chịu đựng được nữa. -. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt mang ý nghĩa triết lí và có tính chất khái. quát cao, bao trùm nhiều mặt của đời sống xã hội. -. Xác hàng thịt là ẩn dụ về thể xác phàm tục, về hình thức bên ngoài. Hồn Trương Ba là ẩn dụ về. linh hồn thanh cao, về nội dung bên trong. Thể xác và linh hồn, hình thức và nội dung có quan hệ hữu.

<span class='text_page_counter'>(140)</span> cơ với nhau. Con người phải có sự hòa hợp, thống nhất giữa linh hồn và thể xác, giữa nội dung và hình thức để làm chủ được bản thân và nhân cách của mình. Trong trường hợp của Trương Ba, linh hồn phải đấu tranh với những đòi hỏi không chính đáng của thể xác để hoàn thiện nhân cách. b/ Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân -. Tất cả mọi người trong gia đình, dù đã cố chịu đựng và thích nghi với hoàn cảnh mới nhưng. càng không thể chấp nhận sự thật quái gở trong nhà mình : vợ Trương Ba muốn bỏ đi để hồn Trương Ba được thảnh thơi; đứa cháu gái không chấp nhận người ông thô lỗ, vụng về; người con dâu cũng nhận ra bố chồng ngày một đổi khác. -. Đối thoại với 3 người thân yêu của mình, hồn Trương Ba càng thêm đau khổ, tuyệt vọng vì. hoàn cảnh trớ trêu mà mình đã tự nguyện dấn thân vào. Xung đột kịch đã tới đỉnh điểm, hồn Trương Ba đã tự nhủ, tự quyết một hướng giải thoát : “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?... Không cần đến cái đời sống do mày mang lại ! Không cần !”. c/ Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích -. Trương Ba ý thức rõ về cảnh ngộ trớ trêu của mình, đau khổ vì nhận ra tình trạng vênh lệch. giữa hồn và xác. Qua đoạn đối thoại này có lẽ tác giả muốn nhắn gửi tới người đọc thông điệp : không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục, tội lỗi. Nếu phải sống gửi, sống nhờ, sống chắp vá thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa và đầy tính bi hài. -. Trương Ba kiên quyết trả lại xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết. Hành động này thể. hiện nhất quán quan điểm sống của Trương Ba, toát lên nhân cách cao thượng và bộc lộ chiều sâu tư tưởng nhân văn của tác phẩm. d/ Màn kết Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và để cho cu Tị được sống. Hồn hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. 4/ Nghệ thuật -. Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình. huống truyện. -. Những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính. cách nhân vật và quan niệm về lẽ sống đúng đắn. -. Đặc biệt, đoạn trích rất thành công trong việc xây dựng đối thoại. Những đối thoại giàu. kịch tính, đậm chất triết lí đã góp phần tạo nên chiều sâu cho vở kịch. 5/ Ý nghĩa văn bản.

<span class='text_page_counter'>(141)</span> Một trong những điều quý giá nhất của mỗi con người là được sống là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình có và theo đuổi. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống trong sự hài hòa tự nhiên giữa thể xác và tâm hồn. 6/ Chủ đề : Qua đoạn trích và cả vở kịch, tác giả muốn khẳng định : Được sống làm người quí giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn còn quí giá hơn. Con người phải luôn luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm thường, dung tục để hoàn thiện nhân cách. B/ ĐỀ LUYỆN TẬP Đề 1 : Phân tích tâm trạng của nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Mở bài : -. Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa, để lại những dấu ấn trong nhiều thể. loại : thơ, văn xuôi, nhưng đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. -. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đánh dấu. sự vượt trội trong sáng tác của LQV. Trong vở kịch, tác giả đã miêu tả khá thành công tâm trạng của các nhân vật, đặc biệt là nhân vật hồn Trương Ba. Thân bài 1/ Giới thiệu nhân vật -. Trương Ba là người làm vườn hiền lành, nhân hậu, yêu thương gia đình và chơi cờ rất. giỏi. Chưa tới số chết, nhưng do sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu mà Trương Ba phải lìa bỏ cõi đời. Đế Thích khuyên hai vị này sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba (thanh khiết) nhập vào xác anh hàng thịt (thô lỗ). -. Từ đây, Trương Ba dần dần thay đổi tính nết : thích uống rượu, ăn ngon, nói năng thô. lỗ, nước cờ hóa tầm thường. Nhận ra sự thay đổi của bản thân mình, hồn Trương Ba vô cùng đau khổ, dằn vặt. 2/ Diễn biến tâm trạng nhân vật a/ Qua đối thoại với xác hàng thịt -. Trong tâm trạng buồn bã, chán nản đến cực độ, hồn Trương Ba cháy bỏng khát khao. được tách mình ra khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ và phàm tục của anh hàng thịt. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác thực sự bắt đầu bằng việc tuyên chiến của xác. -. Xác khẳng định : “ Ông không thể tách khỏi tôi được đâu, dù chỉ là thân xác”. Lí lẽ mà. xác đưa ra là “ hai ta đã hòa làm một rồi”, “ ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi”. Ông “ chẳng có cách nào chối bỏ được tôi” vì “ tôi là cái hoàn cảnh mà ông phải quy phục”..

<span class='text_page_counter'>(142)</span> Trước những lời lẽ ấy, Trương Ba cho rằng: “ Ta vẫn có một đời sống riêng : nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác không có tiếng nói, không có tư tưởng, cảm xúc, … do vậy không thể chi phối, tác động đến đời sống trong sạch, cao khiết của linh hồn. -. Xác tiếp tục phản đối bằng lí lẽ “sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết”. và bằng những dẫn chứng cụ thể : “ khi ông ở bên nhà tôi, khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại”, bây giờ thì ông thích “ các món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và cả những thứ thú vị khác”. “Cơn giận của ông lại có thêm sức mạnh của tôi” đã làm cho “ông tát thằng con trai tóe máu mồm máu mũi”. -. Trong khi đó, hồn cố gắng phủ nhận những lí lẽ và dẫn chứng ấy. Hồn cho rằng đó là. hành động của xác “đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày” và cho rằng đó là những lí lẽ “ ti tiện” không thể chấp nhận được. Nhưng càng lúc, hồn Trương Ba càng đuối lí. Lúc đầu hồn còn cao giọng đấu lí, đáp lại tất cả những lí lẽ xác đưa ra, nhưng về sau đã “ bịt tai lại” trong đau đớn. Như vậy, hồn từ mạnh mẽ đấu tranh, đến tuyệt vọng kêu “ trời” và cuối cùng lại phải nhập vào xác anh hàng thịt. ==> Cuộc độc thoại trong tâm trạng một con người : giữa mơ ước đẹp đẽ và những dục vọng bản năng thấp hèn, tầm thường. Từ đó, tg cảnh báo : khi con người sống chung với dung tục, sẽ bị dung tục lấn át, thắng thế, ngự trị, tàn phá những gì tốt đẹp, cao quý trong con người. Vì thế, phải đấu tranh để loại bỏ sự dung tục, giả tạo để cs trở nên tươi sáng hơn, đẹp đẽ và nhân văn hơn. b/ Qua đối thoại với người thân -. Hồn Trương Ba liệu có còn giữ được “ một đời sống riêng : nguyên vẹn, trong sạch,. thẳng thắn”? Đây là câu trả lời đẫm nước mắt đau đớn, yêu thương, giận dỗi và bế tắc từ người vợ của ông : “ Tôi biết, ông là người hết lòng thương yêu vợ con … chỉ tại bây giờ … ông đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa… ông bây giờ còn biết đến ai nữa!”. Còn đây nữa, đây là câu trả lời đầy bực tức từ đứa cháu gái hồn nhiên : “ Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp chết cổ ông!”. “Sáng qua tôi để ý lúc ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý trong vườn mới ươm! Ông nội tôi đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Người thương và hiểu ông nhất là chị con dâu nhưng bây giờ chị cũng vô cùng đau khổ “… nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa.”. -. Thế là đã rõ. Trong thân thể anh hàng thịt, hồn Trương Ba đã không còn là mình nữa.. Tất cả những người thân đều đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng, bàng hoàng, xa lánh. Biết được điều đó, hồn Trương Ba đau đớn tột cùng. Vì ông mà tất cả những người thân yêu nhất đều phải khóc. Vì.

<span class='text_page_counter'>(143)</span> ông mà nhà cửa tan hoang. Con trai định bán khu vườn để mở thêm cửa hàng thịt, vợ định bỏ đi thật xa để nhường chồng cho cô vợ hàng thịt. Ông “ thẩn thờ”, ôm đầu bế tắc, ông cầu cứu đứa cháu gái, ông “ run rẩy” trong nỗi đau, ông “ lặng ngắt như tảng đá” để rồi nhận thấy “ mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được mọi cách để lấn át ta”. Một sự vỡ lẽ vừa bàng hoàng, vừa chua chát đã dẫn đến quyết định dứt khoát, đẩy tình huống vào độ căng thẳng quyết liệt hơn : “ Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất mày và tự đánh mất mình?”. “Chẳng còn cách nào khác!”. “ Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Những câu độc thoại nội tâm đã phơi trải cơn bão tố dữ dội và đau đớn trong cuộc đấu tranh giành giật lại bản thân mình từ bàn tay thô bạo của con quỹ dữ bản năng ở nhân vật Trương Ba. Tất cả dẫn đến hành động “ đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết”, thắp hương, châm lửa để gọi Đế Thích. c/ Qua đối thoại với Đế Thích -. Trương Ba thắp hương gọi Đế Thích xuống trần gian không phải để đánh cờ, hẳn nhiên. là như thế. Cái điệp khúc “ không cần, không cần” trong lời độc thoại nội tâm đã hé ra với người đọc về tính chất dữ dội, dứt khoát, quyết liệt trong nội tâm Trương Ba. Sẽ có một quyết định nào đó rất hệ trọng sẽ xảy ra. -. Từ chỗ nhận ra “ Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. đến chỗ dứt khoát “ Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Từ lời nói “ cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong” đến việc ý thức “ sống nhờ vào đồ đạc của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”… Đó là một cuộc cách mạng lớn lao trong nhận thức của hồn Trương Ba, mà để đến được, nhân vật đã phải trải qua những trải nghiệm đau đớn nhất. -. Con người là một thực thể thống nhất trọn vẹn, hài hòa của hồn và xác. Sự khập khiễng. của “ hồn Trương Ba, da hàng thịt” và giá mà nó phải trả khi cố gắng duy trì để tồn tại trong một cái vỏ giả tạo như vậy đã giúp Trương Ba thấm thía hơn bao giờ hết khát vọng “ muốn được là tôi toàn vẹn”. Và như thế, sống thực cho ra người chẳng dễ dàng chút nào. Sống gửi, sống nhờ, sống chắp vá, không được là mình trọn vẹn là kiểu sống vô nghĩa. Cuộc sống là đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng vô cùng. Ham sống, muốn được sống là ước muốn tự nhiên của mỗi con người. -. Chỉ với mấy lời thoại, hồn Trương Ba đã trở lại là mình “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng. thắn” để rồi dẫn đường cho những quyết định đau đớn, nghiệt ngã, nhưng sáng suốt và tất yếu. Hồn Trương Ba quyết định không thể ở trong xác anh hàng thịt và yêu cầu Đế Thích làm cho anh hàng thịt được sống lại vì thấy vợ của anh ta “ thật đáng thương”. Hồn Trương Ba khẳng định nếu Đế Thích không giúp thì sẽ “ nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ”. Trước sự quả quyết đó, nhân có.

<span class='text_page_counter'>(144)</span> cu Tị phải chết, Đế Thích bàn với hồn Trương Ba nhập vào thân xác cu Tị mà sống “ sẽ có cả cuộc đời trước mặt”. Nhưng hồn Trương Ba hình dung những rắc rối nếu như phải sống trong xác cu Tị nên khẩn thiết yêu cầu Đế Thích làm cho cu Tị sống lại bởi “ tôi đã chết rồi, hãy để cho tôi chết hẳn”. Hồn Trương Ba cũng nhận ra rằng : “ Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá, gượng ép chỉ càng làm sai thêm”. Lựa chọn của Trương Ba là tất yếu. Đó là sự lựa chọn dũng cảm. Chấp nhận cái chết, chấp nhận hư vô để được “ là tôi trọn vẹn”. Tất yếu bởi Trương Ba đã thấm thía cái bi kịch đau đớn của cảnh không được là mình. Trước khi trả xác cho anh hàng thịt, hồn Trương Ba dặn dò, an ủi vợ con rồi vĩnh viễn ra đi lìa bỏ cõi đời. Hồn Trương Ba chấp nhận cái chết, một cái chết làm sáng bừng lên nhân cách đẹp đẽ của Trương Ba, thể hiện sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực. ==> Trong đoạn kết, hồn Trương Ba chập chờn giữa màu xanh của cây lá trong vườn, ở trên bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cái cơi đựng trầu… Cho dù không còn trên cõi đời nhưng Trương Ba lại được người thân quý mến, kính trọng như xưa. Trong tâm trí của người thân, Trương Ba vẫn bất tử, vẫn là con người “ trong sạch, thẳng thắn”. Cái chết đầy chất thơ của Trương Ba đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng trong đoạn trích và cả tác phẩm. 3/ Đánh giá nt : Đoạn trích thành công trong nghệ thuật dựng cảnh, xây dựng những đối thoại, độc thoại nội tâm. Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống của cốt truyện. Đặc biệt, tác giả đã in đậm dấu ấn sáng tạo trong đoạn trích nói riêng, vở kịch nói chung. Từ một cốt truyện dân gian bình thường, dưới ngòi bút tài năng của tác giả đã trở thành một vở kịch nói hiện đại, có ý nghĩa triết lí sâu sắc. Kết bài : Qua đoạn trích, tác giả đã gửi gắm thông điệp : được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình có và đeo đuổi còn quý giá hơn nhiều. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, sự hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. Đề 2 : Hãy viết một bài văn ngắn (400 từ ) trình bày suy nghĩ của anh, chị về câu nói : “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. ( Lưu ý : Đây là đề NLXH – câu 3đ) Các ý chính cần có ở phần thân bài : 1/ Giải thích ý nghĩa câu nói : -. “ Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được” : cái bên trong và bên ngoài. phải thống nhất với nhau..

<span class='text_page_counter'>(145)</span> -. “ Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” : con người phải được sống đúng là mình, sống trọn. vẹn với những giá trị mình vốn có và theo đuổi.  Trong một con người, cái bên trong như suy nghĩ, tình cảm… phải luôn thống nhất với cái bên ngoài là hành động, lời nói… Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng cần được sống đúng là mình. 2/ Phân tích, chứng minh : -. Sống mà bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo là lối sống giả tạo. Lối sống này biểu. hiện của lối đạo đức giả. -. Nếu phải sống giả tạo, con người cảm thấy đau khổ và mang cảm giác tội lỗi.. -. Khi con người có được sự thống nhất giữa bên trong và bên ngoài, giữa tư tưởng, tình. cảm và hành động thì họ sẽ cảm thấy thoải mái và tạo dựng được lòng tin ở mọi người. -. Chỉ khi nào được sống đúng với bản chất của mình thì con người mới có thể bộc lộ hết. những mặt mạnh và mặt yếu của mình, qua đó khẳng định vị trí của bản thân.  Nêu dẫn chứng. 3/ Bình luận, mở rộng vấn đề : -. Phê phán những lối sống giả tạo. Nêu gương những lối sống chân thật.. -. Câu nói thể hiện một tư tưởng triết học sâu sắc. Nó đòi hỏi sự thống nhất giữa nội dung. và hình thức, giữa tư tưởng và hành động. -. Con người cần phải sống chân thật, sống đúng là mình. Con người phải luôn đấu tranh. với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị cao quý..

<span class='text_page_counter'>(146)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×