Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Tài liệu NGƯỜI MÊ CÁ BA SA pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.84 KB, 2 trang )

NGƯỜI MÊ CÁ BA SA
Mỗi năm ông Nguyễn Văn Thọ (Châu Đốc, An Giang) sản xuất 5.000 tấn cá
basa. Ông đã trở thành tỷ phú, lên ngôi “vua cá basa” nhưng ông vẫn còn ước mơ có
một nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh
Năm 1987, ông Thọ đầu tư 150 triệu đồng cho một bè nuôi cá basa xuất khẩu
có diện tích 360 m2. Qua một chu kỳ nuôi, trừ chi phí, ông lãi 53,4 triệu đồng. Đến
năm 1998, tổng số bè của ông lên đến 20. Bè nhỏ nhất nuôi được 70 tấn cá thịt, bè
lớn nhất nuôi đến 200 tấn. Ngoài ra ông còn đầu tư cho 14 bè ao hầm để nuôi cá thịt
và ương cá giống. Cuối năm 1998, thời điểm cá tra, basa xuất khẩu mạnh sang Mỹ
và các nước châu Âu, trang trại của ông năm đó đã xuất được 3.000 tấn cá thịt và lợi
nhuận mang về gần 4 tỷ đồng. Hiện nay, mỗi năm ông Thọ xuất cá nguyên liệu cho
các nhà máy chế biến ở ĐBSCL khoảng 5.000 tấn.
Cái hay của ông Thọ được ngư dân trong vùng công nhận là không ngừng sáng
tạo. Từ chế tạo ra máy ép viên thức ăn cho cá đến chảo quay nấu cám - ông đều làm
được cả. Chỉ riêng việc cho cá ăn bằng máy ép viên đã giải phóng được cho mỗi hộ
nuôi cá 5-7 lao động.
Phong trào nuôi cá bè ở ĐBSCL phát triển mạnh, tình trạng khan hiếm con
giống đã phát sinh. Có lúc, ngư dân phải chấp nhận mua cá giống với giá 5.000
đồng/con, vì con giống lúc này hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Ông Thọ nghĩ
đến chuyện cho cá basa sinh sản nhân tạo. Ông bỏ công lên tận Biển Hồ
(Campuchia) để nghiên cứu quy luật tự nhiên của cá basa, sau đó về Việt Nam dành
hẳn 1 ha đất của mình để tái tạo phong cảnh thiên nhiên nhằm mục đích kích thích
cho cá đẻ. Năm đầu tiên không thành công, ông lại tiếp tục nghiên cứu. Để kích thích
cho cá đẻ theo quy luật tự nhiên, ông đã tạo ra những dòng thác nhân tạo. Song mọi
việc vẫn không thành công vì thiếu yếu tố khoa học. Ông lại lặn lội lên TP HCM để
cầu cứu các nhà khoa học. Bằng đồng vốn của mình, ông Thọ đã bỏ ra trên 1 tỷ đồng
để thành lập phòng thí nghiệm. Đội ngũ những nhà khoa học này được ông nuôi ăn
và trả lương gấp 3 lần so với Nhà nước. Ngày 9/8/1998, gần 900.000 con cá basa đã
ra đời bằng phương pháp sinh sản nhân tạo, mở ra một triển vọng mới cho ngư dân
ở ĐBSCL. Từ đây, chuyện khan hiếm con giống cá basa đã chấm dứt.
Ông Thọ đã đưa ra một công thức áp dụng cho riêng mình: Con giống + công


nghệ + phương tiện + thị trường tiêu thụ. Ông còn cho 4 người con của mình đi du
học các nước Malaysia, New Zealand và Mỹ. Ông nói: “Con tôi sau này đứa thì lo nuôi
cá, đứa thì lo chế biến, đứa lo quản trị doanh nghiệp, còn lại thì lo đi bán cá”.
Năm 1998, Cargill đến Việt Nam nhưng vẫn chưa nghĩ ra việc chế biến thức ăn
viên nổi cho cá. Cargill đưa ra phương châm “bán cái mà thị trường cần”, thị trường
truyền thống của Cargill lúc này chỉ bán được toàn thức ăn viên chìm. Với kinh
nghiệm của mình, ông Thọ thuyết phục “Cho ăn thức ăn chìm, người nuôi không
kiểm soát được cá có ăn hết thức ăn hay không. Nếu cá không ăn hết sẽ bị lãng phí,
môi trường nước bị ô nhiễm, từ đó cá dễ bị bệnh. Còn thức ăn viên nổi thì người nuôi
có thể biết cá ăn hết hay không, mạnh - yếu ra sao để điều chỉnh lượng thức ăn cho
phù hợp. Cho ăn thức ăn viên nổi người nuôi dễ theo dõi cá có bị bệnh hay không”.
Cargill hợp tác với ông bắt tay vào sản xuất thể nghiệm loại thức ăn viên nổi, còn
ông Thọ thì lấy thức ăn đó mang về cho cá mình ăn thử nghiệm. Thời gian hợp tác là
1 năm, song chỉ mới 6 tháng là đã có kết quả. Cụ thể, cho cá ăn thức ăn viên nổi thì
cá tăng trọng rất nhanh, chỉ nuôi trong vòng 6-8 tháng là thu hoạch. Lúc này ông
Thọ lại yêu cầu phía Cargill chế biến thức ăn như thế nào để đáp ứng được 4 yêu cầu
về cá thành phẩm mà ông đặt ra: Xương mỏng, thịt trắng, da mỏng, ít mỡ.
Khép kín quy trình chăn nuôi là giấc mơ đã theo ông trong suốt quá trình đã
sản xuất. Con giống đã có, kỹ thuật nuôi đã đạt, giờ đây ông đang hoàn tất mọi thủ
tục cho việc ra đời một nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh.

×