Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Quyền chọn chứng khoán.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.62 KB, 116 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam ra đời vào tháng 07/2000 đánh
dấu một bước phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính (TTTC) trong nước, qua
mười năm hoạt động đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế Việt
Nam. Trong thời gian gần đây TTCK Việt Nam đã có sự phát triển nhanh chóng góp
phần không nhỏ trong việc huy động vốn cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên
quy mô TTCK còn nhỏ bé, chính sách quản lý, điều hành, giám sát còn nhiều yếu
kém đã và đang mang lại nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư (NĐT) khi tham gia kinh
doanh chứng khoán. Hơn nữa hàng hóa trên TTCK còn quá đơn điệu, ngoài cổ phiếu
và trái phiếu thì vẫn chưa có nhiều sản phẩm khác. Tại các nước có TTTC phát triển
thì việc giảm thiểu rủi ro thông qua các công cụ chứng khoán phái sinh như: hợp
đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, bán khống……ngày càng được sử dụng rộng
rãi như là những công cụ chủ yếu và không thể thiếu được trong việc quản lý rủi ro.
Trong thời gian gần đây TTCK Việt Nam đã có những biến động bất thường khó dự
đoán, thị trường liên tục mất điểm khiến đa số các NĐT đều thua lỗ. Khi TTCK trong
giai đoạn suy thoái những NĐT nhỏ lẻ không thể trụ vững trên thị trường, họ ồ ạt bán
chứng khoán để bảo toàn vốn làm cho thị trường càng trở nên trầm trọng hơn dễ dẫn
đến khủng hoảng và sụp đổ. Vì vậy việc áp dụng các công cụ chứng khoán phái sinh
đặc biệt là quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam giúp các NĐT có thêm
công cụ để hạn chế rủi ro cho các NĐT là vô cùng cần thiết. Đó là lý do tôi chọn đê
tài “Quyền chọn chứng khoán: điều kiện, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền
chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề cơ bản về quyền chọn, thị trường quyền
chọn, nghiên cứu một số mô hình tổ chức giao dịch quyền chọn chứng
khoán tiêu biểu trên thế giới.
- Nghiên cứu các điều kiện để áp dụng quyền chọn trên TTCK.
1
- Nghiên cứu lịch sử hình thành phát triển của TTCK Việt Nam, thực trạng


TTCK Việt Nam hiện nay từ đó đánh giá các điều kiện để phát triển giao
dịch quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp để áp dụng giao dịch quyền chọn vào TTCK Việt
Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các lý luận cơ bản về
quyền chọn chứng khoán, các điều kiện để áp dụng quyền chọn chứng
khoán và khả năng áp dụng quền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: các lý luận về quyền chọn chứng khoán, TTCK Việt
Nam, thị trường quyền chọn Mỹ, thị trường quyền chọn Châu Âu.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích-tổng hợp, thống
kê-mô tả, so sánh-đối chiếu, phương pháp quan sát thực tế để khái quát vấn đề cần
nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài với tên gọi: “Quyền chọn chứng khoán: điều kiện, khả năng và giải
pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam”,
được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền chọn và điều kiện để áp
dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK
Chương 2: Điều kiện để phát triển giao dịch quyền chọn chứng khoán:
thực trạng tại Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào
TTCK Việt Nam
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CHỌN VÀ
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN VÀO THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Giới thiệu về quyền chọn

1.1.1 Định nghĩa
1.1.1.1 Quyền chọn
Quyền chọn là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn
quyền mua hoặc quyền bán một số lượng chứng khoán xác định trước trong khoảng
thời gian nhất định với mức giá được xác định trước.
Như vậy việc yêu cầu thực hiện quyền chọn là quyền mà không phải nghĩa vụ
của người mua quyền chọn trong khi người bán phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi
người mua yêu cầu. Do đó, người mua quyền chọn có thể yêu cầu thực hiện quyền
chọn, để quyền chọn hết hạn, hoặc bán lại quyền chọn trên thị trường. Chính vì vậy
người mua quyền chọn được xem là NĐT có vị thế dài hạn và người bán ở vị thế
ngắn hạn trên hợp đồng.
Một hợp đồng quyền chọn bao giờ cũng phải có đầy đủ ít nhất 5 nội dung
chính: chứng khoán cơ sở, quy mô hợp đồng, thời gian đáo hạn, giá thực hiện và giá
phí quyền chọn. Riêng giá phí quyền chọn là nội dung có thể thương lượng giữa các
bên tham gia. Giá phí quyền chọn chính là mức giá của quyền chọn mà bên mua
quyền chọn phải trả cho bên bán.
1.1.1.2 Quyền chọn mua:
Quyền chọn mua là một loại quyền chọn cho phép người sở hữu quyền chọn
được quyền mua một số lượng chứng khoán của một loại chứng khoán nhất định với
giá xác định trước trong một thời hạn ấn định.
Thời gian có hiệu lực của hợp đồng quyền chọn được xác định đến ngày đáo
hạn. Giá thực thi quyền chọn được gọi là giá thực hiện.
1.1.1.3 Quyền chọn bán:
3
Quyền chọn bán là một loại quyền chọn cho phép người sở hữu quyền chọn
được quyền bán một số lượng chứng khoán của một loại chứng khoán nhất định với
giá xác định trước trong một thời hạn ấn định.
1.1.2 Phân loại hợp đồng quyền chọn
1.1.2.1 Theo quyền của người mua
- Hợp đồng quyền chọn mua (Call options): Là một thỏa thuận giao dịch một

lượng tài sản cơ sở nhất định, trong đó người mua call options (A) sẽ trả cho người
bán call options (B) một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay phí quyền chọn
(options premium) và A sẽ có quyền được mua nhưng không bắt buộc phải mua một
lượng tài sản cơ sở đó theo một mức giá đã được thoả thuận trước vào một ngày hoặc
một khoảng thời gian xác định trong tương lai. B nhận được tiền từ A nên B có trách
nhiệm phải bán lượng tài sản cơ sở đó với giá thực hiện đã thỏa thuận vào ngày đáo
hạn (nếu là quyền chọn kiểu Châu Âu) hoặc bất kì ngày nào trong khoảng thời gian
từ ngày ký hợp đồng đến ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Mỹ), khi A muốn
thực hiện quyền mua của mình. Vào ngày thực hiện quyền (thường cũng là ngày kết
thúc hợp đồng), sau khi xem xét với mức giá giao ngay của tài sản cơ sở ở ngày này,
nếu thấy có lợi cho mình, tức giá tài sản cơ sở lớn hơn giá thực hiện, A có thể thực
hiện quyền của mình để được mua lượng tài sản cơ sở đó ở mức giá thực hiện, rồi ra
thị trường bán lại với giá cao hơn để thu một khoản lợi nhuận. Nếu thấy giá của tài
sản cơ sở dưới giá thực hiện, A có thể không cần phải thực hiện quyền mua của
mình, và chịu lỗ tiền phí quyền chọn.
- Hợp đồng quyền chọn bán (Put options): Là một thỏa thuận giao dịch một
lượng tài sản cơ sở nhất định, theo đó người mua Put options (C) sẽ trả cho người
bán Put options (D) một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn bán hay phí Put options
và C sẽ có quyền nhưng không phải là nghĩa vụ phải bán lượng tài sản cơ sở đó theo
một mức giá đã thỏa thuận trước (giá thực hiện) vào một ngày hoặc một khoảng thời
gian xác định trong tương lai. D nhận được tiền từ C, nên có nghĩa vụ phải mua
lượng tài sản cơ sở đó ở mức giá thực hiện vào ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu
Châu Âu) hoặc bất kì ngày nào trong khoảng thời gian từ ngày ký hợp đồng đến ngày
4
đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Mỹ), khi C muốn thực hiện quyền được bán của
mình. Vào ngày thực hiện quyền (thường cũng là ngày kết thúc hợp đồng), sau khi
xem xét giá giao ngay của tài sản cơ sở trên thị trường, nếu thấy có lợi cho mình, tức
mức giá này nhỏ hơn giá thực hiện, C có thể thực hiện quyền của mình để được bán
lượng tài sản cơ sở đó với giá thực hiện sau khi đã mua được ở ngoài thị trường với
giá thấp hơn để thu một khoảng lợi nhuận. Nếu thấy giá giao ngay cao hơn giá thực

hiện, C có thể không cần phải thực hiện quyền chọn bán của mình, và chịu lỗ tiền phí
quyền chọn.
1.1.2.2 Theo thời gian thực hiện:
- Quyền chọn kiểu Mỹ (American style option) Là quyền chọn cho phép người
nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào bất kỳ thời điểm nào trong thời
gian hiệu lực của hợp đồng, kể từ khi ký kết hợp đồng cho đến hết ngày đáo hạn của
hợp đồng. Việc thanh toán sẽ thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi
việc thực hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận (trong thời gian hiệu lực
của hợp đồng).
- Quyền chọn kiểu châu Âu (European style option) là quyền chọn chỉ cho
phép người nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào ngày đáo hạn của
hợp đồng. Việc thanh toán thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi việc
thực hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận vào ngày đáo hạn.
Sự phân biệt giữa hai loại quyền chọn kiểu châu Âu và quyền chọn kiểu Mỹ
không liên quan đến vị trí địa lý. Ða số hợp đồng quyền chọn được trao đổi chính yếu
trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, quyền chọn kiểu châu Âu có đặc điểm dễ phân tích
hơn quyền chọn kiểu Mỹ và một số thuộc tính trong quyền chọn kiểu Mỹ thường
được suy ra từ quyền chọn kiểu châu Âu.
1.1.2.3 Theo thị trường giao dịch:
- Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường tập trung: Là quyền chọn
được tiêu chuẩn hóa về quy mô, số lượng, giá thực hiện và ngày đáo hạn, được giao
dịch trên các thị trường tập trung như Chicago Board of Trade, TTCK New York…
Do đó, tính minh bạch của thị trường rất cao, thể hiện ở chỗ giá cả, số lượng của hợp
5
đồng giao dịch được công bố chi tiết vào cuối ngày giao dịch, làm dữ liệu tham khảo
cho các ngày giao dịch tiếp theo hoặc cho nhiều mục đích khác. Đặc biệt, các hợp
đồng quyền chọn này có thể được dễ dàng chuyển nhượng giữa các NĐT, điều này
cho thấy tính thanh khoản cao của các hợp đồng quyền chọn được giao dịch trên các
thị trường tập trung kiểu này. Trên thế giới, thị trường giao dịch quyền chọn theo
kiểu này chiếm tỉ trọng rất lớn, khoảng 98% tổng giá trị giao dịch quyền chọn của thế

giới.
- Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường phi tập trung : Là thỏa thuận
mua bán giữa hai bên, theo đó quyền chọn được người bán đưa ra theo thỏa thuận với
người mua nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một người mua, chúng không được giao
dịch trên các sở giao dịch tập trung. Hợp đồng thường được giao dịch giữa các đối
tác liên ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với khách hàng là các cá nhân, doanh
nghiệp(DN). Do các hợp đồng quyền chọn không được chuẩn hóa, chi tiết của hợp
đồng là thỏa thuận giữa các bên, nên tính linh hoạt đối với các hợp đồng này là rất
cao, đáp ứng được các nhu cầu cá biệt của các khách hàng. Dù vậy, các giao dịch
quyền chọn phi tập trung kiểu này chỉ chiếm khoảng 2% giá trị giao dịch quyền chọn
trên thế giới.
1.1.3 Các chủ thể tham gia thị trường quyền chọn
Các chủ thể tham gia thị trường giao dịch quyền chọn rất đa dạng, bao gồm
các DN, các cá nhân, các tổ chức hoạt động tài chính như ngân hàng thương mại
(NHTM), ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán (CTCK)…Dựa vào các mục đích
tham gia thị trường của mỗi đối tượng, ta có thể phân ra thành các nhóm sau:
Những người phòng ngừa rủi ro: Là những tổ chức tài chính và phi tài chính
hay những cá nhân, tham gia thị trường quyền chọn do có nhu cầu giao dịch các loại
tài sản cơ sở như ngoại tệ, chứng khoán, vàng, lãi suất…và có những lo ngại về sự
biến động của giá cả hàng hóa, tỉ giá, lãi suất…làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
kinh doanh, lợi ích của họ. Thông thường, họ tham gia thị trường với tư cách là
những người mua các quyền chọn để bảo hiểm các rủi ro về sự biền động của giá cả,
6
tỉ giá, lãi suất…Họ sẵn sàng bỏ ra một khoản phí cho hợp đồng quyền chọn để đổi
lấy một mức tỉ giá, giá cả, lãi suất cố định.
Các NĐT, đầu cơ: Là các cá nhân, các tổ chức tài chính và phi tài chính, tham
gia vào thị trường với mục đích đầu cơ vào sự chênh lệch tỉ giá, giá cả, lãi suất … họ
thường dựa vào các công cụ phân tích kỹ thuật để đưa ra các dự đoán về xu hướng tỉ
giá, giá cả, lãi suất …Từ đó, thực hiện mua bán các quyền chọn thích hợp để thu lợi
nhuận.

Các tổ chức tài chính trung gian: Bao gồm các NHTM, ngân hàng đầu tư,
CTCK…Ngoài mục đích tham gia vào thị trường cũng với tư cách là các NĐT hoặc
những người có nhu cầu về bảo hiểm rủi ro. Ở các nước phát triển, nơi mà các giao
dịch quyền chọn hầu như chỉ diễn ra trên các sàn giao dịch tập trung, với tư cách là
các thành viên của sở giao dịch quyền chọn, họ đóng vai trò như một nhà môi giới
các giao dịch quyền chọn trên thị trường, chỉ một số ít các tổ chức tài chính lớn như
các tập đoàn tài chính khổng lồ mới có khả năng tự đứng ra phát hành quyền chọn
cho thị trường.
1.1.4 Cơ chế hoạt động của quyền chọn
Đối với quyền chọn cổ phiếu được giao dịch trên Sở giao dịch, các chi tiết của
hợp đồng – thời gian đáo hạn, giá thực hiện, ảnh hưởng của việc thanh toán cổ tức,
quy mô nắm giữ của NĐT – sẽ do Sở giao dịch quy đinh.
Về thời gian đáo hạn: mỗi Sở giao dịch tại mỗi quốc gia có thể có quy định
riêng. Tại Hoa Kỳ, một khoản mục được xác định trong quyền chọn cổ phiếu là tháng
mà có ngày đáo hạn. Ngày đáo hạn chính xác là vào thứ 7 kế tiếp sau ngày thứ sáu
tuần thứ ba của tháng. Ngày cuối cùng giao dịch quyền chọn là ngày thứ 6 tuần thứ 3
của tháng. NĐT có vị thế mua quyền chọn chỉ dẫn nhà môi giới thực thi quyền chọn
với thời hạn cuối cùng là 4h 30 ngày thứ sáu. Nhà môi giới sẽ có cả ngày hôm sau để
hoàn tất thủ tục thực thi quyền chọn.
Quyền chọn có thể được xem xét một trong ba trạng thái: đang có lời (in the
money), hoà vốn (at the money), và đang lỗ (out of the money). Nếu K là giá thực
hiện , S là giá của chứng khoán cơ sở. Một quyền chọn mua trong trạng thái đang có
7
lời khi S>K, trong trạng thái hoà vốn khi S=K, trong trạng thái đang lỗ khi S<K. Như
vậy, rõ ràng rằng một quyền chọn được thực hiện chỉ khi trong trạng thái đang có lãi.
Giá trị nội tại của quyền chọn (intrinsic value): được xác định là giá trị lớn
nào lớn hơn khi so sánh với 0 và giá trị của quyền chọn nếu nó được thực hiện ngay.
Chẳng hạn, với quyền chọn mua giá trị nội tại sẽ là max(S-K, 0). Đối với quyền chọn
bán, giá trị nội tại sẽ là max(K-S, 0).
Đối với quyền chọn giao dịch trên thị trường OTC, nếu một công ty công bố

chi trả cổ tức, giá thực hiện quyền chọn sẽ bị giảm trong ngày giao dịch không có cổ
tức đúng bằng giá trị cổ tức chi trả. Nếu quyền chọn giao dịch trên thị trường giao
dịch tập trung, việc thanh toán cổ tức thường chỉ bị điều chỉnh giá thực thi giá trị chi
trả cổ tức lớn.
Đối với việc chia tách cổ phiếu: sẽ có một số điều chỉnh trong giao dịch quyền
chọn. Khi cổ phiếu được chia tách n từ m sẽ làm giá cổ phiếu giảm xuống m/n giá trị
trước đó. Sau khi chia tách n từ m, giá thực hiện sẽ giảm xuống m/n giá trị trước đó
và số lượng cổ phiếu giao dịch trong một hợp đồng sẽ tăng n/m số lượng trước đó.
Nhằm hạn chế sự ảnh hưởng của một hoặc một nhóm NĐT tới thị trường, các
sở giao dịch quyền chọn thường có quy định giới hạn số lượng tối đa một NĐT có
thể nắm giữ và có thể thực thi quyền trong một đơn vị thời gian. Sở giao dịch quyền
chọn Chicago quy định mức giới hạn đối với một NĐT cho quyền chọn của cổ phiếu
lớn nhất có mức giao dịch nhiều nhất là 75.000 hợp đồng.
Một NĐT mua một quyền chọn có thể kết thúc vị thế của mình bằng một lệnh
bán một quyền chọn có nội dung tương tự. Một NĐT bán quyền chọn có thể kết thúc
vị thế của mình bằng việc mua một quyền chọn tương tự.
Trong giao dịch quyền chọn, NĐT mua quyền chọn có thể trả bằng tiền mặt
hoặc sử dụng tài khoản ký quỹ. Mức ký quỹ ban đầu thường là 50% giá trị của chứng
khoán và phải duy trì mức ký quỹ tối thiểu là 25% giá trị của chứng khoán. Thông
thường, quyền mua có thời gian đáo hạn dưới 9 tháng sẽ phải trả bằng tiền mặt mà
không được sử dụng tài khoản ký quỹ.
8
Đối với NĐT bán quyền chọn, yêu cầu phải duy trì một tài khoản ký quỹ để
đảm bảo thực hiện hợp đồng. Mức ký quỹ cụ thể có quy định trong từng trường hợp.
Trường hợp quyền chọn không có đảm bảo (naked options): mức ký quỹ
thông thường của quyền chọn mua (theo quy định của Sở giao dịch quyền chọn
Chicago) sẽ là một trong 2 giá trị sau tuỳ theo giá trị nào cao hơn.
+ Một trăm phần trăm giá trị phí mua quyền chọn đã nhận được cộng với 20%
giá trị thị trường của chứng khoán cơ sở trừ đi phần thua lỗ hiện có trong hợp đồng
(nếu có).

+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 10% giá trị thị trường của
chứng khoán cơ sở.
Mức ký quỹ thông thường của quyền chọn bán sẽ là giá trị nào lớn hơn trong
hai giá trị tính toán sau:
+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 20% giá trị thị trường của
chứng khoán cơ sở trừ đi phần thua lỗ (nếu có).
+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 10% giá trị thực hiện
quyền chọn.
Trường hợp quyền chọn có đảm bảo (covered options): đối với quyền chọn
mua đó là toàn bộ chứng khoán cơ sở của quyền chọn, biên bản thỏa thuận để bên thứ
ba nắm giữu chứng khoán cơ sở, hoặc chứng khoán có thể hoán đổi ra chứng khoán
cơ sở, hoặc một hợp đồng quyền chọn mua cùng loại chứng khoán cơ sở có thời gian
đáo hạn dài hơn, giá thực hiện thấp hơn, hoặc quyền mua cổ phiếu cơ sở có giá thực
hiện ngang bằng hoặc thấp hơn giá thực hiện quyền chọn.
Đối với quyền chọn bán, người bán quyền chọn phải đảm bảo: số tiền mặt
tương đương với giá trị thực thi hợp đồng hoặc thư đảm bảo của ngân hàng, hoặc số
bán khống chứng khoán cơ sở, hoặc đã mua quyền chọn bán khác cùng loại chứng
khoán có giá thực hiện cao hơn có cùng thời gian đáo hạn (hoặc thời gian đáo hạn dài
hơn).
Quyền chọn có thể sử dụng riêng biệt, độc lập hoặc có thể kết hợp theo nhiều
cách khác nhau để tạo ra các sách lược làm biến đổi tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận. Một
9
phương thức rất thông dụng là mua bán song hành cùng lúc các hợp đồng quyền chọn
của cùng một loại chứng khoán cơ sở. Có nhiều kiểu mua bán song hành nhưng có 2
loại thông dụng là mua bán song hành chiều dọc và mua bán song hành theo lịch.
Mua bán song hành theo chiều dọc là hình thức mua và bán đồng thời các quyền chọn
có cùng chứng khoán cơ sở, cùng thời gian đáo hạn nhưng khác giá thực hiện. Mua
bán song hành theo lịch là hình thức mua và bán đồng thời các quyền chọn có cùng
giá thực hiện nhưng khác thời gian đáo hạn.
1.1.5 Ưu nhược điểm của quyền chọn

1.1.5.1 Ưu điểm:
- Thứ nhất, có nhiều thời gian hơn để quyết định: Thông qua quyền chọn,
mức giá mua hoặc bán đã được xác định. Tuy nhiên, từ thời điểm hiện tại đến thời
điểm thực hiện NĐT vẫn còn khoảng thời gian đáng kể để cân nhắc kỹ lưỡng việc có
mua hoặc có bán chứng khoán đó hay không. Việc đầu tư một khoản tiền khiêm tốn
ban đầu để có thời gian cân nhắc kỹ lưỡng cho một khoản mục đầu tư lớn trong nhiều
trường hợp cũng đánh giá là đáng giá.
- Thứ hai, Cho phép NĐT thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư cao nhất.
Do NĐT chỉ bỏ ra chi phí nhỏ là giá quyền chọn và một số chi phí liên quan trong
quá trình giao dịch và thanh toán như chi phí môi giới, phí thanh toán... tuy nhiên nếu
giá tài sản cơ sở (cổ phiếu, trái phiếu....) biến động đúng như kỳ vọng của NĐT, lúc
này khoản lợi nhuận là rất lớn.
- Thứ ba, Linh hoạt phòng ngừa rủi ro: đây là một trong những đặc điểm nổi
bật của quyền chọn so với công cụ khác như cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Dùng quyền
chọn, NĐT có thể hạn chế mức tổn thất tối đa trong phạm vi giá phí quyền chọn. Đối
với quyền chọn bán còn có thể dùng để tự bảo hiểm cho trường hợp giảm giá chứng
khoán mà NĐT đang nắm giữ. Quyền chọn cho phép NĐT xây dựng một danh mục
chứng khoán đa dạng với chi phí ban đầu thấp hơn việc mua thẳng chứng khoán đó.
- Thứ tư, quyền chọn là công cụ để tìm kiếm lợi nhuận: Thông qua quyền
chọn NĐT có thể có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận gia tăng từ chi phí đầu tư khiêm tốn
10
ban đầu. Thông qua việc bán quyền chọn, một số nhầ đầu tư cũng sẽ được hưởng giá
phí quyền chọn từ một số NĐT khác.
- Thứ năm, tận dụng đòn bẩy tài chính: Thông qua công cụ quyền chọn NĐT
có thể tận dụng đòn bẩy tài chính để kiếm lợi nhuận. Giao dịch quyền chọn giúp
NĐT hưởng lợi từ sự biến động của giá chứng khoán mà không cần thanh toán toàn
bộ giá trị chứng khoán đó. Thông qua việc tận dụng phối hợp các quyền chọn khác
nhau, NĐT có thể thực hiện các chiến lược đầu tư phù hợp với mục tiêu và hoàn cảnh
cụ thể của mình.
1.1.5.2 Nhược điểm:

Bên cạnh các ưu điểm, quyền chọn cũng có những nhược điểm:
Giao dich quyền chọn phụ thuộc vào giá trị tài sản cơ sở, mức giá thực thi
quyền, thời gian, độ biến thiên của tài sản cơ sở.... Mặt trái cơ bản nhất của quyền
chọn là khi TTCK diễn biến không như kỳ vọng của NĐT, NĐT sẽ mất toàn bộ số
tiền bỏ ra để có được quyền chọn.
Quyền chọn là công cụ phái sinh khá phức tạp. Do đó, khi sử dụng giao dịch
quyền chọn, NĐT cần phải hiểu rõ và biết cách vận dụng các công cụ quyền chọn
một cách linh hoạt. Do đó, rủi ro lớn nhất của quyền chọn là khi chính NĐT không
hiểu rõ về quyền chọn và không biết cách kết hợp các vị thế để giới hạn tổn thất nếu
có và gia tăng lợi nhuận.
Mặt trái của giao dịch quyền chọn là hiện tượng đầu cơ. Các nhà đầu cơ có thể
đầu cơ giá lên hoặc giá xuống bằng các quyền chọn mua và quyền chọn bán. Việc
đầu cơ giá trên các hợp đồng quyền chọn có thể làm giá cả chứng khoán biến động
vượt ra khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các DN và các NĐT.
1.1.6 Sự phát triển của thị trường quyền chọn
Những giao dịch quyền chọn bán và quyền chọn mua đầu tiên được ghi nhận
là ở các quốc gia châu Âu và Mỹ đầu thế kỷ XVIII. Vào đầu những năm 1900, hiệp
hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn ra đời. Mục đích của hiệp hội này
là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và người bán lại với nhau. NĐT
muốn mua quyền chọn sẽ liên hệ với một công ty thành viên, công ty này sẽ tìm
11
nguời bán quyền chọn từ khách hàng của công ty hoặc của các công ty thành viên
khác. Nếu không có người bán, công ty đó sẽ tự phát hành quyền chọn với giá cả
thích hợp. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường phi tập trung OTC
(Over-The-Counter), các nhà kinh doanh không gặp nhau trên sàn giao dịch.
Tuy nhiên, thị trường quyền chọn phi tập trung này bộc lộ rõ nhiều khiếm
khuyết. Thứ nhất, do không có thị trường thứ cấp, thị trường này không cung cấp cho
người nắm giữ quyền chọn có hội bán quyền chọn cho một người khác trước khi
quyền chọn đáo hạn. Các quyền chọn được thiết kế để nắm giữ cho đến khi đáo hạn,
và rồi chúng sẽ được thực hiện hoặc để cho hết hiệu lực. Vì vậy, hợp đồng quyền

chọn có rất ít, thậm chí không có tính thanh khoản. Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng
của người bán chỉ được đảm bảo bởi công ty môi giới kiêm kinh doanh. Nếu người
bán hoặc công ty thành viên của Hiệp hội các nhà kinh doanh quyền chọn mua và
quyền chọn bán bị phá sản, người nắm giữ quyền chọn coi như tổn thất hoàn toàn.
Thứ ba, phí giao dịch tương đối cao, một phần cũng do hai nguyên nhân kể trên.
Năm 1973 đã có một sự thay đổi mang tính cách mạng trong thế giới quyền
chọn. Tháng 4 năm 1973, Ủy ban thương mại Chicago (Chicago Board of Trade –
CBO) thành lập Sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (Chicago Board
Options Exchange – CBOE), đặc biệt dành cho trao đổi quyền chọn về cổ phiếu.
CBOE đã tạo ra một thị trường trung tâm cho các hợp đồng quyền chọn. Bằng cách
tiêu chuẩn hóa các kỳ hạn và điều kiện của hợp đồng quyền chọn, nó đã làm tăng tính
thanh khoản cho thị trường. Nói cách khác, một NĐT đã mua hoặc bán quyền chọn
trước đó có thể quay trở lại thị trường trước khi hợp đồng đáo hạn và bán hoặc mua
quyền chọn, và như vậy đã bù trừ vị thế ban đầu. Tuy nhiên, quan trọng nhất CBOE
đã bổ sung một trung tâm thanh toán đảm bảo cho người mua rằng người bán sẽ thực
hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng. Vì vậy, không giống như trên thị trường phi tập trung,
người mua quyền chọn không còn phải lo lắng về rủi ro tín dụng của người bán. Ðiều
này khiến quyền chọn trở nên hấp dẫn đối với công chúng. Từ đó thị trường quyền
chọn trở nên phổ biến với NĐT. TTCK Philadelphia (Philadelphia Exchange –
PHLX) bắt đầu thực hiện giao dịch quyền chọn vào năm 1975, TTCK Pacific
12
(Pacific Stock Exchange – PSE) thực hiện vào năm 1976 và TTCK New York (New
York Stock Exchange – NYSE) thực hiện vào năm 1985.
Năm 1982, quyền chọn bắt đầu giao dịch trên các hợp đồng giao sau với trái
phiếu chính phủ, và loại giao dịch này phát triển rất nhanh. Giao dịch trên thị trường
đấu giá mở, việc mua bán quyền chọn cung cấp rất nhiều công cụ để đầu cơ và phòng
hộ giá cho cộng đồng thương mại. Sự thành công của hợp đồng quyền chọn đã mở
lối cho việc ra đời quyền chọn trên vô số các hàng hoá tiêu dùng, như ngô, đậu nành
và các sản phẩm khác.
Khi xã hội ngày càng phát triển, giao dịch quyền chọn ngày càng trở nên phổ

biến hơn, lan rộng sang Anh, Brazil, Ðức, Pháp, Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông và
Australia. Việc toàn cầu hoá thị trường thế giới đã tạo ra nhu cầu liên kết điện tử và
thương mại 24/24 trong ngày. Thị trường Mỹ đã đáp ứng nhu cầu này bằng cách tạo
ra những sản phẩm giao dịch quốc tế, mở rộng giờ giao dịch và triển khai một sàn
giao dịch diện tử.
Những hệ thống đáng chú ý nhất là GLOBEX (được CME phát triển) và
Project A (được CBOT) phát triển. Ở Ðức, Deutsche Terminborse Exchange đã bỏ
kiểu giao dịch đấu giá mở, thay vào đó vận hành sàn giao dịch điện tử. Trên hệ thống
GLOBEX, các NĐT cá thể có thể giao dịch dựa trên chỉ số SP500, SP500 mini và
NASDAQ 100 và các hợp đồng con. Các NĐT cá thể cũng có thể mua bán ngoại hối
trên GLOBEX.
Trên hệ thống Project A (hiện tại là hệ thống Eurex (Tháng 8/2000, CBOT xây
dựng Eurex, tất cả các giao dịch trên Project A đều được thực hiện tại Eurex)), các
NĐT cá thể có thể mua bán trái phiếu T-bonds và tín phiếu, quyền chọn, và tất cả các
sản phẩm ngũ cốc trên CBOT. Giao dịch điện tử được thiết kế để hỗ trợ việc đấu giá
mở ngoài giờ giao dịch chính thức.
Hiện nay, chủ yếu các hợp đồng quyền chọn được mua bán rộng rãi tại văn
phòng TTCK (Chicago board option Exchange–CBOE, Philadelphia Exchange–
PHLX, The American Stock Exchange–AMEX, The Pacific Stock Exchange–PSE,
The New York Stock Exchange–NYSE...). Việc mua bán dưới hình thức hợp đồng
13
chọn tại các văn phòng TTCK có nhiều khía cạnh giống như mua bán hợp đồng
tương lai. Văn phòng TTCK phải xác định rõ các điều kiện, mức độ, thời gian đáo
hạn và ấn định giá của hợp đồng quyền chọn được mua bán trên thị trường của họ.Và
để giảm rủi ro của việc thực hiện hợp đồng, lúc mua sản phẩm (cổ phiếu chẳng hạn),
người đầu tư mở tài khoản dự trữ bắt buộc với người môi giới của họ, mức độ dự trữ
tuỳ thuộc vào loại hàng hoá được giao dịch và tuỳ vào từng tình huống cụ thể. Ðồng
thời, cũng có những quy định để kiểm soát thị trường hợp đồng quyền chọn, như
những qui định kiểm soát ứng xử của thương nhân, của những người tạo lập thị
trường.

1.1.7 Công cụ phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn
Một trong những đặc tính hấp dẫn của quyền chọn là nó có thể tạo ra nhiều
công cụ đa dạng để tìm kiếm lợi nhuận cũng như phòng ngừa rủi ro. Các khả năng có
thể đạt được lợi nhuận đa dạng đến nỗi gần như bất kỳ một NĐT nào cũng có thể tìm
được một công cụ đáp ứng rủi ro ưa thích của mình và phù hợp với dự báo của thị
trường. Quyền chọn làm cho việc chuyển từ dự báo sang một kế hoạch hành động
đem lại lợi nhuận nếu dự đoán đúng, dĩ nhiên nếu dự báo sai thì sẽ bị thua lỗ. Tuy
nhiên với việc sử dụng quyền chọn một cách đúng đắn mức thua lỗ này sẽ khá nhỏ và
có thể hạn chế được.
1.7.1.1 Giao dịch quyền chọn mua
Có hai loại giao dịch quyền chọn mua:
a. Mua quyền chọn mua
Mua quyền chọn mua là một công cụ kinh doanh tăng giá có mức lỗ có giới
hạn (phí quyền chọn) và có mức lợi nhuận tiềm năng không giới hạn. Điều này có
nghĩa, mua một quyền chọn mua cho chúng ta cơ hội kiếm lợi do tăng giá không giới
hạn và hạn chế lỗ do giảm giá. Do đó, mua một quyền chọn mua là một công cụ đặc
biệt hấp dẫn đối với những người có nguồn vốn có hạn.
14
Điểm hòa vốn
Vùng lãi
0
-C
π
X St

Hình 1.1: Mua quyền chọn mua
Với π: lợi nhuận; St: giá trị tài sản lúc đáo hạn; X: giá thực hiện; C: giá
quyền chọn mua.
Như vậy, qua hình trên cho thấy giá cổ phiếu hòa vốn khi đáo hạn bằng giá
thực hiện cộng với giá quyền chọn mua. Do đó, để hòa vốn, người mua quyền chọn

mua phải thực hiện quyền chọn ở một mức giá đủ cao để bù đắp chi phí quyền chọn.
b. Bán quyền chọn mua
Bán quyền chọn mua là công cụ kinh doanh giá xuống và mang lại lợi nhuận
có giới hạn chính là phí quyền chọn, nhưng mức lỗ thì vô hạn.
Vì lợi nhuận của người mua và người bán là các hình ảnh trái ngược nhau nên
đồ thị sẽ là:
15
St
π
0
C
X
Điểm hòa vốn
Vùng lỗ


Hình 1.2: Bán quyền chọn mua
Một nhà kinh doanh quyền chọn thực hiện bán một quyền chọn mua mà không
đồng thời sở hữu cổ phiếu được gọi là bán một quyền chọn mua không được phòng
ngừa. Lý do là vì đây là một công cụ có rủi ro cao với khả năng lỗ không giới hạn.
Mặc dù vậy, công cụ này vẫn được áp dụng vì có có thể được kết hợp với công cụ
khác để tạo thành một công cụ với rủi ro thấp nhất.
1.7.1.2 Giao dịch quyền chọn bán
Giao dịch quyền chọn bán cũng có hai dạng giao dịch là mua quyền chọn bán
và bán quyền chọn bán.
a. Mua quyền chọn bán
Mua quyền chọn bán là một công cụ kinh doanh giảm giá có mức lỗ có giới
hạn (phí quyền chọn bán) và có mức lợi nhuận tiềm năng lớn nhưng có giới hạn. Đây
là một công cụ phù hợp dành cho thị trường giá xuống. Mức lỗ tiền năng được giới
hạn trong phí quyền chọn được chi trả. Lợi nhuận bị giới hạn nhưng vẫn có thể rất

lớn.
16
Hình 1.3: mua quyền chọn bán
Với: π: lợi nhuận; St: giá trị tài sản lúc đáo hạn; X: giá thực hiện; P: giá quyền
chọn bán
b. Bán quyền chọn bán
Bán quyền chọn bán là một công cụ kinh doanh giá lên và mức lợi nhuận có
giới hạn là phí quyền chọn và một mức lỗ tiềm năng lớn nhưng cũng có giới hạn.
Người bán quyền chọn bán có trách nhiệm mua cổ phiếu của người mua
quyền chọn bán ở mức giá thực hiện. Người bán quyền chọn bán có lợi nhuận nếu giá
cổ phiếu tăng và vì vậy quyền chọn bán không được thực hiện, trong trường hợp đó
người bán sẽ giữ hoàn toàn khoản phí. Nếu giá cổ phiếu giảm xuống đến mức quyền
chọn bán được thực hiện, người bán quyền chọn bán bắt buộc phải mua cổ phiếu với
giá cao hơn giá trị thị trường của nó.
π
0

-P
Vùng
lãi
Điểm hòa vốn
X
St
17
1.2 Điều kiện áp dụng quyền chọn trên TTCK.
1.2.1 Điều kiện về sự phát triển của TTCK
Một trong những điều kiện quan trọng để có thể áp dụng quyền chọn trên
TTCK là TTCK phải phát triển đến một mức độ nhất định thể hiện ở:
+ Số lượng công ty niêm yết nhiều và có nhiều công ty cổ phần đại chúng lớn.
+ Hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại.

+ Chất lượng dịch vụ của các công ty chứng khoán cao, cung cấp nhiều dịch
vụ tiện ích cho khách hàng.
+ Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán nhiều.
+ Tính thanh khoản trên TTCK cao.
+ Mức vốn hóa thị trường lớn.
Qua thời gian phát triển của TTCK các NĐT cũng sẽ trải qua nhiều rủi ro
trước những biến động khó lường của TTCK. Khi đó các NĐT sẽ phát sinh nhu cầu
bảo hiểm rủi ro và nhu cầu sử dụng quyền chọn chứng khoán để giảm thiểu rủi ro
trong kinh doanh là tất yếu. Hơn nữa khi TTCK đã phát triển thì nhu cầu về chứng
khoán phái sinh nói chung và quyền chọn chứng khoán nói riêng là cần thiết để NĐT
18
π
P
0
Vùng lỗ
Điểm hòa vốn
X
St
Hình 1.4: Bán quyền chọn bán
đa dạng hóa các kênh đầu tư để tìm kiếm lợi nhuận.
Muốn có một TTCK sôi động thì điều quan trọng là phải làm sao đưa thật
nhiều hàng hóa đa dạng về chủng loại, đảm bảo về chất lượng vào thị trường nhằm
thu hút, kích thích các NĐT sử dụng năng lực của mình để kinh doanh kiếm lời dựa
trên các sản phẩm mà thị trường cung cấp.
Quyền chọn là công cụ chứng khoan phái sinh, sự tồn tại của quyền chọn phụ
thuộc tương đối vào các chứng khoán trên thị trường. Để ứng dụng giao dịch quyền
chọn, trước tiên phải có các chứng khoán trên thị trường, những loại chứng khoán đó
là cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số,… càng nhiều loại chứng khoán trên thị trường, quyền
chọn càng có cơ hội phát triển.
1.2.2 Điều kiện về pháp lý

Quyền chọn chứng khoán là một sản phẩm chứng khoán phái sinh khá phức
tạp. Vì vậy, để có thể áp dụng quyền chọn vào TTCK cần có một cơ sở pháp lý chặt
chẽ và hợp lý để có thể kiểm soát được tình hình trước khi đưa quyền chọn chứng
khoán ra thị trường.
Trên TTCK nhiều rủi ro, quyền chọn có phương thức giao dịch khá đặc biệt
đó là có sự tham gia của nhiều bên như: người mua, người bán, CTCK, công ty niêm
yết, công ty thanh toán, công ty lưu ký,… Do đó, luật pháp phải điều chỉnh mọi hành
vi của các đối tượng này để đảm bảo nghĩa vụ cũng như quyền lợi của các bên tham
gia. Cụ thể để triển khai quyền chọn chứng khoán cần có luật chứng khoán hoàn
chỉnh, bên cạnh đó cần có luật chứng khoán phái sinh và thị trường phái sinh trong đó
quy định rõ các khái niệm, qui định về quyền chọn và các giao dịch quyền chọn; quy
định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia thị trường.
Do tính chất phức tạp của giao dịch quyền chọn, khiến hoạt động của công cụ
quyền chọn chứng khoán càng nhạy cảm với những hành vi gian lận, tiêu cực. Trên
thị trường này có nhiều đối tượng tham gia như: NĐT, nhà đầu cơ, nhà môi giới…
Mỗi người tham gia trên thị trường đều vì những mục đích, lợi ích và sự hiểu biết
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, nguy cơ rủi ro cũng như khả năng thu
19
lợi trên hợp đồng quyền chọn là rất lớn. Đặc tính đó khiến cho thị trường phái sinh dễ
xảy ra các hoạt động kiếm lời không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận,
mua bán tay trong, gây thiệt hại các NĐT, thậm chí cho các nhà môi giới – làm trung
gian trong các hợp đồng quyền chọn. Bên cạnh đó, để thị trường quyền chọn chứng
khoán phát huy vai trò là một trong những công cụ phòng ngừa rủi ro, tránh các hành
vi tiêu cực từ mặt trái của sản phẩm phái sinh như lừa đảo, trốn thuế, làm sai lệch
thông tin, thao túng TTCK thì cần có các các quy định ràng buộc, các yêu cầu về: Nội
dung của Hợp đồng quyền chọn; Điều kiện đối với các chứng khoán cơ sở; Quy định
về giới hạn giá và số lượng hợp đồng quyền chọn giao dịch để tránh tình trạng thao
túng thị trường; Điều kiện về công bố thông tin, đảm bảo tính chuẩn xác và minh
bạch trên thị trường… Cũng cần phải có những chuẩn mực kế toán phù hợp để điều

chỉnh thực hiện những nghiệp vụ kế toán có liên quan và thể hiện đúng trên báo cáo
tài chính.
Ngoài ra cũng cần có những quy tắc, và điều lệ chuẩn mực của các Sàn Giao
dịch. Những quy tắc và điều lệ này ban hành những quy định có liên quan đến nhiệm
vụ, cơ cấu tổ chức, việc bổ nhiệm các thành viên của sàn giao dịch. Từ đó, các sở
giao dịch chứng khoán (SGDCK), trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ có các quy
định cụ thể cho các hoạt động giao dịch trên sàn, bao gồm các biểu mẫu, các quy
định trong hợp đồng, giá thực hiện, hạn mức thực hiện, phương thức đặt lệnh, ký
quỹ, và thanh toán hợp đồng…. Có các quy định các điều kiện cụ thể cho các loại cổ
phiếu được phép giao dịch trên thị trường quyền chọn (như cổ phiếu của các công ty
có tỷ suất sinh lợi cao, khối lượng giao dịch đáng kể và đạt được tính thanh khoản
theo yêu cầu để duy trì việc niêm yết quyền chọn) để đảm bảo quyền lợi cho NĐT.
Cũng cần có các điều kiện, quy định những CTCK nào được phép tham gia vào thị
trường quyền chọn này dựa theo năng lực và uy tín của công ty đó.
Như vậy, để quyền chọn được ứng dụng có hiệu quả cần phải xây dựng được
khung pháp lý mang tính thực tiễn và thống nhất, hệ thống văn bản pháp luật phải
điều chỉnh hoạt động TTCK theo hướng bao quát, toàn diện và phù hợp với thực tiễn
thị trường.
20
1.2.3 Điều kiện về thông tin trên thị trường
Đối với TTCK thì thông tin là một yếu tố rất nhạy cảm có tác động trực tiếp
đến giá chứng khoán. Muốn TTCK hoạt động hiệu quả thì việc cung cấp minh bạch,
đầy đủ và kịp thời các thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các thông tin này
bao gồm: thông tin vĩ mô, thông tin DN và thông tin thị trường.
Các thông tin không minh bạch có hậu quả khôn lường. Hậu quả xấu không
những chỉ có thể ảnh hưởng đến các NĐT (cả cá nhân và tổ chức) mà còn có thể ảnh
hưởng đến DN niêm yết nói riêng và TTCK nói chung. Sự thiếu minh bạch và bình
đẳng trong tiếp cận thông tin sẽ hỗ trợ cho các kiểu làm ăn chụp giật và như thế có
thể nhanh chóng hủy hoại lòng tin của NĐT và gây ảnh hưởng tiêu cực rất lớn tới sự
phát triển bền vững của thị trường.

Để đáp ứng được vấn đề minh bạch hóa thông tin thì cần phải có các quy định
cụ thể về việc công bố thông tin như: đối tượng được công bố thông tin, yêu cầu về
tính chính xác của nội dung thông tin được công bố, phương tiện và hình thức công
bố thông tin, quy định cụ thể về việc công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính
của các công ty đại chúng (CTĐC) và tổ chức niêm yết, quy định cụ thể về xử lý vi
phạm trong vấn đề công bố thông tin.
Ngoài ra các thông tin cũng phải được cung cấp một các rộng rãi đưa trên các
phương tiện công bố thông tin đại chúng hoặc phương tiện công bố thông tin của
trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) hoặc SGDCK để các NĐT có thể tiếp
cận một cách đầy đủ và dễ dàng.
Các giao dịch quyền chọn đều dựa trên sự biến động giá chứng khoán cơ sở,
mà sự biến động giá chứng khoán cơ sở lại dựa vào phản ứng của NĐT trên thị
trường thông qua những thông tin nhận được. Do đó, thông tin minh bạch, đầy đủ và
kịp thời là một điều kiện để NĐT có cơ sở rõ ràng và chính xác để thực hiện các
quyết định đầu tư của mình và là điều kiện cần thiết để thị trường quyền chọn chứng
khoán phát triển.
1.2.4 Điều kiện về kỹ thuật
Hoạt động của TTCK phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào hệ thống máy tính.
21
Đặc điểm hoạt động của ngành chứng khoán là khối lượng giao dịch rất lớn với yêu
cầu thời gian đặc biệt cấp bách nên bắt buộc phải có sự hỗ trợ của máy tính, vì vậy
yêu cầu về mặt kỹ thuật là rất cao.
Điều kiện về mặt kỹ thuật cho hoạt động của TTCK nói chung và thị trường
quyền chọn nói riêng bao gồm một số yêu cầu cơ bản về kỹ thuật như: hệ thống cơ sở
hạ tầng công nghệ thông tin; kỹ thuật đặt, chuyển lệnh mua và lệnh bán; kỹ thuật
hạch toán và chuyển quyền sở hữu; kỹ thuật lưu ký chứng khoán; kỹ thuật lưu trữ
lệnh,…
Việc hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ thống công nghệ thông tin cho thị trường
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của thị trường quyền chọn.
1.2.5 Điều kiện về con người

Nhân tố con người đóng vai trò quyết định trong mọi hoat động và tất nhiên
nó quyết định sự thành công hay thất bại của việc ứng dụng quyền chọn chứng khoán
ở TTCK. Tất cả các điều kiện nói trên có thực hiện được hay không là đều do con
người. Con người để điều hành, quản lý, thực hiện nghiệp vụ, đầu tư,… Do đó, để
đáp ứng được giao dịch quyền chọn thì trước tiên phải có con người am hiểu về
TTCK cũng như các lĩnh vực liên quan đến kinh tế. Những con người am hiểu về
TTCK không chỉ là những nhà quản lý TTCK hay đội ngũ thực hiện các giao dịch
quyền chọn ở các CTCK mà cả đại đa số công chúng đầu tư. Chính công chúng đầu
tư mới là nhân tố tác động vào nguồn cầu làm cho thị trường này phát triển.
1.3. Một số kinh nghiệm của thế giới về tổ chức sàn giao dịch quyền chọn
Sự hình thành và phát triển giao dịch quyền chọn trên TTCK là một tất yếu
khách quan để phát triển TTCK. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội, luật pháp của
mỗi nước có những đặc thù riêng nên việc nghiên cứu tổ chức sàn giao dịch quyền
chọn chứng khoán trên thế giới là vấn đề cần thiết cho kinh nghiệm xây dựng và phát
triển giao dịch quền chọn chứng khoán ở Việt Nam.
1.3.1 Mô hình Mỹ
1.3.1.1 TTCK Mỹ
22
TTCK Mỹ hình thành từ năm 1790 có lịch sử phát triển hơn 200 năm. Nét
quan trọng trong cơ cấu thị trường tài chính Mỹ là việc tách rời hoạt động của ngành
ngân hàng và ngành chứng khoán. Rất ít nước trên thế giới theo mô hình của Mỹ.
Trên thực tế, việc tách rời hoạt động của hai ngành chứng khoán và ngân hàng là sự
khác biệt nổi bật trong các quy định về hoạt động của ngành chứng khoán tại Mỹ và
các nước khác. Thị trường chứng khoán Mỹ hiện nay là một thị trường quan trọng
bậc nhất trên thế giới nếu xét trên tổng thể khối lượng tư bản giao dịch và sự ảnh
hưởng to lớn của nó đối với các TTCK khác. Điều đáng chú ý là 2/3 nghiệp vụ giao
dịch chứng khoán ở Mỹ được thực hiện trên thị trường phi tập trung, đặc biệt là đối
với các hàng hoá là trái phiếu chính phủ.
SGDCK NewYork (NYSE) là Sở giao dịch lớn nhất và lâu đời nhất nước Mỹ.
TTCK này của Mỹ còn được gọi là thị trường phố Wall - nơi phôi thai những giao

dịch đầu tiên của nước Mỹ kể từ năm 1864 và hiện là TTGDCK lớn nhất thế giới,
quản lý tới hơn 80% các giao dịch chứng khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã trở
thành TTCK quốc gia.
SGDCK Mỹ (American Stock Exchange - AMEX) là TTCK tập trung lớn thứ
2 ở Mỹ và hiện nay có khoảng 1/5 số chứng khoán của Mỹ được mua bán trên thị
trường này. Cũng tương tự như SGDCK NewYork, AMEX hoạt động theo hệ thống
đấu giá mở và các chuyên gia trên thị trường đóng vai trò quan trọng.
Bên cạnh các TTCK tập trung là các Sở giao dịch (hiện có khoảng 14 Sở
GDCK khác nhau), tại Mỹ còn có OTC rất phát triển đó là Nasdaq.
Các tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Mỹ bao gồm các
ngân hàng đầu tư và các công ty môi giới:
- Các ngân hàng đầu tư: khi một công ty muốn vay vốn, công ty thường thuê
các dịch vụ của một ngân hàng đầu tư để giúp việc chào bán chứng khoán. Mặc dù
tên gọi là ngân hàng đầu tư, nhưng các ngân hàng đầu tư không phải là một ngân
hàng theo nghĩa thông thường, nó cũng không phải là một tổ chức tài chính trung
gian đứng ra nhận tiền gửi và cho vay. Những ngân hàng đầu tư nổi tiếng của Mỹ
gồm có Morgan Stanley, Merrill Lynch, Saiomon Brothes, First Boston Corporation
23
và Goldman Sachs đã rất thành công trong lĩnh vực bảo lãnh phát hành không những
tại Mỹ mà cả ở các thị trường ngoài Mỹ
- Các công ty môi giới: ở Mỹ, các công ty môi giới có thể thành lập dưới bất
kỳ hình thức nào: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc hình thức công
ty hợp danh.
Có rất nhiều loại môi giới và tự doanh chứng khoán. Có rất nhiều nhà môi giới
và tự doanh nhỏ chuyên cung cấp một loại dịch vụ, cũng có những công ty môi giới
và nhà tự doanh lớn cung cấp nhiều loại dịch vụ tài chính đa dạng. Các công ty này
tham gia vào mọi hoạt động kinh doanh trên TTCK như môi giới chứng khoán, cho
khách hàng vay tiền mua chứng khoán, cung cấp các dịch vụ liên quan tới bảo lãnh
phát hành, quản lý tiền cho khách hàng, nghiên cứu và cung cấp các dịch vụ liên quan
tới chứng khoán.

Ủy Ban Chứng Khoán Mỹ (Securities Exchange Commission- SEC) là một cơ
quan chính phủ quản lý việc phát hành, mua bán chứng khoán. SEC là cơ quan quản
lý chính của thị trường quyền chọn Mỹ. Nhiệm vụ của SEC là nhằm bảo vệ NĐT,
duy trì thị trường bảo đảm công bằng, kỷ luật, và hiệu quả, tạo điều kiện huy động
vốn.
1.3.1.2 Sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (CBOE)
a. Lịch sử hình thành và phát triển
CBOE là một trong những sàn giao dịch quyền chọn lớn nhất thế giới với lịch
sử hình thành và phát triển được tóm lược như sau:
Thời gian Sự kiện
1973 - CBOE được thành lập.
- Ngày giao dịch đầu tiên (26/04/1973) có 911 hợp đồng mua bán được
ký kết.
1975 - Hệ thống báo giá tự động được giới thiệu.
- Trung tâm thanh toán các giao dịch quyền chọn được thành lập.
- Mô hình Black-Scholes được áp dụng trong việc định giá quyền chọn.
1977 - Bắt đầu giao dịch quyền chọn bán.
- SEC đình chỉ việc mở rộng các giao dịch quyền chọn trong thời gian cơ
24
quan này xem xét lại việc phát triển quá nhanh của TTCK phái sinh.
1980 - CBOE củng cố lại công việc kinh doanh quyền chọn.
1981 - CBOE xây dựng trụ sở mới với tổng diện tích 350.000 m2 thay cho
quy mô trước đây là 45.000 m2.
1983 - CBOE tiến hành thực hiện cuộc cách mạng trong ngành giao dịch
quyền chọn bằng loại hình giao dịch chỉ số chứng khoán.
- CBOE đưa vào giao dịch quyền chọn chỉ số S&P 100 và giao dịch
quyền chọn chỉ số S&P 5.
1984 - Khối lượng giao dịch thường niên qua sàn lần đầu tiên đạt đến con số
100 triệu hợp đồng.
- CBOE khai trương hệ thống tự động thực hiện việc bán lẻ (Retail

Automatic Execution System (RAES)).
1985 - CBOE thành lập Viện nghiên cứu về Quyền chọn.
- Đưa vào giao dịch chỉ số NASDAQ.
- Quyền chọn được niêm yết trên NYSE.
1987 - TTCK rơi vào khủng hoảng kéo theo sự sụp đổ của TTCK phái sinh.
1989 - CBOE bắt đầu chuyển hướng phát triển loại hình giao dịch quyền chọn
lãi suất.
1992 - Hội đồng công nghệ quyền chọn (Options Industry Council) được
thành lập với nhiệm vụ mở rộng việc đào tạo cho những NĐT.
1993 - CBOE giới thiệu quyền chọn FLEX® - tạo ra những điều khoản cơ
bản trong hợp đồng quyền chọn.
- CBOE khai trương chỉ số VIX® - một chỉ số đo lường tính không ổn
định của thị trường
1997 - Đưa vào giao dịch chỉ số công nghiệp Down Jones.
- CBOE mua lại bộ phận kinh doanh quyền chọn của NYSE.
1998 - CBOE và ngành công nghiệp quyền chọn kỷ niệm 15 năm ngày thành
lập.
- Khối lượng hợp đồng quyền chọn thường niên qua CBOE vượt
ngưỡng 200 triệu hợp đồng.
2000 - SEC chấp thuận kế hoạch liên kết thị trường quyền chọn Mỹ của
CBOE.
- Số lượng các hợp đồng giao dịch lần đầu tiên vượt ngưỡng 1 triệu
25

×