Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tài liệu BÁO CÁO THAM LUẬN pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.24 KB, 19 trang )

BÁO CÁO THAM LUẬN
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
BÁO CÁO THAM LUẬN
THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG SỐ 166/BC-
ĐHKT&QTKD CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ
KINH DOANH
“Về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 – 2012”
Chi đoàn : K4 - QLKT
NỘI DUNG BÁO CÁO
Báo cáo gồm 3 phần:
I. Vì sao phải nâng cao chất lượng đào tạo?
II. Vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo?
III. Sinh viên cần làm gì để tạo ra chất lượng đào tạo cao hơn?
PHẦN THỨ NHẤT
Vì sao phải nâng cao chất lượng đào tạo?
Trước hết chúng ta phải trả lời câu hỏi: mục tiêu của giáo dục đào tạo
là gì? Chính là cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Đồng thời chúng ta cũng phải trả lời hàng loạt các câu hỏi như: chúng
ta làm như thế nào để khuyến khích các tài năng trẻ, sử dụng nguồn nhân lực
chất lượng cao sau khi được đào tạo như thế nào, ngành giáo dục phải làm
gì để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho chính ngành giáo dục?
Xin đưa ra một số vấn đề cụ thể:
1. Chúng ta tự hỏi có bao nhiêu học sinh giỏi ở cấp phổ thông thi tuyển vào
các trường thuộc khối giáo dục (tức là chọn nghề giáo viên)? Con số này
không nhiều nếu như không muốn nói là quá ít. Có bao nhiêu lãnh đạo cấp
cao của ngành giáo dục đi lên từ giáo viên?
2. Việc học sinh ngồi nhầm lớp thì trách nhiệm thuộc về ai? giáo viên, Ban
giám hiệu, cán bộ quản lý giáo dục, Phòng giáo dục huyện, Sở giáo dục hay
là tại cơ chế?


3. Rất nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp Đại học (từ loại khá trở lên) không
vào làm việc cho các cơ quan công quyền, đơn vị của Nhà nước. Vì sao?
Có ba nguyên nhân: thứ nhất, xin được việc vào một cơ quan, đơn vị của
Nhà nước không phải là vấn đề đơn giản (mặc dù anh có trình độ), trong khi
đó con của các vị đầu ngành chắc chắn có một việc làm không biết chất
lượng học tập thế nào.Thứ hai, nếu xin được việc vào một cơ quan, đơn vị
của Nhà nước thì trong vài năm đầu chỉ có pha trà, lau chùi bàn ghế, ,
thậm chí tôi có một anh bạn tốt nghiệp Đại học chính quy loại khá được ký
hợp đồng làm bảo vệ trong một đơn vị kinh tế của Nhà nước. Thứ ba, lương
công chức Nhà nước thấp quá, không đủ cho họ chi tiêu cho cuộc sống gia
đình.
4. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan, đơn vị của
Nhà nước còn nhiều vấn đề cần phải bàn?
Vì vậy, nâng cao chất lượng giáo dục không phải việc riêng của ngành giáo
dục mà là trách nhiệm của tất cả các ngành (các ngành không sử dụng nhân
lực chất lượng kém thì đương nhiên muốn có việc làm người ta phải học).
Còn rất nhiều việc phải làm và cần phải làm triệt để.
Các vấn đề của nền giáo dục Đại học Việt nam.
Đại học
1. Không kích thích được khả năng tự học và sáng tạo của sinh viên, dẫn đến
sinh viên luôn bị động, không nhanh nhẹn và thiếu tự tin. Đây là những yếu
tố cản trở công việc sau này của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
2. Học quá nhiều môn học không cần thiết làm lãng phí rất nhiều thời gian
và tiền bạc của nhà nước và của xã hội. Nếu dành thời gian và số tiền đào
tạo đó để tập trung vào rèn luyện và nâng cao chuyên môn của sinh viên thì
thực sư có ích hơn.
Sau Đại học
Giáo dục Việt nam còn quá nặng tư tưởng về băng cấp. Việc tăng
lương, cất nhắc vào vị trí cao hơn hay được hưởng những quyền lợi ưu đãi
khác còn hoàn toàn phụ thuộc vào bằng cấp. Điều này dẫn đến giảng viên thi

nhau đi học kiếm bằng thạc sỹ và rất đáng buồn khi hầu như mọi người đều
có tư tưởng học lấy cái bằng để sau này có nhiều thuận lợi hơn trong công
việc mà không chăm lo đến việc tập trung trau dồi và nâng cao kiến thức.
Tuy nhiên chẳng có gì buồn hơn là chất lượng đào tạo thạc sỹ hay tiến sỹ ở
Việt Nam còn quá kém. Học xong người học hầu như chẳng lĩnh hội được gì
mà chỉ được cái tốn tiền. Một lần nữa lại tốn bao nhiêu tiền của và thời gian
của cá nhân và nhà nước. Lấy ví dụ về việc học cao học ngôn ngữ tiếng Anh
ở trường Đại Học ngoại ngữ-Đại Học Quốc Gia Hà nội. Ở Đại Học đã được
học môn triết học mặc dù chẳng để làm gì và chẳng giải quyết được điều gì,
thế rồi khi học cao học lại tiếp tục học triết học và rất mất thời gian cho việc
làm tiểu luận hàng mấy chục trang. Học cái đấy để làm gì, để giúp nâng cao
chuyên môn chăng? Và khi học lên tiến sỹ liệu có phải học môn triết vô ích
này nữa không? Tai sao không để thời gian ấy mà làm công tác nghiên cứu
phục vụ cho chuyên môn của mình?
Quay lại với đề tài bằng cấp, các trường đại học nên thay đổi lại cách
nhìn nhận. Nên khen thưởng, tăng lương hay đề bạt chức vụ dựa vào năng
lực, công trình nghiên cứu khoa học và những đóng góp về mặt chuyên môn
của giảng viên hơn là dựa vào những tấm bằng không thực chất.
Vấn đề giáo dục đại học hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu
kém: chất lượng đào tạo nhìn chung còn thấp, chưa theo kịp đòi hỏi phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước; cơ chế quản lý của Nhà nước đối với hệ
thống giáo dục đại học và sự quản lý của các trường đại học, cao đẳng còn
nhiều bất hợp lý kéo dài, chưa tạo ra động lực đủ mạnh để phát huy năng lực
sáng tạo và sự tự chịu trách nhiệm của đội ngũ giảng viên, các nhà quản lý
và sinh viên để đổi mới mạnh mẽ, căn bản giáo dục đại học. Tiềm năng đầu
tư của xã hội và các nhà đầu tư nước ngoài để phát triển giáo dục đại học
chưa được phát huy có hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân của tình hình trên,
nhưng nguyên nhân căn bản chính là sự yếu kém trong quản lý Nhà nước về
giáo dục đại học và sự yếu kém trong quản lý của bản thân các trường đại
học, cao đẳng. Do vậy, cần xác định đây là khâu đột phá để đổi mới toàn

diện và bền vững. Hiệu quả của công tác đổi mới quản lý giáo dục đại học sẽ
được xã hội đánh giá thông qua chất lượng đào tạo sinh viên đáp ứng được
nhu cầu của doanh nghiệp.
Bằng chứng rõ nhất của việc không tuân thủ các quy luật quản lý hệ
thống là chưa có quy chế phối hợp trong quản lý các trường đại học, cao
đẳng, giữa Bộ Giáo dục và các bộ, ngành khác, trong khi số trường đại học,
cao đẳng trực thuộc các bộ, ngành khác chiếm tới 1/2 tổng số trường, dẫn
đến tình trạng không có khả năng đánh giá chất lượng giáo dục đại học của
toàn bộ hệ thống.
Mặc dù hơn 90% sinh viên tốt nghiệp các trường Đại Học, Cao Đẳng
có việc làm, nhưng sự phù hợp của năng lực các kỹ sư, cử nhân mới ra
trường với đòi hỏi ngày càng tăng của công việc trong thực tế còn hạn chế.
Nguyên nhân trực tiếp của tình trạng này là chất lượng các yếu tố đầu vào
của giáo dục đại học chậm được cải thiện và phương pháp quản lý chất
lượng lạc hậu.
Từ năm 1987 đến 2009, quy mô sinh viên Đại Học, Cao Đẳng tăng 13
lần, nhưng số giảng viên chỉ tăng 3 lần. Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ
sau 23 năm vẫn không đổi chỉ đạt 11%. Chi phí đào tạo một sinh viên một
năm ở nước ta từ 6 triệu đến 10 triệu đồng, tương đương 300 đến 500 USD,
trong khi ở các nước tiên tiến từ 10.000 đến 15.000 USD, gấp ta 30 lần. Tức
là chi phí để họ đào tạo ra một kỹ sư, cử nhân thì ở ta phải đào tạo ra 30 kỹ
sư, cử nhân.
Phương pháp quản lý chất lượng của chúng ta còn rất bất cập, lạc hậu.
Từ năm 1975 đến nay, chúng ta không yêu cầu các trường Đại Học, Cao
Đẳng phải xây dựng và công bố chuẩn năng lực người tốt nghiệp - chuẩn
đầu ra như: sinh viên ra trường phải có tri thức gì, kỹ năng gì, có năng lực
đạo đức và hành vi thế nào, có thể giải quyết được những việc gì và làm việc
ở những vị trí nào, có triển vọng phát triển nghề nghiệp ra sao. Không có cơ
chế giám sát chất lượng đào tạo và không có chế tài các cơ sở đào tạo chất
lượng kém.

Hiện do chưa phân cấp quản lý giáo dục đại học cho chính quyền địa
phương nên với tổng số 375 trường đại học, cao đẳng trong cả nước, Bộ
Giáo dục Đào tạo cần hơn 2 năm mới đi kiểm tra hết 1 lượt.Việc đánh giá
kết quả lãnh đạo và quản lý của đội ngũ hiệu trưởng đại học, cao đẳng cũng
chưa được thực hiện. Đây là một thiếu sót về quản lý cần sửa trong thời gian
tới để thúc đẩy toàn hệ thống phát triển.Hiện nay chưa có chế tài hoặc cơ chế
phân biệt đối xử giữa một giảng viên có tham gia nghiên cứu khoa học với
một giảng viên không nghiên cứu khoa học. Trong khi chỉ có bằng việc tham
gia nghiên cứu khoa học, người giảng viên mới có năng lực truyền đạt cho
sinh viên các tri thức, công nghệ mới và trao cho thế hệ trẻ kinh nghiệm về
quá trình nghiên cứu khoa học và sáng tạo tri thức mới.
Vì vậy, đào tạo không đạt chất lượng, không đáp ứng nhu cầu xã hội,
nhu cầu của các ngành kinh tế, quản lý nhà nước… là lãng phí nguồn lực của
xã hội và của chính người học, với các biểu hiện cụ thể sau đây:
Đào tạo không đạt chất lượng là lãng phí, kém hiệu quả đối với đơn vị
sử dụng lao động,. Do ngành giáo dục không đào tạo được một lực lượng lao
động thỏa mãn yêu cầu của thị trường nên hiện nay, nhiều công ty đặc biệt là
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, buộc phải tự đào tạo lấy người lao
động của mình. Lý do đơn giản là chất lượng đội ngũ lao động Việt Nam,
bao gồm cả đội ngũ kỹ sư và công nhân kỹ thuật, chưa đáp ứng được những
đòi hỏi về tiêu chuẩn văn hóa, chuyên môn - nghiệp vụ của thị trường.
Chúng ta trang bị cho người lao động những kiến thức mà hệ thống chính trị
cần nhưng tiếc thay, những kiến thức này không phù hợp, hay nói đúng hơn,
lạc hậu so với thời đại. Điều này giải thích tại sao người lao động Việt Nam
thường bị đánh giá thấp hơn, và do đó, bị trả lương thấp hơn trên thị trường
lao động so với lao động nước ngoài có cùng trình độ chuyên môn và cùng
thời gian đào tạo.
Ngoài ra còn lãng phí, kém hiệu quả đối với người học (năng lực làm
việc kém, hiệu quả thấp, không học lại được); đào tạo không đạt chất lượng là
lãng phí, kém hiệu quả đối với nhà trường, vì đào tạo chất lượng kém sẽ mất

dần sinh viên, mất tín nhiệm, mất dần thương hiệu.
Vấn đề tiêu cực trong đào tạo (trong thi cử, làm khoá luận, đồ án tốt
nghiệp, không khách quan trong đánh giá kết quả học tập,…) là tự huỷ hoại
tương lai của sinh viên, như:
- Sinh viên lười học, không có ý chí phấn đấu nên tìm cách “chạy” để có
điểm đậu
- Giảng viên “tạo điều kiện”, “gợi ý” cho sinh viên tiêu cực: chạy đề thi,
chạy điểm thi
- Công tác quản lý, giám sát của Nhà trường chưa chặt chẽ, còn sơ hở
- Các quy chế, quy định quản lý đào tạo không chặt chẽ
- Chương trình đào tạo, kiến thức giáo viên truyền đạt, cách truyền đạt kiến
thức của giáo viên khó tiếp thu dẫn đến sinh viên không thể tiếp thu được
kiến thức nên phải tiêu cực mới đạt kết quả mong muốn.
Tác hại của việc tiêu cực trong thi cử là sinh viên không có kiến thức thực
tế, không đáp ứng nhu cầu của xã hội, không tìm được việc làm. Huỷ hoại
tương lai của chính bản thân, gia đình và xã hội.
Vì vậy phải nói không với tiêu cực trong đào tạo.
PHẦN THỨ HAI
Vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc nâng cao chất lượng đào
tạo?
Giáo dục đại học đã có sự đóng góp quan trọng cho sự phát triển đất
nước trong 23 năm đổi mới, bảo đảm cơ bản nhân lực trình độ cao cho quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, giáo dục đại học
đang đứng trước đòi hỏi cấp bách của cuộc sống, không thể tiếp tục phát
triển quy mô đào tạo mà lại buông lỏng quản lý chất lượng như thời gian
qua. Bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo là vì lợi ích quốc gia, lợi ích
của người học, lợi ích của các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động và vì
lợi ích của các trường Đại Học, Cao Đẳng. Mỗi người sinh viên đều có vai
trò và trách nhiệm trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của nước nhà.
Nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu và khả năng đóng góp ý

kiến vào nâng cao chất lượng đào tạo. Lâu nay, chúng ta vẫn thường phàn
nàn về việc “quá tải” trong nội dung chương trình học, kêu ca nhiều về nạn
“dạy thêm – học thêm tràn lan”. Kiến thức của con người tăng lên không
ngừng mà thời gian của mỗi con người thì có hạn, cứ cái đà này thì mỗi
người có lẽ phải dành cả 24 tiếng một ngày để đi học. Do đó, có lẽ khi nào
nhà trường và xã hội ý thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc tự học, tự
nghiên cứu thì lúc đó cái “nạn” trên mới chấm dứt. Trong quá trình nâng cao
chất lượng của việc tự học, tự nghiên cứu chúng ta không những đổi mới về
nội dung, về phương pháp mà còn phải đổi mới về nhận thức người học.
Người học phải biết mình cần học gi và học như thế nào để hiệu quả? Đó là
vấn đề cần quan tâm hiện nay.
Nâng cao kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
ngoại ngữ.
Tập trung tinh thần: Sự tập trung tinh thần sẽ giúp nắm lại kiến thức
một cách nhanh chóng, tạo ra hứng thú khi học vừa nhớ lâu vừa dễ nảy sinh
những ý tưởng sáng tạo mới
Trên lớp: Chú ý lắng nghe suy nghĩ đặt câu hỏi liên hệ, so sánh sự liên
quan giữa các kiến thức đã học, tích cực tham gia thảo luận.
Thảo luận: Nên tổ chức thành từng nhóm thảo luận theo từng chủ đề,
trong các nhóm có sự phân công nhiệm vụ tìm tài liệu và lập đề cương cho
từng thành viên. Cần chủ động tìm kiếm tài liệu, ghi chú những vấn dề trọng
tâm, liên hệ so sánh những kiến thức liên quan để phát hiện ra những vấn đề
mới.
Khi giảng bài bao giờ thầy cô cũng có hướng đẫn về những tài liệu
tham khảo cần thiết, sinh viên nên tìm đọc. Khi đọc sách hãy đọc từ phần
giới thiệu, và mục lục để nắm được ý chính của tác giả. Khi đọc sách cần tập
trung và ghi chép lại những nội dung cần thiết một cách khoa học. Nên đưa
ra những ý kiến cá nhân để trao đổi cùng thầy cô và bạn bè. Ngoài ra sinh
viên có thế tìm kiếm từ những nguồn tài liệu khác như:báochí, thư viện,
internet

Nên chú ý tìm kiếm và cập nhật thông tin về những khoá đào tạo
ngoài giờ học chính. Những khoá học ngắn hạn của các tổ chức và doanh
nghiệp danh tiếng, có cấp chứng chỉ, sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều.
Vai trò và trách nhiệm của giảng viên trong vấn đề tự chủ - tự chịu
trách nhiệm ở các trường Đại Học,Cao Đăng Việt Nam.
Hiện nay, ngay cả với các nước phát triển với nền giáo dục tiên tiến
cũng đang có những biến đổi to lớn trước sức ép của xu hướng toàn cầu hóa.
Phong trào sinh viên du học đại học xuất khẩu giáo dục ĐH đang trở thành
một trào lưu khá phổ biến, đặc biệt là ở Châu Âu. Sinh viên đã được coi là
một dạng "khách hàng" đặc biệt và giáo dục ĐH được coi là một "thị trường
giáo dục ĐH". Điều này đã tác động mạnh đến nền giáo dục của các nước
đang phát triển, chưa có sức cạnh tranh mà tiềm lực dồi dào như Việt Nam
ta. Những năm trở lại đây phong trào du học ở các nước Anh, Mỹ, Úc, Nhật
Bản, Singgapo đã lôi kéo một lượng đáng kể sinh viên Việt Nam. Không
chỉ dừng lại ở các quỹ học bổng của chính phủ và các tổ chức giáo dục mà
phụ huynh ở Việt Nam đã đủ sức cho con em mình đi du học tự túc. Mặt
khác, còn xuất hiện nhiều các tổ chức giáo dục ở các nước phát triển tham
gia vào họat động tại "thị trường giáo dục ĐH" ở Việt Nam. Điều này đã là
một minh chứng cho học thuyết "thế giới phẳng" của Thomas L. Friedman
trong giáo dục ĐH thời đại kinh tế tri thức. Vấn đề đặt ra cho ngành giáo dục
Việt Nam hiện nay là phải nhìn thẳng vào sự thật để kiểm định chất lượng
giáo dục ĐH. Qua đó sớm xác định vị thế và nhanh chóng đề ra giải pháp
khắc phục những tồn tại. Nếu chúng ta không tiến hành ngay thì chúng ta rất
có thể "thua ngay trên sân nhà" một khi giáo dục ĐH đã trở thành một thị
trường theo hướng mở.
Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ chế cơ
bản và toàn diện giáo dục ĐH Việt Nam, giai đoạn 2006 - 2020. Bộ GD -
ĐT và Bộ Nội vụ vừa ban hành thông tư 07/2009/TTLT - BGDĐT-BNV, ký
ngày 15-04-2009, hướng dẫn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tổ chức bộ
máy, biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành GD - ĐT.

Phạm vi điều chỉnh là các đơn vị công lập thuộc ngành có tư cách pháp
nhân, có con dấu và có tài khoản riêng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định thành lập; đối tượng áp dụng gồm các cơ sở giáo dục mầm non,
phổ thông, thường xuyên, chuyên nghiệp, cao đẳng, ĐH và các cơ quan
nghiên cứu, báo, tạp chí thuộc ngành GD - ĐT.
Đây được coi là văn bản có tính toàn diện, triệt để và sâu sắc nhất từ
trước đến nay về đổi mới giáo dục ĐH ở Việt Nam. Theo tinh thần Nghị quyết
này, vấn đề "quyền tự chủ và chịu trách nhiệm của các trường ĐH" được xem
như một khâu trọng yếu về việc đổi mới giáo dục ĐH ở Việt Nam. Nhưng trên
thực tế, thời gian qua vấn đề trao "quyền tự chủ gắn với trách nhiệm xã hội ở
các trường ĐH" còn là một bài toán khó. Thông qua các diễn đàn cho thấy từ
việc nhận thức vấn đề tự chủ ĐH đến việc đưa ra một lộ trình hướng tới tự chủ
ở ĐH, vấn đề quản lý chất lượng đào tạo như thế nào khi tự chủ ĐH còn
nhiều ý kiến chưa thực sự thống nhất.
1. Giảng viên có vai trò định hướng cho sinh viên tính tự chủ gắn
với trách nhiệm xã hội trong quá trình đào tạo
Trong hệ thống giáo dục, nếu coi giáo dục phổ thông là nền tảng thì
giáo dục ĐH là yếu tố quyết định nguồn nhân lực. Đứng trước sự phát triển
của nền kinh tế tri thức, mối quan hệ giữa chất lượng nguồn lực và thị trường
lao động ngày càng trở lên mạnh mẽ. Các trường ĐH buộc phải gắn kết chặt
chẽ với nhu cầu và những biến đổi của thị trường lao động để từ đó đào tạo ra
nguồn nhân lực đáp ứng đủ yêu cầu cho xã hội. Đây là mục tiêu, đồng thời là
trách nhiệm của các trường ĐH đối với xã hội. Song đối với các trường ĐH
chất lượng của nguồn lực luôn là khát vọng chinh phục trong quá trình cạnh
tranh lẫn nhau. Hầu hết các hoạt động của nhà trường như đề ra quy chế hoạt
động, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động của các tổ
chức đoàn thể đều để nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo. Trục chính
của các trường ĐH là đào tạo ra nguồn lực có chất lượng và đáp ứng được yêu
cầu phù hợp cả về số lượng và chất lượng của xã hội, đào tạo ra những con
người tự chủ với phẩm chất, năng lực chuyên môn và được trang bị các kĩ

năng ứng xử với môi trường sống xung quanh.
Thế kỷ chúng ta đang sống là thế kỷ bùng nổ thông tin, cơ hội thành
công cho những ai nắm bắt và xử lý được thông tin chính xác. Theo một nhà
giáo dục học người Bỉ tính toán, "lượng thông tin trong vòng 18 tháng sẽ bằng
gấp hai lần lượng trước đó cộng lại". Chính vì điều này đã làm thay đổi hẳn
một trong những chức năng của hoạt động đào tạo. Giảng viên không chỉ là
người cung cấp tri thức mà còn phải là người hướng dẫn sinh viên đến với tri
thức, khoa học bằng đường đi ngắn nhất, tốt nhất và luôn luôn phải có sự sáng
tạo.Tư duy sáng tạo được coi là một trong những yếu tố quyết định đi đến
khẳng định tự chủ. Có tri thức mà thiếu sáng tạo thì chỉ có thể học làm theo
những cái có sẵn, và cho dù là bất cứ một lĩnh vực nào như khoa học, kinh
doanh, hay văn hóa nghệ thuật , không có sáng tạo đều đi đến một con
đường là tri thức chết. Theo quan điểm của nhà triết học và giáo dục Hoa Kỳ
John Dewey, ông cho rằng "Học sinh đến trường không phải là để tiếp thu
những tri thức đã được ghi vào trong một chương trình rồi mà có lẽ không bao
giờ dùng đến, nhưng chính là để giải quyết vấn đề, giải quyết các "bài toán"
của nó, những thực tế mà nó gặp hằng ngày. Về phía người thầy, ông ta hành
động như một người bạn có kinh nghiệm, khuyên nhủ, hướng dẫn cho trẻ biết
những gì mà thầy biết về vấn đề được đặt ra".
Như vậy, nền giáo dục thế giới đã hình thành một cơ sở để thiết lập
phương pháp dạy học mới mà ta gọi đó là phương pháp nêu vấn đề và giải
quyết vấn đề thay cho phương pháp truyền đạt và tiếp thu một cách thụ động
các bài giảng có sẵn trong giáo trình. Nhưng trên thực tế, không phải bất cứ
những vấn đề thầy đặt ra lại phù hợp với những tình huống xảy ra trong
chuyên môn mà sinh viên sẽ gặp phải, và điều này có lẽ chính bản thân
người thầy cũng đã gặp phải. Vì thế, buộc sinh viên phải tư duy để phát hiện
ra những vấn đề, cho dù chỉ mang tính giả thiết. Qua đó, sinh viên được rèn
luyện tư duy độc lập, tập nghiên cứu, sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn
đề hơn là học thuộc bài và làm bài đầy đủ. Giờ học không chỉ đơn thuần là
những giờ giảng giải cung cấp kiến thức thay vào đó là những giờ thảo luận,

đối thoại, phát hiện vấn đề theo nhiều chiều và xử lý vấn đề theo các hướng
khác nhau.
Trên cơ sở tôn trọng tính tự chủ, sinh viên cần chủ động nghiên cứu,
phân tích, suy luận, tìm tòi, nghi ngờ và đặt lại vấn đề, tranh luận, thậm chí
là phê phán, phản đối qua đó rèn luyện tư cách độc lập, dám nghĩ, dám
hành động để dần trở thành một người làm chủ trí thức thực sự. Hoạt động
học của sinh viên vì thế không đóng kín trong môi trường nhà trường mà
được mở rộng ra trên toàn không gian sống. Nội dung học không chỉ bao
hàm những kiến thức về chính trị tư tưởng và khối kiến thức chuyên ngành
mà còn bao hàm cả kiến thức về kỹ năng sống.
Trong các môi trường ĐH, sinh viên được coi như một đối tượng
trưởng thành cả về trí và lực. Đứng trước các vấn đề trong hoạt động dạy và
học sinh viên được quyền phát huy tinh thần tự chủ của mình. Thông qua
quá trình rèn luyện tự chủ sinh viên mới có thể khẳng định khả năng độc lập,
khát vọng tìm kiếm và năng lực sáng tạo mới có điều kiện nảy nở.
Nền giáo dục của chúng ta chịu ảnh hưởng nhiều của quán tính dạy
học theo kiểu hàn lâm. Vai trò của người thầy dù ở cấp bậc nào cũng luôn
luôn đứng ở vị trí tối cao. Thầy luôn là một khuôn mẫu mà trò không thể
được phép phản biện cho dù đôi khi các giá trị mang tính thời đại đã làm cho
những chân lý thế hệ có ít nhiều thay đổi. Hay cũng có khi, với tốc độ của
phát triển thông tin mà những luồng thông tin và những phát hiện mới thầy
chưa có điều kiện tiếp xúc và xử lý thì đây cũng là một hạn chế còn tồn tại
rất lớn trong khoảng cách mà nền giáo dục nhất nhất "Tôn sư trọng đạo" của
chúng ta đang mắc phải.
Vì thế, bên cạnh việc trang bị và định hướng cho sinh viên tính tự chủ
trong việc tiếp thu những kiến thức khoa học về ngành, nghề theo học. Đồng
thời là những hiểu biết cần thiết để giải quyết các vấn đề xã hội theo khả năng
của mình hay nói cách khác là những kĩ năng sống. Trong đó, người thầy
cũng phải cần điều chỉnh thái độ mang tính "dân chủ là tôn trọng người học"
với sinh viên trong quá trình trao đổi, đối thoại. Một thực tế cho thấy, việc lấy

ý kiến của sinh viên không những giúp cho giảng viên nhận thức được những
mặt còn tồn tại trong phương pháp giảng dạy mà còn giúp cho giảng viên
củng cố, hoàn thiện mình trong sự đối chiếu với nhận thức của sinh viên. Đây
cũng chính là mục đích hướng tới quá trình đào tạo và tự đào tạo mà bản thân
người giảng viên và sinh viên đều phải nhận thức được nhu cầu xã hội là luôn
phát triển. Nếu, xã hội đặt ra những yêu cầu mà bản thân mỗi cá nhân không
đáp ứng được thì đồng thời đó là quá trình tự đào thải mình trong vòng xoáy
chọn lọc của xã hội.
Như vậy, trong trục đào tạo bậc ĐH giảng viên và sinh viên là hai đối
tượng trực tiếp tham gia vào kiến thiết nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
phát triển xã hội. Để đáp ứng được yêu cầu xã hội đòi hỏi cả hai đối tượng
phải nhận thức được sự tương tác trong quá trình hình thành những giá trị tự
chủ mà ở đây vai trò của giảng viên mang tính quyết định.
2. Những điều kiện cần thiết để giảng viên phát huy tính tự chủ và
chịu trách nhiệm xã hội trong đào tạo đại học.
"Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh
và hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp kém. Vì thế, các bậc
thánh minh chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sĩ, bồi dưỡng nhân tài vun
trồng nguyên khí là công việc cần kíp. Bởi vì, kẻ sĩ có quan hệ trọng đại với
quốc gia như thế cho nên được quí chuộng không biết nhường nào." (Văn bia
văn miếu Quốc tử giám Hà Nội - 1442)
Không phải đến bây giờ chúng ta mới chú ý đến vấn đề giáo dục ĐH
mà cách đây hơn 600 năm từ thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), đã xem
việc tạo ra những nhân tài phục vụ cho sự nghiệp ổn định và phát triển quốc
gia đã được đặt ra và quan tâm sâu sắc. Nhưng hiện nay, chúng ta đã quan
tâm đúng mức tới chất lượng đào tạo ĐH hay chưa? Chúng ta đã xác định
được nhân tố cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo ĐH hay chưa?
Chúng ta đều biết rằng muốn nâng cao chất lượng đào tạo ĐH thì việc
làm đầu tiên là phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ giảng dạy. Và
muốn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy điều cần thiết là phải

đảm bảo được những điều kiện sống và điều kiện làm việc ở mức độ nhất
định để họ yên tâm và tập trung tốt nhất vào đảm trách sứ mệnh của mình.
Nếu ở Mỹ, giảng viên ĐH được coi là một trong mười vị trí đầu bảng của
phân công lao động xã hội và đứng ở vị trí thứ ba. Thì ở Việt Nam, giảng viên
trẻ xuất thân từ trong những sinh viên đạt kết quả cao trong học tập và rèn
luyện đồng thời phải gánh một trách nhiệm xã hội là học hỏi các bậc tiền bối
là những "cây đa cây đề" để từng bước chuyển giao trách nhiệm đào tạo các
thế hệ. Tuy nhiên, mức lương thu nhập thì không thể đảm bảo. Nếu đem ra so
sánh thì lương giảng viên cũng chỉ bằng lương nhân viên ngồi trực điện thoại
hay nhân viên trình độ phổ thông của doanh nghiệp. Chính vì thế, để đảm bảo
nhu cầu cuộc sống ở các trung tâm thành phố buộc giảng viên phải làm thêm
hay thậm chí phải "chạy sô như ca sĩ" mới có thể đảm bảo được thu nhập và
chi phí cho cuộc sống. Như vậy, làm sao còn thời gian để giảng viên đầu tư
vào nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên ngành cũng như tri thức
ngoại ngữ Điều này đã làm cho các trường ĐH mất đi tính hấp dẫn đối với
"Hiền Tài", và mất một lượng chất xám lớn trong quá trình đào tạo là không
giữ lại được những sinh viên xuất sắc để phục vụ nhu cầu phát triển đào tạo.
Nguyên nhân của tình trạng này bắt nguồn từ đâu? Phải chăng các
trường ĐH ở nước ta thiếu hẳn một khả năng tự chủ trong quá trình định
lượng giữa chất lượng lao động của giảng viên với quyền lợi tương xứng?
Chúng ta đã có những diễn đàn sôi nổi về chính sách nhà giáo nhưng
liệu đến khi nào chúng ta mới có một hệ thống đánh giá chất lượng của giảng
viên để thông qua đó định lượng bậc thang giá trị quyền lợi mà người giảng
viên được hưởng trong quá trình lao động. Hay nói đúng hơn là đội ngũ giảng
viên ở hầu hết các trường ĐH công lập đều rất cần thiết một quy trình đánh
giá để đo lường giữa giá trị lao động. Đây không chỉ là một động lực mà nó
còn là một vấn đề tự chủ hay chính là tự chịu trách nhiệm của mỗi giảng viên
trong vai trò quyết định đến chất lượng đào tạo ở bậc ĐH.
Một vấn đề nữa là hiện nay, hầu hết các trường ĐH công lập đều đào
tạo theo những chương trình khung mang tính truyền thống có thể đã lưu

hành trên dưới mười năm. Lượng tri thức cũng như hệ thống kỹ năng ngành
nghề cho đến thời điểm hiện tại không còn phù hợp và không đáp ứng được
nhu cầu xã hội. Hiện tượng phải đào tạo lại của nhiều doanh nghiệp khi sử
dụng lao động đã cho thấy điều đó. Tuy nhiên, giảng viên là đối tượng tác
động vào chất lượng đào tạo thì lại không có khả năng thay đối chương trình
(Đặc biệt là khối các trường ĐH sư phạm). Chính vì thế, những bất cập cứ
tồn tại như một quy luật "học một chuyện nhưng làm lại là một chuyên
khác". Bản thân giảng viên phải tuân thủ nội dung chương trình đào tạo và
đồng thời là những quy định trong quá trình đào tạo, ngay cả khâu đánh giá
chất lượng học tập của sinh viên. Điều này làm hạn chế rất lớn đến tính tự
chủ và khả năng sáng tạo của giảng viên trong quá trình trang bị tri thức
khoa học và hình thành những kĩ năng ngành nghề cho sinh viên. Cho nên,
một nhà giáo dục học Hoa Kỳ South Seattle khi nhận xét về giáo dục ĐH ở
Việt Nam cho rằng "Ở Việt Nam quản lý theo mô hình tam giác ngược. Có
thể hình dung thế này, cơ quan quản lý đứng ở vị trí cạnh đáy của tam giác,
còn các cơ sở phía dưới thu hẹp dần tới đỉnh nhọn. Chính phủ có ảnh hưởng
rất lớn đối với giáo viên và những gì được dạy trong lớp học"
PHẦN THỨ BA
Sinh viên cần làm gì để tạo ra chất lượng đào tạo cao hơn?
Theo chúng em, sinh viên cần chủ động hơn trong học tập. Nhưng trách
nhiệm nâng cao chất lượng giáo dục phần lớn nằm trong tay các nhà làm
chính sách.
Tất nhiên là chỉ sinh viên thì sẽ không thể tạo ra được chất lượng đào tạo
tốt hơn được mà việc mà sinh viên có thể làm đó là tác động tích cực vào
nền giáo dục bằng tinh thần của tuổi trẻ : học tập vì đất nước.
Học sinh sinh viên phải nhận thức rõ tác hại của việc không nâng cao
chất lượng đào tạo và tiêu cực trong đào tạo, thi cử, luận văn tốt nghiệp là
huỷ hoại tương lai của bản thân mình, gia đình và xã hội. Do vậy phải kiên
quyết nói không với tiêu cực trong thi cử, làm luận văn tốt nghiệp. Đồng
thời quyết tâm, phối hợp với Nhà trường, Khoa để triển khai thực hiện các

chương trình nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường.
Học sinh sinh viên cần chủ động, tích cực học tập và chủ động tiếp
xúc với các doanh nghiệp, các cơ quan sử dụng lao động theo đúng ngành
nghề đào tạo để chuẩn bị việc làm trước khi ra trường.
Sinh viên tham gia đánh giá các hoạt động giảng dạy của giảng viên,
các hoạt động đảm bảo nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường.
Để nâng cao chất lượng đào tạo đại học, trước hết giảng viên phải
hiểu rõ nhu cầu của sinh viên, qua đó giúp sinh viên được chủ động trong
mỗi bài học trên lớp. Đồng thời giảng viên hỗ trợ sinh viên rèn luyện các
kĩ năng mềm bằng cách đa dáng hóa hình thức giảng dạy.
Theo một nghiên cứu gần đây thì có đến 64% sinh viên chưa tìm được
phương pháp học tập phù hợp cho mình, và đến hơn 35% sinh viên biểu lộ
một phong cách học thụ động, chỉ ngồi nghe và ghi chép, chờ thầy “dọn cơm
sẵn”. Bên cạnh đó, hầu hết các trường ĐH ở Hà Nội cũng như TPHCM, hiện
nay sinh viên chỉ phải làm 2 bài kiểm tra viết để đánh giá năng lực, đó là bài
thi giữa kì chiếm 30% và cuối kì chiếm 60%. Điều này còn được xem là
chưa phù hợp và khó có thể đánh giá đúng trình độ của sinh viên và dễ dẫn
đến tiêu cực.
Để nâng cao chất lượng đào tạo đại học, trước hết giảng viên phải
hiểu rõ nhu cầu của sinh viên, qua đó giúp sinh viên được chủ động trong
mỗi bài học trên lớp. Hỗ trợ sinh viên rèn luyện các kĩ năng mềm bằng cách
đa dáng hóa hình thức giảng dạy, sử dụng phương pháp “lấy sinh viên làm
trung tâm”. Về kiểm tra đánh giá năng lực nên chẳng có thể đa dạng hóa các
bài kiểm tra bằng các bài tiểu luận hay nghiên cứu khoa học, qua đó thúc
đẩy khả năng tóm tắt, nghiên cứu và tổng hợp của sinh viên. Bên cạnh đó, có
thể tạo điều kiện cho sinh viên được đi tham quan, thực tế, được thực
hành…
Về phía người dạy, việc đầu tiên là phải đổi mới phương pháp giảng
dạy đại học. Những phương pháp như cho sinh viên thuyết trình, bài tập lớn,
thảo luận, tiểu luận được áp dụng rất phổ biến trong các trường Đại học ở

nước ngoài và nhìn chung được sinh viên rất chào đón. Tuy nhiên, phương
pháp giảng dạy mới này vẫn có những mặt hạn chế như không đánh giá một
cách chu đáo kết quả của sinh viên, rất dễ đến tình trạng chạy theo số lượng
mà không có chất lượng. Phương pháp giảng dạy đại học sẽ không phát huy
tác dụng nếu giảng viên trẻ không thường xuyên trau dồi, bồi dưỡng về mặt
chuyên môn.
Nói về vai trò của Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên trong việc góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo đại học, mô hình đào tạo tín chỉ được áp
dụng cách đây 2 năm đã cho thấy những ưu điểm trong đào tạo, giảng dạy.
Tuy nhiên lại là rào cản lớn trong việc quản lý và tập hợp đoàn viên của
Đoàn trường. Mô hình chi đoàn bị phá vỡ, sinh viên phân tán về các lớp học
riêng nên vấn đề sinh hoạt theo chi đoàn là rất khó khăn, dẫn đến khó khăn
trong quản lý đoàn viên.
Về vấn đề này, Đoàn trường nên đề xuất Đoàn cấp trên có những giải
pháp cho phù hợp với tình hình mới. Hiện Đoàn trường đã phần nào khắc
phục bằng các phong trào của mô hình Câu lạc bộ. Tuy nhiên, có một số ý
kiến cho rằng điều này lại đi chệch hướng so với định hướng hoạt động của
tổ chức Đoàn.
Cần có sự cố gắng, quyết tâm của các giảng viên trẻ, sinh viên trong
việc đổi mới giáo dục đại học. Cùng với nhà trường thì đoàn trường, liên chi
đoàn xây dựng chương trình hành động cho riêng mình; với cấp chi đoàn
cần xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình hành động và từng đoàn viên
cũng nên có kế hoạch xây dựng chương trình của mình để rèn luyện, phấn
đấu thành sinh viên toàn diện, ra trường có việc làm, đáp ứng yêu cầu của
doanh nghiệp, xã hội.
Với quan điểm, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
giảng dạy là nhiệm vụ cốt lõi, lâu dài trong việc đảm bảo và nâng cao chất
lượng đào tạo, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của cơ sở giáo
dục đại học trong xu thế cạnh tranh, là lương tâm, trách nhiệm của nhà
trường đối với xã hội, đối với đất nước.

Ví dụ: Đại học Thái Nguyên xây dựng những chính sách khuyến
khích, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ giảng viên có thể
tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ như: Ưu tiên 01 đề tài cấp Bộ
cho nghiên cứu sinh, thực hiện nâng lương sớm cho nghiên cứu sinh tốt
nghiệp tiến sĩ, thạc sĩ đúng thời hạn, thưởng thêm 01 bậc lương cho nghiên
cứu sinh đã hoàn thành luận án tiến sĩ trước thời gian quy định, bố trí nhà ở
cho các giảng viên trẻ, đưa việc thực hiện các chỉ tiêu đi học tiến sĩ, thạc sĩ,
tiếng Anh, tốt nghiệp tiến sĩ, thạc sĩ vào tiêu chuẩn đánh giá thi đua hàng
năm
Bên cạnh đó, các trường thành viên trong Đại học cũng đề ra nhiều
chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu sinh, như hỗ trợ một khoản tiền từ 20 – 50
triệu đồng/nghiên cứu sinh, thưởng hiện vật cho nghiên cứu sinh hoàn thành
luận án tiến sĩ trước thời gian quy định.
Thực tế cho thấy, trong quá trình tổ chức dạy học, giảng viên dạy thế
nào, tổ chức thi thế nào thì sinh viên học thế đó. Trong nhiều căn nguyên
gây ra tình trạng thụ động, trì trệ, thiếu phương pháp học tập của sinh viên
thì cách dạy, cách tổ chức dạy học, cách thi là nguyên nhân cơ bản nhất.
Việc thực hiện đổi mới phương pháp đánh giá kết quả học tập là một
trong những yếu tố quan trọng đảm bảo chất lượng đào tạo. Việc kiểm tra,
thi và đánh giá kết quả học tập của người học vừa phản ánh kiến thức người
học đồng thời có tác động trở lại đối với quá trình học tập. Nếu quá trình
kiểm tra, đánh giá không công bằng thì có tác dụng tiêu cực, vì vậy việc thực
hiện tốt khâu kiểm tra thi đánh giá kết quả học tập khách quan công bằng là
một trong các điều kiện tiên quyết nâng cao chất lượng đào tạo.
Đến nay mặc dù trên 90% sinh viên ra trường có việc làm đúng ngành
đào tạo nhưng chất lượng còn có nhiều vấn đề, nhiều kiến thức kỹ năng chưa
được cập nhật, trình độ ngoại ngữ nhìn chung còn yếu, trình độ tin học còn
hạn chế, các kỹ năng mềm còn yếu. Nếu không nâng cao chất lượng đào tạo,
nhà trường sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, của thực
tiễn cuộc sống.

Từ thực tế đó, để nâng cao chất lượng đào tạo, Lãnh đạo nhà trường,
lãnh đạo khoa, các bộ môn và giảng viên cần phải xác định đúng chiến lược
phát triển xây dựng nhà trường cho trúng, phù hợp với các điều kiện cho
phép; Xác định rõ chuẩn đầu ra cho từng chuyên ngành; Lãnh đạo trường,
khoa, bộ môn cần chú trọng triển khai công tác “ba công khai” trong đó
không ngừng cải thiện các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo. Ông cũng
nhấn mạnh vai trò của người học - sinh viên là rất quan trọng, ngoài những
cố gắng của thầy cô giáo, nhà trường thì sinh viên là trung tâm của quá trình
đào tạo có vai trò quyết định tới thành công của việc nâng cao chất lượng
giáo dục đại học.
Sau 23 năm đổi mới, giáo dục đại học đã có những đóng góp to lớn
cho sự nghiệp chung, điều này đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận. Thời gian
qua, Đảng và Nhà nước đã có những quan tâm lớn để phát triển giáo dục đại
học. Lần đầu tiên năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã tới dự Hội nghị Hiệu
trưởng các trường đại học, cao đẳng toàn quốc, Thủ tướng đã chỉ ra những
yếu kém cần tháo gỡ, đặc biệt là hạn chế về quản lý.
Thái Nguyên, ngày 19 tháng 04 năm 2010

×