Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tài liệu Nuôi cá docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 41 trang )

How to Grow Beautiful Aquarium Plants
Nguyên văn của bài viết này là: Làm thế nào để cây phát triển tốt trong bể thủy sinh (How to Grow Beautiful
Aquarium Plants). Thực chất vấn đề tác giả nói ở trong bài là việc giải quyết các vấn đề xung quanh lớp chất
nền. Trên 4r của chúng ta cũng đã có nhiều bài như vậy, trong đó có một số bài đặc biệt tập trung phản ánh
các đặc tính và thành phần Lý - Hóa của các nguyên tố vi lượng có trong lớp chất nền và trong thành phần của
nước bể thủy sinh.
Qua bài này, mặc dù về thuật ngữ có đôi chỗ hơi khó hiểu (chắc do trình độ bản thân còn hạn hẹp!) nhưng cũng
muốn được đưa lên để những người bạn mới của 4r có một cách nhìn nhận tổng quan, khoa học khi giải quyết
vấn đề tồn tại và phát triển của cây - cá trong bể thủy sinh.
Cây thuỷ sinh tiếp nhận đi-ô-xit cac-bon (CO2), ka-li (K), ma-nhê (Mg) và can-xi (Ca) chủ yếu từ nước. Chúng
cũng có thể nhận được ni-tơ (N), phôt-pho (P), lưu huỳnh (S) và một chút ít các loại khoáng chất khác (như sắt,
bo, man-gan, đồng, kẽm và mô-lyp-đen) từ trong nước, tuy vậy những loại khoáng chất này cũng có thể được
hấp thụ từ lớp đất nền thông qua rễ của chúng.
Việc giữ lại các nguồn phôt-pho và sắt ở trong lớp chất nền giúp hạn chế sự có mặt của những loại khoáng
chất này đối với rêu - tảo. Đây chính là điều bí mật của việc trồng được cây cảnh đẹp mà không gặp phải những
trở ngại nghiêm trọng về tảo. Trên thực tế, phần lớn các cây thuỷ sinh mọc tốt, tốt hơn rất nhiều khi chúng
nhận được các chất dinh dưỡng từ trong lớp chất nền.
Để làm cho sắt có sẵn được ở trong lớp chất nền, bạn nên sử dụng đất sét, đất hoặc sắt có chứa chất bổ sung
cho lớp chất nền (substrate additive) cùng với một khối lượng nhỏ các chất hữu cơ như than bùn. Chất hữu cơ
sẽ cung cấp các chất dinh dưỡng cho vi khuẩn kỵ khí để giảm bớt lượng sắt không hoà tan (ferric) xuống thành
sắt hoà tan (ferrous). Nó đồng thời cũng giải phóng các a-xít humic là những loại hoá chất kìm tự nhiên
(natural chelator chemicals) bao bọc quanh các ion hoá chất bắt buộc như sắt++ (Fe++) và làm cho chúng sẵn
có ở trong nước. Những loại a-xít humic này cũng giúp để làm vật đệm cho độ kiềm (pH) ở trong bể cá của bạn
đạt tới một mức độ vừa đúng. Phần bên dưới đó là những a-xít humic tiếp xúc với các bộ kiểm tra để đo nồng
độ CO2 và độ cứng của cac-bon-nat. Phương pháp này chỉ ra cho bạn thấy làm thế nào để đạt được một lượng
CO2 và độ cứng của cac-bon-nat vừa đủ mà không phải dựa vào các bộ kiểm tra kia.
Lớp chất nền
Dưới đây là một dạng lớp chất nền mà thực tế cho thấy có hiệu quả đối với hầu hết các loại hình cây thuỷ sinh.
- Lớp nền dưới đáy: Một lớp đất sét giàu sắt, sắt vi lượng hoá (micronized iron) hoặc tầng đất cái. Lớp nền
dưới đáy này có thể trộn được với cát. (Mới) Vào khoảng 2% lượng sắt vi lượng hoá (micronized iron) tính
trên khối lượng có thể là nhiều. Những loại phân bón sắt chứa sun-phát sắt như ironite đều là không phù hợp.


Đất sét làm gốm thì hơi khó trộn với một số loại chất khác trừ phi chúng ở dưới dạng bột do được đập vỡ
thành những mẩu nhỏ và ngâm vào trong nước khoảng một tuần và thường xuyên khuấy đều lên cho đến khi
tan loãng ra. Tôi thích tầng đất cái, bởi vì dễ làm và có thể cũng là rẻ. Tôi đôi khi cũng cho thêm một chút các
Nguyên tố Vi lượng Tan chảy (F-T-E: Fritted Trace Elements); (Mới) cho khoảng 10 viên phân bón nhỏ trên mỗi
diện tích bộ vuông (1 bộ = 0,3048M) của đáy bể (bể sâu 2 inch = 3,08 cm)
- Lớp ở giữa: Cứ 1 inch (1,54 cm) độ dày pha trộn của lớp đất vườn được trộn lẫn với 4 phần đến 1 phần than
bùn ngậm nước (sphagnum peat moss) tính theo trọng lượng. Vì đất bùn nặng hơn than bùn ngậm nước
khoảng 20 lần, nên tỷ lệ này là 1,25% tính theo khối lượng. Lớp ở giữa này chỉ nên dày 1 inch (1,54cm) và
không đặt thấp hơn!. Trộn một ít sắt vi lượng hoá (micronized iron) với lớp đất ở giữa này (đất vườn) nếu bạn
có thể đảm bảo rằng đất có đủ hàm lượng sắt. Sắt có mặt ở trong phần lớn các loại đất đặc biệt là nếu đất ở
trong vườn của bạn tốt cho việc trồng cây. Các bạn cũng có thể trộn đất với cát nếu đất đó được xem như giàu
dinh dưỡng quá.
- Lớp trên cùng: Dày khoảng 1 inch (1,54cm) và thường trải một lớp cát hoặc sỏi phù hợp với bể cá dày
khoảng 2 – 3 mm.
Đặt một tấm bảng rộng hoặc một miếng nhựa phẳng xuống đáy bể có cục đá chèn lên trên và từ từ đổ nước
vào trong bồn và để cho nước chảy ngập trên tấm bảng. Nếu bạn khuấy nước lên trong khi nước đang chảy
vào, bạn sẽ thấy nước bị vẩn đục. Nếu bạn làm như vậy, thì bạn sẽ phải dùng ống hút hết nước ra và cho nước
vào bồn lại cẩn thận hơn.
Bạn hãy trồng cây sau khi mực nước có độ sâu khoảng một vài inch. Trồng với mật độ dày. Hãy dùng những
cây mọc nhanh ban đầu. Tôi cho rằng sử dụng khoảng từ 2 đến 3 watt ánh sáng đèn huỳnh quang hoặc ánh
sáng hallogen kim loại (halide = 1 hợp chất gồm halogen và 1 nguyên tố khác) cho mỗi gallon thể tích của bể.
ánh sáng đúng và có nhiều cây là rất quan trọng cho sự thành công của một lớp chất nền.
Hãy thường xuyên thay đổi khoảng 25% lượng nước trong bể ngay từ khi dựng lớp chất nền từ ban đầu. Ngay
từ đầu, than bùn đã giải phóng ra nhiều a-xít humic và a-xít này sẽ làm cho nước có màu vàng. Việc lọc cac-bon
hoạt hoá cũng sẽ làm giảm bớt màu vàng của nước đi và giúp loại bỏ bớt lượng sắt thừa ra khỏi nước. ở mỗi
lần thay nước, hãy trộn vào một lượng phân bón theo đúng như khối lượng nước đã được bạn tháo ra và thay
mới. Sau đó khi nào lớp than bùn thải ra lượng a-xít humic ít đi thì bạn có thể giảm bớt tần suất số lần thay
nước xuống. Việc thay nước thường xuyên sau đó có thể giảm bớt xuống, tôi nghĩ rằng sẽ có đủ các dưỡng chất
cho nhiều tuần sau đó, đặc biệt nếu mỗi năm một hoặc hai lần bạn cho thêm vào một vài viên đất sét có bổ sung
phân bón NPK.

Có các bộ kiểm tra độ ni-tơ và phốt-phát thì rất tiện nhưng thực tế không cần thiết. Nếu bạn đã dùng nguyên
liệu giàu chất hữu cơ hoặc đất giàu dinh dưỡng thì sau đó bạn có thể cần phải lưu ý đến hàm lượng cao các
chất ni-tơ, phốt-phat hoặc a-mô-ni-ắc ngay từ ban đầu. Hãy quan sát cặn kẽ độ đậm đặc của a-mô-ni-ắc trong
tháng đầu tiên bởi vì a-mô-ni-ắc có xu hướng được giải phóng ra khỏi các lớp chất nền màu mỡ. Qua thời gian,
lớp chất nền bể cá màu mỡ sẽ trở nên dễ dùng đặc biệt nếu bạn vứt bớt đi lượng tảo dư thừa và phát triển từ
những cây mọc quá nhanh.
Có một bộ kiểm tra nồng độ sắt có chất lượng cao cũng có thể là rất có ích. Lớp chất nền có bùn và sắt có thể
giải phóng ra đủ một lượng sắt để gây ra một số những trở ngại nho nhỏ đối với hình thành rêu tảo trong một
vài tháng đầu. Đó chính là lý do tại sao việc thay nước thường xuyên lại là một biện pháp hữu hiệu để giải
quyết.
Phân bón
Đối với phân bón, hãy đun nóng 3 cốc nước trong một chiếc bình to hoặc trong cốc kiểm tra cho đến khi sôi.
Cho thêm những thứ dưới đây vào và ngoáy đều cho đến khi tan ra:
1. 1/4 cốc sun-phát ka-li
2. 1/4 cốc thuốc tẩy ma-nhê (sun-phát ma-nhê)
3. 1/8 cốc ni-trat ka-li (muối quặng = salt peter)
Hãy cho tất cả những thứ này vào trong một chiếc chai có dung tích 750 ml và để ở nơi thoáng mát. Đôi khi
chúng có thể sẽ kết tủa nếu để ở trong tủ lạnh do vậy có thể cho thêm vào đó một nửa thìa cà phê a-xít clo-hy-
dric.
- Khi nào bắt đầu dùng thì cứ mỗi 5 gallon nước (1 gallon = 4,54 lit Anh hoặc 3,78 lit Mỹ) trong bể thì cho một
thìa cà phê dung dịch phân bón này vào.
- Mỗi lần thay nước, cứ 5 gallon nước được thay thì cho 1 thìa cà phê dung dịch phân bón này.
- Khi nào bắt đầu, thì cứ 10 gallon nước trong bể thuỷ sinh thì cho 2 thìa cà phê cac-bon-nat can-xi. Hãy bỏ qua
không cần cho vào nếu nước trong vòi có tổng độ cứng trên 4 GH (General Hardness).
- Mỗi lần thay nước, cứ 10 gallon nước trong bể được thay thì cho 1 thìa cà phê cac-bon-nat can-xi. Hãy bỏ qua
không cần cho vào nếu nước trong vòi nước có độ cứng chung trên 4 GH (General Hardness).
(Xin lưu ý rằng phân bón không chứa các chất bổ sung vi chất dinh dưỡng (no trace nutrients additions).
Những chất bổ sung này ngay từ ban đầu đã được cung cấp trong đất của bạn).
Gợi ý: Trộn cac-bon-nat can-xi với một bình nước và vào ban đêm thì bật đèn sáng xung quanh bình. Nó sẽ bị
vẩn đục trong vài tiếng đồng hồ. Lớp vẩn đục nhẹ cũng sẽ lắng xuống trên các lá cây nhưng chúng sẽ tan chậm

khi có khí CO2 hoà tan ở trong nước.
Khí CO2
Việc bơm khí CO2 vào là rất quan trọng cho sự thành công của một bể thuỷ sinh - cá cảnh. Khí CO2 và chiếu
sáng mạnh hơn sẽ làm cây phát triển thực sự tốt để duy trì được sự cân bằng năng động giữa các dưỡng chất,
ánh sáng và khí CO2.
Bơm khí CO2 vào, hoặc bằng phương pháp lên men hoặc dùng bồn nén có bộ điều tiết và van đo vi lượng dòng
chảy. Xin không nhắc lại những thông khá đầy đủ và chi tiết đã có sẵn ở tại 4r này về khí CO2 và cách chiếu
sáng. Hãy cố gắng làm sao để cứ 4 đến 6 giây lại có một bong bóng nổi lên. Đối với các loại bể cá nhỏ có dung
tích cỡ 27 gallon hoặc ít hơn, nên giữ cứ 8 giây lại có một bong bóng nổi lên. Đối với những bể cá lớn hơn thì
cứ 4 đến 6 giây có một bong bóng nổi lên là đủ. Đầu bơm CO2 (có áp suất) còn có tác dụng giúp tạo ra những
dòng chuyển động trong nước để luyện cho đàn cá và nâng cao đáng kể tỷ lệ vận chuyển khí CO2 đến cây trồng.
Chiếu Sáng
Việc chiếu sáng đầy đủ là rất quan trọng đối với sự thành công của một bể cá có sự phát triển cao. Một số bể
được xem la đẹp trên 4r này đều được chiếu sáng đầy đủ. Song đi kèm với nó cần lưu ý đến sự hình thành và
phát triển của rêu để kiểm soát. Để kiềm chế nhiệt độ sinh ra do ánh sáng, bạn có thể sử dụng bể có nắp hở
hoặc không nắp. Nếu chi phí điện là một việc phải lo (đương nhiên, nhỉ!) và bạn muốn giữ nhiệt độ nước mặt
mức tối thiểu, đề nghị các bạn sử dụng ánh sáng đén huỳnh quang cùng với các ba-lát (chần lưu) điện tử được
thiết kế riêng cho bể thuỷ sinh (hiện có trên thị trường). Đối với một bể cá sâu 18 inch điển hình thì nguyên tắc
tính điện năng (watt) trên mỗi gallon nước được xem chỉ số tiêu chuẩn. Đối với các loại cây họ Crypts (??) và
Swords, bạn cần dụng lượng điện năng khoảng 1,5 watt/mỗi gallon nước. Đối với những cây mọc nhanh hơn,
bạn cần dùng khoảng 3 watt/gallon. Nhiều ánh sáng hơn không thể coi là sẽ mọc nhanh hơn đặc biệt nếu các
chất dinh dưỡng hiện có bị hạn chế. Thường thường một liều can-xi hoặc ka-li ở trong nước, bơm thêm khí
CO2, hoặc một vài viên phân bón đất sét là tất cả những gì bạn cần để đem lại sự tăng trưởng mạnh mẽ ngang
với việc đang chiếu sáng bể cá của bạn (giả sử rằng bạn đáp ứng được yêu cầu điện năng (watt)/gallon như
chỉ dẫn).
Xin hãy nhớ rằng, ánh sáng mạnh là không cần thiết cho sự phát triển của cây họ Crypts và ngoại trừ một điểm
nhất định, còn thì không giúp gì để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của cây. Ánh sáng quang phổ và mật độ ánh
sáng có thể ảnh hưởng đến màu sắc của một số loài cây họ Crypts. Cây họ Crypts cũng có xu hướng chảy nước
trong ánh sáng chiếu mạnh (have tendancy to melt in very strong lighting). Tuy nhiên, việc bổ sung thường
xuyên can-xi dường như giúp cho cây họ Crypts chống đỡ lại sự chảy nước đó! Điều này đặc biệt là đúng nếu

như than bùn hoặc lá cây giàu a-xít humic được sử dụng trong lớp chất nền.
Làm Giàu Lớp Chất Nền
Để làm tăng sự phì nhiêu của lớp chất nền dành cho những loại cây phải bón nhiều như cây họ Swords và cây
họ Crypts, hãy chuẩn bị những viên đất sét cỡ 1/2 inch cùng với 10 viên bón loại 14-14-14 (có bán ở Aqua thì
phải!!???). Hãy rang khô cho đến khi chúng cứng lại và đặt 1 hoặc 2 viên vào trong lớp chất nền gần rễ của
những cây cần nhiều phân bón. Làm lại khi cần thiết và nếu tốc độ phát triển của cây trở nên chậm (khoảng 6
tháng). Lấy khoảng 1/2 thìa cà phê đất sét làm được một viên đất sét cỡ 10 mm (1/2 inch). Mỗi viên đất sét sẽ
có khoảng 70 mg ni-tơ, tương đương với 300 mg ni-trat và khoảng 70 mg a-xít phốt-pho-ric (P2O5). (Ước tính
mỗi thìa cà phê có 113 viên, nặng khoảng 5,7 gam).
Lưu ý:
- GH hoặc tổng độ cứng (General Hardness) là một cách đo số lượng can-xi và ma-nhê có ở trong nước tự
nhiên. Một độ GH tương đương với 17,9 mg/1 lít CaCO3. Do đó nếu bạn có gần 70 mg/lít hoặc 70 phần triệu
(70 ppm) lượng CaCO3 trong nước từ vòi nước của bạn, thì bạn không cần phải bổ xung thêm can-xi. Thể hiện
nồng độ cô đặc của can-xi là tương đương khoảng 30 mg/1 lít can-xi. Một thìa cà phê (5 mg) cac-bon-nat can-
xi nặng 4 gam. Một thìa cà phê cho 50 lít nước sẽ cho bạn nồng độ 80 mg/lít. Một số nguồn khác lại cho rằng 1
thìa cà phê CaCO3 trong mỗi 50 lít nước sẽ cho một nồng độ khoảng 40 mg/lít do có thể là mẫu mà thực tế cân
thử cho thấy sẽ nặng hơn bởi vì chúng hút nước ở không khí vào. Sau thời gian này bạn nên kiểm tra lại để có
thêm thông tin.
Các nguồn hoá chất:
- Tại các trung tâm làm vườn lớn đều có rất nhiều các loại hoá chất và những thứ như sắt vi lượng (micronized
iron) và các nguyên tố tan chảy F-T-E (Fritted Trace Elements).
- Các hiệu thuốc có thuốc tẩy ma-nhê và bạn có thể đặt hàng rất nhiều loại hoá chất cho mình.
- Các cửa hàng đại lý cung cấp đồ gốm sứ đều có cung cấp rất nhiều cac-bon-nat can-xi.
- Các cửa hàng cung cấp cây thuỷ sinh thường có nhiều loại phân hoá học.
a- Việc sử dụng sắt vi lượng (micronized iron) cùng với than bùn cần phải được xem xét thực nghiệm bởi vì sắt
được cô đặc lại và ở dưới dạng có sẵn cao. Kinh nghiệm cho thấy rằng sắt bùn chelated (humic chelated iron)
được giải phóng ra khỏi lớp chất nền nhưng không phải ở một mức độ có thể tạo ra những trở ngại nghiêm
trọng (hiện tượng rêu). Những loại cây: Cryptocorynes, Hygrophila, Polysperma, Bacopa, Rotala, Aponogeton
crispus, Saggitaria, Echinodorus và Heteranthera zosterifolia không cho thấy có các dấu hiệu nhiễm độc sắt. Đề
nghị các bạn nên dùng loại đất bình thường trước tiên mà không có sắt vi lượng. Nếu các bạn sử dụng sắt vi

lượng (micronized iron), thì hãy dùng hết sức ít. Nên lưu ý đến những cảnh báo này đảm bảo rằng những loại
rêu - tảo có nhiều sợi nhỏ không đưa được vào trong bể thuỷ sinh của bạn.
b- Chất hữu cơ và đất phì nhiêu chỉ được dùng trong lớp chất phủ mỏng (1 inch) gần với tầng bề mặt bởi vì lớp
chất phủ sâu hơn sẽ nhận được ít khí ô-xy khuếch tán hơn từ trên tầng bề mặt và sẽ trở nên quá chậm trong
khả năng biến đổi (reduction potential) quá trình khử và ô-xy hoá do đó sẽ tạo ra độc tố do các hoạt động của
vi khuẩn kỵ khí. Một lớp phủ dày 1 inch là đủ để tạo khả năng biến đổi nhằm đảm bảo một nguồn cung cấp lâu
dài sắt hoà tan và sắt khử (reduced and soluble iron). Xin tham khảo phần kỹ thuật về các loại nguyên liệu của
lớp chất nền để trao đổi thêm về khả năng khử và ô-xy hoá đó (redox potential).
c- Các lớp chất nền bằng đất và/hoặc than bùn đã được rất nhiều người sử dụng trong một thời gian dài ngay
từ khi bắt đầu trồng và chơi cây thuỷ sinh nên vì thế xem như chúng đã được thử thách. Bài viết này có mục
đích như là một thủ tục chi tiết của việc làm thế nào tạo dựng an toàn một bể cá có đất đai màu mỡ. Cần phải
luôn nhớ rằng ở một mức độ nào đó đất sẽ thay đổi thành phần . Một kế hoạch tốt là luôn cần phải lưu giữ mọi
ghi chú và cân đo khối lượng các chất mà các bạn dùng để tham khảo sau này. Những ghi chép về việc đo kiểm
tra thường xuyên nồng độ a-mô-ni-ắc, ni-trat, phốt-phat và sắt cũng sẽ rất bổ ích về mặt thực nghiệm.
Làm giàu lớp chất nền (tiếp theo và khó hiểu hơn chút đây!!!)
d- Khi nào thì đất quá màu mỡ? Các loại đất được đóng trong bao mà các bạn mua tại các trung tâm bán dụng
cụ làm vườn (garden conters) thường có quá nhiều chất dinh dưỡng và chất hữu cơ. Đất tốt nhất cho lần sử
dụng thử đầu tiên của bạn là loại đất quặng mà bạn đào lên được từ những chỗ đất có vị trí thoát nước tốt, nơi
có cỏ mọc tốt trong nhiều năm liền. Đất đó sẽ lọc tốt các chất dinh dưỡng hoà tan. Nếu các bạn thực sự muốn
có các loại cây phát triển mạnh, các bạn có thể dùng nhiều chất hỗn hợp màu mỡ hơn nhưng các bạn sẽ gặp
phải vấn đề khó khăn do rêu - tảo. Khí a-mô-ni-ắc cũng sẽ được giải phóng ra từ lớp chất nền màu mỡ trong
thời gian khoảng một tháng sau khi được ngập chìm trong nước.
e- Nếu bạn cảm thấy rằng đất trong khu vực của mình không thích hợp và bạn quyết định dùng loại đất đã
được đóng gói bất kể có độ màu mỡ cao, tiếp đó bạn nên trộn đất này với một khối lượng lớn cát.
f- Nếu bạn có nước cứng và không bổ sung ban đầu một lượng cac-bon-nat can-xi, hãy thường xuyên thay
nước để đảm bảo có đủ can-xi. Than bùn đã thẫm đẫm can-xi. Việc thay nước thường xuyên cũng giúp ngăn
ngừa tạo ra a-xít humic và sắt bùn chelate (humic chelated iron) trong nước của bạn mà chúng có thể xuất
hiện trong một vài tháng đầu tiên.
g- Nếu bạn biết được rằng nước trong vòi của mình có chứa trên 10 phần triệu hàm lượng ma-nhê, các bạn có
thể bỏ qua không cần thuốc tẩy ma-nhê ở trong phân bón. Cũng giống như vậy đối với ni-trat (+10 phần triệu)

và ka-li (+10 phần triệu). Hàm lượng can-xi trên 50 phần triệu là đủ.
h- Một số loại đất lại cũng có chứa cac-bon-nat can-xi hoặc sun-phát can-xi cũng như ma-nhê. Đây là những
loại đất đá vôi (limestone soils) và hoàn toàn có tính kiềm (alkaline). Bạn có thể kiểm tra một mẫu đất ở trong
nước để biết độ pH hoặc dùng a-xít để kiểm tra. Với than bùn thì những loại đất như thế này sẽ không phải là
một vấn đề khó khăn bởi vì độ a-xít humic của than bùn (humic acidity of peat) sẽ cung cấp một lượng pH ổn
định và giúp hấp thụ một lượng can-xi và ma-nhê dư thừa. Những loại đất như thế này thường thiên về khả
năng thiếu sắt hơn.
i- Ban đầu, trong thời gian hai tháng đầu tiên, một số loại đất sẽ giải phóng một khối lượng đáng kể các chất
dinh dưỡng như ni-trat, a-mô-ni-ắc, phốt-phat và sắt. Việc giải phóng chất dinh dưỡng cao nhất ở trong
khoảng 4 tuần và sau đó giảm xuống nhanh chóng cho đến khi nó gần như ổn định sau 10 tuần. Điều này có thể
gây ra một vài vấn đề khó khăn với rêu - tảo ví dụ như tảo đốm xanh xuất hiện trên lá cây. Một số trong số
những vấn đề khó khăn này có thể tránh được bằng cách để đất trong một chiếc xô hoặc chậu với dung tích 5
gallon có nước trong vài tuần để giải phóng phần lớn khí ni-tơ và các chất dinh dưỡng phốt-phat. Rút hết nước
trong đất ra trước khi trộn chúng với than bùn và sắt vi lượng (micronized iron). Than bùn cũng có thể được
xử lý bằng phương pháp giống như vậy để giảm bớt nồng độ a-xít humic được giải phóng ra trong thời kỳ
chuyển hoá. Khi trộn ướt như thế này, chắc chắn là bạn phải đổ nước đầy bể và tháo nước ra ngay trước khi
cho nước mới vào và trồng cây bởi vì than bùn và đất ướt có chứa những chất dinh dưỡng mà có thể được giải
phóng một cách nhanh chóng. Hãy cân trọng lượng của than bùn khi chúng khô bởi vì tỷ lệ trọng lượng khô là
rất quan trọng.
k- Phương pháp đo khoáng chất dinh dưỡng đã được mô tả ở trên vẫn có thể được sử dụng nếu lớp chất nền
không chứa sắt và chất hữu cơ. Trong trường hợp này, một thìa cà phê pha trộn các chất vi lượng chelated
(chelated trace elements mix) cần được cho thêm vào để pha trộn với 3 cốc nước. Số lượng này sẽ cung cấp
được khoảng 0,1 phần triệu lượng sắt che-lat (chelated iron) khi được pha trộn theo đúng chỉ dẫn. Có thể sẽ
cần thiết phải chuẩn bị một lượng riêng dung dịch các vi chất dinh dưỡng che-lat (chelated trace nutrients)
(chủ yếu là sắt) là những thứ mà cần được bổ xung thường xuyên hơn nữa theo đúng như phương pháp
PMDD. Các khoáng chất dinh dưỡng không cần phải được pha trộn thường xuyên bởi vì các chất dinh dưỡng
này không mất đi theo thời gian.
Tổng quan về lớp chất nền và dưỡng chất
Đây là bài viết được đưa trên mạng từ đầu những năm 2000 - 2002, nếu Tôi nhớ không nhầm là của tác giả Jamie
S.Johnson. Song khi xem Tôi vẫn thấy nó giữ nguyên được tính 'thời sự' và khá có giá trị đối với việc hình thành

cũng như chăm sóc Bể thuỷ sinh của chúng ta, đặc biệt khi giải quyết những vấn đề có liên quan đến lớp chất nền
để hưởng ứng cuộc thi ABV2005 nữa, hì hì!!!.
Xin được giới thiệu để mọi người cùng tham khảo
TỔNG QUAN CHUNG
Có một phạm vi rất rộng lớn các loại chất liệu và phương pháp đã được sử dụng cho các lớp chất nền của bể thuỷ
sinh. Quá trình hình thành và sự tác động qua lại lẫn nhau xảy ra bên trong lớp chất nền là rất phức tạp. Trong khi
ở một vài khía cạnh nào đó đã được hiểu rõ, thì chúng ta có thể thảo luận về những quá trình sinh học này chỉ
bằng những thuật ngữ chung nhất mà thôi. Tôi muốn trình bày một bản nghiên cứu hoàn chỉnh một cách tương
đối về những kỹ thuật làm lớp chất nền cho bể thuỷ sinh trên cơ sở nêu ra một số lợi ích (có chủ định) của từng
kỹ thuật và dẫn giải về những kỹ thuật đó để người đọc có thể có được những ích lợi về những ý kiến đánh giá
được nêu ra ở đây. Tôi tin rằng có quá nhiều thông tin đã được bỏ qua mà không có sự nhìn nhận, xem xét kỹ.
Trong việc đưa ra những ý kiến đánh giá như vậy, điều chắc chắn xảy ra đó là chúng sẽ bị tác động bởi những
đánh giá mang tính cá nhân. Xin được nhấn mạnh rằng không có một phương pháp riêng rẽ nào có thể được xem
như là "tốt nhất" bởi vì rất nhiều phương pháp sẽ cho ra những kết quả thành công cao và việc áp dụng ngoại lệ
cần phải được xem xét đến những yêu cầu của người chơi bể thuỷ sinh. Những yếu tố cần phải được xem xét là :
Thể loại cây, tốc độ phát triển mong muốn, nuôi dưỡng chăm sóc, ngân quĩ, chuyên môn kỹ thuật và sở thích thị
hiếu người chơi. Thực tế cho thấy không phải bao giờ cái gọi là những ‘lớp chất nền màu mỡ nhất cũng là tốt nhất
đối với tất cả mọi người’. Xin hãy xem phần có tiêu đề "Các Lớp Chất nền Có Độ Màu mỡ Thấp".
Lớp chất nền phục vụ cho hai mục đích trong một bể thuỷ sinh có trồng cây thuỷ sinh. Nó cung cấp (tạo ra) một
môi trường phù hợp để giữ cho rễ cây mọc tốt (ở một mức độ lớn hơn hoặc ít hơn) và nó cung cấp chất dinh
dưỡng cần thiết cho cây phát triển. Nó cũng có thể có ảnh hưởng vượt trội hơn so với 3 thông số khác của nước
trong bể thuỷ sinh: hệ thống bộ đệm pH (pH buffer system), độ cứng của khoáng chất (mineral hardness) và các
thành phần hữu cơ hoà tan DOC (dissolved organic compounds). Cần lưu ý rằng các lớp chất nền có thể được
thiết kế làm sao để giảm thiểu những ảnh hưởng này. Những ảnh hưởng của bộ đệm pH rất phức tạp và đưa đến
các sai số trong việc kiểm tra hàm lượng CO2 và độ cứng của cac-bon-nat (carbonat hardness). Hàm lượng thành
phần các chất hữu cơ hoà tan vừa phải hoặc thấp, có nghĩa là các a-xít humic, sẽ hạn chế vi khuẩn và rêu tảo.
Thành phần các chất hữu cơ hoà tan (DOC) dư thừa do sự lựa chọn không phù hợp các chất liệu của lớp chất nền
hoặc có quá nhiều cá sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ của cá và hạn chế sự phát triển của cây.
Những khoáng chất dinh dưỡng cần thiết được phân thành hai loại. Những chất dinh dưỡng được cây sử dụng
với một số lượng lớn tương đối được gọi là những chất dinh dưỡng vĩ mô (macro-nutrients). Ngoài cac-bon

©, hy-đrô (H) và ô-xy (O), các chất dinh dưỡng vĩ mô là ni-tơ (N), phôt-pho (P), sun-phua (S), can-xi (Ca), ma-
nhê (Mg) và ka-li (K). Những chất dinh dưỡng được cây sử dụng với một số lượng nhỏ được gọi là vi chất dinh
dưỡng (micro-nutrients). Đó là sắt (Fe), man-gan (Mn), đồng (Cu), kẽm (Zn), mô-lyp-đen (Mo), cô-ban (Co) và bo
(Bo). Các nguyên tố khoáng khác như nat-tri (Na), clo (Cl) và ni-ken (Ni) cũng có ở trong cây và có thể cần thiết
hoặc có thể không cần thiết.
Người ta có thể trồng cây trên những lớp chất nền hoàn toàn trơ như sỏi trơn. Tuy nhiên người ta thông thường
hay áp dụng giải pháp về chất dinh dưỡng mà ở đó một số hoặc phần lớn các chất dinh dưỡng nhận được từ
trong lớp chất nền. Việc này có một số lợi ích. Nhiều chất dinh dưỡng được rễ cây ưu tiên hấp thụ. Điều này có
nghĩa rằng cây có thể mọc nhanh hơn khi các chất dinh dưỡng được cung cấp ở trong lớp chất nền. Chúng ta có
thể chủ động điều tiết được những chất dinh dưỡng nào hoà tan trong nước bể thuỷ sinh để hạn chế sự phát
triển của rêu-tảo. Chúng ta có thể dùng nồng độ cao hơn của một số chất dinh dưỡng trong một số loại nhất định
các lớp chất nền và như vậy sẽ nâng cao được tốc độ phát triển của cây. Cũng không cần thiết thường xuyên phải
cho các chất bổ sung chất dinh dưỡng hoặc không cần thiết phải kiểm tra hàm lượng chất dinh dưỡng ở trong
nước thường xuyên.
Mặt khác, có thể sẽ cần phải phòng xa khi sử dụng nhiều loại chất bổ sung khác nhau với mục đích làm cho lớp
chất nền màu mỡ hơn nữa. Lớp chất nền cần phải được chuẩn bị sao cho để số lượng dư thừa các phôt-phat, ni-
trat hoặc a-mô-ni-ăc không được giải phóng vào trong nước của bể thuỷ sinh. Việc sử dụng số lượng dư thừa các
chất hữu cơ hoặc không đúng chủng loại có thể dẫn đến tỷ lệ cao sự phân huỷ vi khuẩn mà chúng sẽ tiêu thụ khí
ô-xy trong lớp chất nền và có thể làm thoát ra những loại chất có hại. Những loại cây thuỷ sinh khác nhau thích
nghi với các loại chất nền khác nhau. Những chất hữu cơ của cây như lá rữa nát, than bùn, các mẩu gỗ mục đều
giải phóng ra nhiều loại a-xit humic. Một số loại chất cải thiện chất lượng đất (soil amendments) có thể có chứa
khối lượng dư thừa một số loại khoáng chất mà có thể gây trở ngại cho sự hấp thụ các chất dinh dưỡng của cây
hoặc độc hại đối với những loại động vật không xương (ốc sên) hoặc cá. Những chất liệu có kết cấu mịn như đất
sét, bùn phù sa và các chất hữu cơ thường được dùng trong các lớp chất nền màu mỡ sẽ có khuynh hướng gây ra
vẩn đục nước khi lớp chất nền bị khuấy động lúc trồng cây vào hoặc nhổ rễ cây ra. Những loại chất liệu này có thể
sẽ lắng xuống sau một khoảng thời gian, tuy nhiên chúng cũng có thể đọng lại trên lá cây làm cho cây có hình
dáng bên ngoài khó coi, không đẹp mắt (unsightly appearance) và khuyến khích sự phát triển của một số loại rêu-
tảo nhất định trên bề mặt của những lá cây đó. Đất sét là những chất liệu vô cùng mịn mà có thể tạo ra sự vẩn
đục nước nếu bị khuấy động lên.
Một số chất dinh dưỡng được cây sử dụng một cách có hiểu quả hơn nhiều từ trong nước ở bể thuỷ sinh và

những chất dinh dưỡng này gồm có ka-li, can-xi và ma-nhê. Tuy vậy, một số cây đã cho thấy chúng tiếp nhận cac-
bon từ đi-ô-xit cac-bon ở trong lớp chất nền, điều này có thể là nguồn cung cấp tốt nhất cac-bon từ trong nước.
Ka-li cần có ở trong nước bởi vì nó được dùng để duy trì sự cân bằng ion ở bên trong cây. Có một sự cân bằng
chức năng giữa ka-li ở bên trong cây và ka-li ở bên ngoài cây. Can-xi và ma-nhê cần phải có ở trong nước bởi vì
chúng không chuyển động một cách dễ dàng khi ở bên trong chất gỗ (xylem) của các cây thuỷ sinh. Can-xi nói
riêng là vô cùng cần thiết ở trong nước bởi vì chúng có nhu cầu ngoại bào (nhu cầu bên ngoài tế bào: extra-
cellular requirement) đối với can-xi, nếu lượng can-xi tụt xuống quá thấp thì lúc đó vách (màng) tế bào (cell wall)
sẽ không tạo thành một cách hoàn chỉnh.
Bằng những kinh nghiệm đã chỉ ra rõ rằng ka-li, ma-nhê và can-xi cần có ở trong nước cho sự phát triển "bình
thường" của ít nhất một số cây thuỷ sinh ngập nước. Lý do cho việc này là kém rõ ràng hơn nhưng lại có thể được
bàn đến trên cơ sở những đặc tính hoá học và vai trò sinh lý/hoá sinh của chúng. Như đã được nói đến, ka-li, khi
là một phân tử di động, cần thiết phải có cho sự cân bằng ion và do vậy phải có mặt cả ở bên trong và bên ngoài
lớp màng tế bào Đồng thời cùng cần nhớ rằng cây thuỷ sinh, không giống như cây sống trên cạn, chúng có sự
không hợp bào tử (apoplasm) của mình (đó là phần của cây nằm ở bên ngoài lớp màng) có tiếp xúc trực tiếp với
dung môi trong đó các ion mới có thể khuếch tán được. Can-xi cũng rất là cần thiết ở bên ngoài lớp màng tế bào
vì sự phát triển bình thường của vách tế bào Cả can-xi và ma-nhê trong những cây sống trên cạn đều không "di
chuyển" dễ dàng như ở bên trong chất gỗ (xylem) như các loại ion khác. Giả thuyết của việc đó là do hoạt động
của nước xuyên qua các cây thuỷ sinh chậm hơn là xuyên qua các cây sống trên cạn, nhu cầu về ma-nhê không
thể thoả mãn cho sự di chuyển lên bên trên.
"Đừng nên nghĩ rằng can-xi và ma-nhê không thể di chuyển ở bên trong chất gỗ (xylem) của cây thuỷ sinh. Thực
tế chứng minh bằng thí nghiệm đã cho thấy rằng ít nhất thì can-xi có thể di chuyển lên trên hoặc xuống phía dưới
trong các mô của cây thuỷ sinh (không phải chỉ ỏ một tốc độ đủ nhanh để thoả mãn các nhu cầu bên ngoài)"
(Nguồn: Dave Huebert).
Một cuộc thảo luận đầy đủ về các nhu cầu can-xi, kali và ma-nhê không nằm trong phạm vi của bài viết này. Độc
giả có thể tham khảo tài liệu hướng dẫn rất phổ biến trên mạng Internet để biết được cách thức cho việc đo liều
lượng ka-li và ma-nhê. Can-xi thường có thể là một chất dinh dưỡng quan trọng ở trong nước mềm, đặc biệt nếu
việc thay nước không được thực hiện thường xuyên hoặc dưới cường độ ánh sáng cao. Chỉ dẫn an toàn dành cho
nước từ vòi có tổng độ cứng dưới 2 độ GH (General Hardness) hoạc với hàm lượng can-xi thấp có thể là một thìa
cà phê CaCO3 trên mỗi 10 gallon (10 gallon Mỹ = 38 lít) nước được thay thế.
CÁC LOẠI CHẤT NỀN

Lớp chất nền đơn giản nhất là sỏi trơn, mịn (hạt sỏi có kích cỡ khoảng 2-3mm). Đây là loại chất nền thông dụng
nhất được mọi người sử dụng để làm bề mặt nền trong bể thuỷ sinh. Qua thời gian, lớp chất nền sẽ được làm
giàu nhờ chất thải của cá và thức ăn dư thừa tới lúc mà nó có thể cung cấp được chất dinh dưỡng cho cây mặc dù
còn nghèo nàn. Mặt khác, với sự cân bằng cẩn thận khi bổ sung các chất dinh dưỡng, người ta hoàn toàn dễ trồng
các loại cây thuỷ sinh thậm chí trong một lớp chất nền bằng cát hoặc sỏi hoàn toàn trơ. Nói chung, một hay nhiều
loại chất bổ sung lớp chất nền được dùng để bổ sung thêm vào hoặc thay thế cho lớp sỏi tiêu chuẩn trong bể
thuỷ sinh. Những chất này bao gồm các loại đất tự nhiên khác nhau, các loại đất sét khác nhau, than bùn, đất
mùn, lớp phủ của lá cây hoặc các sản phẩm thương mại khác như Duplarit (Laterite = đá ong). Những chất bổ
sung này nhằm để thực hiện các chức năng sau:
• Làm tăng khả năng giữ chất dinh dưỡng của lớp chất nền (khả năng trao đổi cation CEC) từ đó làm tăng khả
năng màu mỡ phì nhiêu có hiệu quả của lớp chất nền
• Cung cấp sắt và có thể là các loại khoáng chất dinh dưỡng vi lượng khác
• Trực tiếp cung cấp các chất dinh dưỡng vĩ mô - macro-nutrients - (như các loại hoá chất hoặc bằng sự phân huỷ)
• Làm giảm trạng thái xốp, rỗ (porosity) để hạn chế sự khuếch tán của các chất dinh dưỡng (ra khỏi lớp chất nền)
• Làm tăng trạng thái xốp, rỗ (porosity) để cho phép sự khuếch tán của các chất dinh dưỡng (vào trong lớp chất
nền)
• Làm tăng độ chặt (density) của lớp chất nền để ngăn chặn những thành phần mịn mượt, có lông(fluffy
components) không bị kéo lên do việc nhổ rễ cây gây ra.
CHẤT LIỆU CỦA LỚP CHẤT NỀN
Sỏi mịn: Điển hình là quặng thương phẩm (quặng sạch) được bán trong các cửa hàng bán bể thuỷ sinh. Hãy tránh
những loại sỏi có đá vôi ở bên trong bởi vì chúng sẽ tiếp tục bị tan rã, phân huỷ dẫn tới có độ pH cao và cứng. Hãy
xem phần cảnh báo bên dưới về lớp đất bề mặt khi thu thập chúng. Sỏi phần lớn không có phản ứng do bề mặt
thấp của nó đối với tỷ lệ thể tích do đó nó sẽ không có ích lợi như một nguồn cung cấp khoáng chất dinh dưỡng.
Nó hoạt động tốt cho đến tận những rãnh nhỏ của rễ cây xuyên bám xuống dưới. Một lớp phủ dày khoảng 1 inch
(Mỹ= 2,5cm) trên bề mặt giúp ngăn cản lại những loại chất liệu chất nền mịn như đất sét, chất khoáng bón cây
hoặc than bùn trong lúc trồng cây. Đó là một sự lựa chọn tốt cho những lớp chất nền khi nguồn cung cấp dinh
dưỡng ban đầu xuất phát từ trong nước hoặc từ chất thải của cá bởi vì nó sẽ cho phép các chất dinh dưỡng
khuếch tán vào trong lớp chất nền là nơi chúng có thể được cây hấp thụ.
Cát - Cát có các tính chất tương tự giống như sỏi. Nếu được dùng riêng ở trong lớp chất nền thì nó không có bất
kỳ khả năng sinh sản, màu mỡ hoặc chất dinh dưỡng nào. Nếu là lớp phủ trên bề mặt, nó sẽ làm cho cây mọc rễ

xuống dưới khó khăn bởi vì các mẩu cát nhỏ không đủ nặng để giữ thân cây đúng vị trí. Cát sẽ rất là tốt khi được
pha trộn với các chất liệu khác như than bùn hoặc chất khoáng bón cây để làm tăng tỷ trọng của chúng và làm
giảm khả năng nổi lên trên của cây trong quá trình phát triển hoặc khi ta dịch chuyển, thay thế. Trong cát có thể
có một lượng nhỏ sắt vi lượng hoặc các nguồn khoáng chất vi lượng khác. Nó cũng có thể được pha trộn với các
chất liệu hữu cơ khác như phân com-pôt (compost), than bùn hoặc giun đất thả xuống để làm giảm khả năng sinh
sản và nhu cầu khí ô-xy của chúng. Các lớp cát hoặc sỏi không có tác dụng lắm cho việc giữ các chất dinh dưỡng ở
trong lớp chất nền. Các chất dinh dưỡng vẫn có thể khuếch tán qua cát với một tỷ lệ đủ cao để gây ra những vấn
đề khó khăn do tảo nếu như bạn có quá nhiều chất liệu có thể phân huỷ hoặc các loại phân bón ở trong lớp chất
nền.
Đất sét - Là một chất hỗn hợp vô cùng mịn có thể có một số thành phần khoáng chất và chúng có những phần tử
có kích cỡ nhỏ hơn 2 micron. Đất sét tinh khiết không có chứa các vật chất hữu cơ và các loại đất có đất sét thì lại
thường hay có một chút các vật chất hữu cơ. Đất sét điển hình (tiêu biểu) có chứa sắt và si-li-cát nhôm và các ô
xit nhưng nó cũng có thể có chứa nhiều loại chất khoáng khác. Một số loại đất sét hoặc đất cát khoáng sản có thể
không thích hợp cho các lớp chất nền bởi vì chúng có thể có xu hướng sinh ra những chất cô đặc của một số loại
khoáng chất không có ích. Những loại khoáng chất này như mang-gan, bo, sắt, kẽm và đồng đều cần có với độ cô
đặc vi lượng và thấp nhưng chúng có thể sẽ độc nếu ở độ cô đặc lớn hơn. Việc bổ sung đơn giản các loại đất mùn,
than bùn hoặc phân com-pôt hữu cơ tương tự sẽ khử độc một cách đáng kể cho các loại khoáng chất này qua
việc tạo ra các nhóm tương tự các chất hữu cơ (by forming organic complexes). Các loại đất giàu sắt có pha đất
sét điển hình đều có màu đỏ. Nếu tỷ lệ sắt trong đất sét chưa được biết, thì sắt micron hoá (micronized iron)
hoặc các loại bột ô-xit sắt tinh khiết khác có thể được dùng để làm giàu thêm cho hàm lượng sắt. Đất sét có khả
năng trao đổi cation (CEC) rất cao.
Số lượng chính xác đất sét được dùng trong lớp chất nền không phải là điều quan trọng. Nó sẽ có thể hoàn toàn
có ích nếu dùng 1/10 (một phần mười) lượng cát hoặc chất liệu khác nhưng cũng có thể được dùng với một tỷ lệ
lớn hơn. Đất sét có thể được dùng trong lớp dưới cùng (bottom layer) của lớp chất nền bởi vì chúng có thể được
rễ cây hút lên trong quá trình di thực, đặc biết nếu lớp chất nền mịn, thoáng (fluffy) do có than bùn hoặc khoáng
chất bón cây. Lớp cát phủ trên cùng hoặc sỏi mịn sẽ giúp giảm đi rất nhiều những vấn đề khó khăn do nước bị vẩn
đục.
Lý tưởng nhất là đất sét được trộn kỹ với cát do vậy diện tích bề mặt mịn màng của chúng sẽ chiếm một lượng
lớn hơn. Đất sét ướt rất khó pha trộn nhưng nó lại có thể cắt được thành những mẩu nhỏ và ngâm trong nước
nhiều ngày để chúng tạo thành bùn mềm và dễ trộn với cát hơn. Nếu đất sét dạng bột khô có sẵn thì có thể trộn

khô chúng với cát hoàn toàn dễ dàng. Nếu các bạn chỉ có đất sét ướt mà chúng lại quá dày để có thể trộn được,
hãy cắt chúng thành những mẩu đất sét nhỏ và nén chúng xuống dưới đáy bể thuỷ sinh để tạo thành một lớp phủ
mỏng ở trên đáy bể.
* Chú ý:
- Nếu cầm đất sét dạng bột khô hãy dùng mặt nạ để tránh hít phải bụi đất sét mịn bởi vì silicat có thể gây tổn hại
cho phổi.
- Nếu đất sét được sử dụng không đúng tỷ lệ có thể làm cho nước rất đục khi các bạn nhổ cây lên. Sự vẩn đục
nước này có thể ngăn cản cây tiếp nhận đủ ánh sáng cho quá trình quang hợp và nếu không sửa lại ngay lập tức,
cây sẽ không thể sinh ra đủ khí ô-xy để bảo vệ rễ của chúng trong lớp chất nền hữu cơ. Việc nước bị vẩn đục có
thể giết chết cây. Nước đục do đất sét có thể được xử lý bằng cách thay nước hoàn toàn hoặc dùng các loại hoá
chất được bán ở các cửa hàng bán bể thuỷ sinh để mà hãm lại việc nước bị vẩn đục. Tôi cũng đã có được những
kết quả tốt trong việc dùng một bộ lọc thông thường nhưng có môi trường vi khuẩn. Nếu các bạn chỉ dùng đất sét
như một lớp phủ dưới đáy hoặc để làm những viên phân bón có đất sét, bạn sẽ không gặp phải vấn đề khó khăn
nào với việc nước bị đục.
Đất sét rất có ích cho việc làm những viên phân bón để làm giàu cho lớp chất nền sau khi đã được dựng lên.
Những viên đất sét có thể được dùng định kỳ ví dụ như 6 tháng một lần hay dài hơn hoặc ngắn hơn. Tôi đã dùng
khoảng 10 viên nhỏ Osmocote (10 Granules of Osmocote) hoặc một loại phân bón tương tự và trộn chúng cùng
với nhau cho vào trong giữa một viên đất sét có đường kính khoảng nửa (1/2) inch. Tất cả những thứ này sau đó
được làm khô cho đến khi cứng và sau đấy cho vào sâu dưới bề mặt lớp chất nền khoảng 2 inch và cách rễ của
cây cần bón khoảng 1 inch. Đất sét sẽ ngăn các chất dinh dưỡng không bị khuếch tán một cách quá nhanh chóng
vào trong nước ở bể thuỷ sinh. Kết cấu mịn của chất liệu đất sét cũng kết nối các dưỡng chất hoà tan trong phân
bón và giúp lưu giữ chúng lại cho cây. Những viên phân bón đất sét này có thể được dùng trong tất cả các loại
chất nền và sẽ nâng cao rất nhiều tốc độ phát triển của cây thuỷ sinh, đặc biệt trong lớp chất nền chỉ bằng sỏi.
Đá ong (laterite) hoặc đất tro núi lửa - Là một loại đất màu đỏ được tìm thấy ở những vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới mà đã được lọc với những loại khoáng chất có thể hoà tan được, với hy-đrô-xit nhôm và silica. Chúng
chủ yếu gồm có ô-xit sắt và hy-đrô-xit sắt. Thông thường thuật ngữ "laterite" (đá ong) được dùng để tham chiếu
đến một sản phẩm mặt hàng đất cho bể thuỷ sinh thương phẩm đắt tiền được khai thác ở những vùng nhiệt đới.
Đất có đá ong (laterite soils) hoặc đất đá ong (latersoils) thông thường là những loại đất sét mịn (có kích cỡ <2
micron); tuy vậy đất đá ong (latersoils) có thể có bất kỳ cấu trúc nào. Đá ong Dupla (Dupla Laterite) có vẻ ngoài
như là một sự pha trộn của các kết cấu cát và bùn phù sa (silt) với một số thành phần đất sét mịn. Điều này có thể

tránh được một số những khó khăn do nước vẩn đục khi bể thuỷ sinh được dựng lần đầu tiên hoặc tạo điều kiện
thuận lợi cho sự lưu thông của nước qua các khe hở. Kết cấu thô hơn này sẽ làm giảm khả năng trao đổi cation
(CEC) của đá ong Dupla so với các loại đất sét mịn và làm giảm bớt đi sự hiện hữu của sắt do diện tích bề mặt bị
giảm đi.
Một đề xuất được đưa ra rằng nồng độ cô đặc dư thừa của một số loại chất khoáng đã được lọc sạch khỏi đá ong
so với các loại đất sét có chứa khoáng chất khác. Việc này có thể làm cho nó trở nên an toàn hơn vì chất bổ sung
duy nhất cho một lớp chất nền không có chất hữu cơ; tuy nhiên việc sử dụng các loại chất liệu đất mùn cũng sẽ
có tác dụng hấp thụ hoặc làm chất đệm cho nồng độ cô đặc của các khoáng chất có thể hoà tan được.
Người ta đã từng nói về đá ong (laterite) rằng chúng có khả năng trao đổi cation (CEC) cao hoặc khả năng giữ các
chất dinh dưỡng. Khả năng trao đổi cation của đá ong thấp hơn nhiều so với đất sét hoặc đất mùn (humus). Điều
này có thể dẫn đến sự nhầm lẫn bởi vì khả năng trao đổi cation của các loại đất đá ong (Laterite soils) phụ thuộc
nhiều vào kết cấu của chúng và sự hiện diện của các loại silicat khác nhau mà lại có khả năng trao đổi cation cao
hơn. Trong khi khả năng trao đổi cation của một số đá ong thương phẩm là tương đối thấp, thì đó lại là một sự
cải thiện rất lớn so với cát hoặc so với riêng sỏi mịn. Chỉ có các hợp chất hữu cơ mới có thể hoạt động như những
chất kìm (chelator). Đá ong không giúp giữ lại được tính tan của một số loại khoáng chất như sắt hoặc man-gan.
Theo ý kiến của tôi, đá ong (laterite) có năm (5) đặc tính hữu ích quan trong.
1. Đá ong (laterite) giàu sắt là một loại chất dinh dưỡng quan trọng cho cây. Ngay khi ngập nước lúc ban đầu, nó
sẽ tạo ra sự giải phóng đáng kể một lượng sắt vào trong nước, tuy nhiên việc này không diễn ra lâu. Trong những
vùng thiếu ô-xy huyết (anoxic areas) ở bên dưới đáy của lớp chất nền, lớp chất sắt feric (ferric) sẽ bị vi khuẩn tác
động và bị giảm xuống thành dạng ferrous hoà tan nhiều hơn. Với vai trò này, về chức năng nó tương tự như
nhiều loại đất thông dụng khác. Nếu không có ích lợi của một số chất liệu hữu cơ để khuyến khích các hoạt động
của vi khuẩn, thì đá ong laterite chỉ là một nguồn cung cấp sắt tồi so với các loại hỗn hợp đất tự nhiên khác. Việc
sử dụng đá ong laterite trong phương cách chăm sóc bể thuỷ sinh ở điều kiện tốt nhất như đã được Horst Kipper
và Kaspar Horst của Dupla mô tả không bao gồm chất liệu hữu cơ quan trọng mặc dù điều đáng phải chú ý là đá
ong laterite Dupla có chứa 0,2% chất mùn ngược lại với đá ong laterite làm các sản phẩm bể thuỷ sinh có 0,0%
chất mùn (theo như bài viết đưa lên mạng internet của Shaji Bhaskar).
2. Đá ong laterite có thể giúp kiểm soát được lượng phốt phát khi được dùng chung với các đường dây cáp
(cable) sưởi cho lớp chất nền có sử dụng điện năng thích hợp. Ô-xit sắt có khả năng nắm giữ và ổn định phốt pho
với một khối lượng nhỏ từ trong nước của bể thuỷ sinh. Đá ong laterite không phải là một loại thuốc trị bách
bệnh để có thể kiểm soát được tảo nhưng nó có thể được dùng chung với một phương pháp chăm sóc dài hạn để

hạn chế phốt pho như việc thay nươcs thường xuyên.
3. Đá ong laterite sẽ nâng cao khả năng trao đổi cation của cát tinh khiết (pure sand) hoặc của các lớp chất nền
bằng sỏi.
4. Sắt sẽ giúp ổn định các sun-phit (sulfides).
5. Đặc tính cuối cùng là thiếu các muối cac-bon-nat và chất hữu cơ mà nếu không thì nó có thể sẽ ảnh hưởng đến
các hoá kiềm (pH chemistry) của nưóc và các phương pháp đo kiểm tra lượng CO2 phức tạp. Đá ong laterite tiến
hành kiểm tra tự động việc bơm CO¬¬2 của kiềm (pH) một cách đơn giản hơn nhiều trong khi vẫn có được những
ích lợi của sắt ở bên trong lớp chất nền.
Thường những loại đất sét hoặc những loại đất màu đỏ, giàu chất sắt đều bị nhầm lẫn cho rằng đó là đá ong
laterite; tuy nhiên chỉ những loại đất nào đã từng trải qua một quãng thời gian và thời tiết đáng kể dài hàng ngàn
năm mới là đá ong laterite thực sự. Có nhiều nguồn đất có đá ong latersoils ở nhiều nơi trên khắp thế giới đã lắng
đọng lại từ cách đây hàng ngàn hoặc hàng triệu năm trong những khoảng thời gian khi khí hậu trái đất ấm lên
đáng kể. Thời tiết khí hậu và việc lọc qua đá ong laterite chỉ quan trọng đối với ích lợi thứ 5 ở trên mà thôi.
Việc lọc các loại silicat ra khỏi đá ong laterite để tạo ra sự khác biệt giữa chúng với các loại đất sét silicat giàu sắt
có quan trọng không?
Có thể là không. Chúng tôi còn thiếu nhiều bằng chứng và lý thuyết hơn nữa.
*Chú ý: Một số loại đất sét có đá ong (laterite) mịn có thể làm nước vẩn đục khi bạn nhổ rễ cây lên.
Một sự thay thế chức năng tốt cho đá ong laterite là sắt đã được vi lượng hoá (micronized iron), đó là một loại
hợp chất có thành phần hoá học tương tự với đá ong laterite.
Chất khoáng bón cây - "chất khoáng bón cây (Vermiculite) và sét tẩy bẩn (Smectites)" : Được gọi là những loại
đất sét mở rộng bởi vì chúng cho phép nước và các cation di chuyển giữa các lớp phủ dưới đáy, ép chúng tách
nhau ra. Việc này sẽ tạo một diện tích bề mặt ở bên trong lớn hơn ở bên ngoài và làm cho chúng có độ pH lớn -
không phụ thuộc vào khả năng trao đổi cation của chúng. Illit (illite), clorit (Chlorite) và kao lanh (kaolinite) không
dãn ra theo cách này, nên làm cho khả năng trao đổi cation của chúng thấp hơn. Vào khoảng một nửa khả năng
trao đổi cation (CEC) của chất khoáng bón cây là phụ thuộc vào độ pH. Chất khoáng bón cây và chất tẩy bẩn có
thể giữ NH4+ (amoni) ở cả trong hai tình thế có thể trao đổi được và cố định (không thể dùng được đối với cây).
(Xem Brady để biết thêm các chi tiết bố trí). Có một trạng thái cân bằng có thể đảo ngược được giữa khối lượng
các amoni (ammonium) được giữ ở trong hai trạng thái này (cho dù những thay đổi bản chất của trạng thái cân
bằng này diễn ra chậm hơn rất nhiều so với sự trao đổi ion), do vậy việc bổ sung thêm amoni vào trong dung dịch
sẽ nhanh chóng làm thay đổi tỷ lệ phần trăm của khả năng trao đổi cation (CEC) do amoni chiếm giữ, một phần

trong số đó sẽ từ từ chiếm giữ các vị trí cố định (fixed positions). Tương tự như vậy, nếu cây tiếp nhận NH4+ từ
các vị trí trao đổi, thì càng có nhiều các NH4+ sẽ được giải phóng ra khỏi các vị trí cố định (một cách từ từ) và trở
nên sẵn có cho cây. Do vậy, sự bố trí NH4+ có thể được xem như một nhà kho chứa ni-tơ (N) để giúp tạo bước
đệm cho những sự thay đổi". - Jim Kelly.
Một điều cần được lưu ý rằng khả năng trao đổi Cation được quyết định bởi tỷ lệ khối lượng số đông. Chất
khoáng bón cây được mở rộng (expanded vermiculite) có mật độ rất thấp và do đó sự đóng góp của chúng vào
khả năng trao đổi Cation của thể tích lớp chất nền sẽ ít hơn rất nhiều. Những phần tử nhỏ, mịn của chất khoáng
bón cây có xu hướng nổi lên trên xung quanh bể thuỷ sinh và đọng lại ở trên lá cây khi lớp chất nền bị khuấy
động. Nó đã thu hút rất nhiều sự quan tâm và nghiên cứu; tuy nhiên tính hữu ích của nó vẫn còn phải được
chứng minh một cách thuyết phục.
Chất khoáng bón cây có sẵn một cách dễ dàng và rất rẻ tại phần lớn tất cả các cửa hàng cung cấp đồ làm vườn ở
Bắc Mỹ, Châu Âu và Australia. Chúng cũng có sẵn ở nhiều nơi khác nhưng có thể khó xác định vị trí hoặc khó nhận
diện hơn. Trước khi cho bổ sung vào trong lớp chất nền của bể thuỷ sinh, chúng cần phải được ngâm trong nước
nhiều ngày hoặc vài tuần để làm cho nước thấm đẫm giữa các lớp đáy bể thuỷ sinh để cho chúng sẽ chìm ngập
xuống. Chúng cần được khuấy lên và trộn để giúp làm tan vỡ các phần tử nhỏ của chất khoáng bón cây. Khi chúng
đã được xử lý ở bên trong lớp kết cấu mịn và lắng xuống, thì chúng đã sẵn sàng để được pha trộn với các loại
chất liệu khác của lớp chất nền.
Tầng đất mặt - Bằng thuật ngữ này, tôi muốn nói đén các loại đất tự nhiên được tìm thấy ở trong vườn, ngoài
cánh đồng hoặc trong rừng. Đất của tầng đất mặt hoặc đất vườn được bán ở các vườn ươm hoặc ở các trung tâm
bán lẻ dụng cụ làm vườn thông dụng đều có tỷ lệ cao phân com-pôt hoặc phân bón (manure) đã được cho thêm
vào làm cho chúng không còn thích hợp. Phân bón (manure) rất không ổn định do vậy những loại đất có phân
bón thường cần phải tránh không sử dụng. Đất tự nhiên có khuynh hướng chứa một khối lượng thích hợp đất
mùn và thường có thể là nguồn cung cấp nhiều chất dinh dưỡng giá trị, đặc biệt là các chất dinh dưỡng vi lượng.
Trạng thái xốp của tầng đất mặt dược xác định bởi những thành phần cơ bản của chúng gồm: cát, đất sét hoặc
chất hữu cơ. Giống như tầng đất cái, về cơ bản chúng là một sự pha trộn của nhiều tỷ lệ khác nhau gồm cát, phù
sa và đất sét nhưng có một tỷ lệ các chất hữu cơ lớn hơn. Đất vườn, phụ thuộc vào việc chúng được bón bao
nhiêu phân com-pôt, có thể có từ 1 đến 10% các chất hữu cơ và là một nguồn đất mùn tuyệt vời. Đất này có độ
màu mỡ vừa phải và có nhu cầu về khí ô-xy vừa phải khi ngập dưới nước trong thời kỳ ban đầu. Đất vườn nào mà
trồng rau tốt thì có thể có một sự cân bằng tốt các loại khoáng chất dinh dưỡng thiết yếu và sẽ là một sự lựa chọn
sử dụng đúng đắn cho cây trong bể thuỷ sinh. Tầng đất mặt lấy từ trong rừng có thể có một tỷ lệ lớn hơn rất

nhiều các chất hữu cơ trong đó bao gồm cả lớp phủ bằng lá cây. Loại đất này có thể làm thành một lớp chất nền
tốt cho một số loại cây nhất định giống như cây họ Cryptocorynes . Đất từ rừng tùng, bách nói chung có tính a-xít
quá nhiều và có chứa các hợp chất có tính chất cảm nhiễm qua lại (allelopathic - allelopathy) làm cản trở sự phát
triển của các loại cây khác. Đất cát (sandy soil) có khả năng trao đổi cation thấp. Đất có hàm lượng chất hữu cơ
tốt và có đất sét có thể có khả năng trao đổi cation ở mức 25 cmol/KG hoặc cao hơn. Nhu cầu khí ô-xy từ thấp tới
cao phụ thuộc vào hàm lượng chất hữu cơ. Những đặc tính đệm độ pH tốt ở khoảng (~6.5) (Good pH buffering
characteristics).
Tầng đất cái - Điển hình là một sự pha trộn của nhiều tỷ lệ khác nhau gồm cát, phù sa và đất sét. Chúng có hàm
lượng các chất hữu cơ và chất dinh dưỡng vĩ mô rất thấp. Nó có thể là một nguồn cung cấp sắt tiềm tàng và có
thể có ích và là một hỗn hợp pha trộn loãng cùng với các loại vật liệu chất nền khác. Nó có thể có một số loại vi
chất dinh dưỡng bổ sung; tuy nhiên điều này lại phụ thuộc vào loại tầng đất cái. Tầng đất cái có khả năng trao đổi
cation cao nếu chúng có chứa đất sét. Tầng đất cái có cát sẽ có khả năng trao đổi cation rất thấp. Tầng đất cái có
thể có hàm lượng khoáng chất dinh dưỡng khác nhau rất lớn. Những tầng đất cái sẫm màu hơn sẽ chứa nhiều sắt
hơn, tầng đất cái có màu rất nhạt đều đã được lọc qua sắt và các loại khoáng chất khác.
Các chất phụ gia thương phẩm - Có thể bao gồm nhiều loại dá ong laterite khác nhau hoặc các chất liệu tương tự
có giá thành cao. Các bạn có thể thu được những kết quả rất tốt khi sử dụng nhiều loại trong số này, tuy nhiên
việc xem xét các sản phẩm thương mại (thương phẩm) đó không nằm trong phạm vi của bài viết này. Các nhà sản
xuất gần như không bao giờ liệt kê những thành phần các chất phụ gia cho lớp chất nền của họ hoặc phát hành
bất kỳ những công trình nghiên cứu thực nghiệm (experimental studies) nào hoặc đề xuất bất kỳ những học
thuyết khoa học nào để giải thích các sản phẩm của họ hoạt động như thế nào hay tại sao như vậy. ý kiến của tôi
về việc đó là các bạn có thể sao lục những kết quả này mà không bị mất chi phí cho những sản phẩm như vậy.
Phần lớn các sản phẩm thương mại đều tránh các thành phần hữu cơ hoặc chỉ dùng chúng với một vi lượng rất
nỏ.
Vôi đô-lô-mit (khoáng chất - dolomite lime) - là một loại khoáng sản kết tinh trong tự nhiên chủ yếu bao gồm
can-xi và cac-bon-nat ma-nhê. Chúng được bán dưới dạng những viên nhỏ trong các cửa hàng bán dụng cụ làm
vườn và đó là một nguồn cung cấp can-xi và ma-nhê rẻ nhưng rất khó hoà tan. Có thể đó không phải là một chất
bổ sung tốt cho lớp chất nền và có thể được sử dụng một cách tiết kiệm nếu được dùng một ít. Vì chúng tan rất
chậm nên sẽ rất khó kiểm soát hàm lượng can-xi, độ cứng, độ pH và tính kiềm. Can-xi và ma-nhê được hấp thụ
tốt nhất từ trong nước thông qua lá cây. Bột cac-bon-nat can-xi, hay clo-rit can-xi hay sun-phat ma-nhê/cac-bon-
nat ma-nhê/clo-rit ma-nhê tất cả đều là những lựa chọn tốt để có thể cho thêm chúng vào mỗi khi thay nước

hoặc trong các liều lượng bổ sung hàng ngày và chúng có thể hoà tan một cách nhanh chóng ở trong nước. Vôi
đô-lô-mit (dolomite lime) có thể được dùng để làm tăng độ pH của đất có tính a-xít quá mức. Các ion can-xi và
ma-nhê sẽ thay thế các cation khác ở những khu vực trao đổi cation do đó tạm thời làm tăng các chất dinh dưỡng
hiện có như ni-tơ (amôniăc) và ka-li.
Than bùn - Một loại đất gồm có một phần các thành phần của cây bị mục rữa. Chúng được tìm thấy một
cách điển hình ở các vùng đầm lầy hoặc bãi lầy là nơi những điều kiện có tính a-xít đã ngăn chặn quá
trình phân huỷ hoàn toàn. Chúng chủ yếu bao gồm xen-lu-lô-za (cellulose) và chất gỗ (lignin=linhin) và
rất giàu các chất hữu cơ hoặc a-xít humic. Than bùn hoặc các chất có bùn khác ở trong đất là rất quan
trọng cho sự hình thành hệ sinh thái sinh vật học phức tạp (complex biological ecosystem) của đất ngập
nước ổn định. Các chất có bùn và các cac-bon-nat tạo thành một phần quan trọng của hệ thống đệm pH
(pH buffering system). Số lượng chất liệu than bùn đáng muốn có đối với bất kỳ một loại cây thuỷ sinh
cụ thể nào đều có thể khác nhau. Than bùn kém sự không ổn định (không bền) hơn các chất hữu cơ khác
do bản chất có tính a-xít của chúng và sức đề kháng lại sự mục rữa của xen-lu-lô-za và chất gỗ. Có một
số loại than bùn có đặc tính có thể khác nhau một cách đáng kể. Rêu nước (Sphagnum moss) thường
được bán như một loại bùn nhưng trên thực tế nó chưa trải qua quá trình phân huỷ có tính a-xít và lọc các
dưỡng chất mà bùn đầm lầy đích thực đã phải trải qua. Những thí nghiệm của tôi đối với bùn rêu nước
(Sphagnum peat moss) đã chỉ ra rằng chúng không giải phóng một số lượng lớn các dưỡng chất, tuy
nhiên nó sẽ làm giảm đi khả năng ô-xy hoá của lớp chất nền một cách hoàn toàn đáng kể và tạo ra những
nồng độ cô đặc của sắt hoà tan cao hơn trong lớp chất nền. Bùn có tính a-xít. Các loại bùn khác nhau thì
tính chất a-xít của chúng sẽ khác nhau một cách đáng kể. Loại bùn thông dụng nhất hiện có có thể là loại
bùn rêu nước Ca na đa (Canadian sphagnum peat moss) được thấy tại các cửa hàng cung cấp dụng cụ làm
vườn. Bùn rêu nước Ca na đa (Canadian sphagnum peat moss) có độ pH trong khoảng từ 3.4 đến 4.8.
Tính không ổn định (labileness) từ cao xuống đến vừa phải. Nhu cầu về khí ô-xy từ vừa phải cho đến
cao. Khả năng ô-xy hoá thấp. Than bùn có khả năng trao đổi cation cao từ 100 đến 150 cmol/KG.
*Chú ý: Than bùn có tính chất a-xít được pha trộn với nhôm được tìm thấy ở trong đất sét có thể có đủ
tính a-xít để tạo ra độc tính nhôm (Aluminum toxicity) nếu được dùng với số lượng lớn. Một số lượng
nhỏ vôi đô-lô-mit (1 thìa cà phê/1ft2 (≈0,09M2) diện tích bể) được trộn với than bùn sẽ ngăn độ pH trở
nên quá thấp. Cần lưu ý rằng than bùn và các chất hữu cơ khác cũng ngăn cản độc tính kim loại bằng
cách hấp thụ các ion kim loại hoà tan.
Lớp phủ bằng lá cây - Được một số người sử dụng để trồng loại cây họ Cryptocorynes khó trồng. Lá

của những chủng loại cây khác nhau có số lượng các hợp chất độc êm dịu (mildly toxic compounds)
không giống nhau.
Xin tham khảo thêm bài của Jacobsen, Niels : Trồng một số loại cây họ Cryptocoryne khó trồng trong
đất lá sồi giàu mùn (cultivation of some difficult Cryptocoryne species in humus-rich beech leaf-mould)
Phần 5:5, Trang 133 - 137, Tháng 9/10- 1992 (Bài Cây Trồng trong Bể THUÛ SINH - Aqua Planta, 1-
92). Những loại cây khác nhau không giống nhau về tính a-xít.
Phân com-pôt (phân xanh hoặc phân hữu cơ) - Sẽ gần như là toàn bộ chất hữu cơ trừ phi phân com-pôt đã được
trộn với đất khoáng (đó là một cách rất tốt để làm phân hoàn chỉnh). Phân này có thể rất màu mỡ và chắc chắn là
hoàn toàn không ổn định. Số lượng phân com-pôt dư thừa có thể sẽ làm tăng thêm nhu cầu khí ô-xy và đó có thể
sẽ là một vấn đề đối với một số loài cá. Chúng cũng có thể góp phần tạo ra một số lượng cao amôniăc và phôt-
phát trong nước của bể thuỷ sinh mà có thể gây ra những vấn đề trở ngại do tảo. Amôniăc được giải phóng ra có
thể làm cho cây phát triển nhanh nhưng hàm lượng amôniăc cao sẽ gây độc cho cá. ốc sên và cây thuỵ hương
(daphne = daphnia) có thể có sức đề kháng đối với amôniăc hơn một chút so với cá. Phân bò phơi khô (dried cow
dung) được nói đến trong một số bài viết cũ trước đây về cách trồng cây thuỷ sinh được trộn một cách hạn chế
với cát hoặc đất. Có thể hơi có tính chất a-xít. Có khả năng trao đổi cation cao. Có hàm lượng các chất dinh dưỡng
vĩ mô (macro-nutrients) rất cao. Tính không ổn định từ cao đến rất cao. Có nhu cầu ô-xy cao.
Chất thải (phân) của giun (earthworm castings) - Do giun tạo ra bởi vì chúng ăn thức ăn và bài tiết ra phân com-
pôt hữu cơ. Tuỳ thuộc vào môi trường giun sống, cứt giun có số lượng các chất hữu cơ và chất khoáng khác nhau.
Thông thường chúng có thể có +25% chất hữu cơ và rất màu mỡ. Đó là một nguồn đất mùn rất tốt và thường có
thể được tìm thấy tại các trung tâm cung cấp dụng cụ làm vườn do vậy nên luôn có ở khắp nơi. Chúng có đặc tính
tương tự như than bùn nhưng có thể có nồng độ cô đặc các chất dinh dưỡng cao hơn nhiều so với than bùn. Loại
này luôn được dùng như là một hỗn hợp pha trộn với các chất liệu khác để làm lớp chất nền có các khoáng chất
như đất bề mặt hoặc chất pha trộn giữa cát, đất sét, bùn phù sa. Có khả năng trao đổi cation cao. Có hàm lượng
các chất dinh dưỡng vĩ mô rất cao. Tính không ổn định cao. Có nhu cầu ô-xy cao. Nếu được dùng, thì chúng nên
được trộn lẫn với cát để làm giảm bớt đi sự màu mỡ của lớp chất nền.
*Chú ý: khối lượng dư thừa chất thải của giun có thể giải phóng đủ một lượng các chất dinh dưỡng vĩ mô làm tạo
ra những vấn đề khó khăn gay gắt do rêu - tảo. Hãy dùng vừa phải. Chỉ được giới thiệu cho những người có sở
thích chơi bể thuỷ sinh và có kinh nghiệm.
Đất sét gốm (Potting Soil) - Có xu hướng chứa một số lượng lớn bùn rêu nước (Sphagnum peat moss) hoặc các
chất hữu cơ khác và đất có không đủ các khoáng chất. Loại đất này có thể được trộn với đất mặt tự nhiên, đất cái

tự nhiên, cát hoặc đất sét để dùng với tính chất đa dạng của cây trồng trong bể thuỷ sinh. Một số loại họ cây như
Crypts hoặc Echinodorus có thể phát triển mạnh trong môi trường giàu chất hơn này. Tính không ổn định cao. Có
độ phì nhiêu màu mỡ cao. Hơi có tính a-xít. Có khả năng trao đổi cation cao. Có nhu cầu ô-xy cao.
Sắt vi hoá (Micronized iron) - Một chất bổ sung sắt thương phẩm (a commercial iron additive) có thể được cho
thêm vào trong đất của bể thuỷ sinh để làm tăng thêm lượng sắt hiện có. Chúng thường có sẵn tại các trung tâm
bán dụng cụ làm vườn với giá vào khoảng 10 đô la/1 pound (0,453 kg). Loại này nên dùng từng ít một và trộn kỹ
với cát hoặc đất sét trong lớp phủ dưới đáy (bottom layer) của bể thuỷ sinh. Nếu dùng cùng với than bùn thì
lượng than bùn cần được giảm xuống đến mức tối thiểu bởi vì a-xít humic từ than bùn và diện tích bề mặt cao
của sắt vi hoá (micronized iron) có thể sẽ cho phép mức độ sắt quá cao được giải phóng vào trong nước của bể
thuỷ sinh. Vì lý do này nên tôi nghĩ rằng sắt vi hoá (micronized iron) nên được dùng cho lớp phủ dưới đáy
(bottom layer) và than bùn nên được dùng cho lớp phủ ở giữa (middle layer).
Các nguyên tố vi lượng tan chảy (FTE - Fritted Trace Elements) - Một chất bổ sung các vi chất dinh dưỡng
thương phẩm (a commercial micro nutrient additive). Chúng thường có sẵn tại các trung tâm bán dụng cụ làm
vườn với giá dưới 10 đô la/pound (0,453kg) và nên dùng hết sức hạn chế. Loại này có thể được sử dụng để cung
cấp các vi chất dinh dưỡng vi lượng (trace micro nutrients) trong lớp chất nền. Chúng nên được dùng trong lớp
phủ dưới đáy với tỷ lệ khoảng 1 thìa cà phê (5 ml) trên mỗi 4ft2 (1 ft2 = 0,09 m2) của diện tích bể thuỷ sinh.
Đất sét gốm giàu sắt (iron-rich pottery clay) - Không có chứa hàm lượng laterite sắt cao (high iron levels of
laterite); tuy nhiên sắt có thể dễ bị ảnh hưởng hơn do kết cấu mịn (fine texture) của đất sét. Một loại đất sét mà
tôi đã từng thử đó là Terrastone có hàm lượng sắt khoảng 4%. Xin xem phần lưu ý về đất sét. Bằng chứng thí
nghiệm hiện nay cho thấy rằng đây là một sự lựa chọn tốt có giá thành thấp thay thế cho đá ong laterite.
*Chú ý: lớp chất nền có độ pH rất thấp có thể tạo ra nhôm (may cause aluminum) mà đó là điều rất phổ biến
trong nhiều loại đất sét để hoà tan được do lượng than bùn dư thừa được sử dụng cùng với đất sét nhôm là điều
nên tránh. Vôi đô-lô-mit có thể được trộn với than bùn nhằm làm tăng lượng pH để ngăn ngừa độc tố nhôm.
Than hoạt tính (Charcoal) hoặc cac-bon hoạt hoá (activated carbon) - Việc sử dụng các chất liệu này đã được
giới thiệu trong một số cuốn sách về cây trồng trong bể thuỷ sinh, đặc biệt giành cho loại Aponogetons. Đôi khi
than hoạt tính được sử dụng trong các loại đất ở trên mặt đất để giữ cho đất được "ngọt", đó là vì nó hấp thụ
H2S. Chúng tôi có rất ít các thông tin thí nghiệm về loại chất liệu này.
CÁC ĐẶC TÍNH CỦA ĐẤT NGẬP NƯỚC
Kết cấu - Tham khảo kích cỡ của các phần tử lượng (particles). Thường là một sự pha trộn. Đất sét rất mịn về mặt
kết cấu (<2 micron), bùn phù sa thì vừa phải (50 micron đến 2 micron) và cát thì to, thô (2 mm đến 0,05 mm). Cát

sỏi tinh mịn (fine gravel) có thể được xem như có kích cỡ khoảng 2 - 4 mm. Một sự pha trộn giữa các phần tử cát,
bùn phù sa và đất sét là rất thông dụng. Kết cấu quá mịn sẽ không cho phép sự khuếch tán của các chất dinh
dưỡng, nước hoặc ô-xy và có thể làm cho rắn chắc tại những chỗ làm cản trở sự xâm nhập của rễ cây. Kết cấu quá
to, thô thì sẽ không tạo điều kiện thuận lợi tối ưu cho các rễ con (rễ tơ - root hair) được tiếp xúc tốt và sẽ không
kích thích sự phát triển của rễ hoặc sự phát triển của cây. Một số cách thiết kế lớp chất nền đòi hỏi phải có kết
cấu to, thô để tạo thuận lợi cho sự lưu thông; tuy nhiên điều này có thể sẽ không tốt đối với những lớp chất nền
hữu cơ hoặc giàu chất dinh dưỡng.
Tỷ trọng (độ đậm đặc - density) - Bị ảnh hưởng mạnh bởi tổng lượng các chất hữu cơ, quá đặc chắc và tính dễ
thấm cũng bị ảnh hưởng. Vật liệu làm chất nền có quá nhiều chất hữu cơ sẽ làm giảm hàm lượng thể tích chất
dinh dưỡng và làm cho các chất dinh dưỡng trở nên ít có sẵn cho rễ cây.
Hàm lượng cac-bon-nat (carbonat content) - là số lượng muối cac-bon-nat (CaCO3, MgCO3) có ở trong lớp chất
nền. Những loại khoáng chất này có thể có tác động lớn đến cấu trúc pH của nước ( water pH chemistry). Việc
thay đổi mức độ cứng của cac-bon-nat sẽ ảnh hưởng đến tính chính xác của các bộ phận kiểm tra CO2 tự động
dựa trên trị giá của độ cứng cac-bon-nat không đổi (bất biến) nhằm đạt tới một hàm lượng CO2¬ mong muốn.
Chất hữu cơ - Là những chất chuyển hoá từ các cơ thể sống (living organisms). Cây cần phải được cung cấp nhiều
loại dinh dưỡng để phát triển và đó là những chất dinh dưỡng được giải phóng ra trong quá trình phân huỷ của vi
khuẩn. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng những chất lắng xuống tự nhiên (natural sediments) có tỷ lệ là 5%
trên trọng lượng của chất hữu cơ là tốt nhất cho những loại cây đã được nghiên cứu này. Những loại cây khác
nhau có thể sẽ ưa thích nồng độ cô đặc của các chất hữu cơ không giống nhau. Các loại cây họ Cryptocorynes và
họ Echinodorus có thể mọc tốt trong điều kiện nồng độ cô đặc cao hơn; tuy nhiên chúng tôi có thể cho rằng sẽ có
nhiều vấn đề về tính chất hay thay đổi và quá nhiều chất dinh dưỡng sẽ tạo ra những cụm hoa tảo xanh đơn bào.
Không phải tất cả các loại chất hữu cơ đều cần bởi vì chúng khác nhau về tính không ổn định (xem thêm phần về
tính không ổn định). Chất hữu cơ mà gần như được phân huỷ hoàn toàn thì nói chung là được ưa thích hơn (vì
tính không ổn định thấp). Tất cả các chất hữu cơ sẽ giải phóng ra nhiều loại hữu cơ khác nhau hoặc các loại a-xít
humic trong quá trình phân huỷ. Những a-xít này sẽ có ảnh hưởng tới độ chính xác của việc đo nồng độ cô đặc
CO2 dựa trên độ pH. Tác động này sẽ tăng lên cùng với số lượng a-xít humic trong dung dịch nên những người
chơi bể thuỷ sinh cần phải chú ý tới tác động này. Họ có thể sẽ phải xem xét tới việc kiểm tra tỷ lệ bơm khí CO2
theo tỷ lệ bong bóng khí nếu họ lựa chọn việc sử dụng chất hữu cơ.
Hàm lượng chất bùn (humic material content) - Là tỷ lệ chất hữu cơ đã gần như tới giai đoạn phân huỷ hoàn
toàn. Đất mùn chủ yếu bao gồm thành phần các vách tế bào cây (plant cell walls) là nơi tạo sức bền về cấu trúc,

chất gỗ (lignin) và xen-lu-lo (cellulose) của cây. Chủng loại các chất nền bằng bùn là rất khác nhau và vô cùng
phức tạp. Chúng có khả năng trao đổi cation là vô cùng cao. Khả năng trao đổi cation của đất mùn là độ pH phụ
thuộc và sẽ thấp khi có độ pH thấp. Điều này là rất đáng phải có bởi vì nó cho phép các rễ tơ của cây tiết ra các a-
xít hữu cơ để giải phóng các ion chất dinh dưỡng đã được chất bùn hấp thụ.
CEC - Khả năng trao đổi cation. Khả năng giành và giữ được các dưỡng chất có ion dương (positive ions - ion+)
như ma-nhê (Mg), man-gan (Mn), sắt (Fe), đồng (Cu), bo ( , can-xi (Ca), kali (K), kẽm (Zn), mô-lyp-đen (Mo), cô-
ban (Co), nat-tri (Na) và ni-ken (Ni) cũng như ni-tơ (N) trong cation NH4+. Đơn vị đo lường là cmol/kg (hoặc là
meg/100 gram tương đương).
"Sự phong phú các cation dinh dưỡng này được giữ lại ở trong lớp chất nền sẽ được cây khai thác sử dụng, chúng
sẽ tạo thành một nhà kho chứa các chất dinh dưỡng và ngăn không cho tan vào trong nước. Với việc trao đổi
cation, các ion H+ sẽ được giải phóng ra khỏi rễ tơ của cây, và đến lượt mình các ion H+ sẽ trao đổi với các ion
chất dinh dưỡng đã được hấp thụ trên bề mặt các phần tử đất sét, thúc đẩy các chất dinh dưỡng vào trong dung
dịch để tại đây chúng có thể được cây tiêu hoá. Như một nguyên tắc chung, khả năng cầm giữ cation của đất
trong những tình thế sẵn sàng có thể trao đổi được cần được xem xét cẩn thận trong việc nuôi dưỡng cây. Khả
năng này cần được đo lường về mặt số lượng theo đơn vị centimoles của trạng thái khối lượng có khả năng trao
đổi trên mỗi kg của lớp chất nền và điều đó được gọi là khả năng trao đổi cation (CEC). Dưới đây là bảng biểu về
khả năng trao đổi cation gần đúng của các chất hữu cơ và một số loại đất sét thông dụng khác nhau được lấy gần
độ pH=7.0
Khả năng trao đổi cation (CEC) của một số chất thông dụng: Được căn cứ theo bảng sau:
Thành phần đất (cmol/kg)/ Khả năng trao đổi cation (CEC)
- Đất mùn (humus) / 200
- Than bùn (peat) / 100-150
- Chất khoáng bón cây (vermiculite) / 150
- Sét tẩy bẩn (smectites) / 100
- Il-lít (illite) / 30
- Clo-rit (chlorite) / 30
- Kao lanh (kaolinite) / 8
- Ô-xít sắt, ô-xít nhôm (lac-tơ-rit - laterite) / 4
Các cation khác nhau thì sự hấp thụ cũng sẽ khác nhau.
Khả năng hấp thụ các cation

Al > H > Ca > Mg > K > Na
PH - Đo nồng độ cô đặc của các ion hy-đrô. Độ pH càng thấp thì nồng độ cô đặc của các ion H+ trong dung dịch
càng cao. Độ pH tác động rất lớn đến các phản ứng hoá học và các quá trình sinh học. Độ pH thấp ở trong lớp
chất nền sẽ cản trở hoạt động sinh học vi mô và ngăn cản việc tiếp nhận chất dinh dưỡng của rễ cây. Độ pH cao
sẽ thuận lợi cho một số loại vi khuẩn và phản ứng hoá học không thích hợp và có thể tạo ra những điều kiện độc
hại cho cây, cá và những thuỷ sinh vật khác. Các chất dinh dưỡng vĩ mô (nat-tri, can-xi, ma-nhê, lưu huỳnh, phốt-
pho, ka li) phần lớn đều có sẵn từ 6-7 độ pH. Các vi chất dinh dưỡng (sắt, mang-gan, kẽm, đồng, cô-ban) có sẵn
hơn ở độ pH thấp. Dưới 6 độ pH có thể dẫn đến độc tính nhôm từ trong đất sét (si-li-cat nhôm).
Tính kiềm (alkalinity) - Đo số lượng các kim loại có tính kiềm của đất (can-xi, ma-nhê) và các kim loại có tính kiềm
khác (kali, phốt-pho v.v ) trong các hợp chất. Nói chung, chúng thường được kết hợp với độ pH cao hơn.
Tính chất đầy đủ của khoáng chất (mineral completeness) - Để đo có bao nhiêu khoáng chất vi lượng (trace
minerals) hiện hữu và có sẵn ở trong đất.
Các chất dinh dưỡng N-P-K - Để đo các loại chất dinh dưỡng chủ yếu mà chúng giữ một vị trí chủ chốt trong sự
màu mỡ. Những loại chất dinh dưỡng này có thể được bổ sung bằng các loại phân hoá học cho dù điều này có thể
là không cần thiết trong một vài tháng đầu tiên của một lớp chất nền hữu cơ.
Trạng thái rỗ, xốp (porosity) hoặc tính chất thấm được (permeability) - Để đo xem nước hoặc các chất dinh
dưỡng hoà tan có thể khuếch tán qua lớp chất nền nhanh như thế nào. Tính chất thấm được cao (cho phép sự
khuếch tán nhanh chóng) thực sự là không đáng muốn có ở trong một lớp chất nền màu mỡ bởi vì nó sẽ cho
phép các chất dinh dưỡng thoát vào trong nước một cách nhanh chóng hơn. Các loại đất trên cạn cần phải tơi,
xốp để cho phép khí ô-xy lưu thông được trong đất. Khí ô-xy không đủ sẽ gây ra những điều kiện độc hại mà còn
có thể giết chết rất nhiều loại cây trên cạn. Đây không phải là một vấn đề nghiêm trọng đối với cây thuỷ sinh bởi
vì chúng hoàn toàn thích nghi với môi trường kỵ khí.
Tính không ổn định hoặc tính dễ biến đổi (labileness or lability) - Để đo một chất hữu cơ không ổn định như thế
nào về khía cạnh xu hướng phân huỷ của chúng. Mô động vật (animal tissue), thực phẩm, phân (cứt) hoặc phân
bón đều rất không ổn định và sẽ phân huỷ một cách nhanh chóng và tiêu thụ một số lượng lớn khí ô-xy, giải
phóng ra nhiều loại sản phẩm phân huỷ và có thể có một số loại vi khuẩn phụ độc hại khác ( supporting possibly
toxic bacteria). Chất bùn là chất hữu cơ có tính chất không ổn định thấp nhất. Cần lưu ý rằng sự phì nhiêu màu
mỡ có tương quan cao với tính chất không ổn định (labileness).
Nhu cầu về khí ô-xy - Có liên quan mật thiết đến tính chất không ổn định. Nhu cầu về khí ô-xy quá nhiều có thể
tạo ra một sự thiếu hụt khí ô-xy ở trong nước của bể thuỷ sinh. Nhu cầu ô-xy vừa phải sẽ làm tăng lượng CO2 của

nước trong bể thuỷ sinh và nước ở giữa các khe hở của lớp chất nền. Nhu cầu khí ô-xy từ mức vừa phải cho tới
thấp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc giảm lượng sắt và man-gan xuống tới trạng thái có thể hoà tan
được.
Khả năng khử và quá trình ô-xy hoá (redox potential) - Khả năng làm giảm quá trình ô-xy hoá (ORP = Oxidation
Reduction Potential). Việc đo toàn bộ số lượng và tỷ lệ của các loại hoá chất khác nhau hoạt động như những
thành phần cho hoặc tiếp nhận các electron. Về khía cạnh thực tiễn, việc này xác định nồng độ cô đặc của các
dạng hoá chất khác nhau đưa đến từ các phản ứng hoá học và phản ứng sinh hoá ở trong lớp chất nền. Sự có mặt
của khí ô-xy hoặc những loại hoá chất có tình trạng quá trình ô-xy hoá cao như ni-trat sẽ làm tăng khả năng khử
và quá trình ô-xy hoá. Việc không có khí ô-xy v.v và sự có mặt của những loại hoá chất có tình trạng quá trình ô-
xy hoá thấp (the presence of low oxidance state chemicals) như các ion sun-phit hoặc a-mô-ni-ăc sẽ làm giảm
xuống thấp khả năng khử và quá trình ô-xy hoá. Khả năng khử và quá trình ô-xy hoá thấp sẽ làm tăng mạnh khả
năng hoà tan của những khoáng chất như sắt và man-gan là những chất có thể làm thay đổi tình trạng quá trình
ô-xy hoá. Nó cũng tạo thuận lợi cho nồng độ cô đặc của a-mô-ni-ăc từ các phản ứng ni-trat và điều này làm tăng
khả năng sẵn có của ni-tơ và phốt-pho cho cây trồng. Khả năng khử và quá trình ô-xy hoá rất thấp sẽ sản sinh ra
các sun-phít độc hại từ sun-phát.
Sun-phua (sulfur) - Là một trong những chất dinh dưỡng vĩ mô cần thiết. Số lượng dư thừa các hợp chất sun-
phua trong lớp chất nền có thể dẫn tới việc sản sinh ra khí H2S độc hại. Việc này có thể phát sinh ra từ việc sử
dụng bừa bãi các loại phân bón có sun-phát và các chất hữu cơ giàu lượng sun-phua dư thừa như phân hoá học
(manure).
Sắt - Khả năng sẵn có của sắt ở trong đất phụ thuộc vào việc sắt có bao nhiêu ở trong đất và khí ô-xy rễ cây sử
dụng ở trong lớp chất nền mà sẽ làm giảm mạnh khả năng sẵn có của sắt do lớp chất nền đã trở thành khu vực
giới hạn rễ cây. Chắc chắn là các bạn sẽ cần phải sử dụng đến sự bổ sung nước ngậm sắt (additions of chelated Fe
water) trong một hệ thống phân hoá học. Một số loại cây, đặc biệt nhất là cây họ Cryptocorynes, có thể có những
phương pháp hút sắt từ trong lớp chất nền cho dù trong những điều kiện khí ô-xy cao theo như những quan sát
của Paul Krombholz. Sắt có rất nhiều trong phần lớn các loại đất và có sẵn trong những loại chất liệu có kết cấu
tinh, mịn như những loại chất liệu có chứa đất sét. Các loại đất đá ong lac-tơ-rit (lateritic soils) có thể có hàm
lượng sắt tới 300mg/g (chiếm 30% theo trọng lượng). Những giá trị ở giữa hoặc tiêu biểu cho tất cả các loại đất
và các trầm tích (sediments) được mô tả là 40mg/g (theo bài viết của Diana Walstad "Sắt Chất Dinh dưỡng Hạn
chế đối với Tảo?" trong TAG 6:4).Những chất liệu có kết cấu thô như cát và sỏi sẽ không thể cung cấp được sắt.
Các loại đá ong laterite có hạt vào thời gian ban đầu có thể cung cấp được sắt nhưng kết cấu của chúng lại không

đủ mịn để cung cấp được sắt trong một thời gian dài hơn.
Sắt phải được hoà tan để có thể có được sẵn cho phần lớn các loại cây. Chúng sẽ không hoà tan tính chất hoá học
của nó giảm xuống thành Fe++ (ion sắt). Điều đó đòi hỏi việc không có khí ô-xy gây ra do các vi khuẩn kỵ khí hoạt
động trong chất liệu hữu cơ (có nghĩa là than bùn). Các loại vi khuẩn kỵ khí đặc biệt cũng phải chịu trách nhiệm
đối với việc làm giảm lượng sắt. A-xít humic của than bùn cũng ngăn cản các ion sắt (Fe++) không bị ô-xy hoá và
kết tủa, ngưng tụ (thoát ra khỏi dung dịch) bằng cách gắn kết với ion sắt đã được hoà tan (một quá trình được gọi
là kẹp = a process called chelation).
A-xít humic : Tác động lên độ pH và nước. Các biện pháp đo kiểm tra khí CO¬2 và độ cứng sẽ bị ảnh hưởng bởi a-
xít humic bởi vì chúng thường là a-xít hoặc chuẩn độ dung dịch ba-zơ (base titrations). A-xít humic thì tinh khiết
(fine) trong những nồng độ cô đặc nhỏ và chúng ta cần phải cẩn thận kiểm tra nồng độ cô đặc của chúng bằng
việc thay nước thường xuyên và có thể là bằng cách dùng các bộ lọc cac-bon hoạt tính.
GIAI ĐOẠN CHUYỂN HOÁ SAU THỜI KỲ NGẬP NƯỚC CỦA CHẤT NỀN
Một điều nữa cần phải nhớ về các lớp chất nền hữu cơ và các lớp chất nền bằng đất nói chung đó là việc chúng sẽ
phải trải qua một thời kỳ chuyển hoá (transition period) kéo dài một vài tháng ngay sau giai đoạn ngập nước ban
đầu. Trong thời gian này, phụ thuộc vào số lượng và chủng loại chất hữu cơ, sẽ có rất nhiều hoạt động của vi
khuẩn và sự giải phóng ra một số các hợp chất nhất định mà không phải tất cả các loại cây đều được chuẩn bị để
đương đầu với chúng một cách như nhau. Cây thuỷ sinh thích nghi với việc làm này bằng cách dẫn khí ô-xy vào hệ
thống rễ của chúng thông qua những rãnh không khí trong cây (air channels) được gọi là mô khí (aerenchyma).
Khí ô-xy này sẽ khuếch tán từ trong rễ và giải độc cho nhiều hợp chất có hại như a-mô-ni-ắc, H¬2S hoặc lượng sắt
dư thừa.
Một số loại cây họ Crypts, Alternanthera spp và Lobelia (có rễ và lá dày) là nhóm cây cư trú đầu tiên nhanh nhất
trong đất có chất hữu cơ cao đang chuyển hoá, tiếp ngay sau đó là cây họ Hygrophila spp và Bacopa . Điều này có
thể liên quan nhiều hơn tới việc tạo dựng lại bể bằng cách tẩy rửa và những loại cây có thân cuống và lá dày, rậm
thì sẽ có thuận lợi lớn. Trong thời kỳ chuyển hoá tôi nghĩ rằng cây cũng rất nhạy cảm đối với việc có quá nhiều lá
cây bị hái bởi vì việc này sẽ ảnh hưởng tới khả năng tạo ra khí ô-xy cần có để bảo vệ rễ cây của chúng. Có thể tốt
nhất là nên dùng những loại cây khoẻ mạnh cho bể thuỷ sinh không bị mắc các loại tảo khác trong thời gian trồng
cây ban đầu. Các bạn thực sự không muốn đưa vào bất kỳ loại tảo nào có nhiều sợi nhỏ và những loại cây được
trồng sạch sẽ, phát triển nhanh thì tốt đối với việc tiêu thụ sớm và với số lượng cao các chất dinh dưỡng có thể
được giải phóng ra.
Một trở ngại khác của thời kỳ chuyển hoá đó là khả năng giải phóng ra a-mô-ni-ắc do kết quả của quá trình giảm

bớt vi khuẩn nhờ ni-trat có ở trong lớp chất nền. A-mô-ni-ắc này có thể là một sự hỗ trợ dinh dưỡng to lớn đối
với cây để bạn có thể quan sát thấy được những triệu chứng thiếu hụt các chất dinh dưỡng khác có nguyên nhân
do sự phát triển nhanh chóng của cây. A-mô-ni-ắc cũng có thể là một trở ngại đối với cá nếu như bạn có cá ở
trong bể. Cần có một kế hoạch tốt để sử dụng cây thuỵ hương (daphnia) và ốc sên để phá vỡ cấu trúc bên trong
bể, đặc biệt nếu các bạn có thể bảo đảm được rằng bể thuỷ sinh không có tảo sợi (filament algae) (tham khảo
thêm phương pháp tẩy Krombholz). Thông thường, tôi dùng rất ít hoặc không dùng hệ thống lọc sinh học (ni-trat
hoá vi khuẩn) để nhằm ngăn chặn a-mô-ni-ắc vì lợi ích của cây. Trong thời kỳ chuyển hoá, các bạn có thể dùng hệ
thống lọc sinh học để ngăn ngừa hàm lượng a-mô-ni-ắc độc hại.
Thời kỳ chuyển hoá cũng có thể được kết hợp với hàm lượng ni-trat và phốt-phát hoà tan rất cao ở trong nước bể
thuỷ sinh. Sắt chelated (chelated Fe) cần phải được bổ sung thêm vào một cách hết sức thận trọng để cho tảo
không sinh sôi phát triển được. Vi khuẩn cyano xanh (blue green cyanobacteria) thường phát triển tốt. ốc sên và
tôm có thể là những loài động vật tiêu thụ hữu ích đối với những loài có hại này. Tảo đơn bào xanh, được kết hợp
với nước có màu xanh, có thể sẽ nở hoa rất tốt. Cây daphnia (thuỵ hương???) có thể là một phương pháp giải
quyết tuyệt vời đối với những trường hợp này, tuy nhiên, tất cả mọi loại cá, thậm chí cả cá ăn rêu - tảo, đều rất
thích ăn daphnia. Sự kiên trì qua việc thay nước Quận sử dụng các bộ vi lọc (micro filter) có chất lượng tốt sẽ giúp
chúng ta giải quyết được vấn đề nước có màu xanh
Một điều nữa cũng cần phải lưu ý rằng những lớp chất nền khoáng chất cơ bản như sỏi, cát và đá ong laterite
không giống như nhau về dạng – thời kỳ (tiến trình) chuyển hoá. Những loại lớp chất nền này có thời kỳ chuyển
hoá khác nhau - khi mà phân cá, các mẩu cây rữa nát trong nước và thực phẩm không ăn được sẽ rơi xuống lớp
cát sỏi để tạo thành những thành phần hữu cơ quan trọng của một lớp chất nền màu mỡ.
CÁC SẢN PHẨM PHÂN HUỶ CHẤT HỮU CƠ
"Cac-bon có thể được chuyển hoá để tạo ra các ethanol, a-xit lactic, methal hoặc các hợp chất hữu cơ phức tạp,
có tính khúc xạ và nhiều chu kỳ (complex, refractive, polycyclic organic compounds). Ferric sắt (ferric iron) biến
đổi thành ferrous sắt (ferrous iron) do kết quả của việc giải phóng phốt-phat từ các chất kết tủa của hy-đrô-xit
ferric (ferric hydroxide precipitates). Ô-xit mang-gan (manganese oxide) được biến đổi thành ô-xit manganous
(manganous oxide). Các sun-phát được biến đổi thành sun-phít. Ferrous sắt và sun-phít kết hợp với nhau và tạo
thành chất kết tủa sun-phít ferrous không hoà tan (insoluble ferrous sulfide precipitate). Ni-trat được biến đổi
thành a-mô-ni-ắc. Một điều lưu ý thấy rằng có một thứ tự rõ ràng đối với những sự việc này dựa trên khả năng ô-
xy hoá khử (redox potential) của lớp chất nền do đó không phải tất cả những quá trình này rồi sẽ diễn ra trừ
phi khả năng ô-xy hoá khử là đủ thấp" – (theo Dave Huebert).

A-mô-ni-ắc - Việc sinh ra a-mô-ni-ắc (nguồn cung cấp khí ni-tơ được ưa thích hơn) qua các phản ứng biến đổi
trong một lớp chất nền màu mỡ diễn ra một cách dễ dàng. Các ion a-mô-ni-ắc có thể bị các khu vực trao đổi
cation giữ lại (captured by cation exchange sites) trong đất sét và các chất liệu đất mùn sẽ làm tăng mạnh sự phát
triển của cây thuỷ sinh. Hàm lượng a-mô-ni-ắc cao hơn nhiều có thể chịu được trong các bể thuỷ sinh có trồng
cây nếu như không có cá. A-mô-ni-ắc cần phải được giám sát chặt trong thời kỳ chuyển hoá tiếp theo sau thời kỳ
ngập nước nếu như lớp chất nền là màu mỡ hoặc giàu ni-tơ. Cần lưu ý rằng a-mô-ni-ắc sẽ được sản sinh ra với
một khối lượng lớn từ các loại phân bón có chứa ni-trat ở trong lớp chất nền.
CO2 - Có bằng chứng thuyết phục được đưa ra cho rằng cây thuỷ sinh có thể tận dụng được đi-ô-xit cac-bon được
sản sinh ra ở bên trong lớp chất nền. Khi không có cá ở trong bể, một lớp chất nền không ổn định có thể cung cấp
rất nhiều khí CO2 để thoả mãn nhu cầu của cây mà không có lợi cho việc có khí ô-xy ở trong nước. Cây có thể hấp
thụ được CO2 thông qua lá hoặc rễ. Chúng tôi không biết nếu như tất cả các loại cây thuỷ sinh có thể hấp thụ
được CO2 bằng rễ của mình.
Ethylene - Một loại phụ phẩm khí độc nhẹ (a mildly toxic gas by-product) của quá trình phân huỷ. Nói chung,
chúng không được sinh ra ở những nồng độ cô đặc đầy đủ cần phải quan tâm đến.
Sun-phít hy-đrô (hydrogen sulfide - H2S) - Có thể được sinh ra nếu có đủ chất hữu cơ mà không có các chất ô-xy
hoá (bất thường) để ngăn chặn sự hình thành của chúng. Nói chung , đây không phải là một vấn đề khó khăn
trong một bể thuỷ sinh có trồng cây tốt, đặc biệt khi sử dụng các loại đất có chứa sắt. Xin xem thêm về sun-phát
và sun-phít.
Các a-xít humic (humic acides) - Đây là một thuật ngữ dùng chung để tham chiếu đến một nhóm các loại nước
khác nhau có các hợp chất hữu cơ phức tạp, độc hại, có tính a-xít và có thể hoà tan. Chắc chắn có các nhóm
fenola (phenolic groups) trong phần lớn các hợp chất này. Chúng rất phức tạp và khác nhau do đó chúng hoàn
toàn khó phân loại một cách riêng biệt. Đây là những sản phẩm tự nhiên có được từ quá trình phân huỷ của đất
mùn và các chất hữu cơ nói chung. ở dạng cô đặc, chúng có thể có độc tố cao nhưng ở nồng độ cô đặc tự nhiên,
về cơ bản chúng là có ích lợi. Chúng có xu hướng ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn và tảo và hoạt động như
những tác nhân kiềm hãm tự nhiên phẩm cấp thấp đối với sắt (act as low grade natural chelating agents for iron).
Đây là những chất liệu được tìm thấy trong những phần chiết ra của nước màu đen (black water extracts) rất hữu
ích đối với các loài sinh vật của rừng nhiệt đới vùng Amazon (Amazon rain-forest species). Có thể chúng cũng rất
quan trọng trong những hệ thống đệm pH (in pH buffering systems) và giúp tạo ra sự ổn định pH.
Methane - Đây chắc chắn là một trong những sản phẩm thể khí chủ yếu phát sinh ra từ trong các lớp chất nền.
Khí này không độc hại ở nồng độ cô đặc bình thường.

N2 - Là một số lượng nhất định của khí ni-tơ sẽ được sinh ra do hoạt động khử ni-tơ của vi khuẩn trong lớp chất
nền. Đây là kết quả của việc mất khí ni-tơ pha trộn hữu ích; tuy nhiên điều này có thể là không quan trọng trong
toàn bộ tổng số khối khí ni-tơ. Sản phẩm của thời kỳ phân huỷ này không độc hại. Những nghiên cứu thí nghiệm
sâu hơn nữa có thể sẽ làm cho chúng ta hiểu rõ ràng hơn về các trạng thái khử ni-tơ hoặc về cấp độ khi các hoạt
động này diễn ra ở trong bể thuỷ sinh.
Ni-trat (nitrate) - Các mức độ cao hơn của ni-trat chắc chắn sẽ diễn ra cùng với các lớp chất nền màu mỡ nhưng
nhìn chung thì điều này không phải là một vấn đề khó khăn. Cần phải tránh việc sử dụng các chất bổ sung ni-trat
(có nghĩa là PMDD) cho đến khi đã xác định được rằng mức độ (hàm lượng) ni-trat đã giảm xuống.
Phốt-phat (phosphate) - Phốt-phat được giải phóng ra một cách dễ dàng trong quá trình phân huỷ của các chất
hữu cơ. Phân và thực phẩm của cá cung cấp một lượng dư thừa phôt-phat. Phốt-phat vô cùng dễ hoà tan và
những đất tự nhiên nào bị phụ thuộc vào mưa thường sẽ có hàm lượng phôt-phat rất là thấp. Trong thời kỳ chết
đi của lá cây, phôt-pho sẽ được cây hút ra hoặc được giải phóng vào trong nước ở bể thuỷ sinh một cách rất dễ
dàng. Tổng số lượng phốt-phat ở trong nước của một bể thuỷ sinh có thể được tái hấp thụ và giải phóng ra trong
một khoảng thời gian 2 tiếng.
Ka-li (potassium) - Có độ hoà tan cao và không có sự hiện diện với khối lượng lớn trong các chất hữu cơ bị phân
huỷ. Chắc chắn là người ta cần phải biết để bổ sung ka-li vào trong nước bể thuỷ sinh thường xuyên. Ka-li được
giải phóng ra khỏi chất hữu cơ ngay thời gian đầu của quá trình phân huỷ.
Sun-phát/sun-phít - Các ion sun-phit có thể được sinh ra trong một môi trường có quá trình ô-xy hoá và sự khử
thấp; tuy nhiên các ion này nhanh chóng bị ô-xy hoá sang các dạng không độc hại. Sắt cũng sẽ phản ứng với các
hỗn hợp sun-phit để tạo thành sun-phua sắt (FeS) không độc hại. Sun-phit bị các ô-xy tự do có ở trên lớp bề mặt
trên cùng hoặc ở bên trên của lớp chất nền làm cho ô-xy hoá và sẽ không bao giờ có mặt ở trong nước bị ô-xy
hoá. Mối lo đối với việc tạo thành hy-đrô sun-phit (hydrogen sulfide formation) trong các lớp chất nền hữu cơ
dường như là đã bị phóng đại quá mức. Cây thuỷ sinh đã thích nghi để bảo vệ cho rễ của chúng thông qua các
ống dẫn ô-xy (oxygen conducting channels) và các mô khí của chúng. Một lớp chất nền của bể thuỷ sinh được
dựng có thể sẽ bị rễ cây lan đầy mà không có một chỗ nào trên đó có khả năng về quá trình ô-xy hoá và sự khử
thấp một cách đầy đủ để đưa đến việc tạo thành các sun-phit. Một bể thuỷ sinh không có đủ ánh sáng hoặc
không có đủ các điều kiện cần thiết cho sự quang hợp thì có thể sẽ phải chịu sự thiếu hụt ô-xy và sự tạo thành hy-
đrô sun-phit có thể sẽ diễn ra.
RỄ VÀ RỄ TƠ (Root Hairs)
"Phần lớn các loại cây thuỷ sinh có rễ đều cho thấy chúng có rễ tơ, một vài loại khác nhau đã cho thấy chúng phát

triển các quần hợp mycorrhizal (mycorrhizal associations) nhiều như các loại cây sống trên cạn. Cây thuỷ sinh có
rễ thích nghi tốt đối với sự phát triển trong một lớp chất nền kỵ khí. Chúng có thể "bơm" đủ khí ô-xy đến rễ để
trong rất nhiều trường hợp trên thực tế khí ô-xy sẽ khuếch tán vào trong lớp trầm tích xung quanh (surrounding
sediment). Chúng cũng có thể hô hấp có tính chất kỵ khí nếu thấy cần thiết và sản sinh ra a-xit lactic hoặc ethanol
thay vì ra khí CO2 như là một loại phụ phẩm. Các mô phân sinh của rễ (các đầu nhỏ đang mọc ra) của một số loại
cây thậm chí còn bị hạn chế với sự xuất hiện của khí ô-xy" - Dave Huebert.
CÁC LỚP CHẤT NỀN PHÌ NHIÊU
"Các cây thuỷ sinh có rễ phát triển tốt nhất trên đất khoáng như đất nhiều mùn có bùn, phù sa có lượng chất hữu
cơ thấp. Các loại cây thuỷ sinh có rễ không đòi hỏi phải có ni-tơ, phốt-phat, lưu huỳnh (N,P,S) hoặc các vi chất
dinh dưỡng ở trong nước khi chúng mọc trên một lớp chất nền phì nhiêu, màu mỡ. Các cây thuỷ sinh mọc rễ sẽ
phát triển tốt nhất khi lớp chất nền kỵ khí trên thực tế một số rễ cây không sản sinh ra các rễ tơ trừ phi lớp
chất nền kỵ khí. Trong phần lớn các trường hợp, điều đó xem như là cac-bon vô cơ (inorganic carbon) hạn chế sự
phát triển của các loại cây thuỷ sinh sống ngập dước nước không phải bởi vì nó quá thấp về độ cô đặc hoặc bởi
vì các cơ cấu hấp thụ không hiệu quả trong các cây thuỷ sinh (trên thực tế cả hai yếu tố này đều có thể so sánh
được với cây sống ở trên cạn), nhưng bởi vì tính khuếch tán của CO2 ở trong nước là chậm hơn khoảng 10.000
lần so với trong không khí.
"Các cây thuỷ sinh đều chịu sự phát triển theo chu kỳ, thậm chí cả trong những trạng thái điều kiện không thay
đổi. Điều này có nghĩa rằng thậm chí trong những điều kiện trạng thái tốt nhất thì cây của bạn sẽ phát triển chậm
đi và đôi khi có thể chết đi.
"Những cây thuỷ sinh có mọc rễ, không giống như những cây tương tự như chúng sống ở trên cạn, đều có thể
hấp thụ được các khoáng chất dinh dưỡng cả từ trong nước thông qua lá của chúng và cả từ dưới lớp đáy trầm
tích qua rễ của chúng. Rất đáng tiếc, người ta thường hay cho rằng các loại cây thuỷ sinh có mọc rễ có thể thoả
mãn được tất cả mọi nhu cầu về khoáng chất dinh dưỡng của chúng từ trong nước thông qua sự hấp thụ qua lá
cây. Tuy nhiên điều này là không đúng. Ngay từ đầu năm 1905, một nhà nghiên cứu tên là Raymond H. Pond đã
nêu ra rằng: " một lớp chất nền cần thiết phải có sự phát triển bình thường" và rằng "[các cây thuỷ sinh có mọc
rễ] có được sự phát triển tốt hơn trên đất có nhiều mùn tốt, đúng như nhiều loại cây mọc trên cạn có được". Kể
từ đó, sự phát triển vượt trội một cách ổn định và đầy ấn tượng của những cây mọc rễ trong đất được so sánh
với những cây mọc rễ trong cát đã nhiều lần cho thấy đối với nhiều loại cây thuỷ sinh khác nhau từ nhiều thể loại
môi trường sống khác nhau của cây.
"Trong khi những lý do về sự phát triển vượt trội này không thể hiểu được một cách hoàn toàn, thì có một số yếu

tố nhất định lại rất rõ ràng. Trước tiên, các loại đất ngập nước nói chung đều thiếu ô-xy. Điều này là vì lợi ích của
các cây thuỷ sinh có mọc rễ bởi vì trong tình trạng (trạng thái) thiếu ô-xy huyết thì sắt, phốt-pho và ni-tơ dễ có
nhiều hơn so với trong trạng thái ưa khí. Thứ hai là nồng độ cô đặc của chất dinh dưỡng trong một lớp chất nền
phì nhiêu, màu mỡ thì cao hơn là trong nước phủ bên trên. Thứ ba là sẽ không có sự cạnh tranh với
phytoplankton đối với những chất dinh dưỡng hiện có". - Dave Huebert
Chúng tôi gọi những lớp chất nền này là "phì nhiêu, màu mỡ"; tuy nhiên tất cả mọi cố gắng của chúng tôi chung
qui chỉ hướng tới một điều và một điều duy nhất là: để cung cấp một hàm lượng các chất dinh dưỡng thấp, an
toàn cho cây tại khu vực có rễ cây mọc. Một lớp chất nền màu mỡ đơn giản có nghĩa là chúng tôi cố gắng đưa ra
một tỷ lệ các chất dinh dưỡng lớn hơn dành cho rễ cây.
CÁC LỚP CHẤT NỀN CÓ ĐỘ PHÌ NHIÊU THẤP
Những vấn đề trở ngại do tính chất đục, sự chuyển hoá và việc chuẩn bị lớp chất nền có thể hoàn toàn là
quá phức tạp đối với rất nhiều người. Trong trường hợp có cường độ ánh sáng thấp hoặc vừa phải, người
chơi bể thuỷ sinh có thể sẽ có được sự thành công khi sử dụng các chất dinh dưỡng tự nhiên mà họ đã
tích luỹ được qua việc chăm sóc cá. Họ sẽ thu được những lợi ích to lớn từ việc bổ sung thêm chelated
sắt (chelated Fe) và việc làm giàu CO2. Do cường độ ánh sáng được tăng cường và với việc bổ sung
thêm khí CO2, những triệu chứng về sự thiếu hụt chất dinh dưỡng sẽ diễn ra mà không có việc sử dụng
phân bón. Phương pháp Dupla như đã được mô tả trong cuốn sách Bể THUỶ SINH tốt nhất (The
Optimum Aquarium) hoặc như đã được George Booth chắt lọc lại là hết sức thành công và có thể lặp lại
một cách dễ dàng. Phương pháp làm cho màu mỡ bằng PMDD như đã được mô tả trên mạng internet
cũng hết sức thành công. Phương pháp này cũng xem xét đến những vấn đề khó khăn của việc làm giàu
khí ni-tơ mà phần lớn các phương pháp khác không xem xét tới. Có vô số các phương pháp có tính chất
thương mại hoặc phương pháp tự làm lấy khác để nhằm cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trong bể thuỷ
sinh thông qua nước. Có thể nhắc lại rằng tất cả những phương pháp này có thể được dùng với những lớp
chất nền có độ màu mỡ thấp nhưng bài viết này không nói về việc làm giàu nước.
Rất đáng cần mở rộng kế hoạch quản lý xây dựng lớp chất nền theo kiểu Dupla (it is worth expanding
upon the Dupla substrate strategy) để có thể hiểu được những lợi ích của nó qua một lớp chất nền bằng
sỏi mịn hoặc một lớp chất nền đã được làm giàu bằng đá ong laterite mà không phải sưởi ấm. Đá ong
laterite cung cấp sắt đó là một chất dinh dưỡng quan trọng. Khả năng trao đổi cation của đá ong laterite
và chất hữu cơ khác mà đã tích tụ lại trong một lớp chất nền sẽ giúp chúng hút bám (adsorb) các cation
dinh dưỡng tại những nơi mà rễ cây có thể hấp thụ được chúng. Trong thời kỳ chuyển hoá, khi có ít chất

dinh dưỡng từ trong cây, thì những viên thuốc bổ sung chất cho rễ cây mà đã được cho thêm vào trong
lớp chất nền trong khi dựng lớp chất nền chắc chắn sẽ giúp cung cấp thêm nhiều chất dinh dưỡng cho lớp
chất nền. Việc sử dụng nhiệt cho lớp chát nền để làm tăng các hoạt động sinh học sẽ có hai tác dụng
chung (has a two fold effect). Điều này sẽ khuyến khích sự phân huỷ để giải phóng các chất dinh dưỡng
ra khỏi các mảnh vụn hữu cơ (liberates nutrients from organic detritus). Nó tạo ra một môi trường có quá
trình ô-xy hoá và sự khử thấp mà điều đó sẽ làm tăng cường đáng kể tính chất có thể có sẵn của sắt ở
trong lớp chất nền. Sức nóng hoặc các cuộn làm nóng cũng khuyến khích sự lưu chuyển của nước qua
lớp chất nền thông qua sự khuếch tán và đối lưu. Điều này thúc đẩy quá trình hồi phục lại của các khu
vực trao đổi cation với các chất dinh dưỡng đã được hoà tan (promotes the recharging of cation exchange
sites with dissolved nutrients).
Chúng tôi nghĩ về loại chất nền như là những loại chất dinh dưỡng vô sinh hoặc vô dụng nhưng trái lại
trên thực tế lại như vậy. Mỗi một cách dựng lớp chất nền riêng biệt khác nhau chỉ là một việc và là một
việc duy nhất mà thôi: chung sức cung cấp chất dinh dưỡng cho cây tại những nơi có rễ cây mọc xuống.
Lớp chất nền có độ phì nhiêu thấp có nghĩa là chúng tôi không trông chờ gì ở việc cung cấp một phần tỷ
lệ lớn các chất dinh dưỡng trong lớp chất nền, chúng tôi có được một sách lược quản lý phụ đảm bảo
được rằng các chất dinh dưỡng này luôn có sẵn ở trong nước nơi mà lá cây có thể hấp thụ được trực tiếp
và rễ cây có thể gián tiếp hấp thụ được. Có lý do cho một loạt những ý kiến về những chất bổ sung hay
dụng cụ làm chất nền nào là có ích.
RỬA VÀ LÀM SẠCH SỎI
Thói quen rửa sạch sỏi là rất cần thiết trong những bể thuỷ sinh khi không có cây và khi việc tích tụ các chất hữu
cơ cuối cùng có thể gây ra đầy đủ những phụ phẩm có hại làm tổn thương cho cá ở trong bể thuỷ sinh. Trong một
bể thuỷ sinh có trồng cây và khoẻ mạnh, thói quen này thường là không cần thiết bởi vì các chất này có thể bị
phân huỷ một cách tự nhiên để sản sinh ra các chất dinh dưỡng cho cây. Nếu như bạn đang phải chịu đựng một
lượng tảo dư thừa (quá nhiều) hoặc nếu chúng trông quá xấu xí, bạn có thể rải nhẹ một lớp sỏi để rửa sạch sự
tích tự của mulm trên bề mặt của lớp chất nền. Chất thải đang phân huỷ có thể góp phần vào hàm lượng chất
dinh dưỡng dư thừa mà chúng có thể khuyến khích sự phát triển của tảo. Thường thì chúng ta rất khó di chuyển
ống rửa sỏi (gravel washing tube) giữa các khu vực trồng nhiều cây. Xáo trộn lớp sỏi cũng có thể làm bật rễ cây
trong bể lên hoặc làm xáo trộn hệ thống rễ cây của chúng.
LỰA CHỌN VÀ XỬ LÝ ĐẤT
Đất tự nhiên khác rất nhiều so với những loại đất ta thường thấy trong những cửa hàng bán lẻ dụng cụ làm vườn.

Các loại đất bề mặt tự nhiên (natural top soils) thường có một tỷ lệ thành phần chất hữu cơ thấp tương đối so với
thành phần chất khoáng. Mùn của đất tự nhiên có xu hướng bị phân huỷ một cách hoàn toàn. Phụ thuộc vào vị trí
địa lý, đất ở những nơi khác nhau có thể có hoặc một tỷ lệ phần trăm lớn đất sét đặc (dense clays) hoặc cát. Đất
tốt nhất nên là đất pha trộn giữa cát, bùn phù sa và đất sét. Phụ thuộc vào độ màu mỡ muốn có của lớp chất nền,
đất lúc đó có thể được làm giàu bằng cách bổ sung thêm than bùn, phân com-pốt, đất chậu (potting soil) hoặc
cứt giun đất (earthworm castings). Những loại đất có hàm lượng sắt thấp có thể được làm giàu bằng cách bổ
sung thêm một số lượng nhỏ sắt vi lượng (micronized iron). Các loại đất có đất sét nặng (heavy clay soils) cũng có
thể được trộn lẫn với các chất khoáng bón cây (vermiculite) hoặc cát để làm tăng thêm tính chất xốp, rỗ của
chúng.
Đất tự nhiên nên được lấy từ nơi thoát nước tốt để đất sẽ không có tính kiềm (alkaline) hoặc chúng không chứa
các kim loại có tự nhiên như chì, thiếc hoặc thuỷ ngân. Đất từ các vùng đất khô cằn vì thế cần nên tránh. Người
sử dụng có thể chọn cách sàng để loại bỏ đá và cành cây con và những sợi hữu cơ phân huỷ không hoàn toàn
(incompletely decomposed organic fibers). Đất cũng nên được để ngập trong nước trong một thời gian để loại bỏ
bớt đi những chất dinh dưỡng có thể hoà tan dư thừa mặc dù điều này có thể không giúp gì nếu các thành phần
hữu cơ không được làm thành phân trộn tốt.
Một sự phòng ngừa sáng suốt (a wise precaution) khi pha trộn bất kỳ một loại đất có chất hữu cơ nào với cát nếu
như nó quá giàu chất dinh dưỡng. Để kiểm tra độ màu mỡ của đất, hãy trộn một cốc đất trong một xô nước và
để cho nó lắng xuống. Sau một hoặc hai ngày đo kiểm tra lượng ni-trat và phốt-phat ở trong nước để xác định đất
đó màu mỡ như thế nào. Tôi hy vọng sẽ sớm có kết quả thực nghiệm đã được thực hiện để có thể đưa ra được
sự so sánh.
MỘT SỐ ĐIỀU CẦN TRÁNH
Tránh lấy đất xung quanh hồ và suối vì chắc chắn chúng bị nhiễm nhiều loại tảo tơ có thể gây phiền phức
(undesirable filament algae). Cát được lấy ở ngoài bờ biển có thể có tảo biển (marine algae) và các mảnh vỏ sò có
cac-bon-nat can-xi. Đất ở các vùng đô thị có thể bị nhiễm dầu xe ô tô, các chất thải hy-đrô cac-bon hoặc các loại
hoá chất độc hại khác. Đất dùng để trồng rau cho người ăn có thể sẽ không bị nhiễm bẩn. Các loại đất nằm gần kề
các toà nhà cao tầng có thể có chứa chì bị lọc ra từ sơn nhà hoặc có chưá cac-bon-nat can-xi được lọc ra từ các
công trình xây dựng bằng xi-măng. Các loại đất từ những khu rừng tùng bách có thể có quá nhiều tính chất a-xít;
nếu như những loại cây nhỏ và cỏ không thể mọc được ở bên dưới những cây này, chúng có thể giải phóng ra các
loại hoá chất cảm nhiễm qua lại (releasing allelopathic chemicals) vào trong đất gây cản trở cho sự cạnh tranh từ
những loại cây khác. Những loại đất nằm ở những vùng thấp gần với các vùng đất nông nghiệp có thể có chứa

hàm lượng cao các loại phân hoá học qua quá trình lọc của chúng. Đất nông nghiệp có thể chứa một số chất bổ
sung nhất định của các loại phân hoá học, thuốc trừ cỏ hoặc thuốc trừ sâu. Đất đào lên có nước từ các vùng đầm
lầy hoặc ao hồ có thể có các loại giun tròn (nematodes) hoặc sâu bọ, côn trùng (insects) là những loài rất không
nên được tiếp nhận vào trong bể thuỷ sinh. Đất ở các vùng đầm lầy có thể có chứa H2S, thuỷ ngân, chì, nhiều loại
muối khoáng khác nhau hoặc các thành phần kiềm khác.
Những lợi thế của đất sét (khả năng trao đổi cation và sắt) có thể sẽ không chứng minh được cho những bất lợi
của chúng trong một số trường hợp ứng dụng. Như là một chướng ngại vật cho sự khuếch tán các chất dinh
dưỡng, đất sét có chất lượng tốt hơn nhiều so với cát; tuy nhiên nó cũng có thể gây ra những vấn đề trở ngại
nghiêm trọng với việc làm đục, bẩn nước đặc biệt sau khi nhổ rễ cây lên. Giống như khoáng chất bón cây, đất sét
cũng có thể đọng lại trên lá cây tạo nên vẻ bên ngoài rất mất thẩm mỹ (creating an unaesthetic appearance) và
tạo thành chỗ cho tảo phát triển. Do là sự lựa chọn thay thế nên bạn có thể dùng cát tinh, mịn (fine sand) và sắt
vi lượng (micronized iron). Nếu bạn tự mình thấy nước bị vẩn đục, hãy lọc nước bằng những vật dùng tốt như vải
sồi thường có thể có hiệu quả. Vi khuẩn và bùn đặc (bacteria and sludge) dường như có vẻ hấp thụ được các mẩu
đất sét nổi lơ lửng.
Các lớp chất nền hữu cơ có độ màu mỡ tương đối cũng có thể có những rắc rối phiền hà. Những lớp chất nền này
luôn luôn làm tăng số lượng các chất dinh dưỡng được hoà tan trong nước của bể thuỷ sinh mà điều đó có thể
dẫn đến những vấn đề khó khăn do có tảo trong thời gian ngắn. Nói chung, tảo có thể xử lý được; tuy nhiên
người sử dụng cần phải biết rất rõ các phương pháp kiểm soát tảo. Trong những trường hợp chiếu sáng mạnh, có
thể cần phải rất cẩn thận với các chất bổ sung có sắt ngậm (necessary to be very cautious with chelated Fe
additions). Mặt khác sự cải tiến gây ấn tượng sâu sắc trong việc trồng nhiều loại cây khác nhau đặc biệt là loại
Cryptocorynes có thể là một sự cố gắng rất đáng giá trị. Bạn cũng nên thử cân đối lại giữa số lượng các chất hữu
cơ hoặc phân bón mà bạn có và việc sử dụng có mục đích của bạn. Sự phát triển nhanh chóng có thể làm hài lòng
lúc ban đầu nhưng việc cắt tỉa cây dư thừa có thể trở nên mệt nhọc khó chịu. Sự phát triển không được kiểm soát
của những cây có cuống, cọng hiếm khi tạo ra được những kết quả thẩm mỹ đẹp.
LỜI KẾT
Đọc bài này, chắc nhiều bạn sẽ có cảm giác khó chịu vì dài quá, một số vấn đề có khi còn khó hiểu, song khi đọc
kỹ, tôi tin rằng nó sẽ có ích đối với các bạn khi muốn tạo dựng một bể thuỷ sinh đẹp, nhất là với những bạn mới.
Tôi đã có ý định ngay từ ban đầu là chia cắt bài này thành một số topic riêng. Song tôn trọng nguyên bản của
người viết, đồng thời nhận thấy các vấn đề được tác giả đề cập đều có liên quan mật thiết với nhau nên xin được
giữ nguyên. Mong được thông cảm!

Bài về nền và phân bón
Các bạn chơi cây thủy sinh có thể mua sẵn các chế phẩm làm nền do các hãng chuyên nghiệp chế tạo .Trong
trường hợp bạn muốn tự làm hãy kiếm đất sét xanh , chọn loại hạt nhỏ nhất , Canxi có thể dùng cát san hô ,
xương tán vụn hoặc phấn viết bảng . Các chất trên trộn với tỷ lệ 1,5 lít đất sét với 1 lít than bùn và một dúm nhỏ
canxi - ta được một khối thể tích nhất định ( ba thứ trên ) đem trộn với 3 thể tích cát hạt nhỡ . Chọn cát hạt nhỡ
( 1 - 3mm ) để đảm bảo nền được thoáng . Cát quá mịn nhỏ không dùng vì nó bít và vón lại . Có thể lấy sỏi từ núi
lửa ( ??? ) thay cát sỏi toàn phần hoặc 1/2 phần . Sỏi lấy từ núi lửa giàu vi lượng , thoát nước dể dàng đưa thức
ăn đến cho cây và tạo điều kiện cho rễ cây bám tốt do có nhiều lỗ nhỏ .
Đất nền mua sẳn hay đất tự làm dàn đều vào bể với bề dày 3cm tối thiểu , nếu bể cao có thể dàn đều 5 - 10 cm
thích hợp trồng cây lớn . Một khi đã rãi nền xong phải tránh tạo thành túi khí gây lên men , nền được phủ thêm
một lớp sỏi nhỏ để tránh làm đục nước sau này .
CÁC LOẠI PHÂN
Các loại phân có nhiều tác dụng trong bể , nó làm giàu các nguyên tố đa lượng và vi lượng làm thỏa mãn nhu cầu
cho các loại cây trong bể . Các loại phân chỉ thay thế được nền đất với các bể trồng các loại cây ít đòi hỏi .
Trên thương trường cây cá cảnh có rất nhiều loại phân khác nhau , có nhiều công thức tiên tiến có thể tác dụng
trực tiếp trên tế bào thực vật .
Phân nào tác dụng đó
Có loại phân cứng bán dưới dạng viên dập hoặc viên tròn để vùi xuống nền , có loại phân lỏng để tiêm vào nền
đáy hoặc hòa tan trong nước . Loại đầu rất thích hợp cho cây mọc hình hoa thị như các loại tiêu thảo , các loại lá
trầu kiếm hoặc các loại náng lớn chậm và lấy thức ăn chủ yếu trong đất nền . Loại thứ hai thích hợp cho cây có
cuốn thân như các loại vẩy ốc , luân thảo , hồ điệp , các loại dừa nước , các loại thanh điệp , đại trung liễu , lá có
những thủy bào có thể hấp thu được chất dinh dưỡng . Điều này đã giải thích được hiện tượng cây vẫn phát triển
mặc dầu rễ chưa mọc . Loại phân viên cứng phải vùi sâu vài cm và cách gốc 4-5cm nơi có rễ mạng nhiều sẽ hấp
thụ . Cách này cho phép ta có thể xác định được liều dủng tùy theo cây , đặc biệt với cây đòi hỏi . Cách này còn
tránh được rêu phát sinh hơn là dùng phân nước hòa tan . Những loại phân nước cần phải đong liều lượng thích
hợp với dung tích bể . Còn khi thay nước chỉ cho thêm liều phân nước tương ứng với phần nước đã thay chớ
không theo dung tích toàn bể . Nếu cho quá liều rêu sẽ phát sinh nhanh làm hại cây . Muốn tăng cường sự phân
tán phân trong nền hoặc muốn nuôi một loài cây đặc biệt ta có thể tiêm phân lỏng vào nền đất bằng 1 ống tiêm .
Dù rằng ta chọn một công thức nào ta phải giới hạn trong các công thức dùng cho bể cá . Những sản phẩm phân
dùng cho cây cảnh thường có quá nhiều đạm ( N ) , photpho ( P ) và potat ( K ) dùng cho cây thủy sinh sẽ phát

sinh rêu không kiểm soát nổi . Hơn nữa lượng nitrat quá cao rất nguy hiểm cho cá .
Sắt không thể thiếu ( Sắt rất cần thiết )
Sắt rất cần thiết cho cây tổng hợp diệp lục tố . Nó tham gia vào quá trình tổng hợp men oxy hóa có mặt nhiều
trong các lá non , búp non và hoa . Thiếu sắt cây có hiện tượng vàng lá ( ***), Fe là nguyên tố vi lượng thiết yếu .
Ngay cả đất nói rằng nghèo chất sắt , về lý thuyết cũng đủ cho cây phát triển . Tuy vậy rất nhiều cây thiếu sắt vì
nó không thể sử dụng được . Sắt ở trong đất dưới hai dạng : dạng ion feric ( Fe3+) và dạng ion Ferrơ ( Fe2+) .
Dạng đầu có thường xuyên nó hợp thành trong đất những phức chất không hòa tan khiến cây không hấp thụ
được . Do đó ta phải tìm cách lật ngược vấn đề . Có những chất tiết ra làm chuyển hóa ion Fe3+ thành ion Fe2+
hoặc bẫy Fe3+ chuyển thành những chất hòa tan được . Những ion Fe2+ thường chỉ có trong môi trường pH
thấp . Bệnh bạc lá cây trầm trọng khi đất kiềm . Người chơi cây thủy sinh luôn lo ngại sức khỏe của cây , luôn luôn
chuẩn bị Fe2+ . Tất cả các loại phân có bán đều rất giàu chất sắt . Muốn làm cho cây hấp thu được cả những vi
lượng khác nữa , cần phối hợp chúng với những chất khóa , chất thường dùng nhất là EDTA ( axit ethylen diamin
tétra acetic ) dưới dạng muối natri. Ngoài ra còn có DPTA ( axit diethylen triamin penta acetic ) hoặc gluconat
cũng được dùng .
Phải tìm đúng liều thích hợp
Cây thường cần hàm lượng chất sắt Fe2+ từ 0,1 đến 0,2 mg/l ( ppm) , con số này đã được nhiều nhà sản xuất
khuyến cáo nên từ 0.5 đến 1mg/l . Phần lớn các giấy đo không đo được hàm lượng chất Fe2+ có trong bể cá . Chỉ
quan sát mắt thường nếu thấy cây bạc lá là thiếu chất sắt . Lượng sắt hấp thu bởi cây phụ thuộc vào các điều kiện
duy trì trong bể . Cùng độ ánh sáng , chất lượng ánh sáng , số lượng CO2 , nhiệt độ và sự hoạt động của vi khuẩn
hữu ích quyết định sự chuyển hóa cơ bản của cây và đồng thời đòi hỏi của sắt . Độ pH của nước và của đất nền
cũng ảnh hưỡng tới sự hiện diện của chất sắt . Có trường hợp bị ngăn cản không hấp thu được chất sắt đó là
trường hợp bể có nền đáy quá bị nén không thoát nước hoặc chứa quá nhiều canxi , manhê , phospho , đồng
hoặc kẽm . Bị nhiễm giun tròn ký sinh cũng gây hiệu quả tương tự . Cho quá liều thừa vô dụng vì cây chỉ dùng một
lượng cần thiết . Phân thường có nhiều chất vi lượng khác quá nhiều có thể gây ngộ độc . Muốn tránh những điều
bất ngờ xấu ví như bùng phát rêu , tốt hơn hết là dùng liều thấp hơn của hãng quy định . Liều sẽ được điều chỉnh
sau khi theo dõi phản ứng của cây . Nếu ta dùng đinh rĩ vùi vào nền , đó là một việc làm vô ích . Rĩ sắt thật ra chỉ
dưới dạng Fe3+. Kỹ thuật này chỉ có thể kiến hiệu nếu nền đất rất axit có thể chuyển hóa Fe3+ thành Fe2+.
Những nguyên tố vi lượng khác cần thiết
Ngoài sắt ra còn có nhiều nguyên tố vi lượng khác cần cho cây , chúng được cây hấp thự dưới dạng ion dương
hoặc âm tùy theo từng trường hợp .

Đồng ( Cu2+ hay Cu+ ) tham gia vào thành phần một vài enzym đóng góp vào việc quang hợp hoặc quá trình thở
của tế bào . Đồng thường thiếu trong nền đất nhiều than bùn .Thiếu đồng cây thường lớn chậm và các nụ non
héo tàn . Lá có thể trở thành xanh đen , đầu lá bị xơ hóa kể cả mép lá , hoặc lá ra dị dạng có màu vàng .
Thừa đồng xảy ra khi pH thấp , triệu chứng gần giống như thiếu sắt . Những lá ở dưới bị chết .
Borơ ( BO3 )- : Nó rất cần thiết cho hạt nãy mầm , phát triễn tế bào mầm . Thiếu borh cây giòn dễ gãy và teo mầm
. Quá thừa borh làm đen các tế bào thực vật .
Kẽm ( Zn )2+ : Nó đóng vai trò trong vài hormon sinh trưởng . Thiếu kẽm lá nhỏ lại và đốt ngắn lại , mép lá biến
dạng , bạc màu . Quá thừa kẽm kéo theo cây không hấp thụ được Magiê .
Mangan (Mn )2+ : Tham gia vào quá trình quang hợp . Thiếu mangan gây bạc lá , xuất hiện những vết nâu tựa
như kẽ ô trên lá , thường thấy ở cây lá trầu và tóc tiên - là những cây cần vi lượng nhiều . Quá thừa mangan
thường xảy ra ở môi trường axit , triệu chứng tương tự như thiếu sắt . Hàm lượng Mn vượt quá 0,2 mg/l sẽ gây
ngộ độc .
Molybđen ( MoO4 )- : Tham gia vào quá trình tạo lục diệp và dự trữ lục diệp ở lá già . Thiếu Molybđen lá già bạc
màu và biến dạng .
Chlor ( Cl )- : làm lá cứng cáp , thiếu chlor làm lá héo hắt và trở thành nâu , cả rể cũng bị thoái hóa . Nếu quá thừa
gây nên cháy lá .
Cobalt ( Co )2+ : Rất cần cho cây mới trồng , giúp cho cây cố định được đạm .
Hướng dẫn setup bể lũa
Dòng nước hoang vu ánh lên bầu trời xanh, điểm một vài bóng cây. Trong mùa mưa ướt át của lòng chảo
Amazon, dòng nước tưởng bất đáo ấy như nuốt chửng cả khu rừng nhiệt đới, và cây bụi như chìm sâu trong
nước. Nhưng Mẹ Thiên Nhiên với sức mạnh khiêm nhường đã hồi sinh, kể cả khi Người mất đi hầu như tất cả. Dù
cho cây cạn kia có bị cuốn trôi theo dòng lũ nhưng khi mùa khô tới miền đất lại xanh tươi, lại dưỡng sinh muôn
loài mới. Chiếc bể kính thiên nhiên này đã mang nặng hình bóng của Người Mẹ Thiên Nhiên. Giống như thiên
nhiên hồi sinh sau dòng lũ, một thế giới trong bể kính nay lại ban đầu.
Cùng với bài hứong dẫn set up bể thủy sinh theo phong cách thiên nhiên (dùng đá), xin đuợc tiếp tục giới thiệu
đến các bạn một ví dụ minh họa set up bể thủy sinh theo phong cách thiên nhiên dùng gỗ lũa làm layout
1. Việc đầu tiên là chọn bố cục. Trong ví dụ này, chúng ta sẽ chọn bể kích thuớc 90cm và 02 bộ gỗ lũa có màu nâu
đen, 01 bộ lớn và 01 bộ nhỏ hơn. Trứoc khi set up phần đất nền, chúng ta nên đặt uớm thử bộ lũa vào trong bể
để xác định hứong và góc vị trí của lũa, tạo nên một sự kết hợp hài hòa giữa 02 bộ lũa. Chú ý nên chọn lũa sao
cho để vừa vặn trong bể, không quá lớn và cũng không quá nhỏ.

2. Bây giờ chúng ta sẽ lấy bộ lũa ra, và chuẩn bị set up phần nền. Lần này chúng ta cũng sẽ tạo ra một lay out với
hình lòng chảo, có khoảng không gian mở ở giữa, phần tiền cảnh sẽ rải sỏi tạo cảm giác tự nhiên. Đầu tiên, chúng
ta cũng sẽ dùng bút vẽ đường phân cách giữa phần sỏi tiền cảnh và phần đất nền hậu cảnh.
3. Đặt những tấm bìa phân cách ngay tại những đuờng phân cách vừa vẻ. Theo kinh nghiệm, dùng tấm bìa làm
vật phân cách rất tiện, nó giúp tạo ra một đùong phân cách nhìn rất nhuyễn, tự nhiên. Dùng băng keo dán 02 đầu
của các tấm bìa, sau đó đặt vài viên đá dọc theo tấm bìa để cố định cho khỏi xê dịch khi đổ sỏi và phân nền vào.
4. Bắt đầu xử lý phần phía sau vạch phân cách, tức là phần chúng ta sẽ trồng cây. Đầu tiên, dùng rải các lọai
duỡng chất cho đất nền, vi sinh trong đất nền như bacter 100, clear super, toumalin BC kế tiếp, rải power sand
special M - thành phần chính cung cấp dữong chất cho cây, giúp cây phát triển. Kế tiếp, rải sỏi cho phần phía
trứoc vạch phân cách. Chú ý là nên uớc tính lựong power sand special sao cho vừa đủ với dịên tích dự định trồng
cây theo bố cục bể.
5. Rải aqua soil amazonia lên trên lớp power sand special. Đối với lớp sỏi rải ở tiền cảnh, nên canh vừa đủ, không
cần nhiều quá miễn sao tạo đụoc một độ dốc lên từ truớc ra sau hậu cảnh, đồng thời canh sao cho ngay tại tiếp
điểm của đuờng phân cách, độ dày của phần aqua soil và phần sỏi phải tưong đối bằng nhau. Như thế bố cục
phần đất nền của bể chúng ta nhìn sẽ rất tự nhiên.
6. Cuối cùng, rải một lớp mỏng aqua soil amazonia powder - dạng bột - lên trên mặt của lớp aqua soil. Sau khi đã
rải xong phần đất nền, tháo băng keo và gỡ các tấm bìa phân cách ra. Lúc này chúng ta sẽ thấy phần đất nền của
bể giờ đây đã đựơc chia bằng 02 đừong cong phân cách nhuyễn và rất đẹp giữa phần sỏi trang trí tiền cảnh và
phần đất trồng cây ở hậu cảnh.
7. Bắt đầu trang trí cho bể. Lấy đá Fuji, buộc với Fantinalis sp. (willow moss), sau đó đặt dọc theo đuờng phân
cách, mục đích nhằm ngăn không cho lớp aqua soil (nhẹ hơn sỏi) có thể tràn ra ngòai, làm xấu bố cục. Kinh
nghiệm là nên chọn trứoc đá Fuji sao cho kích thúoc nhỏ, đồng nhất và cột truớc với Fantinalis sp. Tốt nhất nên
dùng chỉ chuyên dùng buộc Ricia (Ricia Line) hoặc luới các để buộc Fantinalis sp.
8. Dùng chỉ chuyên dụng để buộc rêu - Moss Cotton - để buộc Fantinalis sp. vô mặt trứoc - mặt đã đựoc chọn của
khúc lũa. Khi buộc rêu vào lũa, nên thấm ứot khúc lũa, sau đó dàn mỏng và đều lớp rêu khi buộc. Sau đó đặt khúc
lũa vào phần đất nền.
9. Tiếp tục buộc Willow moss vào khúc lũa thứ hai và đặt vào phần đất nền bên trái. Sau khi đã đặt lũa vào phần
đất nền, chúng ta có thể điều chỉnh tư thế, góc lũa một cách dễ dàng, sao cho các nhánh chính của bộ lũa kết hợp
với nhau tạo thành một một bố cục liền lạc, hoàn chỉnh. Nên nhớ rằng chính bộ lũa sẽ đóng vài trò quan trọng
như là một bộ khung chính cho bố cục bể.

10. Cho nuớc xấp xấp vào bể để trồng cây. Nên cho nứoc vào thật nhẹ nhàng, vặn nhỏ nuớc để tránh làm xáo
trộn nền bể và bố cục.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×