Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tài liệu DỊCH CÂY ĂN QUẢ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.45 KB, 2 trang )

BÀI DỊCH CÂY ĂN QUẢ
Trang 317: 1. Sterility of Diploid First- generation Hybrids
( Hiện tượng bất thụ lưỡng bội ở thế hệ lai thứ nhất)
Những chứng cớ đưa vào bởi hiện tượng phát sinh phôi từ phôi tâm và tần số xuất hiện
bất thụ trong các giống thường khó thực hiện thành công trong việc đạt được sự tương
thích dễ thấy về mối tương quan về việc tạo ra giống lai bất thụ. Ở bất kỳ sự tương thích
nào luôn có sự thử nghiệm đến việc đánh giá tính hữu thụ hay tính bất thụ của việc chọn
lọc cá thể, nó cần thiết phải tuân theo 4 đặc trưng sau : tên gọi, tính cho ra quả (tính năng
suất), dạng hạt và số lượng các phôi trên một hạt, tỉ lệ tương đối giữa những cây con
được tạo ra từ hợp tử (phôi hữu tính) và nội nhũ. Có lẽ hiện tượng phát sinh phôi từ phôi
tâm có thể gia tăng mặc dù bất dục giao tử hoàn chỉnh được giữ lại cần chú ý.
- Thứ nhất: Đó là việc có nhiều thể lai hữu thụ được tạo ra từ thể lai khác loài và thể lai
khác giống tương ứng. Từ việc thụ phấn tự do tạo ra 56 thể lai F1 mới giữa 4 giống của
họ Citrus và cam ba lá ( Cameron và Baines, chưa ấn hành), hợp tử ở những cây giống
cây chủ yếu đạt được 43, phôi tâm biểu kiến thu được 13 cá thể khác. Nhìn chung, những
dấu hiệu này cho thấy tính bất thụ cái ở mức độ cao trong con lai khác giống. Tính bất
thụ ở hạt phấn đã không được kiểm chứng. Trong nhiều quần thể lai giữa sự đa dạng của
các loài Citrus khác nhau ở Riverside, California, hầu hết các cá theercos mức độ bát thụ
cao cho thấy ở cây ăn quả, số lượng hạt giống , sức sống của hạt phấn . Thông thường tỉ
lệ phát sinh phôi và nội nhũ cho thấy là rất cao, vì thế nó khả năng thụ tinh của giao tử
cái được xác định. Tuy nhiên, nhiều cá thể nhân ra thành những cây giống hợp tử là một
dẫn chứng. Nó không chỉ số lượng bất thụ giảm xuống gắn liền biến dị giữa các cá thể lai
F1 từ các phép lai tương tự. Một vài thể lai có ảnh hưởng đến vật liêu lai tạo ( ng/liệu bố
mẹ) bộc lộ nhiều bất thụ ở mức độ cao, hiện tượng thoái hóa hạt phấn, khả năng Sản xuất
hạt giống thấp, cây giống ốm yếu, còi cọc. Một số cá thể khác phất triển quá mạnh, mặc
dù hầu như cây giống này có nguồn gốc từ phôi tâm
- Cuôi cùng: Nó bộc lộ rõ sự hiên diện của hiện tượng phôi và nội nhũ đã chứng minh
trong việc sản xuất dạng bất thụ cái. Trong quần thể hiên tượng đa phôi phân ly (xem lại
chương 5), Những cá thể đơn phôi bộc lộ tính bất thụ tái sinh ở mức độ cao nhưng hợp tử
ở những cây giống thấp về số lượng hay không có ở thế hệ con từ quần thể đa phôi. Như
thế mối tương quan gần giữa bất thụ tái sinh và hiện tượng đa phôi không có giống nhau.


Nhiều cá thể sản xuất từ những cây giống có nội nhũ hầu như có tính đặc hiệu cũng như
hạt phấn có tính hữu thụ cao hơn. Hợp tử ở đời sau sản xuất từ tự thụ phấn hay thụ phấn
chéo của nhiều giống có mối quan hệ gần với nhau, phần lớn là phát triển kém, một vài
không thể nở hoa. Tuy nhiên một vài cá thể có độ đồng đều hoặc trội hơn bố mẹ chúng
thì có ưu thế về sinh trưởng và dường như đều hữu thụ cả. Thể lai đời sau từ các phép lai
với giống C. reticulate nói chung có ưu thế cao hơn thể lai đời sau từ các phép lai với các
giống khác, những giống này đang đưa ra trồng.
Trang 318: 2. The Horticultural importance of Sterility
(Sự quan trọng về tính bất dục trong làm vườn)
Nói chung sự quan trọng về ưu thế của bất thụ trong làm vườn nằm ở kết quả là sự vắng
mặt hoặc độ hiếm trong cây giống. Bởi vì vị thế của hạt giống, thông thường những biện
pháp được sử dụng trong ngành cây ăn quả. Tính chất không hạt, đó là sự mong muốn từ
thị hiếu của khách hàng. Tại California, tất cả các hạt giống thương mại chủ yếu là ít hạt
hay không hạt, và chính đặc điểm này không thể tranh luận trong việc xác định sự đồng
hóa hấp thu của bưởi Marsh. Fahey (1940) đã báo cáo những giống bưởi không hạt ở
Trinidad có tính thực tế từ khi những giống không hạt được được giới thiệu. Hạt nhỏ
cũng là một yếu tố quan trọng trong việc đồng hóa hấp thu của Cam Navel, chanh Tahiti,
Quýt unsu. Cây giống không có giá trị ngày càng tăng lên theo sau sự thụ phấn chéo của
một vài giống dẫn tới quá trình phân ly từ các giống khác. Tuy nhiên, sự vắng mặt của
thụ phấn chéo kết quả là giảm sản lượng một cách nghiêm trọng. Theo các nghiên cứu
trước đó (p.298) sự thiếu hụt trong bộ giống thường có xu thế bảo vệ hay giảm xuống
trong loạt cây ăn quả. Do đó, hiện tượng bất thụ có xu hướng bất lợi liên quan đến năng
suất. Nó có khả năng ở trong một vài giống, tuy nhiên, ưu thế bảo vệ sự thừa thải trong
quá trình trồng cây ăn quả và kết quả là kích cỡ quá nhỏ, trong khi cây sai quả và ra quả
luân phiên. Cam navel và quýt unsu bộc lộ rõ không nhiều trong luân phiên sản xuất
những giống quýt mà những giống này có nhiều hạt.
Hiện tượng phôi không phát triển và có thể sự bất dục giao tử tác động đến một giống
làm gốc ghép có mức độ - “giống thuần” thông qua hiện tượng phát sinh phôi và nội nhũ.
Đôi với vật liệu làm gốc ghép được sử dụng, tất nhiên, sự mong muốn có được những cây
giống đồng đều. Nếu bất thụ hạn chế số lượng hạt giống được tạo ra và có thể hạn chế sự

ích lợi của một giống mà nói cách khác là: nó là một gốc ghép có giá trị lớn. Tính bất thụ
trong sinh sản ở mức độ thấp đã làm một chuỗi gây trở khi được sử dụng một giống trong
phép lai. Hoàn toàn và một tỉ lệ chẵn cao hạt phấn bất thụ là do sự rối loạn đặc biệt, khi
đó giống cam Navel và quýt unsu, tỉ lệ phát sinh giữa phôi và nội nhũ ở mức cao, như
vậy những giống này rất khó khăn hay không thể sử dụng làm vật liệu hạt phấn và được
làm hạt giống bố mẹ trong cây giống kể cả một tỉ lệ nhỏ các thể lai. Đối với việc nghiên
cứu các biến dị cáo thể được sử dụng thế hệ sau có nội nhũ, “khả năng nội nhũ thụ tinh”
là điều cần thiết , cho nên một vài mức độ có khả năng giao tử thụ tinh. Việc không hạt
ảnh hưởng không thuận lợi đến việc ghép hay giữ lại của cây ăn quả là việc gây cản trở
trong việc tạo ra các giống không hạt mới có thể sử dụng. Tuy nhiên, việc mong muốn
thu được những giống không hạt dẫn tới việc trồng những giống tam bội (xem ch.5).
Trang 318: 3. Cytological methods for Citrus:
(Sử dụng phương pháp tế bào học vào họ Citrus)
Vết bôi acetocarmine hay propionocarmine được sử dụng để đếm số lượng nhiễm sắc thể
trong tế bào hạt phấn mẹ của họ Citrus, mặc dù sự phân hóa thường không ít hơn so với
bao phấn tươi. Phèn sắt (phèn lạnh) hoạt động muộn (4%) cảm thiện tình trạng phân hóa
nhưng không có các kết quả thỏa đáng. Đối với bao phấn tươi, khi có sự thay thế của chất
orcein cho carmine (màu son) cho kết quả phân hóa tốt hơn (xem sơ đồ 4-6, p.294), sử
dụng 0,25% hoặc nhỏ hơn hòa tan trong dung dịch axit acetic 45% cho kết quả tốt nhất.
Đó là điều cần thiết cho các lát cắt trong vòng 24 giờ hoặc khoảng thời gian trước đó
thuốc nhuộm phủ đầy tạo thành. Trong khi đó những bao phấn có thể bị chết và cố định.
Không chỉ màu carmine mà còn màu orcein cũng thu được kết quả thỏa đáng.

×