Tải bản đầy đủ (.docx) (239 trang)

Tu hoc ngu van 6 tap 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.77 KB, 239 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>TỰ HỌC NGỮ VĂN 6 - TẬP MỘT TỰ HỌC NGỮ VĂN 6 TẬP MỘT Bồi dưỡng học sinh giỏi Giáo viên và phụ huynh tham khảo Tác giả: TRẦN THỊ THÌN LỜI NÓI ĐẦU Trong chương trình của bậc Trung học cơ sở, ba phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn được sáp nhập vào một chỉnh thể là môn Ngữ Văn theo hướng tích hợp. Để giúp học sinh làm quen với phương pháp của sách giáo khoa mới, chúng tôi biên soạn bộ sách Tự học Ngữ văn 6 gồm hai tập. Nội dung bộ sách hướng dẫn cụ thể phương pháp tự học: từ tiếp cận bài học, gợi ý khám phá, lĩnh hội kiến thức đến việc hướng dẫn thực hành - luyện tập. Từ đó, các em sẽ dần dần nâng cao kĩ năng nói, viết và trình độ cảm thụ văn học. Bên cạnh đó, bộ sách còn là tài liệu để giáo viên và phụ huynh học sinh tham khảo. Chúng tôi hi vọng cuốn sách này sẽ cung cấp cho học sinh những điều bổ ích và thiết thực trong việc học tập môn Ngữ văn. TÁC GIẢ. Bài 1. * Con Rồng, cháu Tiên * Bánh chưng, bánh giầy * Từ và cấu tạo của từ Tiếng Việt.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> * Giao tiếp, văn bản và phương thức biểu đạt CON RỒNG, CHÁU TIÊN (Truyền thuyết) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Lạc Long Quân là con trai của thần Long Nữ Đông Hải (biển Đông); còn Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông, sống ở vùng núi cao phương Bắc. Lạc Long Quân có thân hình Rồng, sống được cả dưới nước lẫn trên cạn, sức khoẻ vô địch, có nhiều phép lạ, trấn áp được lũ yêu quái (Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh) làm hại dân lành. Thần lại có lòng thương người, thường dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở. Âu Cơ là tiên nữ, xinh đẹp tuyệt trần và thích đi đây đi đó. Nghe nói vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng tìm đến thăm và tình cờ gặp Lạc Long Quân ở đó. Họ kết thành vợ chồng. Âu Cơ sinh ra một cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm con trai hồng hào, đẹp đẽ lạ thường. Sau đó, năm mươi con theo cha xuống biển; năm mươi con theo mẹ lên núi, chia nhau cai quản các phương. Con trưởng được tôn làm vua, lập ra nước Văn Lang và thời đại Hùng Vương. Truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên hay còn gọi là Sự tích trăm trứng, Lạc Long Quân và Âu Cơ... vốn là một thần thoại có nhiều chi tiết kì ảo như các nhân vật thần linh với nhiều phép lạ và hình tượng cái bọc trăm trứng. Câu chuyện là một truyền thuyết hay và đẹp vào bậc nhất, nhằm giải thích và suy tôn nguồn gốc giống nòi cao quý của dân tộc Việt. Đồng thời thể hiện ý nguyện đoàn kết, thống nhất cộng đồng của người Việt. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Hãy tìm những chi tiết trong truyện thể hiện tính chất kì lạ, lớn lao, đẹp đẽ về nguồn gốc và hình dạng của Lạc Long Quân và Âu Cơ: (a. Lạc Long Quân:.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Dòng dõi, nguồn gốc: nòi Rồng, là con trai của thần Long Nữ ở biển Đông. - Tài năng: sức khoẻ vô địch, có nhiều phép lạ, giúp dân diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh. b. Âu Cơ: - Dòng dõi, nguồn gốc: là Tiên nữ sống trên núi cao phương Bắc, thuộc dòng họ Thần Nông - vị thần chủ trì nghề nông, dạy loài người trồng trọt và cày cấy. - Sắc đẹp: xinh đẹp tuyệt trần. - Tính tình phóng khoáng, tâm hồn thơ mộng: thích du ngoạn đến những vùng đất có nhiều hoa thơm cỏ lạ.) Câu 2. Việc kết duyên của Lạc Long Quân cùng Âu cơ và chuyện Âu Cơ sinh nở có gì kì lạ? Lạc Long Quân cùng Âu Cơ chia con như thế nào và để làm gì? Theo truyện này thì người Việt là con cháu của ai? (a. Cuộc hôn nhân giữa Lạc Long Quân - Âu Cơ có điều kì lạ là: Rồng ở dưới nước gặp Tiên trên non cao rồi yêu nhau, kết duyên vợ chồng như một mối lương duyên Trời đã định sẵn. Kết quả thật lạ thường: Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở thành một trăm con, con nào con nấy hồng hào, đẹp đẽ... Đàn con không cần bú mớm mà tự lớn lên như thổi, mặt mũi khôi ngô, khoẻ mạnh như thần. Dấu ấn thần tiên được khắc sâu trong cuộc sinh nở này. Hình ảnh cái bọc một trăm trứng mang đậm tính chất hoang đường của thần thoại nhưng ý nghĩa tượng trưng rất thiêng liêng. Nó khẳng định rằng tất cả các dân tộc sống trên đất Việt đều chung một mẹ sinh ra, cùng chung một nòi giống tổ tiên. Do đó mối quan hệ giữa các dân tộc là mối quan hệ anh em thân.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> thiết, thuỷ chung. Hai tiếng đồng bào (cùng một bọc) đã gợi lên đầy đủ và cảm động nghĩa tình keo sơn, máu thịt. b. Sự kiện Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ, đem theo năm mươi người con xuống biển, còn năm mươi người con theo mẹ lên núi, ngoài lí do kẻ ở cạn, người ở nước tính tình tập quán khác nhau, khó mà chung sống cùng nhau một nơi lâu dài, truyện còn nhằm giải thích hiện tượng phân bố vùng định cư của các dân tộc trên đất Lạc Việt. Ngay từ buổi đầu dựng nước, dân tộc ta đã tiến hành những cuộc sắp đặt giang sơn. Địa bàn đất nước rộng, các dân tộc phải biết phân chia nhau cai quản. Kẻ ở chốn núi rừng, kẻ đồng bằng, người biển cả... lập nghiệp khắp nơi, khắp chốn. Khi có việc gì quan trọng, lớn lao thì họ lại tìm đến nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó thể hiện truyền thống đoàn kết tốt đẹp trong suốt mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc ta. c. Theo truyện này thì người Việt Nam ta là con cháu vua Hùng, có nguồn gốc là con Rồng, cháu Tiên.) Câu 3. Em hiểu thế nào là chi tiết tưởng tượng, kì ảo? Hãy nói rõ vai trò của các chi tiết này trong truyện? (Chi tiết tưởng tượng, kì ảo là chi tiết không có thật, không thể xảy ra trong cuộc sống của con người. Đây là những chi tiết mà người xưa tưởng tượng ra nhằm phục vụ một mục đích nào đó. Vì là sản phẩm của tưởng tượng nên thường kì ảo và chính sự kì ảo làm cho câu chuyện trở nên huyền diệu, lung linh, li kì, hấp dẫn nhưng vẫn hàm chứa những ý nghĩa hiện thực sâu sắc. Để chỉ các chi tiết này, người ta dùng những cách gọi như chi tiết (hoặc yếu tố) thần kì, lạ thường, hư cấu, hoang đường... Chi tiết tưởng tượng, kì ảo trong truyện cổ dân gian gắn với quan niệm, tín ngưỡng của người xưa về thế giới. Chẳng hạn, quan niệm về các thế giới (trần gian, thiên giới, âm phủ, thuỷ phủ), về sự đan xen giữa thế giới thần tiên và thế giới loài người, quan niệm “vạn vật hữu linh” (vạn vật đều có linh hồn); tín.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> ngưỡng vật tổ (mỗi tộc người được sinh ra từ một loài thảo mộc hay động vật nào đó). Trong truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên, các chi tiết tưởng tượng, kì ảo mang ý nghĩa như sau: - Tô đậm tính chất kì lạ, lớn lao, đẹp đẽ của nhân vật, sự kiện. - Thần kì hoá, linh thiêng hoá nguồn gốc giống nòi để chúng ta thêm tự hào, tôn kính tổ tiên, dân tộc mình. - Làm tăng sức hấp dẫn của truyện.) Câu 4. Ý nghĩa của truyện Con Rồng, cháu Tiên: (- Giải thích, suy tôn nguồn gốc dân tộc và thể hiện niềm tự hào về dòng giống Tiên Rồng đẹp đẽ, cao quý, thiêng liêng của người Lạc Việt. - Đề cao nguồn gốc chung là biểu hiện ý nguyện đoàn kết, thống nhất của nhân dân ta. Người Việt Nam dù ở miền xuôi hay miền ngược, dù ở đồng bằng hay ven biển, trong nước hay ở nước ngoài đều cùng chung cội nguồn, đều là con của mẹ Âu Cơ (đồng bào: cùng một bọc), vì vậy phải thương yêu, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau.) III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP Câu 1. Em biết những truyện nào của các dân tộc khác ở Việt Nam cũng giải thích nguồn gốc dân tộc tương tự như truyện Con Rồng, cháu Tiên? Sự giống nhau ấy khẳng định điều gì? (Người Kinh có truyện Sự tích trăm trứng, các dân tộc ít người như Khơ Mú, La Ha, Dao, Ba Na,... cũng có những truyện giống kiểu truyện Quả bầu mẹ với nội dung: Qua trận lụt lớn, chỉ còn sống sót một cặp trai gái; sau này họ trở thành vợ chồng và sinh ra các dân tộc..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Sự tích trăm trứng và Quả bầu mẹ là những mô típ nghệ thuật quen thuộc trong truyện cổ dân gian. Sự giống nhau ấy khẳng định cội nguồn thống nhất của dân tộc ta.) Câu 2. Hãy kể diễn cảm truyện Con Rồng, cháu Tiên dựa trên dàn bài sau (chú ý ngữ điệu khi kể): 1. Mở bài: * Giới thiệu bối cảnh và nhân vật chính của truyện: - Truyện xảy ra từ ngày xửa ngày xưa, ở vùng đất Lạc Việt (bây giờ là miền Bắc nước ta). - Nhân vật chính là Lạc Long Quân và Âu Cơ đều là thần tiên. Hai người gặp nhau, kết thành vợ chồng. 2. Thân bài: a. Việc sinh nở kì lạ của Âu Cơ. - Âu Cơ sinh ra cái bọc có một trăm trứng, nở thành trăm người con khôi ngô tuấn tú. b. Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay: - Lạc Long Quân không thể ở trên cạn lâu được nên đành chia tay Âu Cơ để trở về thuỷ cung. - Âu Cơ một mình nuôi đàn con. c. Việc chia đàn con, lời giao ước giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ: - Âu Cơ gọi chồng về. Lạc Long Quân mang theo năm mươi người con xuống biển. Âu Cơ mang năm mươi người con lên núi. - Lạc Long Quân dặn Âu Cơ chia đàn con cai quản các phương, khi cần phải giúp đỡ nhau. 3. Kết bài:.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Vị vua đầu tiên của nước ta là Hùng Vương, con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ. - Sự hình thành nhà nước đầu tiên là Văn Lang, kinh đô đóng ở Phong Châu. Triều đình có quan văn, quan võ. Vua cha chết truyền ngôi cho con trưởng, mười tám đời đều lấy hiệu Hùng Vương. - Nguồn gốc cao quý của dân tộc Việt Nam là con Rồng, cháu Tiên. BÁNH CHƯNG, BÁNH GIẦY (Truyền thuyết) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Vua Hùng mở cuộc thi tài làm cỗ cúng Trời Đất và Tiên vương để chọn người xứng đáng nối ngôi. Các lang đua nhau làm cỗ thật to, thật ngon. Riêng Lang Liêu - con trai thứ mười tám của vua Hùng đã được thần báo mộng, bày cách lấy gạo nếp làm bánh. Lang Liêu đã sáng tạo ra hai loại bánh hình vuông và hình tròn. Kết quả là vua cha đã chọn hai thứ bánh đó để tế Trời Đất cùng Tiên Vương và truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, nước ta có tục làm bánh chưng, bánh giầy trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy vừa giải thích nguồn gốc của hai loại bánh này vừa phản ánh thành tựu của nền văn minh nông nghiệp buổi đầu dựng nước với thái độ đề cao lao động, đề cao nghề nông và thể hiện sự tôn kính trời đất, tổ tiên của nhân dân ta. Truyện còn là bài học quý về cách lựa chọn và sử dụng người có tài, có đức để trị vì đất nước. * Truyện có nhiều chi tiết nghệ thuật tiêu biểu cho nghệ thuật của truyện dân gian (nhân vật chính là Lang Liêu được thần giúp đỡ, đã thắng trong cuộc thi tài và được vua cha truyền cho ngôi báu). II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Câu 1. Vua Hùng chọn người nối ngôi trong hoàn cảnh nào, với ý định ra sao và bằng hình thức gì? (- Hoàn cảnh: Lúc này, giặc ngoài đã dẹp yên, vua Hùng tập trung chăm lo cho dân chúng được no ấm. Nhà vua đã già, muốn truyền ngôi cho con. - Ý của vua: Người nối ngôi phải nối được chí của vua cha, không nhất thiết phải là con trưởng. - Hình thức: Điều vua đòi hỏi mang tính chất của một câu đố đặc biệt để thử tài (nhân lễ Tiên Vương, ai làm cỗ vừa ý vua sẽ được truyền ngôi). Trong truyện cổ dân gian, giải đố là một trong những thử thách khó khăn đối với các nhân vật. Thực chất đây là cuộc thi chí chứ không phải thi tài (chí của con người biểu hiện qua việc làm cỗ vừa ngon, vừa có ý nghĩa và được lòng vua cha. Vua Hùng cho rằng: Người nối ngôi ta phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Đó là một quan niệm đúng đắn, tiến bộ (coi trọng cái chí của người đứng đầu một đất nước). Câu 2. Vì sao trong các con vua, chỉ có Lang Liêu được Thần giúp đỡ? (Lang Liêu được thần giúp đỡ (báo mộng), vì so với các anh em khác, chàng là người thiệt thòi nhất. Tuy là con vua nhưng từ khi lớn lên, chàng đã ra ở riêng, chỉ chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Lang Liêu tuy là con vua nhưng sống rất gần gũi với dân thường. - Quan trọng hơn, chàng là người duy nhất hiểu được ý thần và thực hiện ý thần: Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương. Thần ở đây chính là nhân dân. Không ai có thể suy nghĩ về lúa gạo sâu sắc và trân trọng hạt gạo tinh hoa của trời đất, kết quả mồ hôi, công sức của con người như nhân dân. Nhân dân rất quý trọng những thứ nuôi sống mình, những cái mình làm ra được. Theo quan niệm của tổ tiên ta ngày xưa thì thần, Phật, tiên, Bụt... hay giúp đỡ người hiền lành, nghèo khó. Lang Liêu không có quyền thế, của cải gì, lại.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> chẳng có kẻ ăn người ở để sai khiến đi tìm của ngon vật lạ. Chàng chỉ có tấm lòng yêu kính vua cha và đôi tay làm lụng chuyên cần, vì thế chàng xứng đáng được giúp đỡ.) Câu 3. Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu được vua cha chọn để tế Trời Đất, Tiên Vương và Lang Liêu được chọn nối ngôi vua? (- Vì hai thứ bánh đó có ý nghĩa rất thực tế: là sản phẩm do chính con người làm ra và thể hiện thái độ quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo nuôi sống con người. - Vì hai thứ bánh đó chứa đựng ý tưởng sâu xa: tượng trưng cho Trời Đất và muôn loài. - Do vậy mà hai thứ bánh của Lang Liêu hợp ý vua cha, chứng tỏ được tài đức của người có thể nối chí vua cha. Lang Liêu đem cái quý nhất trong trời đất do chính tay mình làm ra từ đồng ruộng để tiến cúng Trời Đất, Tiên Vương và dâng lên vua cha, điều đó chứng tỏ chàng đúng là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo. Bánh chưng, bánh giầy là kết tinh của ý thần, lòng người và chí vua, đồng thời cũng là sáng tạo của người anh hùng văn hoá. Lang Liêu xứng đáng được nối ngôi vua chính là vì thế.) Câu 4. Hãy nêu ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy. (- Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy giải thích rất thú vị về nguồn gốc của hai loại bánh này và phản ánh hiện thực cuộc sống của tổ tiên dân tộc Việt một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời. Thuở ấy, dân ta đã có kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến các món ăn đặc biệt vừa ngon lành vừa giàu ý nghĩa. Nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy gắn liền với ý nghĩa sâu sắc của hai loại bánh đó. Trong hai thứ bánh có cả vũ trụ, đất trời, cầm thú, cỏ cây, lại có cả tình người đùm bọc lẫn nhau..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy còn đề cao lao động, đề cao nghề nông. Lang Liêu - nhân vật chính hiện lên như một anh hùng văn hoá. Bánh chưng, bánh giầy càng có ý nghĩa bao nhiêu thì càng nói lên tài năng, phẩm chất của Lang Liêu bấy nhiêu. - Truyện còn là bài học sâu sắc về cách lựa chọn người có đức có tài để trị vì đất nước, chăm sóc muôn dân. Vì những ý nghĩa sâu sắc như vậy nên dù ra đời cách đây đã hàng ngàn năm nhưng cho đến nay, truyện vẫn còn nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó.) III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP Câu 1. Ý nghĩa của phong tục ngày Tết nhân dân ta làm bánh chưng, bánh giầy. (- Ý nghĩa của phong tục ngày Tết nhân dân ta làm bánh chưng, bánh giầy là đề cao nghề nông, đề cao sự tôn thờ Trời Đất và tổ tiên. Ông cha ta đã xây dựng phong tục tập quán của dân tộc từ những điều giản dị nhưng thiêng liêng và giàu ý nghĩa. - Chiều 30 Tết, tiếng chày giã bánh giầy vang khắp xóm thôn. Đầm ấm biết bao là cảnh cả nhà náo nức vây quanh bếp lửa hồng nấu bánh chưng xanh. Trên bàn thờ tổ tiên phải bày vài cặp bánh chưng và mâm bánh giầy thì mới đúng là hương vị ngày Tết. Quang cảnh ngày Tết nhân dân ta làm hai loại bánh này còn có ý nghĩa giữ gìn truyền thống văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc và làm sống lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam.) Câu 2. Đọc truyện này, em thích nhất chi tiết nào? Vì sao? (- Lang Liêu nằm mộng thấy thần khuyên rằng: Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo... Đây là chi tiết lì ảo làm tăng sức hấp dẫn cho truyện. Trong các con của vua Hùng, chỉ có Lang Liêu mới được thần giúp đỡ vì chàng là.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> người lao động. Chi tiết này còn nêu bật giá trị của hạt gạo ở một đất nước mà cư dân sống bằng nghề nông và gạo là lương thực chính nuôi sống con người; đồng thời nó cũng thể hiện thái độ trân trọng sản phẩm do con người làm ra.) TỪ VÀ CẤU TẠO CỦA TỪ TIẾNG VIỆT I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần nắm được: tiếng là đơn vị cấu tạo từ, từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất dùng để đặt câu. Các kiểu cấu tạo từ gồm: từ đơn, từ phức (từ ghép và từ láy). * Muốn hiểu từ ghép cần chú ý đến mối quan hệ ý nghĩa giữa các tiếng. - Ý nghĩa của từ ghép khái quát hơn ý nghĩa của mỗi tiếng tạo nên nó. Ví dụ: thầy trò, tươi trẻ... - Muốn hiểu từ láy cần chú ý đến quan hệ láy âm giữa các tiếng: láy phụ âm đầu (đẹp đẽ, long lanh), láy phần vần (lom khom, lè nhè), láy toàn bộ tiếng (Ồm Ồm, xinh xinh). * Học sinh học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Đọc câu sau và thực hiện các nhiệm vụ nêu bên dưới: [...] Người Việt Nam ta - con cháu vua Hùng - khi nhắc đến nguồn gốc của mình, thường xưng là con Rồng, cháu Tiên. (Con Rồng, cháu Tiên) a) Các từ nguồn gốc, con cháu thuộc kiểu cấu tạo từ nào? b) Tìm những từ đồng nghĩa với từ nguồn gốc trong câu trên. c) Tìm thêm các từ ghép chỉ quan hệ thân thuộc theo kiểu: con cháu, anh chị, ông bà,... (a. Các từ nguồn gốc, con cháu thuộc kiểu cấu tạo từ ghép..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> b. Từ đồng nghĩa với nguồn gốc: gốc gác, cội nguồn,... c. Từ ghép chỉ quan hệ thân thuộc: chú cháu, anh em, cậu mợ, cô dì,...) * Câu 2. Hãy nêu quy tắc sắp xếp các tiếng trong từ ghép chỉ quan hệ thân thuộc. * Quy tắc sắp xếp: - Theo giới tính (nam, nữ): anh chị, cậu mợ, ông bà, cha mẹ,... - Theo thứ bậc (trên dưới): bác cháu, chị em, dì cháu, cha con,... * Câu 3. Tên các loại bánh đều được cấu tạo theo công thức “bánh + X”: bánh rán, bánh nếp, bánh dẻo, bánh nướng, bánh gối, bánh tôm, bánh tẻ, bánh gai, bánh xốp, bánh khúc, bánh khoai,... Theo em, các tiếng đứng sau (kí hiệu x) trong những từ ghép trên có thể nêu những đặc điểm gì để phân biệt các thứ bánh với nhau? Hãy nêu ý kiến của em bằng cách điền những tiếng thích hợp vào các chỗ trống trong bảng sau: Nêu cách chế biến bánh. (bánh) rán,.... Nêu tên chất liệu của bánh. (bánh) nếp,.... Nêu tính chất của bánh. (bánh) dẻo,.... Nêu hình dáng của bánh. (bánh) gối,.... (Điền từ thích hợp vào các chỗ trống như sau: - Cách chế biến: bánh hấp, bánh nhúng, bánh tráng, bánh rán, bánh nướng,... - Chất liệu làm bánh: bánh ngô, bánh sắn, bánh đậu xanh, bánh nếp, bánh tẻ, bánh khoai,... - Tính chất của bánh: bánh phồng, bánh xốp, bánh dẻo... - Hình dáng của bánh: bánh quấn thừng, bánh gối, bánh tai voi,...) * Lưu ý: Học sinh có thể tự tìm thêm tên một số bánh ở địa phương mình..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> * Câu 4. Từ láy được in đậm trong câu sau miêu tả cái gì? Nghĩ tủi thân, công chúa út ngồi khóc thút thít. (Nàng út làm bánh ót) Hãy tìm những từ láy khác có cùng tác dụng ấy. (-Từ láy thút thít miêu tả tiếng khóc của người. - Những từ láy miêu tả tiếng khóc: sụt sịt, ti tỉ, hu hu, nức nở, sụt sùi, rưng rức, rấm rứt...) * Câu 5. Thi tìm nhanh các từ láy: a) Tả tiếng cười, ví dụ: khanh khách b) Tả tiếng nói, ví dụ: Ồm Ồm c) Tả dáng điệu, ví dụ: lom khom (Các từ láy: a) Tả tiếng cười: hô hố, ha hả, hềnh hệch, khúc khích, sằng sặc,... b) Tả tiếng nói: thỏ thẻ, léo nhéo, lầu bầu, khàn khàn, lè nhè,... c) Tả dáng điệu: nghênh ngang, ngông nghênh, lừ đừ, lả lướt, thướt tha, tất bật, bệ vệ,... * Học sinh tìm thêm một số từ khác.) GIAO TIẾP, VĂN BẢN VÀ PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần nắm được khái niệm, mục đích giao tiếp, văn bản, các kiểu văn bản, phương thức biểu đạt của văn bản. * Học thuộc phần Ghi nhớ ở SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> * Câu 1. Các đoạn văn, thơ dưới đây thuộc phương thức biểu đạt nào? a) Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cấm mỗi đứa một cái giỏ, sai đi bắt tôm, bắt tép và hứa đứa nào bắt được đầy giỏ sẽ thưởng cho cái yếm đỏ. Tấm vốn chăm chỉ, lại sợ dì mắng nên mải miết suốt buổi bắt đầy một giỏ cả tôm lẫn tép. Còn Cám quen được nuông chiều, chỉ ham chơi nên mãi đến chiều chẳng bắt được gì. Thấy Tấm bắt được đầy giỏ, Cám bảo chị: Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm Chị hụp cho sâu Kẻo về dì mắng. Tấm tưởng thật, hụp xuống thì Cám trút hết giỏ tôm tép của Tấm vào giỏ mình, rồi chạy về nhà trước. (Tấm Cám) b) Trăng đang lên. Mặt sông lấp loáng ánh vàng. Núi Trùm Cát đứng sừng sững bên bờ sông thành một khối tím thầm uy nghi, trầm mặc. Dưới ánh trăng, dòng sông sáng rực lên, những con sóng nhỏ cứ lăn tăn gợn đều mơn man vỗ nhẹ vào hai bên bờ cát. (Khuất Quang Thụy - Trong cơn gió lốc) c) Muốn xây dựng một đất nước giàu mạnh thì phải có nhiều người tài giỏi. Muốn có nhiều người tài giỏi thì học sinh phải ra sức học tập văn hoá và rèn luyện thân thể, bởi vì chỉ có học tập và rèn luyện thì các em mới có thể trở thành những người tài giỏi trong tương lai. (Trích Tài liệu hướng dẫn đội viên) d) Trúc xinh trúc mọc đầu đình Em xinh em đứng một mình cũng xinh..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> (Ca dao) đ) Nếu ta đẩy quả địa cầu quay quanh trục theo hướng từ tay trái sang tay phải mà chúng ta gọi là hướng từ tây sang đông thì hầu hết các điểm trên bề mặt quả địa cầu đều chuyển động, đều thay đổi vị trí và vẽ thành những đường tròn. (Theo Địa lí 6) * Tham khảo bảng dưới đây:. Kiểu văn bản TT. phương thức. Mục đích giao tiếp. biểu đạt 1. Tự sự. 2. Miêu tả. Trình bày diễn biến sự việc Tấm và Cám đi bắt cá. Tái hiện cảnh trăng mọc trên sông núi.. Văn bản cụ thể Câu a Câu b. Bàn luận về mối quan hệ giữa việc xây 3. Nghị luận. dựng đất nước với việc học tập và rèn. Câu c. luyện của học sinh. 4. Biểu cảm. 5. Thuyết minh. Bày tỏ tình cảm, cảm xúc trước người con gái đẹp. Giới thiệu đặc điểm, quy luật chuyển động của quả địa cầu.. Câu d Câu đ. * Câu 2. Truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên thuộc kiểu văn bản nào? Vì sao em biết như vậy? (Truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên là văn bản tự sự (kể chuyện) vì truyện giải thích, suy tôn nguồn gốc giống nòi và thể hiện ý nguyện đoàn kết, thống nhất cộng đồng của người Việt.).

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Bài 2. * Thánh Gióng * Từ mượn * Tìm hiểu chung về văn tự sự THÁNH GIÓNG (Truyền thuyết) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Truyện kể về người anh hùng làng Gióng đánh tan giặc Ân vào đời Hùng Vương thứ sáu. Cậu bé Gióng lên ba mà vẫn không biết đi, không nói không cười, nhưng khi nghe tiếng loa rao của sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước thì bỗng cất tiếng nói xin đi đánh giặc. Rồi chú bé lớn nhanh như thổi. Mẹ Gióng nuôi không nổi, bà con trong làng góp gạo nuôi Gióng vì ai cũng mong cậu bé lớn nhanh để giết giặc. Khi giặc đến, Gióng vùng dậy, vươn vai biến thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ nhảy lên lưng ngựa sắt, ngựa phun lửa phi thẳng ra chiến trường. Tráng sĩ vung roi quất giặc chết như rạ. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh tiếp. Dẹp tan giặc Ân, Gióng cưỡi ngựa lên đỉnh núi Sóc, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà. Đây là truyền thuyết hay vào bậc nhất trong những truyện nói về lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc ta. * Hình tượng Thánh Gióng với nhiều chi tiết tưởng tượng thần kì là biểu tượng rực rỡ của ý thức và sức mạnh bảo vệ đất nước, đồng thời thể hiện quan niệm và ước mơ của nhân dân ta ngay từ buổi đầu lịch sử về người anh hùng cứu nước chống ngoại xâm. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Câu 1. Trong truyện Thánh Gióng có những nhân vật nào? Ai là nhân vật chính? Nhân vật chính này được xây dựng bằng những chi tiết tưởng tượng, kì ảo và giàu ý nghĩa. Em hãy tìm và liệt kê những chi tiết đó. (a. Truyện Thánh Gióng có các nhân vật: bà mẹ Thánh Gióng, Thánh Gióng, sứ giả, bà con dân làng. Thánh Gióng là nhân vật chính, các nhân vật phụ khác đóng vai trò giúp cho câu chuyện phát triển và làm nổi bật tính cách của nhân vật chính. b. Nhân vật Thánh Gióng được xây dựng bằng nhiều chi tiết tưởng tượng kì ảo và giàu ý nghĩa: * Sự ra đời của Thánh Gióng. - Hai vợ chồng ông lão mong muốn có được một đứa con trai nối dõi. - Bà vợ ướm thử chân mình vào vết chân lạ ở ngoài đồng. - Sau đó có thai 12 tháng mới sinh ra một đứa con trai. - Đứa trẻ lên ba tuổi mà vẫn không biết nói cười, không biết đi, cứ đặt đâu nằm đấy. * Nghe sứ giả rao truyền lệnh của vua, cậu bé cất tiếng nói đầu tiên và đó là lời nhận trách nhiệm đánh tan quân giặc. * Gióng lớn nhanh như thổi, ăn mỗi bữa một nong cơm ba nong cà... * Gióng vươn vai biến thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt, mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt lên đường đánh giặc. * Gióng đánh tan giặc Ân. * Đến chân núi Sóc, Gióng cởi bỏ áo giáp sắt rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời. * Vua lập đền thờ, phong danh hiệu là Phù Đổng Thiên Vương. * Những dấu tích còn lại của trận Thánh Gióng đánh tan giặc Ân.) Câu 2. Theo em, các chi tiết sau đây có ý nghĩa như thế nào?.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> a) Tiếng nói đầu tiên của chú bé lên ba là tiếng nói đòi đánh giặc. b) Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc. c) Bà con làng xóm vui lòng góp gạo nuôi cậu bé. d) Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ. đ) Gậy sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh giặc. e) Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng về trời. (a. Chi tiết tiếng nói đầu tiên của chú bé lên ba là tiếng nói đòi đánh giặc có ý nghĩa: Gióng lên ba mà vẫn không biết nói, nhưng khi nghe tiếng sứ giả của vua rao tìm người tài giỏi cứu nước thì bỗng dưng cất tiếng nói đòi đi đánh giặc. Điều đó thể hiện: - Ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước được đặt lên hàng đầu đối với người anh hùng và tạo cho người anh hùng những khả năng hành động phi thường, thần kì. - Ca ngợi ý thức đánh giặc cứu nước qua hình tượng Gióng. Gióng ba năm không nói là để bắt đầu nói thì nói điều quan trọng, nói lời yêu nước, lời cứu nước. - Gióng chính là hình ảnh của nhân dân. Nhân dân lúc bình thường thì âm thầm, lặng lẽ, cũng giống như Gióng ba năm không nói, chẳng cười nhưng khi nước nhà gặp cơn nguy biến thì nhân dân đứng ra cứu nước đầu tiên. Cũng như Gióng, vua vừa phát lời kêu gọi, chú bé đã đáp lời cứu nước. b. Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc: - Để thắng giặc, dân tộc ta phải chuẩn bị đầy đủ lương thực và vũ khí..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> - Đây chính là thời đại đồ sắt trong lịch sử, dân tộc ta đã biết dùng đồ sắt trong cuộc sống hằng ngày và dĩ nhiên cũng biết dùng sắt để chế tạo vũ khí chống ngoại xâm. - Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc tức là Gióng yêu cầu có phương tiện tốt nhất để chiến thắng quân thù. Mặt khác, chi tiết trên cho thấy rằng ở giai đoạn này, nhân dân ta đã đưa cả những thành tựu văn hoá, kĩ thuật vào cuộc chiến đấu. c. Bà con làng xóm vui lòng góp gạo nuôi cậu bé: - Nhân dân ta rất yêu nước, ai cũng mong Gióng lớn nhanh để đánh giặc cứu nước. - Gióng lớn lên bằng cơm gạo của nhân dân. Sức mạnh dũng sĩ của Gióng được nuôi dưỡng từ những cái bình thường, giản dị nhất. - Cả dân làng đùm bọc, nuôi dưỡng Gióng. Gióng không chỉ là con của một bà mẹ mà là con của mọi người, mọi nhà. Một người cứu nước sao đặng? Phải toàn dân đoàn kết mới tạo nên sức mạnh. Có như vậy thì khả năng đánh giặc, cứu nước mới phát triển mau chóng. Gióng tiêu biểu cho sức mạnh của nhân dân. d. Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ: - Vì sao Gióng lại lớn nhanh như vậy? Gióng lớn lên từ khi nào và lớn lên để làm gì? Trước khi có tiếng gọi cứu nước, Gióng chỉ nằm ngửa, không nói, không cười. Gióng mở miệng nói là để đáp lại lời kêu gọi cứu nước. Dường như việc cứu nước có sức mạnh thần kì làm cho Gióng vụt lớn lên. Việc cứu nước vô cùng to lớn và cấp bách, Gióng không lớn lên nhanh thì làm sao làm được nhiệm vụ cứu nước? - Chi tiết vươn vai thành tráng sĩ của Gióng có liên quan đến đặc điểm truyền thống của truyện cổ dân gian. Thời xưa, nhân dân ta quan niệm rằng người anh hùng phải khổng lồ về thể xác, phi thường về sức mạnh và chiến.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> công. Thần Trụ Trời, Sơn Tinh,... đều là những nhân vật khổng lồ. Cái vươn vai của Gióng là để đạt đến sự phi thường ấy. - Cuộc chiến đấu đòi hỏi dân tộc ta phải nhanh chóng vươn mình như vậy. Hình ảnh Gióng vươn vai là tượng đài bất hủ về sự trưởng thành vượt bậc, về hùng khí của một dân tộc trước nạn ngoại xâm. Khi vận mệnh đất nước ở tình thế nguy nan, thì cả dân tộc vụt đứng dậy dũng mãnh như Thánh Gióng, tự thay đổi tư thế, tầm vóc của mình. Hình tượng cậu bé làng Gióng tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân đánh giặc trong cuộc chiến tranh cứu nước. đ. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường tiếp tục đánh giặc: Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh tiếp. Gióng đánh giặc không chỉ bằng vũ khí mà còn bằng cây cỏ thân yêu của quê nhà. e. Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng về trời. - Nhân dân trân trọng muốn giữ mãi hình ảnh người anh hùng nên đã để Gióng trở về cõi bất tử. Gióng không quay về triều để được vua ban cho bổng lộc, vinh quang. Gióng biến mất vào cõi hư không. Sinh ra từ cõi lặng im, nay Gióng lại trở về trong im lặng, không màng đến phú quý, công danh. - Tuy Gióng đã trở về trời nhưng thật ra Gióng vĩnh viễn ở lại với đất trời, cây cỏ, với dân tộc Việt. Vua phong cho Gióng danh hiệu là Phù Đổng Thiên vương. Gióng được nhân dân suy tôn là Thánh và lập đền thờ để muôn đời ghi nhớ công ơn.) Câu 3. Hãy nêu ý nghĩa của hình tượng Thánh Gióng: (- Gióng là hình tượng tiêu biểu, rực rỡ của người anh hùng đánh giặc giữ nước. Trong văn học dân gian Việt Nam, đây là hình tượng người anh hùng đánh giặc đầu tiên, tiêu biểu cho lòng yêu nước của nhân dân ta. - Gióng là người anh hùng mang trong mình sức mạnh của cả cộng đồng. Trong buổi đầu dựng nước, sức mạnh của thần thánh, tổ tiên (thể hiện ở sự ra.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> đời thần kì của chú bé làng Gióng); sức mạnh của tập thể cộng đồng cùng Gióng giết giặc (bà con hàng xóm góp gạo nuôi Gióng); sức mạnh của thiên nhiên, văn hoá, kĩ thuật (thể hiện ở núi non khắp vùng trung châu là mồ chôn lũ giặc cướp nước, là tre và sắt cùng Gióng giết giặc.) - Phải có hình tượng khổng lồ, đẹp đẽ và khái quát như Thánh Gióng mới thể hiện được lòng yêu nước, khả năng và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm.) Câu 4. Truyền thuyết thường liên quan đến sự thật lịch sử. Theo em, truyện Thánh Gióng có liên quan đến sự thật lịch sử nào? (Truyện Thánh Gióng có liên quan đến sự thật lịch sử là đời Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân ở phương Bắc sang xâm lược nước ta. Cậu bé Gióng sinh ra ở làng Gióng (trước đây thuộc huyện Tiên Du, Bắc Ninh; nay là làng Phù Đổng thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội); đánh giặc ở núi Trâu thuộc huyện Quế Võ, Bắc Ninh; bay lên trời ở núi Sóc thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội; dấu vết trận đánh vẫn còn để lại ở những nơi Gióng phi ngựa qua như từng dãy ao hồ là vết chân ngựa; có một loại tre thân vàng do ngựa phun lửa bị cháy và có một làng tên là làng Cháy; Gióng được vua phong danh hiệu Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà.) III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP Câu 1. Hình ảnh nào của Gióng là hình ảnh đẹp nhất trong tâm trí em? (Tuỳ theo cảm nhận của từng em nhưng phải giải thích được tại sao đó là hình ảnh đẹp nhất. Ví dụ: - Hình ảnh về sự lớn lên kì lạ của Thánh Gióng là hình ảnh đẹp nhất, để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm trí em. Sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Gióng phải lớn nhanh như thế thì mới đủ sức mạnh để đánh giặc hay chính lòng yêu nước, căm thù giặc đã thôi thúc cậu bé?! Khi giặc tràn đến thì cậu bé vươn vai biến thành một.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> tráng sĩ mình cao hơn trượng. Cái độc đáo của hình tượng là ở chỗ mới hôm qua, Gióng còn là một đứa bé lên ba không biết đi, không biết nói cười thì hôm nay, khi đất nước lâm nguy, cậu bé bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Dường như nhiệm vụ cứu nước càng cấp bách bao nhiêu thì chú bé càng lớn nhanh bấy nhiêu để thừa sức giết giặc. Người xưa đã sáng tạo ra những chi tiết thần kì đặc sắc để ca ngợi lòng yêu nước và ý chí chống xâm lăng của người anh hùng.) Câu 2. Theo em, tại sao hội thi thể thao trong nhà trường phổ thông lại mang tên Hội khoẻ Phù Đổng? (Hội thi thể thao trong nhà trường phổ thông mang tên Hội khoẻ Phù Đổng vì: - Đây là hội thi thể thao dành cho lứa tuổi thiếu niên, học sinh, lứa tuổi của Gióng. Đặt tên như vậy để tưởng nhớ và noi gương người anh hùng cứu nước nhỏ tuổi. - Mục đích của Hội khoẻ Phù Đổng là động viên học sinh rèn luyện sức khoẻ để học tập tốt, lao động tốt, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.) TỪ MƯỢN I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Từ thuần Việt là những từ do nhân dân ta tự sáng tạo ra. Từ mượn là những từ vay mượn của tiếng nước ngoài để biểu thị những sự vật, hiện tượng, đặc điểm,... mà tiếng Việt chưa có từ thật thích hợp để biểu thị. * Từ mượn có hai loại: - Từ mượn tiếng Hán (từ gốc Hán và từ Hán Việt). - Từ mượn của tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga... * Nguyên tắc sử dụng từ mượn:.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Chỉ sử dụng những từ mượn để biểu thị những khái niệm, tính chất của sự vật, hiện tượng... mà tiếng Việt chưa có từ thích hợp để biểu thị. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Ghi lại các từ mượn có trong những câu dưới đây. Cho biết các từ ấy được mượn của tiếng (ngôn ngữ) nào? a) Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên vì trong nhà tự nhiên có bao nhiêu là sính lễ. (Sọ Dừa) b) Ngày cưới, trong nhà Sọ Dừa cỗ bàn thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. (Sọ Dừa) c) ông vua nhạc pốp Mai-Cơn Giắc-xơn đã quyết định nhảy vào lãnh địa in-tơ-nét với việc mở một trang chủ riêng. (Một số từ mượn trong từng câu: a) Hán Việt: vô cùng, ngạc nhiên, tự nhiên, sính lễ. b) Hán Việt: linh đình, gia nhân. c) Anh: pốp, in-tơ-nét.) * Câu 2. Hãy xác định nghĩa của từng tiếng tạo thành các từ Hán Việt dưới đây: a) khán giả: người xem; thính giả: người nghe; độc giả: người đọc. b) yếu điểm: điểm quan trọng; yếu lược: tóm tắt những điều quan trọng; yếu nhân: người quan trọng. (Nghĩa của từng tiếng tạo thành từ Hán Việt:.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> a) khán giả - khán: xem, giả: người; thính giả - thính, nghe, giả: người; độc giả - độc: đọc, giả: người. b) yếu điểm - yếu: quan trọng, điểm: điểm; yếu lược - yếu: quan trọng, lược: tóm tắt; yếu nhân - yếu: quan trọng, nhân: người.) * Câu 3. Hãy kể một số từ mượn: a) Là tên các đơn vị đo lường, ví dụ: mét. b) Là tên một số bộ phận của chiếc xe đạp, ví dụ: ghi đông. c) Là tên một số đồ vật, ví dụ: ra-đi-ô. (Một số từ mượn: a) Là đơn vị đo lường: mét, xăng-ti-mét, ki-lô-mét, ki-lô-gam, gam, lít... b) Là tên các bộ phận của chiếc xe đạp: ghi-đông, pê-đan, xích, lip, gácđờ-bu, moay-ơ, gác-đờ-xen, gác-ba-ga... c) Là tên một số đồ vật: ra-đi-ô, cát-xét, com-piu-tơ, láp-tốp, ti-vi, tê-lêphôn, mô-bai-phôn, vi-ô-lông, oóc-gan, pi-a-nô...). * Câu 4. Những từ nào trong các cặp từ dưới đây là từ mượn? Có thể dùng chúng trong những hoàn cảnh nào, với những đối tượng giao tiếp nào? a) Bạn bè tới tấp phôn / gọi điện đến. b) Ngọc Linh là một fan / người say mê bóng đá cuồng nhiệt. c) Anh đã hạ nốc ao / đo ván võ sĩ nước chủ nhà. (Các từ mượn: phôn, fan, nốc ao, có thể dùng trong giao tiếp thân mật với bạn bè, người thân. Cũng có thể viết trong những tin trên báo. Ưu điểm của các từ này là ngắn gọn. Nhược điểm của chúng là không trang trọng, không phù hợp trong giao tiếp chính thức.) * Câu 5. Chính tả (nghe - viết): Thánh Gióng (từ Tráng sĩ mặc áo giáp... đến lập đền thờ ngay ở quê nhà)..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> (Chú ý viết đúng phụ âm đầu: - l / n: lúc, lên, lớp, lửa, lại, lập / núi, nơi, này (viết sai: núc, nên, nớp, nửa, nại, nập / lúi, lơi, lày). - s: sứ giả, tráng sĩ, sắt, Sóc Sơn.) TÌM HIỂU CHUNG VỀ VĂN TỰ SỰ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Tự sự (kể chuyện) là phương thức chủ yếu để thông báo sự việc, tìm hiểu sự vật. * Sự việc (cốt truyện) được kể lại bằng một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa. * Tự sự giúp người kể giải thích sự việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề và bày tỏ thái độ khen, chê. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Đọc mẩu chuyện sau và trả lời câu hỏi: ÔNG GIÀ VÀ THẦN CHẾT Một lần ông già đẵn xong củi và mang về. Phải mang đi xa ông già kiệt sức đặt bó củi xuống rồi nói: - Chà, giá Thần Chết đến mang ta đi có phải hơn không! Thần Chết đến và bảo: - Ta đây, lão cần gì nào? Ông già sợ hãi bảo: - Lão muốn ngài nhấc hộ bó củi lên cho lão. (Lép Tôn-xtôi, Kiến và chim bồ câu) Câu hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Hãy cho biết: Trong truyện này, phương thức tự sự thể hiện như thế nào? Câu chuyện thể hiện ý nghĩa gì? (+ Phương thức tự sự thể hiện ở chuỗi sự việc, từ đó mà bộc lộ ý nghĩa. - Chuỗi sự việc: ông già đẵn củi xong mang về -> kiệt sức, muốn Thần Chết đến mang đi -> Thần Chết đến, ông già sợ hãi, bèn nói tránh đi là nhờ nhấc hộ bó củi lên. - Ý nghĩa: Thể hiện tư tưởng yêu cuộc sống; dù gặp khó khăn gian khổ đến đâu chăng nữa thì sống vẫn hơn chết.) * Câu 2. Bài thơ sau đây có phải tự sự không, vì sao? Hãy kể lại câu chuyện bằng miệng: SA BẪY Bé Mây rủ mèo con Đánh bẫy bầy chuột nhất Mồi thơm: cá nướng ngon Lửng lơ trong cạm sắt. Lũ chuột tham hoá ngốc Chẳng nhịn thèm được đâu! Bé Mây cười tít mắt Mèo gật gù, rung râu. Đêm ấy Mây nằm ngủ Mơ đầy lồng chuột sa Cùng mèo con đem xử Chúng khóc ròng, xin tha! Sáng mai vùng xuống bếp:.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Bẫy sập tự bao giờ Chuột không, cá cũng hết Giữa lồng mèo nằm... mơ! (Nguyễn Hoàng Sơn - Dắt mùa thu vào phố) (a. Đây là bài thơ tự sự vì nó có một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa. Câu chuyện kể về bé Mây và mèo con rủ nhau bẫy chuột, nhưng vì mèo tham ăn nên đã mắc vào bẫy. Đúng hơn là mèo thèm cá nướng quá nên đã chui vào bẫy, ăn tranh phần chuột và ngủ quên luôn ở trong đó. b. Kể lại câu chuyện theo lời của em. * Tham khảo cách kể dưới đây: Mấy bữa nay, lũ chuột nhắt thi nhau phá phách. Chúng ăn vụng thức ăn, gặm sách, thậm chí cắn rách cả chiếc áo bằng sa tanh hồng của cô búp bê xinh đẹp. Bé Mây giận lắm, nghĩ cách trừng trị chúng. Bé thì thầm bàn bạc hồi lâu với Mèo con. Mèo con thích chí gật gù rồi rung râu cười tít. Sẫm tối, một chiếc bẫy lồng bằng lưới sắt được đặt dưới gầm trạn đựng thức ăn, ngay trên đường lũ chuột thường đi. Miệng bẫy mở rộng. Trong bẫy, một con cá nướng thơm lừng được móc vào đoạn dây kẽm uốn cong như chiếc móc câu. Đêm nay, lũ chuột tham ăn thế nào cũng bị mắc bẫy. Mọi việc sắp đặt xong xuôi, bé Mây ngồi vào bàn học bài. Gió hây hẩy thổi qua khung cửa sổ. Ngoài kia, bầu trời đầy sao nhấp nháy như những cặp mắt tinh nghịch. Bé Mây ra sân vươn vai hít thở không khí trong lành rồi sửa soạn đi ngủ. Nằm bên cạnh mẹ, bé nhanh chóng thiếp vào giấc ngủ ngon lành..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Bé mơ thấy lũ chuột sa đầy trong bẫy. Chúng cuống quýt chạy quanh trong chiếc lồng chật hẹp, khóc lóc xin tha. Bé Mây cùng Mèo con thay nhau hỏi tội chúng. Tội lũ chuột này nhiều lắm! Làm sao tha được! Trong lúc bé Mây ngủ, Mèo con thu mình nằm ở góc bếp. Chú giỏng tai lên nghe ngóng, rình từng bước chân rón rén của lũ chuột. Chiếc mũi rất thính của Mèo con có thể ngửi thấy mùi hôi của lũ chuột từ xa. Nhưng... Ôi! Mùi gì mà thơm thế nhỉ! Mèo con hít hít dò tìm. Mùi cá nướng thơm lừng cả mũi. Thèm quá, không thể nhịn được nữa, Mèo con chui tọt vào bẫy. Tách! Bẫy sập, Mèo con bị nhốt ở trong. Chẳng hề sợ hãi, Mèo con ung dung xơi hết miếng mồi ngon lành, Ăn xong, chú lăn ra ngủ. Ò... ó... o / Tiếng gáy của anh Gà Trống Tía vang lên giòn giã gọi ông Mặt trời. Một ngày mới bắt đầu. Bé Mây cũng đã thức giấc. Chợt nhớ đến giấc mơ đêm qua, bé tung tăng chạy xuống bếp. Ô! Sao lại thế này? Chuột đâu chẳng thấy, chỉ thấy giữa lồng, Mèo con đang ngủ ngon lành. Bé Mây bật cười tự hỏi: Liệu nó có mơ giống giấc mơ của mình đêm qua không nhỉ?) * Câu 3. Hai văn bản sau đây có nội dung tự sự không? Vì sao? Tự sự ở đây có vai trò gì? HUẾ: KHAI MẠC TRẠI ĐIÊU KHẮC QUỐC TẾ LẦN THỨ BA Chiều ngày 3 - 4 - 2002, trại điêu khắc quốc tế lần thứ ba với chủ đề “Ấn tượng Huế - Việt Nam 2002” đã khai mạc tại công viên 3 - 2, mở đầu các hoạt động nghệ thuật của Festival Huế 2002. Tham gia trại lần này có 27 tác giả quốc tế từ 18 nước của 4 châu lục và 11 tác giả Việt Nam. Giúp việc cho các nhà điêu khắc có gần 100 thợ đá, gò, hàn lành nghề và 15 sinh viên khoa điêu khắc của Trường Đại học Nghệ thuật Huế. Trại bế mạc vào ngày 11 -5- 2002. Tất cả tác phẩm sẽ được tặng cho địa phương để xây dựng một vườn tượng tại Huế. (Báo Thanh niên, ngày 4 - 4 - 2002) NGƯỜI ÂU LẠC ĐÁNH TAN QUÂN TẦN XÂM LƯỢC.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Bấy giờ, ở Trung Quốc, nhà Tần vừa thành lập (năm 221 tr.CN). [...] Năm 218 tr.CN, Tần Thuỷ Hoàng sai tướng Đồ Thư đem 50 vạn quân chia làm năm mũi xâm lược đất Bách Việt ở phía nam. Quân Tần tràn đến đâu, lập thêm quận huyện mới đến đấy. [...] Quân xâm lược tàn bạo càng hung hăng tiến sâu vào đất của người Âu Việt, người Lạc Việt. Trước nạn xâm lược của quân Tần, người Âu Việt và Lạc Việt đã tập hợp nhau lại để tự vệ. Quân Tần đông, tấn công ồ ạt. Không thể dàn quân, mặt đối mặt mà đánh địch, họ phải bảo nhau tính chuyện kháng cự lâu dài. Bỏ cửa, bỏ nhà, bỏ cả ruộng vườn, nương rẫy, họ kéo nhau vào rừng sâu, lên núi cao,... Lương thực, vũ khí, gia súc,... chuyển đi theo người. Già, trẻ, gái, trai cùng nhau lập mưu bàn kế, cử người tài giỏi làm tướng chỉ huy. Thục Phán, thủ lĩnh của người Âu Việt bấy giờ là một người trẻ tuổi, rất gan dạ và thông minh, ông được cử ra chỉ huy chiến đấu. Ban ngày, họ tìm nơi lẩn tránh, đêm đến mới bất thần xông ra đánh địch. Quân Tần đóng ở những làng xóm không người ở, không cướp được lương ăn, thường xuyên bị mai phục, đánh tỉa. [...] Cuộc kháng chiến của người Việt chống quân Tần cứ thế tiếp diễn qua nhiều năm. Hàng vạn quân xâm lược bị tiêu diệt. Chủ tướng Đồ Thư phải bỏ mạng. Đến khi Tần Thủy Hoàng chết, nông dân Trung Quốc nổi lên khởi nghĩa ở khắp nơi, nhà Tần phải rút quân xâm lược (năm 208 tr.CN). (Lịch sử 6, 2000) (- Văn bản thứ nhất là một bản tin, nội dung kể về lễ khai mạc trại điêu khắc quốc tế lần thứ ba tại thành phố Huế chiều ngày 3 - 4 - 2002. Văn bản thứ hai là một đoạn trong Lịch sử 6, cả hai văn bản đều là tự sự. - Tự sự ở đây là trình bày một chuỗi sự việc, sự việc này nối theo sự việc kia và cuối cùng dẫn đến một kết thúc.).

<span class='text_page_counter'>(30)</span> * Câu 4. Em hãy kể một câu chuyện để giải thích vì sao người Việt Nam tự xưng là con Rồng, cháu Tiên. (* Có thể kể như sau: Tổ tiên người Việt xưa là Hùng vương thứ nhất lập nên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Vua Hùng là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Lạc Long Quân người Lạc Việt (Bắc Bộ Việt Nam), mình rồng, thường rong chơi ở Thuỷ Phủ. Âu Cơ là tiên nữ dòng họ Thần Nông, sống trên vùng núi cao phương Bắc. Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp nhau, kết thành vợ chồng. Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng, nở thành một trăm người con trai. Người con trưởng được chọn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương. Từ đó, để tưởng nhớ tới tổ tiên, người Việt Nam thường tự xưng là con Rồng, cháu Tiên. * Có thể kể cách khác: Tổ tiên người Việt xưa là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Lạc Long Quân nòi rồng, hay đi chơi ở vùng sông hồ trên đất Lạc Việt (Bắc Bộ Việt Nam). Âu Cơ là giống Tiên ở núi cao phương Bắc, xuống chơi vùng Lạc Việt, mê cảnh đẹp quên về. Long Quân và Âu Cơ lấy nhau. Âu Cơ đẻ ra cái bọc trăm trứng, nở thành một trăm người con trai. Người con trưởng được chọn làm vua, gọi là Hùng vương, đóng đô ở Phong Châu, đời đời cha truyền con nối. Tự hào về dòng giống cao quý của mình, người Việt tự xưng là con Rồng, cháu Tiên. * Có thể kể ngắn hơn: Tổ tiên người Việt xưa là các vua Hùng. Vua Hùng đầu tiên là con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Lạc Long Quân giống rồng, Âu Cơ nòi tiên. Do vậy người Việt tự xưng là con Rồng, cháu Tiên.) * Câu 5. Trong cuộc họp lớp đầu năm, Giang đề nghị bầu Minh làm lớp trưỏng vì bạn Minh đã chăm học, học giỏi, lại thường giúp đỡ bạn bè. Theo em, Giang có nên kể vắn tắt một vài thành tích của Minh để thuyết phục các bạn cùng lớp hay không?.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> (Bạn Giang nên kể vắn tắt một vài thành tích của bạn Minh để các bạn trong lớp thấy rõ Minh là người “chăm học, học giỏi, lại thường hay giúp đỡ bạn bè” và ủng hộ mình bầu Minh làm lớp trưởng.). Bài 3. * Sơn Tinh, Thủy Tinh * Nghĩa của từ * Sự việc và nhân vật trong văn tự sự SƠN TINH, THỦY TINH (Truyền thuyết) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Do phải thường xuyên chống thiên tai lũ lụt để bảo vệ mùa màng và đời sống nên người xưa đã tưởng tượng ra một câu chuyện với nhiều tình tiết li kì: Hai vị thần cùng muốn cưới một công chúa xinh đẹp làm vợ. Rồi người được vợ, kẻ không được vợ, dẫn đến cuộc giao tranh dữ dội. Cuối cùng, kẻ thua cuộc (Thủy Tinh) ôm lòng thù hận, hằng năm vẫn gây sự đánh trả Sơn Tinh hòng cướp lại Mị Nương. Sơn Tinh, Thủy Tinh là truyền thuyết hoang đường, kì ảo, nhằm giải thích hiện tượng lũ lụt hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ và thể hiện sức mạnh, ước mơ chiến thắng thiên tai của người Việt cổ. Đồng thời truyện cũng suy tôn, ca ngợi công lao dựng nước của các vua Hùng. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh gồm mấy đoạn? Mỗi đoạn thể hiện nội dung gì? Truyện được gắn với thời đại nào trong lịch sử Việt Nam? (a. Có thể chia truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh thành ba đoạn với nội dung như sau:.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> - Đoạn 1: Từ đầu đến... mỗi thứ một đôi: Hùng vương thứ mười tám kén rể. - Đoạn 2: Tiếp theo đến... Thần Nước đành rút quân: Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến cầu hôn. Cuộc giao tranh ác liệt giữa hai vị thần và chiến thắng của Sơn Tinh. - Đoạn 3: Phần còn lại: Sự trả thù dai dẳng hằng năm của Thủy Tinh và hậu quả của nó là gây ra nạn lụt. b. Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh được gắn với thời đại các vua Hùng (Hùng Vương thứ mười tám). Đây là thời gian có tính chất ước lệ để nói về thời đại của các đời vua Hùng kế tiếp nhau. Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh đã gắn công cuộc trị thủy với thời đại mở nước, dựng nước của người Việt cổ. Do đó ý nghĩa của truyện không chỉ dừng lại ở việc giải thích các hiện tượng tự nhiên và phản ánh ước mơ chinh phục thiên nhiên mà còn hướng tới việc ca ngợi công lao dựng nước của tổ tiên ta.) Câu 2. Trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, nhân vật chính là ai? Các nhân vật chính được miêu tả bằng những chi tiết nghệ thuật tưởng tượng, kì ảo như thế nào? Ý nghĩa tượng trưng của các nhân vật đó? (a. Nhân vật chính trong truyện là Sơn Tinh và Thủy Tinh. b. Những chi tiết nghệ thuật tưởng tượng kì ảo về Sơn Tinh, Thủy Tinh và về cuộc giao tranh giữa hai vị thần này: - Cả hai vị thần đều có tài cao, phép lạ. Sơn Tinh vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Thủy Tinh gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. - Không cưới được Mị Nương, Thủy Tinh đùng đùng nổi giận. Thần thể hiện sức mạnh tàn bạo của mình trong cuộc giao tranh với Sơn Tinh: Gió bão rung chuyển cả đất trời. Mưa làm nước sông hồ dâng lên cuồn cuộn, ngập tràn.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> đồng ruộng, mùa màng, cuốn phăng cây cối, nhà cửa, súc vật. Nước dâng lên sườn đồi, sườn núi làm trốc cây, lở đá... Thủy Tinh muốn nhấn chìm đỉnh núi Tản Viên để tiêu diệt Sơn Tinh, cướp lại Mị Nương. - Nhưng Sơn Tinh cũng trổ hết tài bốc đồi, dời núi, dựng thành ngăn nước: Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu. Suốt mấy tháng trời, cuộc tấn công của Thủy Tinh thật là dữ dội: giông bão, sấm chớp, mưa như trút nước, đồng ruộng hoá thành sông, sông thành biển cả. Ấy vậy nhưng Sơn Tinh không hề nao núng, vẫn bình tĩnh, sáng suốt chống trả một cách quyết liệt và có hiệu quả. Cuối cùng kiệt sức, Thủy Tinh phải rút lui. - Những chi tiết nghệ thuật kì ảo, phi thường về Sơn Tinh, Thủy Tinh và khí thế hào hùng của cuộc giao tranh giữa hai vị thần thể hiện trí tưởng tượng bay bổng, phong phú của người xưa. - Sơn Tinh và Thủy Tinh là những hình tượng nhân vật tưởng tượng, hoang đường nhưng lại có ý nghĩa rất thật vì đã khái quát hóa được hiện tượng lũ lụt và phản ánh sức mạnh cùng ước mơ chế ngự thiên tai của người Việt cổ và công lao to lớn của các vua Hùng thời dựng nước. c. Ý nghĩa tượng trưng của các nhân vật: - Thủy Tinh là hiện tượng mưa to và bão lụt tái diễn hằng năm được hình tượng hóa trở thành kẻ thù hung dữ, truyền kiếp của Sơn Tinh. - Sơn Tinh tiêu biểu cho cư dân nước Việt cổ đã biết đắp đê chống lũ lụt, là hình tượng thể hiện ước mơ chiến thắng thiên tai. Tầm vóc vũ trụ, tài năng và khí phách của Sơn Tinh là biểu tượng sinh động cho chiến công của người Việt cổ trong cuộc đấu tranh chống bão lụt ở vùng lưu vực sông Đà và sông Hồng.) Câu 3. Hãy nêu ý nghĩa của truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh. (- Tất cả những nhân vật thần kì, các chi tiết kì ảo đều nhằm giải thích hiện tượng lũ lụt và việc chống lũ lụt hằng năm của nhân dân ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Có một chi tiết quan trọng là Sơn Tinh dựng thành ngăn nước. Đó chính là công.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> việc đắp thành bằng đất của con người - khởi đầu cho những con đê sau này chạy dài suốt hai bờ những con sông lớn để ngăn nước lũ. - Người xưa để cho Sơn Tinh thắng Thủy Tinh là gửi gắm vào đó ước mơ có được sức mạnh thần kì để chế ngự được nạn lũ lụt - một tai hoạ lớn của con người. - Truyện đã xây dựng được những hình tượng nghệ thuật kì ảo mang tính tượng trưng và khái quát cao.) NGHĨA CỦA TỪ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Từ có hai mặt: nội dung và hình thức. * Nghĩa của từ là nội dung mà từ biểu thị. Nội dung đó có thể phản ánh sự vật hoặc tính chất, hoạt động, quan hệ... của sự vật, sự việc. * Có thể giải thích nghĩa của từ bằng hai cách chính như sau: - Trình bày khái niệm mà từ biểu thị. - Dùng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa với từ cần giải thích. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Đọc lại một vài chú thích ở sau các văn bản đã học. Cho biết mỗi chú thích giải nghĩa từ theo cách nào? (- Cầu hôn: xin được lấy làm vợ (cầu: tìm, kiếm, xin; hôn: lấy vợ, lấy chồng): giải thích bằng cách trình bày khái niệm mà từ biểu thị. - Phán: truyền bảo (từ được dùng khi người nói là vua chúa, thần linh, cũng có thể là người bề trên nói chung): giải thích bằng cách trình bày khái niệm mà từ biểu thị. - Sính lễ: lễ vật mà nhà trai đem đến nhà gái để xin cưới: giải thích bằng cách trình bày khái niệm mà từ biểu thị..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> - Tâu\ thưa trình (từ dùng khi quan hoặc dân nói với vua chúa, thần linh): giải thích bằng cách đưa ra các từ đồng nghĩa. - Hồng mao: ở đây chỉ bờm ngựa (hồng: màu đỏ; mao: lông động vật): giải thích bằng cách trình bày khái niệm mà từ biểu thị. - Nao núng: lung lay, không vững lòng tin ở mình nữa: giải thích bằng cách đưa các từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa.) * Câu 2. Hãy điền các từ học hỏi, học tập, học hành, học lỏm vào chỗ trống trong những câu dưới đây sao cho phù hợp: -...: học và luyện tập để có hiểu biết, có kĩ năng. -...: nghe hoặc thấy người ta làm rồi làm theo, chứ không được ai trực tiếp dạy bảo. - …: tìm tòi, hỏi han để học tập. -...: học văn hóa có thầy, có chương trình, có hướng dẫn (nói một cách khái quát), (a. học tập: học và luyện tập để có hiểu biết, có kĩ năng. b. học lỏm: nghe hoặc thấy người ta làm rồi làm theo, chứ không được ai trực tiếp dạy bảo. c. học hỏi: tìm tòi, hỏi han để học tập. d. học hành: học văn hóa có thầy, có chương trình, có hướng dẫn.) * Câu 3. Điền các từ trung gian, trung niên, trung bình vào chỗ trống cho phù hợp: - …: ở vào khoảng giữa trong bậc thang đánh giá, không khá cũng không kém, không cao cũng không thấp. - …: ở vị trí chuyển tiếp hoặc nối liền giữa hai bộ phận, hai giai đoạn, hai sự vật..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> -...: đã quá tuổi thanh niên nhưng chưa đến tuổi già. (Điền từ theo trật tự sau: - Trung bình: ở vào khoảng giữa trong bậc thang đánh giá, không khá cũng không kém, không cao cũng không thấp. - Trung gian: ở vị trí chuyển tiếp hoặc nối liền giữa hai bộ phận, hai giai đoạn, hai sự vật. - Trung niên: đã quá tuổi thanh niên nhưng chưa đến tuổi già.) * Câu 4. Giải thích các từ sau theo những cách đã biết: - giếng; - rung rinh; - hèn nhát. (Mỗi từ đều có thể được giải thích nghĩa bằng nhiều cách khác nhau. Nhưng tiện lợi hơn cả là giải nghĩa từ giếng, rung rinh bằng cách trình bày khái niệm, từ hèn nhát bằng cách đưa ra từ trái nghĩa. - Giếng: hố tròn được đào thẳng đứng, sâu vào lòng đất để lấy nước. - Rung rinh: chuyển động qua lại, nhẹ nhàng, liên tiếp. - Hèn nhát, thiếu can đảm (đến mức đáng khinh bỉ), trái nghĩa với dũng cảm.) * Câu 5. Đọc truyện sau đây và cho biết giải nghĩa từ mất như nhân vật Nụ có đúng không? THẾ THÌ KHÔNG MẤT Cô Chiêu đi đò với cái Nụ. Cái Nụ ăn trầu, lỡ tay đánh rơi ống vôi bạc của cô Chiêu xuống sông. Để cô Chiêu khỏi mắng mình, nó rón rén hỏi: - Thưa cô, cái gì mà mình biết nó ở đâu rồi thì có thể gọi là mất được không cô nhỉ? Cô Chiêu cười bảo:.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> - Cái con bé này hỏi đến lẩm cẩm. Đã biết ở đâu rồi thì sao gọi là mất được nữa! Cái Nụ nhanh nhảu tiếp luôn: - Thế thì cái ống vôi của cô không mất rồi. Con biết nó nằm ở dưới đáy sông đằng kia. Con vừa đánh rơi xuống đấy. (Theo Truyện tiếu lâm Việt Nam) (- Mất theo cách giải nghĩa của nhân vật Nụ là: cái gì mà mình không biết nó ở đâu; còn biết nó ở đâu thì tức là không mất. - Mất trong câu trên hiểu theo cách thông thường (như trong cách nói mất cái ví, mất cái ống vôi,...) là không còn, không thuộc về mình nữa. Vì vậy, cách giải nghĩa từ mất của nhân vật Nụ là không đúng (ngụy biện).) SỰ VIỆC VÀ NHÂN VẬT TRONG VĂN TỰ SỰ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Tự sự là kể lại một chuỗi sự việc để thông báo, giải thích một vấn đề. Trong chuỗi sự việc đó có sự việc khởi đầu, sự việc phát triển, sự việc cao trào, sự việc kết thúc. * Sự việc trong văn tự sự được sắp xếp theo một trật tự, diễn biến sao cho thể hiện được tư tưởng mà người kể muốn biểu đạt. * Sự việc trong văn bản tự sự được trình bày một cách cụ thể: sự việc xảy ra trong thời gian, địa điểm cụ thể, do nhân vật cụ thể thực hiện, có nguyên nhân, diễn biến, kết quả... * Sự việc và chi tiết trong văn tự sự được lựa chọn phải phù hợp với nội dung, chủ đề của truyện. * Nhân vật trong văn tự sự là người thực hiện các sự việc được thể hiện trong văn bản. Nhân vật chính đóng vai trò chủ yếu trong việc thể hiện tư tưởng của văn bản. Nhân vật phụ chỉ giúp nhân vật chính hoạt động. Nhân vật được thể hiện qua các mặt: tên gọi, lai lịch, tính nết, hình dáng, việc làm....

<span class='text_page_counter'>(38)</span> II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Chỉ ra những việc mà các nhân vật trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh đã làm: - Vua Hùng:...; - Mị Nương:...; - Sơn Tinh:...; - Thủy Tinh:... a) Nhận xét vai trò, ý nghĩa của các nhân vật. b) Tóm tắt truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh theo sự việc gắn với các nhân vật chính. c) Tại sao truyện lại gọi là Sơn Tinh, Thủy Tinh? Nếu đổi bằng các tên sau có được không? - Vua Hùng kén rể. - Truyện Vua Hùng, Mị Nương, Sơn Tinh và Thủy Tinh. - Bài ca chiến công của Sơn Tinh. (* Những sự việc mà các nhân vật trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh đã làm: Vua Hùng kén rể (sự việc khởi đầu) -> Sơn Tinh, Thuỷ Tinh đến cầu hôn, cả hai đều tài giỏi -> Vua Hùng ra điều kiện chọn rể (sự việc phát triển) -> Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, cưới được Mị Nương -> Thủy Tinh không cưới được vợ, tức giận dâng nước đánh Sơn Tinh. Giao tranh quyết liệt, Thủy Tinh thua. (sự việc cao trào) -> Vì hận mất Mị Nương nên hằng năm Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng đều thua. (sự việc kết thúc) a. Nhận xét vai trò, ý nghĩa của các nhân vật:.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Sơn Tinh, Thủy Tinh tuy là những nhân vật tưởng tượng nhưng lại có ý nghĩa rất thực vì đã khái quát được hiện tượng lũ lụt, đồng thời phản ánh những kì công trong sự nghiệp dựng nước của nhân dân ta dưới triều đại các vua Hùng. Tất cả những chi tiết kì ảo trong truyện nhằm để giải thích hiện tượng lũ lụt và việc chống lũ lụt hằng năm của nhân dân ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Người xưa để cho Sơn Tinh thắng Thủy Tinh là gửi gắm vào đó ước mơ có được sức mạnh thần kì để chế ngự nạn lụt - một tai hoạ lớn của đời sống con người. b. Tóm tắt truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh theo sự việc gắn với các nhân vật chính: Cốt truyện xoay quanh hai sự việc chính: Hùng Vương kén rể và Sơn Tinh, Thủy Tinh giao tranh. Ta có thể tóm tắt cốt truyện như sau: Hùng Vương kén rể, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, cưới được Mị Nương. Thủy Tinh giận dữ dâng nước lên đánh, Sơn Tinh chống trả quyết liệt Thủy Tinh sức cùng lực kiệt phải rút quân. Không quên thù cũ, hằng năm Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh Sơn Tinh. c. Truyện được đặt tên là Sơn Tinh, Thủy Tinh vì đó là tên hai nhân vật chính thể hiện nội dung và ý nghĩa của truyện. Đây là cách đặt tên truyền thống theo thói quen của dân gian như: Tấm Cám, Sọ Dừa, Thạch Sanh,... Vì vậy, không nên đặt tên truyện là Vua Hùng kén rể (không bộc lộ được chủ đề) hoặc Truyện Vua Hùng, Mị Nương, Sơn Tinh và Thủy Tinh (vừa dài dòng vừa đánh đồng nhân vật chính với nhân vật phụ). Có thể đặt tên truyện là Bài ca chiến công của Sơn Tinh.) * Câu 2. Cho nhan đề truyện: Một lần không vâng lời. Em hãy tưởng tượng để kể một câu chuyện theo nhan đề ấy. Em dự định sẽ kể sự việc gì, diễn biến ra sao, nhân vật của em là ai? (* Tham khảo cách làm dưới đây:.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Em kể chuyện: Một lần không vâng lời thầy giáo, nhân vật chính là em. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Thời gian xảy ra sự việc: - Vào đầu học kì I của năm học này. 2. Thân bài: * Diễn biến sự việc: - Hoàn cảnh dẫn đến lỗi lầm: (Em thường được điểm khá, giỏi nên chủ quan). - Em đã có những suy nghĩ và hành động sai trái như thế nào? (Không học bài nên không làm được bài). - Hậu quả của lỗi lầm đó ra sao? (Em bị điểm kém, dẫn đến kết quả học tập cuối học kì I không cao). 3. Kết bài: * Kết thúc sự việc: - Cảm nghĩ của em: Em ân hận và quyết tâm sửa chữa nên cuối năm vẫn đạt được danh hiệu Học sinh tiên tiến. II. BÀI LÀM Cuối năm học vừa qua, em đạt được danh hiệu Học sinh tiên tiến. Có được kết quả này một phần là nhờ em rút được bài học cay đắng ở đầu học kì I. Chuyện là thế này: Thầy dạy Toán của em rất nghiêm khắc và cẩn thận. Thầy thường nói rằng Toán là bộ môn mà kiến thức liên kết rất chặt chẽ, hiểu không kĩ phần trước thì phần sau sẽ khó tiếp thu. Em đã không vâng lời thầy, dù chỉ một lần..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Vốn là học sinh giỏi Toán nên bài kiểm tra nào em cũng đạt điểm 9, điểm 10. Mỗi lần thầy gọi điểm, em trả lời rất rành rọt trước sự thán phục của bạn bè. Một hôm, trong giờ ôn tập, em chủ quan không học bài cũ. Theo thường lệ, thầy giáo gọi học sinh lên bảng. Vì đã có điểm kiểm tra miệng nên em tin chắc là thầy sẽ chẳng gọi đến mình. Vì vậy, em ung dung ngắm bầu trời qua khung cửa sổ và tha hồ tưởng tượng đến trận đá bóng chiều nay giữa lớp em với lớp 6B. Nhưng một chuyện bất ngờ đã xảy ra. Thầy giáo yêu cầu cả lớp lấy giấy ra làm bài. Biết làm sao bây giờ? Mọi khi kiểm tra một tiết, thầy thường báo trước. Còn hôm nay, sao lại thế này?! Đây đó trong lớp nổi lên tiếng xì xào thắc mắc của một số bạn. Em ngơ ngác nhìn quanh một lượt và chợt bừng tỉnh khi bạn Hoa ngồi cạnh huých cùi tay vào sườn, nhắc nhở: Kìa, chép đề đi chứ! Em có cảm giác là tiết kiểm tra hôm ấy kéo dài vô tận. Em loay hoay viết rồi lại xóa. Vì mất bình tĩnh nên đầu óc cứ rối tung lên. Thời gian đã hết, em nộp bài mà lòng cứ thắc thỏm, lo âu. Tuần sau, thầy giáo trả bài. Như mọi lần, em nhận bài từ tay thầy để phát cho các bạn. Liếc qua bài mình, thấy bị điểm 2, tim em thắt lại. Em không để cho ai kịp nhìn thấy và cố giữ nét mặt thản nhiên, vẻ mặt ấy che giấu bao nhiêu sóng gió trong lòng. Thật là chuyện chưa từng có. Ăn nói làm sao với thầy, với bạn, với bố mẹ bây giờ? Chỉ vì em không nghe lời thầy, chủ quan trong học tập nên mới dẫn tới kết quả này. Dù trong học kì I, em đã cố gắng rất nhiều song điểm Toán chỉ đạt loại khá. Nhờ cố gắng học tập, cuối năm, em đạt được danh hiệu học sinh tiên tiến nhưng em vẫn không quên chuyện cũ. Giờ em kể lại chuyện này với thái độ tự kiểm điểm, phê phán thật nghiêm túc. Đó quả là một bài học sâu sắc trong đời học trò của em..

<span class='text_page_counter'>(42)</span> Bài 4. * Sự tích Hồ Gươm * Chủ đề và dàn bài của bài văn tự sự * Tìm hiểu đề và cách làm bài văn tự sự * Viết bài Tập làm văn số 1 - Văn kể chuyện SỰ TÍCH HỒ GƯƠM (Truyền thuyết) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Vào thế kỉ XV, quân xâm lược nhà Minh sang cướp nước ta. Chúng coi dân ta như cỏ rác và làm nhiều điều bạo ngược khiến thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Tội ác của chúng trời không dung, đất không tha. Bấy giờ, ở vùng Lam Sơn tỉnh Thanh Hoá, Lê Lợi tụ họp nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa nhưng vì thế lực còn non yếu nên thua trận liên tiếp. Thấy vậy, Long Quân quyết định cho Lê Lợi mượn thanh gươm thần để giết giặc. Đánh tan quân xâm lược, non sông trở lại thanh bình, Lê Lợi lên ngôi vua, đóng đô ở Thăng Long. Một ngày nọ, vua Lê cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp này, Long Quân sai Rùa Vàng đòi lại gươm thần. Lê Lợi hiểu ý thần linh nên đã trao gươm cho Rùa Vàng. Rùa Vàng ngậm thanh gươm báu, lặn xuống đáy hồ sâu. Sau việc Lê Lợi trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm). Bằng những hình ảnh kì ảo như gươm thần, Rùa Vàng, truyện Sự tích Hồ Gươm ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống giặc Minh xâm lược. Truyện giải thích nguồn gốc tên gọi của Hồ Gươm, đồng thời thể hiện khát vọng hòa bình của dân tộc ta..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Vì sao đức Long Quân cho nghĩa quân Lam Sơn mượn gươm thần? (- Giặc Minh đô hộ nước ta, làm nhiều điều bạo ngược, nhân dân ta căm thù chúng đến tận xương tủy. - Ở vùng Lam Sơn, Thanh Hóa, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn yếu nên nhiều lần bị thua. - Đức Long Quân thấy vậy, quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để giết giặc. Cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn đã được tổ tiên, thần thánh ủng hộ, giúp đỡ.) Câu 2. Lê Lợi đã nhận gươm thần như thế nào? Cách Long Quân cho nghĩa quân Lam Sơn và Lê Lợi mượn gươm có ý nghĩa gì? (a. Lê Thận đi kéo lưới ở bến sông, ba lần kéo lên đều chỉ được một thanh sắt. Lần thứ ba, ông nhìn kĩ thì là một lưỡi gươm. Lê Thận đem lưỡi gươm ấy về cất ở xó nhà rồi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và sau này trở thành người tâm phúc của Lê Lợi. Nhân một lần Lê Lợi đến nhà Lê Thận, thấy lưỡi gươm sáng rực lên hai chữ Thuận Thiên (thuận theo ý trời) bèn cầm lên xem nhưng chưa biết đó là gươm thần. Một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi cùng một số tướng sĩ phải chạy vào rừng. Bất ngờ, ông nhìn thấy trên ngọn cây đa có ánh sáng khác lạ, bèn trèo lên xem thử và nhận ra đó là một chiếc chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi gỡ lấy chuôi gươm mang về. Đem lưỡi gươm Lê Thận bắt được dưới nước tra vào chuôi gươm bắt được trên rừng thì vừa như in. b. Ý nghĩa cách Long Quân cho mượn gươm: - Chi tiết lưỡi gươm ở dưới nước, chuôi gươm ở trên rừng có ý nghĩa là nhân dân ta từ miền biển đến miền núi đều có khả năng đánh giặc cứu nước..

<span class='text_page_counter'>(44)</span> - Các bộ phận của thanh gươm tuy ở xa nhau nhưng khi khớp lại thì vừa như in. Điều đó có nghĩa là dân tộc ta đồng tâm nhất trí, nghĩa quân trên dưới một lòng tạo nên sức mạnh đánh tan quân cướp nước. - Lê Thận dâng lưỡi gươm cho Lê Lợi, Lê Lợi bắt được chuôi gươm, những chi tiết này khẳng định, đề cao vai trò minh chủ của Lê Lợi. Gươm sáng ngời hai chữ Thuận Thiên khẳng định cuộc khởi nghĩa thuận theo ý trời. Trời ở đây chính là đất nước, nhân dân đã giao cho Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn trách nhiệm đánh giặc. Gươm chọn người xứng đáng và người nhận thanh gươm tức là nhận trách nhiệm nặng nề và vinh quang trước vận mệnh của đất nước, dân tộc.) Câu 3. Hãy chỉ ra sức mạnh của gươm thần đối với nghĩa quân Lam Sơn. (Từ khi có gươm thiêng, nhuệ khí của nghĩa quân Lam Sơn ngày một tăng tiến, đánh đâu thắng đấy, làm cho quân giặc bạt vía kinh hồn. Sức mạnh đoàn kết của con người kết hợp với sức mạnh của vũ khí thần kì đã làm nên chiến thắng vẻ vang. Ánh sáng kì diệu phát ra lấp lánh từ gươm thiêng phải chăng là ánh sáng của chính nghĩa, của khát vọng tự do, độc lập muôn đời, thôi thúc mọi người vùng lên giết giặc cứu nước. Gươm thần mở đường cho nghĩa quân đánh tràn ra mãi, cho đến lúc không còn bóng dáng một tên giặc nào trên đất nước ta.) Câu 4. Khi nào Long Quân cho đòi gươm? cảnh đòi gươm và trả gươm diễn ra như thế nào? (a. Đánh tan quân Minh xâm lược, non sông Đại Việt trở lại thanh bình. Lê Lợi lên ngôi vua, đóng đô ở Thăng Long. Một ngày nọ, vua Lê cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp này, Long Quân sai Rùa Vàng đòi lại gươm thần và Lê Lợi hiểu ý thần linh, đã trao gươm cho Rùa Vàng, Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần để đánh giặc, nay đất nước đã yên bình thì đòi gươm lại..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> b. Rùa Vàng há miệng đón lấy gươm thần và lặn xuống nước: Gươm và Rùa đã chìm đáy nước, người ta vẫn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh. Đấy là ánh sáng của hào quang chiến thắng vẻ vang, ánh sáng của quyết tâm giết giặc bảo vệ Tổ quốc. Những hình ảnh thần kì trên đã để lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng bao thế hệ. Chi tiết này có ý nghĩa lớn lao: Khi vận nước ngàn cân treo sợi tóc, thần linh, tổ tiên trao gươm báu cho con cháu giữ gìn giang sơn, bờ cõi. Nay đất nước độc lập, bắt đầu giai đoạn xây dựng trong hoà bình thì gươm báu - hùng khí của tổ tiên lại trở về chốn cũ. Sau sự kiện vua Lê trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm). Tên hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) có ý nghĩa là gươm thần vẫn còn đó, nhắc nhở mọi người tinh thần cảnh giác và răn đe những kẻ có tham vọng dòm ngó đất nước ta. Tên hồ đánh dấu và khẳng định chiến thắng hoàn toàn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, phản ánh tư tưởng yêu hòa bình đã thành truyền thống của dân tộc ta.) Câu 5. Thảo luận ở lớp: Ý nghĩa của truyện Sự tích Hồ Gươm? (- Ý nghĩa của truyện là ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Chủ tướng của cuộc khởi nghĩa là Lê Lợi, dưới là Lê Thận (tiêu biểu cho nghĩa quân) xuất thân từ người đánh cá, trên là đức Long Quân - tượng trưng cho tổ tiên, hồn thiêng dân tộc. Các bộ phận của gươm lắp khớp vào nhau tượng trưng cho hình ảnh nhân dân các vùng miền trên khắp đất nước đoàn kết một lòng tạo thành sức mạnh chiến đấu và chiến thắng quân thù. Thanh gươm ngời sáng sức mạnh chính nghĩa, sức mạnh truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta. - Đề cao, suy tôn Lê Lợi và triều đại nhà Lê. Tuy không thuộc dòng dõi vua chúa nhưng Lê Lợi đã phất cao ngọn cờ chính nghĩa, tập hợp nghĩa quân đánh giặc cứu nước. Vì thế mà ông được Long.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Quân cho mượn gươm thần và đòi lại gươm khi đã đuổi hết giặc. Lê Lợi được nghĩa quân tôn làm chủ tướng. Chi tiết thần kì trên đã tôn vinh vai trò chủ tướng của Lê Lợi, gây thanh thế cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và tạo dựng uy thế cho Lê Lợi sau khi ông lên ngôi vua. - Giải thích nguồn gốc tên gọi của hồ Hoàn Kiếm (trả gươm). Tên hồ đánh dấu và khẳng định chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn, đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Đồng thời phản ánh tư tưởng, tình cảm yêu hoà bình đã thành truyền thống của dân tộc ta. Khi có giặc, cần phải cầm gươm đánh giặc; thời bình, không cần cầm gươm nữa thì tập trung xây dựng đất nước. Tên hồ còn có ý nghĩa cảnh cáo, răn đe đối với kẻ thù có tham vọng xâm chiếm nước ta. Lê Lợi trả gươm cho Long Quân cũng có nghĩa là gươm thiêng vẫn còn đó. Ánh sáng của thanh gươm thần dưới mặt hồ xanh kết tụ cả ba ý nghĩa trên.) Câu 6. Em biết còn truyền thuyết nào của nước ta cũng có hình ảnh Rùa Vàng? Theo em, hình tượng Rùa Vàng trong truyền thuyết Việt Nam tượng trưng cho ai và cho cái gì? (- Nhiều truyền thuyết Việt Nam có hình ảnh Rùa Vàng nhưng hình ảnh thần Kim Quy xuất hiện tiêu biểu nhất trong hai truyền thuyết: An Dương vương và Sự tích Hồ Gươm. Trong truyền thuyết An Dương Vương, thần Kim Quy giúp vua xây thành, lại tặng vua chiếc vuốt để làm nỏ thần và cũng chính thần Kim Quy chỉ ra cho vua biết ai là giặc ở sau lưng. - Thần Kim Quy xuất hiện lúc An Dương Vương gặp khó khăn để dẫn đường chỉ lối. Rùa Vàng giúp Long Quân nhận lại gươm thần, điều đó thể hiện tư tưởng yêu hòa bình của nhân dân ta. Tóm lại, hình ảnh Rùa Vàng trong truyền thuyết Việt Nam tượng trưng cho hồn thiêng sông núi, cho tư tưởng, tình cảm và trí tuệ của nhân dân)..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP Câu 1. Hãy đọc phần Đọc thêm để thấy rõ hơn tính lặp lại và ý nghĩa của chi tiết trao gươm thần trong các truyền thuyết Việt Nam. (Đoạn văn Ấn, kiếm Tây Sơn kể về việc hai ông Xà (thần rắn) dâng ấn kiếm cho Nguyễn Huệ. Trong truyền thuyết Việt Nam, lãnh tụ của các cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm nếu được nhân dân ủng hộ thì hình tượng trao gươm thần được dựng nên. Thần ở đây chính là nhân dân. Nhân dân trao ấn kiếm tức là trao trọng trách, trao quyền lực để lãnh tụ tổ chức, xây dựng đội quân đoàn kết thống nhất, trên dưới đồng lòng, quyết chiến với quân thù. Đây cũng là cách thể hiện niềm tin của nhân dân vào người có tài, có đức.) Câu 2. Vì sao tác giả dân gian không để Lê Lợi được trực tiếp nhận cả chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc? (Nếu để Lê Lợi được trực tiếp nhận cả chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc thì truyện sẽ không thể hiện được tính chất toàn dân đánh giặc của cuộc kháng chiến chống quân Minh. Thanh gươm Lê Lợi nhận được là thanh gươm hội tụ tư tưởng, tình cảm, sức mạnh của nhân dân trên khắp mọi miền đất nước.) Câu 3. Lê Lợi nhận gươm ở Thanh Hóa nhưng lại trả gươm ở Hồ Gươm Thăng Long. Nếu Lê Lợi trả gươm ỏ Thanh Hóa thì ý nghĩa của truyền thuyết sẽ khác đi như thế nào? (Nếu Lê Lợi trả gươm ở Thanh Hóa thì ý nghĩa của truyền thuyết sẽ bị hạn chế rất nhiều. Bởi vì lúc này, Lê Lợi đã lên ngôi vua và đóng đô ở kinh thành Thăng Long. Để việc trả gươm diễn ra ở hồ Tả Vọng của kinh thành Thăng Long mới giải thích được nguồn gốc tên gọi của Hồ Gươm và thể hiện được tư tưởng yêu hòa bình cùng tinh thần cảnh giác của dân tộc ta.).

<span class='text_page_counter'>(48)</span> Câu 4. Hãy nhắc lại định nghĩa truyền thuyết và kể tên những truyền thuyết đã học. (a. Truyền thuyết: Là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ, thường có yếu tố tưởng tượng, kì ảo. Truyền thuyết thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử được kể. Truyền thuyết Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với thần thoại. Nhiều truyền thuyết, đặc biệt truyền thuyết về thời đại các vua Hùng chính là những thần thoại đã được lịch sử hoá. b. Những truyền thuyết đã học như: Con Rồng, cháu Tiên; Bánh chưng, bánh giầy; Thánh Gióng; Sơn Tinh, Thủy Tinh; Sự tích Hồ Gươm.) CHỦ ĐỀ VÀ DÀN BÀI CỦA BÀI VĂN TỰ SỰ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Chủ đề là vấn đề chủ yếu mà người viết muốn đặt ra trong văn bản. Điều này thường được nêu trong phần mở bài. * Dàn bài bài văn tự sự thường có ba phần: - Phần Mở bài giới thiệu chung về nhân vật và sự việc. - Phần Thân bài kể diễn biến của sự việc. - Phần Kết bài kể kết thúc của sự việc. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Đọc truyện sau đây và trả lời câu hỏi: PHẦN THƯỞNG Một người nông dân tìm được một viên ngọc quý liền muốn đem dâng tiến nhà vua..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> Ông ta tìm đến cung điện và nhờ các quan trong triều bảo làm cách nào gặp được nhà vua. Một trong các quan hỏi ông ta cần gặp vua để làm gì. Người nông dân bèn kể lại chuyện muốn dâng vua viên ngọc quý. Vị quan nọ bảo: - Được, tôi sẽ đưa anh vào gặp nhà vua với điều kiện anh phải chia cho tôi một nửa phần thưởng của nhà vua. Nếu không thì thôi! Người nông dân đồng ý, và viên quan nọ liền dẫn ông ta vào cung vua. Vua cầm lấy viên ngọc và bảo: - Thế anh muốn ta thưởng cho anh cái gì bây giờ? Người nông dân bèn thưa: - Xin bệ hạ hãy thưởng cho hạ thần năm mươi roi, hạ thần không muốn gì hơn cả. Chỉ có điều là hạ thần đồng ý chia cho viên quan đã đưa thần vào đây một nửa số phần thưởng của bệ hạ. Vậy xin bệ hạ hãy thưởng cho mỗi người hai mươi nhăm roi. Nhà vua bật cười, đuổi tên cận thần ra và thưởng cho người nông dân một nghìn rúp. (Lép Tôn-xtôi, Vũ Văn Tôn dịch) Câu hỏi: a) Chủ đề của truyện này nhằm biểu dương và chế giễu điều gì? Sự việc nào thể hiện tập trung cho chủ đề? Gạch dưới câu văn thể hiện sự việc đó. b) Hãy chỉ ra ba phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. c) Truyện này với truyện Tuệ Tĩnh có gì giống nhau về bố cục và khác nhau về chủ đề? d) Sự việc trong Thân bài thú vị ở chỗ nào?.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> (a. Chủ đề của truyện: Tố cáo tên cận thần tham lam, ca ngợi trí thông minh của người nông dân và sự thưởng phạt công bằng của nhà vua. - Sự việc thể hiện tập trung cho chủ đề là: Người nông dân xin vua thưởng năm mươi roi và đề nghị chia đôi phần thưởng đó cho viên quan dẫn đường. - Câu văn thể hiện chủ đề là: 1. Người nông dân bèn kể lại chuyện muốn dâng vua viên ngọc quý. 2. Được, tôi sẽ đưa anh vào gặp nhà vua với điều kiện anh phải chia cho tôi một nửa phần thưởng của nhà vua. Nếu không thì thôi! 3. Vậy xin bệ hạ hãy thưởng cho mỗi người hai mươi nhăm roi. 4. Nhà vua bật cười, đuổi tên cận thần ra và thưởng cho người nông dân một nghìn rúp. * Chú ý: Nhan đề Phần thưởng có hai nghĩa, một nghĩa thực và một nghĩa chế giễu, mỉa mai. Đối với người nông dân, thưởng là khen thưởng. Đối với tên cận thần, thưởng là phạt, cho nên người nông dân mới xin thưởng roi để trừng trị hắn. b. Mở bài: câu 1. Kết bài: câu cuối. Phần còn lại là Thân bài. c. So sánh truyện Tuệ Tĩnh với Phần thưởng, chỗ khác nhau chủ yếu là bố cục. Điều đó thể hiện ở diễn biến và kết thúc của sự việc. Nếu truyện Tuệ Tĩnh có diễn biến thuận chiều để đi đến một kết thúc có hậu (Tuệ Tĩnh hết lòng chữa cho chú bé, sau đó mới vội vã ra đi chữa cho nhà quý tộc), còn truyện Phần thưởng thì có diễn biến đầy kịch tính (xin thưởng năm mươi roi), để đi đến một kết thúc bất ngờ mà thú vị (tên cận thần bị nhà vua đuổi ra, người nông dân được thưởng một nghìn rúp). Sự việc ở hai truyện đều diễn biến theo thời gian, có kịch tính, có yếu tố bất ngờ. Truyện Tuệ Tĩnh bất ngờ ở đầu truyện (không chữa bệnh cho nhà quý tộc trước mà chữa cho nhà nghèo trước). Truyện Phần thưởng bất ngờ ở cuối.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> truyện (người nông dân được thưởng tiền, tên quan bị “thưởng” roi). Như vậy, hai truyện này giống nhau về bố cục nhưng lại khác nhau về chủ đề, một bên là ca ngợi lòng thương người, một bên là ca ngợi trí thông minh và sự thưởng phạt công bằng. d. Câu chuyện thú vị ở chỗ: Lời cầu xin phần thưởng lạ lùng và kết thúc bất ngờ, ngoài dự kiến của tên quan và của người đọc, để nói lên sự thông minh, tự tin, hóm hỉnh của người nông dân.) * Câu 2. Đọc lại các bài Sơn Tinh, Thủy Tinh và Sự tích Hồ Gươm xem cách mở bài đã giới thiệu rõ câu chuyện sắp xảy ra chưa và kết bài đã kết thúc câu chuyện như thế nào? (Đánh giá cách mở bài, kết bài ở hai truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh và Sự tích Hồ Gươm. - Mở bài của Sơn Tinh, Thủy Tinh: Nêu tình huống. - Mở bài của Sự tích Hồ Gươm: Cũng nêu tình huống, nhưng dẫn giải dài hơn. - Kết bài của Sơn Tinh, Thủy Tinh: Sự việc vẫn tiếp diễn. - Kết bài của Sự tích Hồ Gươm: Sự việc kết thúc. + Có hai cách mở bài: - Giới thiệu chủ đề câu chuyện. - Kể tình huống nảy sinh câu chuyện. + Có hai cách kết bài: - Kể sự việc kết thúc câu chuyện. - Kể sự việc tiếp tục sang câu chuyện khác như vẫn đang tiếp diễn.) TÌM HIỂU ĐỀ VÀ CÁCH LÀM BÀI VĂN TỰ SỰ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> * Cách làm bài văn tự sự phải tiến hành qua bốn bước (tìm hiểu đề, lập ý, lập dàn ý, viết thành bài văn). * Tìm hiểu đề: + Đọc kĩ đề, gạch dưới những từ chính. Khi tìm hiểu đề văn tự sự thì phải tìm hiểu kĩ lời văn của đề để nắm vững yêu cầu của đề bài. + Đề văn tự sự thường có từ kể (kể về, kể lại) một người, một câu chuyện. + Đọc đề, ta thấy nổi lên hai yêu cầu: nội dung kể, hình thức kể. - Nội dung kể: Đề về kể việc, kể người, tường thuật lại sự việc. - Hình thức kể: Bằng lời văn của mình hay của người khác. * Lập ý là xác định nội dung sẽ viết theo yêu cầu của đề, cụ thể là xác định: nhân vật, sự việc, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của câu chuyện. * Lập dàn ý theo ba phần (mở bài, thân bài, kết bài): là sắp xếp việc gì kể trước, việc gì kể sau để người đọc theo dõi được câu chuyện và hiểu được ý định của người viết. * Cuối cùng phải viết thành bài văn theo bố cục ba phần. Kể lại câu chuyện bằng ngôn ngữ, lời văn của mình một cách sáng tạo. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Hãy ghi vào giấy dàn ý em sẽ viết theo yêu cầu của các đề Tập làm văn sau: - Đề 1: Kể truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em. - Đề 2: Kể về một người bạn tốt mà em yêu mến nhất. - Để 3: Kể về một kỉ niệm hồi thơ ấu mà em nhớ mãi. - Đề 4: Sinh nhật của em được tổ chức rất vui. Em hãy kể lại buổi tiệc sinh nhật ấy..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> - Đề 5: Năm nay em học lớp 6, em đã lớn rồi. Hãy kể lại những thay đổi của em. (* Tham khảo các dàn ý dưới đây: ĐỀ 1: Kể truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em. 1. Mở bài: * Giới thiệu bối cảnh và nhân vật chính: - Ở làng Gióng, tỉnh Bắc Ninh (cũ), vào đời Hùng vương thứ sáu. - Cậu bé làng Gióng có công đánh đuổi giặc Ân, được suy tôn là Thánh Gióng. 2. Thân bài: * Diễn biến của truyện: - Hai vợ chồng đã già mà không có con. - Một hôm bà vợ ra đồng, thấy vết chân rất to, liền đặt bàn chân vào ướm thử. - Bà thụ thai, sinh ra một đứa con trai. - Lên ba tuổi, đứa bé không biết đi, không biết nói. - Giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta. - Vua sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước. - Cậu bé chợt cất tiếng nói, nhờ mẹ gọi sứ giả vào, nhờ sứ giả tâu với vua sắm cho mình giáp sắt, roi sắt, ngựa sắt để đi đánh giặc. - Cậu bé lớn nhanh như thổi, cả làng góp sức nuôi cậu. - Các thứ được đem đến, cậu bé vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt xông lên đánh đuổi quân thù. Roi gãy, cậu nhổ tre đánh tiếp..

<span class='text_page_counter'>(54)</span> - Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ cởi giáp sắt bỏ lại, cưỡi ngựa bay lên trời. 3. Kết bài: * Kết thúc truyện: - Vua ghi nhớ công lao, phong cho Gióng danh hiệu Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ. - Tháng tư hằng năm, làng mở hội lớn. - Tre ở làng Gióng có màu ngà là vì ngựa sắt phun lửa. - Ao hồ liên tiếp là do vết chân ngựa phi để lại. - Một làng có tên là làng Cháy. ĐỀ 2: Kể về một người bạn tốt mà em yêu mến. 1. Mở bài: * Giới thiệu nhân vật: - Tên bạn, mối quan hệ với em (bạn học, bạn hàng xóm...). - Nêu lí do khiến em yêu mến bạn. 2. Thân bài: * Những phẩm chất của bạn: - Chăm chỉ. - Học giỏi. - Tận tình giúp đỡ bạn bè. - Chịu khó học hỏi, thích tìm hiểu, quan sát. - Tự giác giúp đỡ bố mẹ. 3. Kết bài:.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> * Ảnh hưởng của bạn đối với em và mọi người: - Là tấm gương tốt cho em noi theo. - Bạn được mọi người yêu mến, tin cậy. ĐỀ 3: Kể về một kỉ niệm hồi thơ ấu mà em nhớ mãi. 1. Mở bài: * Giới thiệu sơ lược về kỉ niệm đáng nhớ: - Về chuyện gì? xảy ra bao giờ? Có liên quan đến ai? (Việc rèn luyện chữ viết hồi em học lớp 3 do mẹ động viên). 2. Thân bài: * Kể lại trình tự sự việc: - Vì chữ rất xấu nên em sợ môn Chính tả. - Chưa được điểm cao bao giờ. - Mẹ khuyên nhủ động viên em nên tập viết chữ cho sạch đẹp. - Em cố gắng rất nhiều, kiên trì luyện tập. 3. Kết bài: * Kết quả và cảm nghĩ của em: - Chữ viết của em càng ngày càng sạch đẹp hơn. - Em đã đạt được điểm 10 môn chính tả. - Em tự nhủ phải cố gắng hơn nữa. ĐỀ 4: Sinh nhật của em được tổ chức rất vui. Em hãy kể lại buổi tiệc sinh nhật ấy. 1. Mở bài: * Giới thiệu chung:.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> - Năm nay em 11 tuổi. Ngày 20 tháng 4 vừa qua là sinh nhật của em. - Ba mẹ và các bạn đã tổ chức tiệc mừng sinh nhật em thật vui tươi và nhiều ý nghĩa. 2. Thân bài: * Kể lại buổi sinh nhật: a/ Công việc chuẩn bị: - Trước đó mấy ngày em viết thiệp mời những bạn thân. - Sáng hôm ấy em dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp bàn ghế, cắm hoa,... - Mẹ đặt làm một ổ bánh kem có dòng chữ Chúc mừng sinh nhật... b/ Diễn biến buổi tiệc: - Bạn bè đến chia vui. - Em mặc bộ đồ mới ra đón các bạn. - Ba mẹ dặn dò, tặng quà... - Mọi người ngồi vào bàn tiệc, cùng hát bài mừng sinh nhật và chuyện trò vui vẻ. - Em nói lời cảm ơn chân thành với ba mẹ và các bạn. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Em rất vui và cảm động vì được sống trong tình yêu thương của mọi người. - Em thấy rằng mình đã lớn. - Em hứa sẽ chăm ngoan hơn nữa. ĐỀ 5: Năm nay em học lớp 6, em đã lớn rồi. Hãy kể lại những thay đổi của em..

<span class='text_page_counter'>(57)</span> 1. Mở bài: * Giới thiệu sơ lược về bản thân: - Mới ngày nào còn là học sinh Tiểu học. - Nay đã thành học sinh Trung học cơ sở. 2. Thân bài: * Kể về những suy nghĩ, hành động chứng tỏ là em đã lớn: (Trong sinh hoạt và học tập). - Giúp được cha mẹ một số việc nhỏ trong gia đình. - Tự đi học, cha mẹ không còn phải đưa đón. - Biết học tổ học nhóm cùng bạn bè. - Mạnh dạn tham gia các phong trào của lớp, của trường. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Em cảm thấy rằng mình đã lớn. - Tự tin vào bản thân, cố gắng phấn đấu VIẾT BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 1 - VĂN KỂ CHUYỆN (Làm ở nhà) Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) bằng lời văn của em. (*Tham khảo bài viết dưới đây: Hãy kể diễn cảm truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh. I. DÀN Ý 1. Mở bài:.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> - Giới thiệu hoàn cảnh của truyện: Hùng vương thứ mười tám muốn kén chồng cho con gái yêu là Mị Nương. 2. Thân bài: - Giới thiệu nhân vật chính của truyện: Sơn Tinh (thần núi Tản Viên) và Thủy Tinh (thần biển) cùng đến cầu hôn. - Tài nghệ phi thường của Sơn Tinh và Thủy Tinh, cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng. - Nỗi băn khoăn của nhà vua và yêu cầu sính lễ trong đám cưới Mị Nương. - Sơn Tinh đến trước cưới được Mị Nương. - Cuộc giao tranh quyết liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sự thất bại thảm hại của Thủy Tinh. 3. Kết bài: - Mất Mị Nương, Thủy Tinh ôm hận, năm nào cũng dâng nước đánh Sơn Tinh, gây ra lũ lụt. II. BÀI LÀM Chuyện xưa kể rằng: Hùng Vương thứ mười tám sinh được một người con gái đẹp người, đẹp nết tên là Mị Nương. Nàng được vua cha hết mực yêu thương, chiều chuộng. Khi Mị Nương đã đến tuổi trưởng thành, Hùng Vương có ý kén chọn cho con gái một người chồng xứng đáng. Tin Hùng vương muốn kén rể hiền loan truyền khắp trong thiên hạ. Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Chàng thứ nhất là Sơn Tinh thần núi Tản Viên, vẻ mặt khôi ngô tuấn tú, sức khoẻ phi thường. Sơn Tinh có tài lạ: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Chàng thứ hai là Thủy Tinh thần biển, hình dạng cổ quái có phép gọi.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> gió gió đến, hô mưa mưa về, cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng. Điều đó làm cho nhà vua phân vân khó xử, không biết chọn ai. Sau khi bàn bạc và hỏi ý kiến các Lạc hầu (quan văn), Hùng Vương bèn phán rằng: - Hai chàng đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho người nào? Thôi thì ngày mai, ai đem sính lễ đến trước, ta sẽ cho cưới Mị Nương. Sơn Tinh, Thủy Tinh tâu hỏi đồ sính lễ gồm những gì, vua phán: - Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi. Hôm sau, Sơn Tinh đem đầy đủ lễ vật đến từ lúc mặt trời chưa mọc. Hùng vương vui lòng gả con gái cho chàng. Sơn Tinh rước Mị Nương về núi Tản Viên. Hai người thật xứng đôi vừa lứa. Thủy Tinh đến trễ, không cưới được Mị Nương liền đùng đùng nổi giận đuổi theo. Thủy Tinh làm mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng, dâng nước sông lên cuồn cuộn ngập đồi ngập núi để đánh Sơn Tinh. Với bản lĩnh cao cường, Sơn Tinh không hề nao núng. Chàng dùng phép lạ nâng cao đồi núi. Nước dâng tới đâu, núi cao lên tới đó. Suốt mấy tháng ròng, cuộc giao chiến xảy ra ác liệt. Quân lính của Sơn Tinh từ trên cao lao cây, ném đá xuống sông, tiêu diệt quân của Thủy Tinh. Cuối cùng, Thủy Tinh thua trận đành rút chạy. Từ đó trở đi, năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng tháng bảy, tháng tám là Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh hòng cướp lại Mị Nương. Nhưng chưa bao giờ Thủy Tinh thắng nổi Sơn Tinh. Cho đến nay, vợ chồng Sơn Tinh - Mị Nương vẫn sống vui vẻ, hạnh phúc bên nhau trên đỉnh núi Tản Viên hùng vĩ..

<span class='text_page_counter'>(60)</span> Bài 5. * Sọ dừa * Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ * Lời văn, đoạn văn tự sự SỌ DỪA (Truyện cổ tích) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Ở một làng nọ, có hai vợ chồng đã già mà chưa có con. Sau khi uống nước mưa đọng trong chiếc sọ dừa dưới một gốc cây rừng, người vợ có thai và sinh ra đứa con chỉ có đầu mà không có chân tay, bèn đặt tên là Sọ Dừa. Sọ Dừa chăn bò rất giỏi và hóa phép ra đủ đồ sính lễ để cưới cô út con gái phú ông. Chàng đã trút bỏ cái lốt xấu xí, hiện nguyên hình là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, học giỏi, thi đỗ trạng nguyên. Trước khi đi sứ, chàng đã tìm cách bảo vệ an toàn cho vợ. Lúc trở về, trong tiệc đoàn viên, hai cô chị độc ác vì quá xấu hổ nên đã bỏ đi biệt xứ. * Sọ Dừa là truyện cổ tích được truyền tụng rộng rãi trong dân gian, thể hiện ước mơ đổi đời, mong muốn những điều tốt đẹp, hạnh phúc sẽ đến với người hiền lành, lương thiện và khát vọng công lí của người xưa. Truyện còn đặt ra bài học về cách đánh giá con người: Không nên nhìn hình thức bên ngoài mà vội nhận xét về bản chất bên trong. Bài học ấy được gửi gắm qua hình ảnh chàng Sọ Dừa dị dạng mà tài đức vẹn toàn. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Sự ra đời của Sọ Dừa có gì khác thường? Kể về sự ra đời của Sọ Dừa như vậy, nhân dân muốn thể hiện điều gì và muốn chú ý đến những con người như thế nào trong xã hội xưa?.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> (a. Sự ra đời của Sọ Dừa có nhiều nét khác thường: Bà mẹ đi rừng khát nước, uống nước trong một cái sọ dừa rồi có thai sinh ra đứa con chỉ có cái đầu tròn lông lốc, chẳng có thân mình, chân tay. Bà mẹ chỉ vì thương con nên giữ lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa. b. Các tình tiết li kì về sự ra đời và hình dạng khác thường của Sọ Dừa thể hiện sự quan tâm của nhân dân đến một loại người đau khổ nhất, số phận thấp hèn nhất trong xã hội. Đau khổ, thấp hèn từ dáng vẻ bề ngoài, lại bị coi là “vô tích sự”. Hình ảnh cái đầu tròn lông lốc gợi sự thương cảm sâu xa của mọi người đối với nhân vật này.) Câu 2. Sự tài giỏi của Sọ Dừa thể hiện qua những chi tiết nào? Em có nhận xét gì về quan hệ giữa hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong của nhân vật? (a. Sự tài giỏi của nhân vật Sọ Dừa thể hiện qua những chi tiết: - Chăn bò rất giỏi: Ngày nắng cũng như ngày mưa, bò con nào con nấy bụng no căng. - Thổi sáo rất hay. - Tự biết khả năng của mình: Nhờ mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. - Hóa phép ra đủ sính lễ theo yêu cầu của phú ông: Một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm. - Thông minh khác thường, thi đỗ trạng nguyên. - Tài dự đoán, lo xa chính xác: Khi chia tay vợ để đi sứ nước ngoài, quan trạng Sọ Dừa đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giắt luôn trong người phòng khi dùng đến. b. Nhận xét về quan hệ giữa hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong của nhân vật Sọ Dừa:.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> - Có sự trái ngược hoàn toàn giữa hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong: Bề ngoài dị dạng, kì quái; bên trong lại là người tuấn tú, có tài năng, phẩm chất tuyệt vời. - Sự đối lập ấy khẳng định tuyệt đối vẻ đẹp bên trong và đề cao giá trị chân chính của con người. - Sự biến đổi kì diệu từ một cậu bé có bề ngoài dị hình dị dạng, thân phận thấp kém, trở thành chàng trai tuấn tú, thông minh, tài giỏi và đỗ đạt cao mà tên gọi vẫn là Sọ Dừa thể hiện ước mơ đổi đời mãnh liệt của người lao động trong xã hội xưa.) Câu 3. Tại sao cô út lại bằng lòng lấy Sọ Dừa? Em có nhận xét gì về nhân vật cô út? (a. Điều lão phú ông không ngờ đã xảy ra: Hai cô chị bĩu môi chê bai, còn cô Út đồng ý lấy Sọ Dừa. Bởi vì: - Khác với hai cô chị, cô út nhận biết được thực chất vẻ đẹp bên trong của Sọ Dừa nên đã thuận lòng lấy chàng. - Hai cô chị vốn tính ác nghiệt, đỏng đảnh nên thường hắt hủi Sọ Dừa. Cái định kiến sâu sắc về sự thấp kém, dị hình và vô dụng đã khiến hai cô chị không thể nhìn thấy được bản chất tốt đẹp bên trong của Sọ Dừa. b. Cô Út hiền lành, tính hay thương người. Ngay cả khi chưa biết gì về những điều kì lạ của Sọ Dừa, cô vẫn đối xử với Sọ Dừa rất tử tế. Phép lạ của Sọ Dừa có được là nhờ sự kết hợp của hai yếu tố: Thứ nhất là dưới cái lốt xấu xí, thực chất Sọ Dừa là chàng trai khôi ngô, tài giỏi và thứ hai là lòng thương người của cô út. Chính lòng thương người ấy giúp cô có dịp thấy được vẻ đẹp thực sự bên trong cái hình hài sọ dừa lăn lóc. Cô út trở thành bà trạng là phần thưởng xứng đáng mà truyện cổ vẫn dành cho những người nhân hậu.).

<span class='text_page_counter'>(63)</span> Câu 4. Trong truyện, Sọ Dừa có hình dạng xấu xí nhưng cuối cùng đã được trút bỏ lốt, cùng cô Út hưởng hạnh phúc, còn hai cô chị thì phải bỏ nhà trốn đi. Qua kết cục này, em thấy người lao động mơ ước điều gì? (Truyện Sọ Dừa có những kết cục khác nhau dành cho các nhân vật: Sọ Dừa dị hình, dị dạng nhưng cuối cùng được đổi đời xứng đáng; cô út tốt bụng được hưởng hạnh phúc, còn hai cô chị độc ác thì xấu hổ bỏ đi biệt xứ. Từ kết thúc đó, ta thấy toát lên những mơ ước của người lao động: - Mơ ước đổi đời: Sọ Dừa dị hình, xấu xí, thân phận thấp kém tưởng như vô dụng đã trở thành chàng trai đẹp đẽ, thông minh, tài giỏi, được hưởng hạnh phúc. Sự đổi đời đó thật là triệt để và kì diệu. - Mơ ước công bằng: Người lao động mơ ước và tin tưởng (niềm tin đó đã trở thành đạo lí nhân dân, thể hiện trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyện cổ) rằng người tài giỏi, đức độ sẽ được hưởng hạnh phúc: “ở hiền gặp lành”; còn kẻ độc ác, gian tham sẽ bị trừng phạt đích đáng: “Gieo gió gặt bão”.) Câu 5. Hãy nêu những ý nghĩa chính của truyện Sọ Dừa? (- Đề cao giá trị đích thực, phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Truyện cũng là lời khuyên: muốn đánh giá đúng bản chất con người, không nên chỉ dừng ở việc xem xét bề ngoài. Đây là ý nghĩa nhân văn của câu chuyện, cũng là đạo lí truyền thống của nhân dân ta thể hiện rất rõ trong văn học dân gian. - Đề cao lòng nhân ái đối với người bất hạnh. Lòng nhân ái đem lại hạnh phúc kì diệu cho cả Sọ Dừa và cô út. Lòng nhân ái được đúc kết trong câu tục ngữ: Thương người như thể thương thân. - Câu chuyện toát lên sức sống mãnh liệt và tinh thần lạc quan của nhân dân lao động: Còn sống là còn hi vọng, còn mơ ước, tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của công bằng, lẽ phải, của lòng tốt trước sự bất công, độc ác..

<span class='text_page_counter'>(64)</span> - Thấp thoáng sau các sự việc, tình huống trong truyện Sọ Dừa là cảnh sinh hoạt đời xưa rất quen thuộc ở nông thôn Việt Nam: tiếng sáo mục đồng, cảnh đàn bò gặm cỏ, cảnh ngày mùa, tục lệ cưới hỏi, tiếng gà gáy trên đảo vẳng... Chính vì lẽ đó mà truyện rất hấp dẫn.) III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Trong truyện cổ tích Việt Nam và nước ngoài có nhiều truyện kể vể các nhân vật giống Sọ Dừa (người ban đầu mang hình dạng xấu xí, có nhiều tài năng, cuối cùng trút bỏ lốt thành người đẹp và được hưỏng hạnh phúc). Em hãy đọc phần Đọc thêm và tìm đọc một số truyện giống truyện Sọ Dừa để biết rõ hơn điều này. (Học sinh tự làm.) * Câu 2. Kể diễn cảm truyện Sọ Dừa. (* Tham khảo cách kể dưới đây: I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu bối cảnh và nhân vật chính của truyện: - Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ có hai vợ chồng đã già mà chưa có con nối dõi. - Người vợ có thai sau khi uống nước mưa đọng trong chiếc sọ dừa dưới một gốc cây rừng và sinh ra đứa con trai chỉ có cái đầu mà không có chân tay, bèn đặt tên là Sọ Dừa. 2. Thân bài: - Bà mẹ than phiền vì đứa con dị dạng, không giúp gì được cho gia đình. - Sọ Dừa an ủi mẹ, xin mẹ nói với phú ông cho nhận việc chăn bò. - Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, con nào con nấy ăn no chóng lớn..

<span class='text_page_counter'>(65)</span> - Ba cô con gái phú ông thay phiên mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị hắt hủi, xa lánh. Cô út đối xử với Sọ Dừa rất tử tế. - Sọ Dừa hóa thân thành chàng trai tuấn tú, ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nghe tiếng động, chàng trở lại lốt Sọ Dừa. Cô út đã vô tình chứng kiến điều kì lạ ấy và đem lòng yêu Sọ Dừa. - Sọ Dừa xin mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Phú ông thách cưới rất nhiều. - Sọ Dừa hóa phép ra đầy đủ lễ vật và cưới được cô út. - Sọ Dừa thi đỗ trạng nguyên, được nhà vua cử đi sứ. Khi chia tay, chàng trao cho vợ mấy vật dụng cần thiết để phòng thân. - Hai cô chị ganh ghét, tìm cách làm hại em gái. Cô út bị đẩy xuống biển, cá kình nuốt cô vào bụng. Cô dùng dao giết chết cá rồi sống tạm ở một hoang đảo, chờ người cứu. 3. Kết bài: - Trạng nguyên đi sứ trở về ngang qua đảo, nghe tiếng gà gáy vội tìm vào. Hai vợ chồng đoàn tụ, về làng mở tiệc ra mắt mọi người. - Hai người chị độc ác xấu hổ bỏ đi biệt xứ. II. BÀI LÀM Ngày xửa ngày xưa, tại một làng nọ có hai vợ chồng nông dân nghèo đi ở cho một phú ông. Họ đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có được một mụn con cho vui cửa vui nhà. Một hôm, hai vợ chồng vào rừng kiếm củi cho chủ. Trời nắng to, người vợ khát nước mà không tìm thấy suối, đành uống nước đọng trong một chiếc sọ dừa ở dưới gốc cây cổ thụ. Thế rồi bà có mang..

<span class='text_page_counter'>(66)</span> Sau khi người chồng mất, bà sinh ra một đứa con trai dị dạng chỉ có cái đầu tròn lông lốc mà không có thân mình và chân tay. Buồn rầu và sợ hãi, bà toan đem vứt đi thì đứa bé bỗng cất tiếng van xin: - Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp! Nghĩ lại thấy thương, bà đành để nuôi và đặt tên là Sọ Dừa. Từ đó, hai mẹ con sớm tối có nhau. Ngày qua tháng lại, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc trong nhà. Một hôm, bà mẹ than rằng: - Con nhà người ta bảy tám tuổi đã đi ở chăn bò cho người ta. Còn mày thì chẳng được tích sự gì! Sọ Dừa nói: - Việc gì chứ chăn bò thì con cũng làm được. Mẹ cứ xin với phú ông cho con đến ở chăn bò. Bà mẹ ngạc nhiên lắm nhưng vì Sọ Dừa giục mãi nên bà đành đến nhà phú ông. Nghe bà nói, phú ông ngần ngại, băn khoăn. Thằng bé người không ra người, ngợm không ra ngợm ấy thì làm thế nào mà chăn dắt cả đàn bò đông như vậy? Nhưng lòng tham lại khiến ông ta nghĩ: “Nó bé thế, chắc là ăn ít, khỏi tốn cơm, công sá lại chẳng là bao. Thôi cứ thử xem sao!”. Thế là Sọ Dừa đi ở cho nhà phú ông. Ngày nào cũng thế, nắng cũng như mưa, sáng Sọ Dừa lăn theo đàn bò ra đồng, tối lại lăn sau đàn bò về chuồng. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng, lông bóng mượt. Nhìn đàn bò béo tốt, phú ông mừng lắm. Ngày mùa, lúa đã chín vàng. Tôi tớ trong nhà ra đồng gặt lúa hết cả. Phú ông đành sai ba cô con gái thay nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị thấy Sọ Dừa xấu xí thì cười chê, hắt hủi. Riêng cô út hiền lành tốt bụng, đối xử với Sọ Dừa rất tử tế..

<span class='text_page_counter'>(67)</span> Một hôm, đến lượt cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Vừa tới chân đồi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von, trầm bổng. Cô nhẹ nhàng rón rén nấp sau bụi cây rình xem thì thấy trước mắt hiện ra cảnh tượng lạ lùng: một chàng trai vẻ mặt khôi ngô tuấn tú ngồi trên chiếc võng đào mắc giữa hai thân cây đang say mê thổi sáo. Xung quanh chàng, đàn bò ung dung gặm cỏ. Chợt một cành khô gãy dưới chân. Nghe tiếng động, chàng trai giật mình biến mất, chỉ còn Sọ Dừa lăn lóc ở đấy. Mấy lần đều như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường. Từ đó, cô đem lòng yêu Sọ Dừa, có của ngon vật lạ đều giấu đem cho chàng. Hết hạn chăn bò, Sọ Dừa trở về nhà. Chàng xin mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ cho chàng. Bà mẹ sửng sốt tưởng mình nghe nhầm. Sau thấy con năn nỉ mãi, bà đành chiều ý, kiếm buồng cau mang tới nhà phú ông. Phú ông vuốt râu cười khẩy: - Ừ, được! Bà hãy bảo con trai bà rằng muốn cưới được con gái ta thì phải sắm cho đủ một Chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây. Ngẫm thân phận nghèo hèn, bà mẹ tủi hổ lủi thủi ra về. Bà kể lại lời phú ông cho Sọ Dừa nghe, nghĩ rằng chàng sẽ thôi không đòi lấy vợ nữa. Ai ngờ chàng bảo sẽ lo đủ những lễ vật trên. Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên trước những lễ vật quý giá xuất hiện cùng với mười gia nhân đang chuẩn bị khiêng sang nhà phú ông. Không thể nuốt lời hứa, phú ông bèn nói với bà cụ: - Để ta hỏi xem trong ba đứa con gái của ta, có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa không đã. Hai cô chị bĩu môi chê bai, khinh bỉ Sọ Dừa. Riêng cô út cúi đầu e thẹn, tỏ ý bằng lòng làm vợ chàng..

<span class='text_page_counter'>(68)</span> Ngày cưới được tổ chức thật linh đình nhưng lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu cả. Bỗng nhiên, từ phòng cô dâu, cô út sánh vai với một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng bước ra tươi cười chào mọi người. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ. Còn hai cô chị vợ thì vừa tiếc rẻ vừa ghen tức. Vợ chồng Sọ Dừa sống hạnh phúc bên nhau. Cô út chăm chỉ, siêng năng lo việc nhà; còn Sọ Dừa miệt mài đèn sách chờ khoa thi và chàng đã đỗ trạng nguyên. Mẹ và vợ chàng mừng vui khôn xiết. Ít lâu sau, vua sai chàng đi sứ. Khi chia tay, chàng trao cho vợ hai hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, lại dặn nàng luôn mang theo các thứ đó bên mình, phòng khi cần dùng đến. Sau khi cô út thành vợ trạng nguyên, hai cô chị đem lòng ganh ghét, rắp tâm làm hại để thay em làm bà trạng. Nhân lúc quan trạng đi sứ vắng nhà, hai cô chị rủ em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em ngã xuống nước. Một con cá kình lớn nuốt cô Út vào bụng, sẵn có con dao, cô đâm chết nó. Xác cá dạt vào một đảo hoang. Cô út khoét bụng cá chui ra, lấy dao chặt cây, cắt tranh dựng một túp lều nhỏ trú thân. Cô lấy hai hòn đá cọ mạnh vào nhau cho bật lửa rồi xẻ thịt cá nướng ăn qua ngày, chờ hễ có thuyền nào đi qua thì kêu cứu. Hai quả trứng nở thành đôi gà trống mái quấn quýt làm bạn với cô. Một hôm, có chiếc thuyền cắm cờ chạy ngang qua đảo. Bỗng nhiên chú gà trống vươn cao cổ gáy một tràng dài: ò ó o... Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về! Thấy sự lạ lùng, quan trạng ra lệnh ghé thuyền vào đảo. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Quan trạng đưa vợ về nhà và giấu kín trong buồng. Chàng mở tiệc đãi dân làng. Hai cô chị cũng được mời dự. Hai ả thi nhau khóc lóc, ra vẻ thương tiếc cô em út bạc phận. Quan trạng không nói gì, bước vào buồng dắt tay vợ ra chào hỏi mọi người. Hai cô chị độc ác xấu hổ, không.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> thốt nên lời. Chúng bỏ quê trốn đi biệt xứ. Từ đó trở đi, không ai nhìn thấy chúng đâu. Có người kể rằng chúng đã chết bỏ xác chốn rừng sâu. TỪ NHIỀU NGHĨA VÀ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN NGHĨA CỦA TỪ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần hiểu thế nào là hiện tượng nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ để từ đó hiểu được nghĩa của từ trong câu và có ý thức dùng từ cho đúng. * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Hãy tìm ba từ chỉ bộ phận cơ thể người và kể ra một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của chúng. Ví dụ: chân: chân bàn, chân giường, chân núi, chân đê, chân trời,... (Một số từ chỉ bộ phận cơ thể người có sự chuyển nghĩa: - đầu: đau đầu, nhức đầu... (nghĩa gốc) -> đầu sông, đầu nhà, đầu đường, đầu mối, đầu têu, đầu bàn, đầu làng, đầu dây... (nghĩa chuyển). - mũi: mũi lõ, mũi tẹt, sổ mũi... (nghĩa gốc) -> mũi kim, mũi kéo, mũi thuyền, mũi đất, cánh quân chia thành ba mũi... (nghĩa chuyển). - tay: đau tay, cánh tay... (nghĩa gốc) -> tay ghế, tay vịn cầu thang, tay anh chị, tay súng... (nghĩa chuyển). - chân: bàn chân, cổ chân... (nghĩa gốc) -> chân chạy, chân sút, chân cứng đá mềm, chân lấm tay bùn... (nghĩa chuyển). - mắt: mắt huyền, mắt hai mí... (nghĩa gốc) -> mắt tre, mắt dứa, mắt võng... (nghĩa chuyển). - lưỡi: đau lưỡi, lưỡi dài... (nghĩa gốc) -> lưỡi dao, lưỡi liềm, lưỡi cày... (nghĩa chuyển).).

<span class='text_page_counter'>(70)</span> * Câu 2. Trong tiếng Việt, có một số từ chỉ bộ phận của cây cối được chuyển nghĩa để cấu tạo từ chỉ bộ phận cơ thể người. Hãy kể ra những trường hợp chuyển nghĩa đó. (- lá: lá mít, lá tre... (nghĩa gốc); lá phổi, lá lách, lá gan,... (nghĩa chuyển). - quả: quả na, quả ổi... (nghĩa gốc); quả tim, quả thận,... (nghĩa chuyển). - cuống: cuống lá... (nghĩa gốc); cuống phổi,... (nghĩa chuyển).) * Câu 3. Dưới đây là một số hiện tượng chuyển nghĩa của từ tiếng Việt. Hãy tìm thêm cho mỗi hiện tượng chuyển nghĩa đó ba ví dụ minh hoạ: a) Chỉ sự vật chuyển thành chỉ hành động: cái cưa -> cưa gỗ. b) Chỉ hành động chuyển thành chỉ đơn vị: gánh củi đi -> một gánh củi. (- Chỉ sự vật chuyển thành chỉ hành động: hộp sơn -> sơn cửa; cái bào -> bào gỗ; cân muối -> muối dưa... - Chỉ hành động chuyển thành đơn vị: đang bó lúa -> ba bó lúa; đang cuộn giấy -> ba cuộn giấy; đang nắm cơm -> ba nắm cơm.) * Câu 4. Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời câu hỏi: NGHĨA CỦA TỪ “BỤNG” Thông thường, khi nói đến ăn uống hoặc những cảm giác về việc ăn uống, ta nghĩ đến bụng. Ta vẫn thường nói: đói bụng, no bụng, ăn cho chắc bụng, con mắt to hơn cái bụng,... Bụng được dùng với nghĩa “bộ phận cơ thể người hoặc động vật chứa ruột, dạ dày” Nhưng các cụm từ nghĩ bụng, trong bụng mừng thầm, bụng bảo dạ, định bụng,... thì sao? Và hàng loạt cụm từ như thế nữa: suy bụng ta ra bụng người, đi guốc trong bụng, sống để bụng chết mang đi,... Trong những trường hợp này, từ.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> bụng được hiểu theo cách khác: bụng là “biểu tượng của ý nghĩ sâu kín, không bộc lộ ra, đối với người, với việc nói chung”. (Theo Hoàng Dĩ Đình) a) Tác giả đoạn trích nêu lên mấy nghĩa của từ bụng? Đó là những nghĩa nào? Em có đồng ý với tác giả không? b) Trong các trường hợp sau đây, từ bụng có nghĩa gì: - Ăn cho ấm bụng. - Anh ấy tốt bụng. - Chạy nhiều, bụng chân rất săn chắc. (a. Tác giả nêu lên hai nghĩa của từ bụng: + Nghĩa gốc: “bộ phận cơ thể người hoặc động vật chứa ruột, dạ dày” (nghĩa 1) (Ví dụ: đói bụng). + Nghĩa chuyển: “biểu tượng của ý nghĩa sâu kín, không bộc lộ ra, đối với người, với việc nói chung” (nghĩa 2) (Ví dụ: bụng bảo dạ). b. Nghĩa của các trường hợp sử dụng từ bụng: - Ăn no ấm bụng (nghĩa 1). - Anh ấy tốt bụng (nghĩa 2). - Chạy nhiều, bụng chân rất săn chắc (nghĩa 3: phần phình to ở giữa của một số sự vật).) * Câu 5. Chính tả (nghe - viết): Sọ Dừa (từ Một hôm, cô út vừa mang cơm đến giấu đem cho chàng). (* Chính tả: Lưu ý sửa lỗi phụ âm đầu r / d / gi: rón rén, rình / dưới / giấu.) LỜI VĂN, ĐOẠN VĂN TỰ SỰ.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần nắm được các khái niệm về lời văn, đoạn văn tự sự. * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Đọc các đoạn văn dưới đây và trả lời câu hỏi: a) Thế là Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Hằng ngày, Sọ Dừa lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về chuồng. Ngày nắng cũng như ngày mưa, bò con nào con nấy bụng no căng. Phú ông mừng lắm. b) Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm cả, phú ông có ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị ác nghiệt, kiêu kì, thường hắt hủi Sọ Dừa; còn cô em út hiền lành, tính hay thương người, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế. (Sọ Dừa) c) Cô không đẹp, chỉ xinh thôi. Và tính cô cũng như tuổi cô còn trẻ con lắm. Thấy khách hàng nói một câu bông đùa, cô đã tưởng người ta chòng ghẹo mình, díu đôi lông mày lại và ngoe nguẩy cái mình. Khách trông thấy chỉ cười. Nhưng cô cũng không giận ai lâu, chỉ một lát cô lại vui tính ngay! (Thạch Lam, Hàng nước cô Dần) Câu hỏi: Mỗi đoạn văn trên kể về điều gì? Hãy gạch dưới câu chủ đề có ý quan trọng nhất của mỗi đoạn văn. Các câu văn triển khai chủ đề ấy theo thứ tự nào? (Cái gì xảy ra trước thì kể trước, cái gì xảy ra sau, kể sau. Nếu câu trước nói chung thì câu sau giải thích, cụ thể hóa, làm cho người nghe hiểu được, cảm nhận được)..

<span class='text_page_counter'>(73)</span> (a. Ý chính của đoạn là kể chuyện Sọ Dừa chăn bò nhưng lại muốn diễn đạt ý Sọ Dừa siêng năng, chịu khó làm việc. Câu chủ đề: Cậu chăn bò rất giỏi. Ý chính được thể hiện qua nhiều ý phụ cụ thể như: - Cách chăn: Lăn theo đàn bò, chăn bò suốt ngày, từ sáng đến tối. - Kết quả công việc: Đàn bò được ăn no. Phú ông rất vui. b. Ý chính của đoạn là nói đến hai cô chị độc ác thường hắt hủi Sọ Dừa; còn cô Út hiền lành đối xử với Sọ Dừa tử tế. Câu chủ đề: Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm cả, phú ông có ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Câu này đóng vai trò dẫn dắt, giải thích. Tiếp đến các câu sau nêu tính cách của hai cô chị và cô út. c. Ý chính trong đoạn này kể về cô hàng nước còn ít tuổi và tính trẻ con. Câu chủ đề: Và tính cô cũng như tuổi cô còn trẻ lắm. Các câu sau nói rõ tính trẻ con ấy biểu hiện như: hay hiểu nhầm, dễ hờn giận nhưng không để bụng.) * Câu 2. Đọc hai câu văn sau, theo em, câu nào đúng câu nào sai, vì sao? a) Người gác rừng cưỡi ngựa, lao vào bóng chiều, nhảy lên lưng ngựa, đóng chắc chiếc yên ngựa. b) Người gác rừng đóng chắc chiếc yên ngựa, nhảy lên lưng ngựa, rồi lao vào bóng chiều. (Câu đúng là câu b vì kể đúng trình tự diễn biến của sự việc.) * Câu 3. Hãy viết câu giới thiệu các nhân vật: Thánh Gióng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Tuệ Tĩnh. (+ Thánh Gióng: - Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở tỉnh Bắc Ninh (cũ), cậu bé làng Gióng có công đánh đuổi giặc Ân, được suy tôn là Thánh Gióng. + Lạc Long Quân:.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> Thuở xưa, ở vùng đất Lạc Việt có vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ sống dưới biển Đông. Thần có thân hình rồng, sức khoẻ phi thường và có nhiều phép lạ. Thỉnh thoảng, thần lên sống trên cạn. Thần giúp dân diệt trừ các loại yêu quái như Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh. Thần còn dạy dân cách trồng trọt và sinh sống. + Âu Cơ: Âu Cơ là một tiên nữ dòng dõi Thần Nông sống ở vùng núi cao phương Bắc. Nàng thích ngao du đây đó, những nơi có phong cảnh đẹp. Một hôm, nghe đồn vùng đất Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng đã tìm đến thăm. Âu Cơ gặp Lạc Long Quân. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu nhau rồi kết thành vợ chồng. + Tuệ Tĩnh: Tuệ Tĩnh là danh y lỗi lạc đời Trần, ông chẳng những là người mở mang ngành Y dược dân tộc mà còn là người hết lòng thương yêu, cứu giúp người bệnh.) * Câu 4. Viết đoạn kể chuyện Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt xông trận, ngựa phun lửa giết giặc Ân và đoạn kể chuyện Thánh Gióng khi roi sắt gãy, đã nhổ tre đằng ngà tiếp tục đánh đuổi quân giặc. * Tham khảo đoạn văn dưới đây: Giặc Ân đã tràn đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó sứ giả mang áo giáp sắt, roi sắt và ngựa sắt đến. Cậu bé bỗng vùng dậy, vươn vai một cái và biến thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, cưỡi lên mình ngựa sắt. Chàng thúc vào mông ngựa, ngựa sắt hí vang, phun lửa và phi nhanh ra chiến trường. Với chiếc roi sắt trong tay, tráng sĩ vung lên, quật tơi bời vào quân giặc. Giặc chết như ngả rạ. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ cụm tre bên đường đánh tiếp. Giặc hoảng loạn giẫm đạp lên nhau mà chạy..

<span class='text_page_counter'>(75)</span> Bài 6. * Thạch Sanh * Chữa lỗi dùng từ * Trả bài Tập làm văn số 1 THẠCH SANH (Truyện cổ tích) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Thạch Sanh là thái tử của Ngọc Hoàng, được phái xuống trần đầu thai làm con hai vợ chồng già hiếm muộn. Người vợ có mang đến mấy năm mà chưa sinh nở. Sau khi người chồng qua đời, người vợ mới sinh được một cậu con trai khôi ngô, khỏe mạnh. Cậu bé vừa khôn lớn thì mẹ chết. Một mình cậu sống trong túp lều dưới gốc đa, kiếm ăn qua ngày bằng nghề đốn củi. Lúc đã trưởng thành, cậu được Ngọc Hoàng sai các vị thần dạy cho võ nghệ và mọi phép thần thông. Nghe Lí Thông dụ dỗ, Thạch Sanh về ở chung với mẹ con hắn. Lí Thông lừa Thạch Sanh đi canh miếu để nộp mạng thay cho hắn. Thạch Sanh chém chết chằn tinh. Lí Thông cướp công Thạch Sanh. Hắn được vua phong cho tước quận công. Trong buổi lễ gieo cầu kiếm chồng, công chúa bị đại bàng quắp đi. Thạch Sanh giương cung bắn đại bàng bị thương rồi lần theo nó vào hang sâu cứu được công chúa. Chàng còn giải thoát cho con trai vua Thủy Tề nên được Thủy Tề tặng cho cây đàn thần. Một lần nữa, chàng bị Lí Thông cướp công và hãm hại. Hồn chằn tinh và đại bàng lập mưu báo thù Thạch Sanh. Chàng bị bắt giam trong ngục tối. Công chúa từ khi được cứu thoát bỗng nhiên bị câm. Vua sai Lí Thông tìm thầy chữa bệnh cho nàng nhưng không ai chữa được. Nghe tiếng đàn của.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Thạch Sanh vẳng ra từ ngục tối, công chúa hết bệnh, nói cười vui vẻ. Vua truyền gọi người gảy đàn vào cung. Thạch Sanh tâu bày đầu đuôi mọi chuyện. Mẹ con Lí Thông bị sét đánh chết, hóa thành bọ hung. Thạch Sanh được vua gả công chúa cho. Hai người sống hạnh phúc bên nhau. Nghe tin, hoàng tử của các nước chư hầu kéo binh sang đánh. Bằng tiếng đàn thần và niêu cơm thần, Thạch Sanh đã hóa giải được cuộc chiến tranh. Đất nước thanh bình, nhà vua nhường ngôi cho Thạch Sanh. Thạch Sanh là truyện cổ tích về dũng sĩ diệt chằn tinh, diệt đại bàng cứu người bị hại, vạch mặt kẻ vong ân bội nghĩa và chống quân xâm lược. Truyện thể hiện ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo, yêu hòa bình của nhân dân ta. * Truyện có nhiều chi tiết tưởng tượng thần kì độc đáo và giàu ý nghĩa (như sự ra đời và lớn lên kì lạ của Thạch Sanh, bộ cung tên vàng, cây đàn thần, niêu cơm thần, v.v...). II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh có gì khác thường? Kể về sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh như vậy, theo em, nhân dân muốn thể hiện điều gì? (a. Xét về nguồn gốc thì Thạch Sanh không phải người thường. Theo truyện kể thì vợ chồng nhà họ Thạch (ở Cao Bình), tuổi đã già mà chưa có con. Thấy họ tốt bụng, Ngọc Hoàng bèn sai thái tử xuống trần đầu thai làm con. Bà mẹ mang thai nhiều năm mới sinh ra Thạch Sanh. Lớn lên, chàng lại được các vị thần dạy cho đủ các môn võ nghệ và mọi phép thần thông. Như vậy Thạch Sanh là “người trời”. b. Những chi tiết về sự ra đời và lớn lên khác thường của Thạch Sanh theo em có ý nghĩa tô đậm tính chất kì lạ, đẹp đẽ cho nhân vật lí tưởng, làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện. Người xưa quan niệm rằng: nhân vật ra đời và lớn.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> lên kì lạ như vậy tất sẽ có khả năng, phẩm chất phi thường và sẽ lập được nhiều chiến công lừng lẫy.) Câu 2. Trước khi được kết hôn với công chúa, Thạch Sanh đã phải trải qua những thử thách như thế nào? Thạch Sanh bộc lộ phẩm chất gì qua những lần thử thách ấy? (a. Những thử thách Thạch Sanh đã phải trải qua: - Bị mẹ con Lí Thông lừa đi canh miếu thờ để thế mạng, Thạch Sanh đã diệt được chằn tinh. - Xuống hang diệt đại bàng, cứu công chúa, bị Lí Thông lấp cửa hang và cướp công. - Hồn chằn tinh, đại bàng báo thù, Thạch Sanh bị bắt hạ ngục. Trong cổ tích, những khó khăn, trắc trở do các lực lượng đối kháng gây ra cho nhân vật lí tưởng cứ tăng dần và thử thách sau bao giờ cũng gay go hơn thử thách trước. Nhưng Thạch Sanh đã vượt qua tất cả nhờ tài năng kiệt xuất, phẩm chất tốt đẹp và được sự giúp đỡ của các phương tiện thần kì. b. Qua những lần thử thách, Thạch Sanh đã bộc lộ rõ phẩm chất quý báu sau đây: - Bản tính thật thà, chất phác, thương người, trọng nghĩa... - Tinh thần dũng cảm và tài năng phi thường (diệt chằn tinh, diệt đại bàng và có nhiều phép lạ). Những phẩm chất trên của Thạch Sanh cũng là phẩm chất tiêu biểu của nhân dân ta. Vì thế, cổ tích Thạch Sanh được nhiều người yêu thích.) Câu 3. Trong truyện, hai nhân vật Thạch Sanh và Lí Thông luôn đối lập nhau về tính cách và hành động. Hãy chỉ ra sự đối lập này. (Đặc điểm trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của truyện cổ tích là nhân vật chính diện và nhân vật phản diện luôn đối lập nhau về mặt tính cách.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> và hành động. Sự đối lập giữa Thạch Sanh và Lí Thông là sự đối lập giữa thật thà và xảo trá, vị tha và ích kỉ, thiện và ác.) * Câu 4. Truyện Thạch Sanh có nhiều chi tiết thần kì, trong đó đặc sắc nhất là chi tiết tiếng đàn và niêu cơm đãi quân sĩ mười tám nước chư hầu. Em hãy nêu ý nghĩa của những chi tiết đó. (a. Ý nghĩa tiếng đàn của Thạch Sanh: Âm nhạc thần kì là chi tiết phổ biến trong truyện cổ dân gian. Ví dụ: tiếng đàn trong truyện Thạch Sanh, tiếng hát trong truyện Trương Chi, tiếng sáo trong truyện Sọ Dừa, v.v... Tùy từng truyện, âm nhạc thần kì có những ý nghĩa khác nhau. Ở truyện Thạch Sanh, tiếng đàn thần có ý nghĩa: - Tiếng đàn giúp nhân vật được giải oan: Sau khi bị Lí Thông lừa gạt, cướp công, Thạch Sanh bị bắt giam vào ngục tối. Nhờ có tiếng đàn thần của Thạch Sanh mà công chúa khỏi câm, nhận ra người cứu mình và đã giải oan cho Thạch Sanh. Do đó mà Lí Thông cũng bị vạch mặt. Tiếng đàn thần vì thế đồng nghĩa với công lí. Tác giả dân gian đã sử dụng chi tiết này để thể hiện quan niệm và ước mơ công lí của người xưa. - Tiếng đàn thần của Thạch Sanh làm cho quân sĩ mười tám nước chư hầu mất hết ý chí, phải buông vũ khí xin hàng. Tiếng đàn thần tượng trưng cho cái thiện và tinh thần yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta, là “vũ khí” đặc biệt để cảm hóa kẻ thù. b. Ý nghĩa của niêu cơm thần kì: Chi tiết vật ban phát thức ăn vô tận có trong truyện cổ dân gian nhiều nước (như cái khăn, cái túi trong truyện dân gian Nga, Pháp; cái giỏ trong truyện Mông Cổ; cái đĩa trong truyện cổ Xi-ri, v.v...). Ở mỗi dân tộc và trong mỗi truyện, vật ban phát thức ăn vô tận lại có ý nghĩa riêng. Ở truyện Thạch Sanh, niêu cơm thần kì có ý nghĩa:.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> - Niêu cơm thần kì của Thạch Sanh cứ ăn hết lại đầy làm cho quân lính mười tám nước chư hầu lúc đầu coi thường, chế giễu nhưng sau đó phải ngạc nhiên, khâm phục. - Niêu cơm thần kì với lời thách đố của Thạch Sanh và sự thua cuộc của quân sĩ mười tám nước chư hầu càng khẳng định tài năng phi thường của Thạch Sanh. - Niêu cơm thần kì tượng trưng cho tinh thần nhân đạo, tư tưởng yêu hòa bình của nhân dân ta.) Câu 5. Trong phần kết thúc truyện, mẹ con Lí Thông phải chết, còn Thạch Sanh thì được kết hôn cùng công chúa và lên ngôi vua. Qua cách kết thúc này, nhân dân ta muốn thể hiện điều gì? Kết thúc ấy có phổ biến trong truyện cổ tích không? Hãy nêu một số ví dụ. (Ở phẩn kết thúc truyện, Thạch Sanh được kết hôn cùng công chúa và lên ngôi vua. Đây là phần thưởng lớn lao, xứng đáng với những khó khăn, thử thách mà nhân vật đã phải trải qua cùng với phẩm chất, tài năng của nhân vật. Trong xã hội cũ, những thứ mà người lao động không bao giờ có cuối cùng đều được trao cho nhân vật. Mẹ con Lí Thông tuy được Thạch Sanh tha tội chết nhưng lại bị lưỡi tầm sét của Thiên Lôi đánh chết. Đây cũng là công lí của nhân dân trừng trị kẻ ác. Mẹ con Lí Thông còn bị hóa thành bọ hung đời đời sống trong dơ bẩn. Đấy là sự trừng phạt tương xứng với thủ đoạn và tội ác mà mẹ con Lí Thông đã gây ra. - Cách kết thúc có hậu ấy thể hiện công lí xã hội: ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác và ước mơ của nhân dân về một sự đổi đời. Đây là cách kết thúc phổ biến trong truyện cổ tích, có thể thấy ở nhiều truyện khác như Sọ Dừa, Tấm Cám, Cây bút thần, v.v..) CHỮA LỖI DÙNG TỪ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> Học sinh cần có ý thức và kĩ năng dùng từ cho đúng; biết chữa các lỗi: lặp từ, lẫn lộn các từ gần âm. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Hãy lược bỏ những từ ngữ trùng lặp trong các câu sau: a) Bạn Lan là một lớp trưởng gương mẫu nên cả lớp ai cũng đều rất lấy làm quý mến bạn Lan. b) Sau khi nghe cô giáo kể câu chuyện ấy, chúng tôi ai cũng thích những nhân vật trong câu chuyện này vì những nhân vật ấy đều là những nhân vật có phẩm chất đạo đức tốt đẹp. c) Quá trình vượt núi cao cũng là quá trình con người trưởng thành, lớn lên. (Sau khi lược bỏ các từ lặp, câu văn sẽ như sau: a) Bạn Lan là một lớp trưởng gương mẫu nên cả lớp đều quý mến. (bỏ: ai, cũng rất, lấy làm, bạn, Lan) b) Sau khi nghe cô giáo kể, chúng tôi ai cũng thích những nhân vật trong câu chuyện ấy vì họ đều là những người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp. (bỏ: câu chuyện ấy, thay câu chuyện này bằng câu chuyện ấy, thay những nhân vật ấy bằng đại từ thay thế họ, thay những nhân vật bằng những người). c) Quá trình vượt núi cao cũng là quá trình con người trưởng thành. (bỏ: lớn lên vì nghĩa của từ này trùng với trưởng thành). * Câu 2. Hãy thay từ dùng sai trong các câu dưới đây bằng những từ khác. Theo em, nguyên nhân chủ yếu của việc dùng sai đó là gì? a) Tiếng Việt có khả năng diễn tả linh động mọi trạng thái tình cảm của con người. b) Có một số bạn còn bàng quang với lớp..

<span class='text_page_counter'>(81)</span> c) Vùng này còn khá nhiều thủ tục như: ma chay, cưới xin đều cỗ bàn linh đình; ốm không đi bệnh viện mà ở nhà cúng bái,... (Có thể sửa lại như sau: a) Tiếng Việt có khả năng diễn tả sinh động mọi trạng thái tình cảm của con người. (Sinh động: có khả năng gợi ra những hình ảnh nhiều dạng vẻ khác nhau, hợp với hiện thực đời sống; linh động: không quá câu nệ vào nguyên tắc). Nguyên nhân mắc lỗi: nhớ không chính xác hình thức ngữ âm. b) Có một số bạn còn bàng quan với lớp. (bàng quan: đứng ngoài cuộc mà nhìn, cho là không có quan hệ đến mình; bàng quang: bọng chứa nước tiểu). Nguyên nhân mắc lỗi: nhớ không chính xác hình thức ngữ âm. c) Vùng này còn khá nhiều hủ tục như: ma chay, cưới xin đều cỗ bàn linh đình; ốm không đi bệnh viện mà ở nhà cúng bái,... (hủ tục: phong tục đã lỗi thời; thủ tục: những việc phải làm theo quy định) Nguyên nhân mắc lỗi: nhớ không chính xác hình thức ngữ âm.) TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 1 * LƯU Ý: + Nội dung: - Yêu cầu của bài làm là kể lại một truyền thuyết đã học, tức là kể lại một truyện đời xưa. Đã là truyện thì phải có cốt truyện, nhân vật và sự việc; là truyện đời xưa nên khi kể phải mang không khí cổ xưa, không được thay đổi cốt truyện. + Hình thức:.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> - Cần xem lại các lỗi về cách diễn đạt và lỗi chính tả, cách viết lời văn và cách sắp xếp đoạn văn tự sự cho hợp lí. - Học sinh đọc lại văn bản của mình, xem phần chữa lỗi của thầy, cô giáo và đối chiếu với văn bản đã học để rút kinh nghiệm cho bài viết sau.. Bài 7. * Em bé thông minh * Chữa lỗi dùng từ (tiếp theo) * Luyện nói kể chuyện EM BÉ THÔNG MINH (Truyện cổ tích) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Nhà vua sai một viên quan đi tìm người tài giỏi trong nước để triệu về kinh đô. Viên quan đã tìm kiếm khắp nơi mà chưa thấy ai lỗi lạc. Đến làng nọ, viên quan gặp hai cha con người nông dân đang cày ruộng. Sau cuộc đối đáp với chú bé, viên quan tin chắc chú bé là người cần tìm, vội phi ngựa về tâu vua. Nhà vua kín đáo thử tài chú bé. Hai cha con chú bé lên đường vào kinh đô. Chú bé vượt qua mấy lần thử tài của nhà vua một cách dễ dàng. Sau đó, chú bé giúp nhà vua và triều đình giải được câu đố hiểm hóc của sứ thần nước láng giềng (xỏ sợi chỉ qua đường ruột ốc). Nhà vua và cả triều đình khâm phục trí thông minh kì lạ của chú bé. Chú bé được vua phong chức trạng nguyên và ban cho một dinh thự trong cung. Chú trở thành người giúp vua rất đắc lực trong việc cai trị đất nước..

<span class='text_page_counter'>(83)</span> * Truyện Em bé thông minh đề cao trí khôn dân gian qua hình thức giải câu đố hay vượt qua những thử thách oái oăm..., từ đó tạo ra tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên nhưng không kém phần thâm thúy. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Hình thức dùng câu đố để thử tài nhân vật có phổ biến trong truyện cổ tích không? Tác dụng của hình thức này? (a. Dùng câu đố để thử tài nhân vật là chi tiết phổ biến trong truyện cổ dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng. Ví dụ: câu đố trong các truyện về những người tài hay truyện Trạng. b. Hình thức dùng câu đố để thử tài nhân vật trong truyện dân gian có mấy tác dụng như sau: - Tạo ra thử thách để nhân vật bộc lộ tài năng, phẩm chất. Theo truyện cổ dân gian, câu đố đóng vai trò quan trọng trong việc thử tài, thử trí thông minh. - Tạo tình huống cho cốt truyện phát triển. - Gây hứng thú, hồi hộp cho người nghe.) Câu 2. Sự mưu trí, thông minh của em bé được thử thách qua mấy lần? Lần sau có khó hớn lần trước không? Vì sao? (a. Sự mưu trí, thông minh của em bé được thử thách qua bốn lần: - Lần 1: Đáp lại câu hỏi của viên quan. (Trâu cày một ngày được mấy đường?). - Lần 2: Đáp lại thử thách của vua đối với dân làng. (Nuôi ba con trâu đực sao cho chúng đẻ thành chín con trong một năm để nộp cho vua). - Lần 3: Đáp lại thử thách của vua đối với chính mình. (Từ một con chim sẻ làm thành ba mâm cỗ)..

<span class='text_page_counter'>(84)</span> - Lần 4: Đáp lại thử thách của sứ thần nước ngoài. (Xâu một sợi chỉ mảnh qua ruột con ốc vặn rất dài). b. Lần thách đố sau khó khăn hơn lần trước, bởi vì: + Xét về người đố: lần đầu là viên quan, hai lần tiếp sau là vua và lần cuối cùng cậu bé phải “đối đáp” với sứ thần nước ngoài. + Tính chất oái oăm của câu đố cũng mỗi lần một tăng lên. - Trước hết thể hiện ở chính nội dung, yêu cầu của câu đố. - Sau đó thể hiện ở những đối tượng tham gia giải đố đều bất lực bó tay. * Chính từ đây, em bé càng nổi rõ sự thông minh hơn người. - Lần 1: Để làm nổi bật sự oái oăm của câu đố và tài trí của cậu bé, truyện chỉ so sánh cậu bé với một người, đó là người cha của cậu. - Lần 2: So sánh cậu bé với toàn thể dân làng (dân làng lo lắng, không biết làm sao, coi lệnh của vua là tai vạ). - Lần 3: So sánh cậu bé với vua, (câu đố lại có nội dung và yêu cầu tương tự) của cậu bé đã làm cho vua từ đó phục hẳn. - Lần 4: So sánh cậu bé với cả vua, quan, đại thần, các ông trạng và các nhà thông thái. Câu đố của sứ thần khiến tất cả mọi người vò đầu suy nghĩ, lắc đầu bó tay, trừ cậu bé vừa đùa nghịch ở sau nhà vừa giải đố.) Câu 3. Trong mỗi lần thử thách, em bé đã dùng những cách gì để giải những câu đố oái oăm? Theo em, những cách ấy lí thú ở chỗ nào? (Trong mỗi lần thử thách, em bé đã dùng những cách rất thông minh để giải đố: - Lần 1: Đố lại viên quan. - Lần 2: Để vua tự nói lên sự oái oăm đến mức phi lí trong lệnh mà mình đã ban ra cho dân làng của cậu bé..

<span class='text_page_counter'>(85)</span> - Lần 3: Cũng bằng cách đố lại vua. - Lần 4: Dùng kinh nghiệm dân gian để giải câu đố của sứ thần. * Những cách giải đố của cậu bé thông minh và lí thú ở chỗ: - Đẩy thế bí về phía người ra câu đố, lấy gậy ông đập lưng ông. - Làm cho những người ra câu đố tự thấy sự vô lí, phi lí của điều mà họ đố. - Những lời giải đố của cậu bé đều không dựa vào kiến thức sách vở mà dựa vào thực tiễn đời sống. - Làm cho người ra câu đố, người chứng kiến và người nghe ngạc nhiên, thú vị: vì sự bất ngờ, giản dị và hồn nhiên của những lời giải. - Những lời giải chứng tỏ trí tuệ thông minh hơn người của cậu bé, hơn cả nhà vua, các đại thần, các ông trạng và các nhà thông thái.) Câu 4. Hãy nêu ý nghĩa của truyện cổ tích Em bé thông minh. (a. Ý nghĩa đề cao trí thông minh: Ở truyện này, một em bé nông thôn được vua phong cho chức trạng nguyên, được vua xây cho dinh thự trong hoàng cung để tiện hỏi han. Truyện đã đề cao sự thông minh, mưu trí của người lao động. Nhưng đó là sự thông minh về lĩnh vực nào? Em bé được coi là thông minh không phải qua chữ nghĩa, văn chương, thi cử. Truyện cổ tích này không nhằm phủ nhận kiến thức sách vở nhưng nó tập trung ca ngợi, đề cao kinh nghiệm thực tiễn rút ra từ đời sống hằng ngày. Cuộc đấu trí của em bé xoay quanh những chuyện rất bình thường như đường cày, bước chân ngựa, con trâu, con chim sẻ, con ốc, con kiến vàng. Trí thông minh của em bé trong truyện tiêu biểu cho trí thông minh của người lao động, luôn được vận dụng thành công trong thực tế..

<span class='text_page_counter'>(86)</span> b. Ý nghĩa hài hước, mua vui: - Từ câu đố của viên quan, của nhà vua và sứ thần nước ngoài đến những lời giải đáp của em bé đều tạo ra các tình huống bất ngờ, thú vị, đem lại tiếng cười vui vẻ, sảng khoái. - Trong truyện, từ dân làng cho đến vua, quan, các ông trạng, các nhà thông thái,... đều thua tài em bé. Chuyện các em bé thông minh, tài giỏi hơn người lớn bao giờ cũng làm cho người đọc, người nghe hứng thú, yêu thích. - Em bé thông minh, tài trí hơn người nhưng luôn hồn nhiên, ngây thơ trong cách đối đáp.) CHỮA LỖI DÙNG TỪ (tiếp theo) I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ Học sinh cần có ý thức dùng từ cho đúng, biết tránh và chữa được những lỗi dùng từ không đúng nghĩa. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Gạch một gạch dưới các kết hợp từ đúng: - bản (tuyên ngôn) - bảng (tuyên ngôn); - (tương lai) sáng lạng - (tương lai) xán lạn; - bôn ba (hải ngoại) - buôn ba (hải ngoại); - (bức tranh) thủy mặc - (bức tranh) thủy mạc; - (nói năng) tùy tiện - (nói năng) tự tiện. (Các kết hợp đúng: - bản tuyên ngôn; - tương lai xán lạn; - bôn ba hải ngoại;.

<span class='text_page_counter'>(87)</span> - bức tranh thuỷ mặc; - nói năng tuỳ tiện.) * Câu 2. Chọn từ thích hợp để điền vào chỗ trống: a) khinh khỉnh, khinh bạc ...: tỏ ra kiêu ngạo và lạnh nhạt, ra vẻ không thèm để ý đến người đang tiếp xúc với mình. b) khẩn thiết, khẩn trương ...: nhanh, gấp và có phần căng thẳng. c) bâng khuâng, băn khoăn ...: không yên lòng vì có những điều phải suy nghĩ, lo liệu. (* Các từ thích hợp: a) khinh khỉnh. b) khẩn trương. c) băn khoăn.) * Câu 3. Chữa lỗi dùng từ trong các câu sau: a) Hắn quát lên một tiếng rồi tống một cú đá vào bụng ông Hoạt. b) Làm sai thì cần thực thà nhận lỗi, không nên bao biện. c) Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn những cái tinh tú của văn hóa dân tộc. (a. Thay từ đá bằng đấm hoặc thay từ tống bằng tung: ... tống một cú đấm vào bụng...; tung một cú đá vào bụng... b. Thay từ thực thà bằng thành khẩn\ thay từ bao biện bằng ngụy biện: Làm sai thì cần thành khẩn nhận lỗi, không nên ngụy biện. c. Thay tinh tú bằng tinh tuý:.

<span class='text_page_counter'>(88)</span> Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn những cái tinh tuý của văn hóa dân tộc.) * Câu 4. Chính tả (nghe - viết): Em bé thông minh (từ Một hôm, viên quan đi qua... đến một ngày được mấy đường). (Chú ý sửa các lỗi dễ bị nhầm lẫn giữa ch / tr hoặc lẫn lộn dấu hỏi / dấu ngã.) LUYỆN NÓI KỂ CHUYỆN I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ - Luyện nói tạo cơ hội cho học sinh làm quen với việc phát biểu ý kiến. - Biết lập dàn bài kể chuyện và kể miệng một cách tự nhiên. II. THỰC HÀNH: LUYỆN NÓI - KỂ CHUYỆN (* Tham khảo dàn bài và bài viết một số để dưới dây ĐỀ 1: Tự giới thiệu về bản thân. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Lời chào và tự giới thiệu: - Tên, tuổi, học sinh trường... nhà ở tại... 2. Thân bài: * Kể một số chi tiết về gia đình và bản thân: - Gia đình gồm những ai? Làm nghề gì? - Căn nhà đang ở có đặc điểm gì? - Bản thân có năng khiếu, sở thích gì? - Tình cảm đối với gia đình, bè bạn. 3. Kết bài:.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> * Cảm nghĩ của bản thân: - yêu mến, gắn bó với gia đình, bạn bè - Mong muốn được làm quen với tất cả các bạn II. BÀI LÀM Các bạn thân mến! Tôi là Trần Thanh Mai, học sinh lớp 6B, trường Trung học cơ sở Lương Thế Vinh, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Gia đình tôi có 6 người: ông nội, bà nội, bố, mẹ và hai chị em tôi. Ông nội, bà nội là cán bộ đã hưu trí. Bố mẹ tôi đều là giáo viên. Em trai tôi có cái tên rất đẹp: Trần Thanh Trúc. Nhà tôi số 22A/46 đường Võ Văn Tần, phường 6, quận 3, cách trường chỉ vài trăm mét. Ngày ngày, tôi vẫn thường đi bộ đến trường. Giống như ông nội và bố, tôi rất yêu thích thiên nhiên. Căn nhà của gia đình tôi tuy không rộng lắm nhưng luôn luôn có màu xanh của cây kiểng, màu vàng hoa cúc, màu đỏ thắm của hoa hồng... mà bố tôi trồng trong những chiếc chậu đặt trước hàng hiên. Ở góc bàn học của tôi kê cạnh cửa sổ, mẹ tôi treo một giò phong lan hoàng điệp, mỗi bông hoa giống hệt một chú bướm vàng xinh xắn. Trước hiên là chiếc lồng chim với chú chích choè than có giọng hót giòn giã và trong vắt. Tôi rất kính trọng và yêu quý ông bà, bố mẹ cùng cậu em trai nhỏ của tôi. Sau một ngày lao động và học tập, bữa cơm tối là lúc gia đình tôi sum họp đầy đủ nhất. Tôi tìm thấy ở mái ấm gia đinh một nguồn động viên tinh thần rất lớn trong học tập và trong cuộc sống. Ở lớp, tôi có mấy người bạn thân. Tuy mỗi người một tính nhưng chúng tôi luôn đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau. Nhân buổi giao lưu này, tôi mong muốn được làm quen với tất cả các bạn! ĐỀ 2: Giói thiệu người bạn mà em quý mến..

<span class='text_page_counter'>(90)</span> I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu nhân vật: - Tên bạn, mối quan hệ với em (bạn học, bạn hàng xóm...). - Nêu lí do khiến em yêu mến bạn. 2. Thân bài: * Những phẩm chất của bạn: - Chăm chỉ. - Học giỏi. - Tận tình giúp đỡ bạn bè. - Chịu khó học hỏi, thích tìm hiểu, quan sát. - Tự giác giúp đỡ bố mẹ. 3. Kết bài: * Ảnh hưởng của bạn đối với em và mọi người: - Là tấm gương tốt cho em noi theo. - Bạn được mọi người yêu mến, tin cậy. II. BÀI LÀM Tôi buồn đến thẫn thờ khi chiếc xe chở các gia đình công nhân xây dựng vào Yaly chuyển bánh. Tâm, người bạn thân nhất của tôi đã theo bố mẹ vào công trường mới. Thế là từ mai, tôi phải đi học một mình, làm bài một mình và chơi một mình. Tôi không thể tưởng tượng được nếu thiếu vắng Tâm, cuộc sống của tôi sẽ như thế nào?.

<span class='text_page_counter'>(91)</span> Chúng tôi cùng lớn lên trên công trường thuỷ điện Sông Đà, cảnh nhà hai đứa khác nhau. Là con út nên tôi được nuông chiều. Còn Tâm là anh của hai đứa em nhỏ nên vất vả hơn tôi nhiều. Sáng sớm, khi tôi còn cuộn tròn trong chăn ấm thỉ Tâm đã thức dậy. Bạn ấy quét nhà, cho gà ăn rồi cùng bố tưới rau. Bao nhiêu là việc, thế mà Tâm chưa bao giờ đi học muộn. Còn tôi, nhiều hôm nghe Tâm gọi là vơ vội cặp sách rồi chạy theo, không kịp ăn sáng. Bận như thế mà Tâm vẫn học giỏi hơn tôi. Năm nào Tâm cùng đạt danh hiệu học sinh giỏi, còn tôi cố gắng lắm cũng chỉ được loại khá. Đấy là tối nào hai đứa cũng học bài với nhau, nếu không, tôi chẳng được thế đâu. Nhiều tiết Toán, thầy giảng tôi chẳng hiểu gì cả vì cứ mải nhìn vẩn vơ ra ngoài cửa sổ. Tâm kiên nhẫn giải thích cho tới lúc tôi thật hiểu lí thuyết và biết vận dụng vào làm bài tập mới thôi. Nhìn Tâm say sưa nói, tôi nghĩ lớn lên bạn ấy làm thầy giáo là hợp nhất. Môn Văn, Tâm cũng giỏi hơn tôi. Mỗi lần làm bài ở lớp, Tâm đọc đề rất kĩ, làm dàn bài cẩn thận rồi mới cắm cúi viết. Còn tôi thì cứ loay hoay mãi. Cùng đi lên đập chơi theo xe của bố Tâm, tôi chỉ thích chạy lăng quăng đây đó rồi lấy đá ném thia lia xuống mặt nước trong khi tâm chăm chú quan sát, suy nghĩ. Bài văn tả cảnh công trường Thủ Thiêm của Tâm được điểm cao nhất lớp. Tâm so sánh hàng cột điện 500 ki-lô-vôn như những chàng lực sĩ khổng lồ, từng đoàn xe Benla bên sườn đổi trông như đàn trâu mộng và dãy cần cẩu giống những chú hươu cao cổ châu Phi. Sau khi làm xong nhiệm vụ ở nhà máy thủy điện Hòa Bình, bố Tâm cùng gia đình chuẩn bị lên đường đến công trường mới. Hôm nay, Tâm đã đi xa thật rồi. Cầm cuốn sổ nhỏ của Tâm tặng trước lúc chia tay, tôi cảm thấy cay cay nơi khóe mắt. Có lẽ tôi phải viết thư cho Tâm ngay để khi vào đến Yaly, Tâm vẫn cảm thấy có bạn bè thân yêu bên cạnh và biết rằng tôi luôn nhớ đến Tâm..

<span class='text_page_counter'>(92)</span> ĐỀ 3: Kể vể một ngày hoạt động của mình. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Tự giới thiệu: - Tên, tuổi, chỗ ở, vài nét về gia đình. - Học lớp..., trường... 2. Thân bài: * Các hoạt động trong ngày: + Buổi sáng: - Thức dậy lúc mấy giờ? Làm những việc gì? - Đi học lúc nào? Trường xa hay gần? + Buổi trưa: - Ăn uống, nghỉ ngơi. + Buổi chiều: - Giúp việc gia đình (dọn dẹp nhà cửa, dạy em học...). - Học và làm bài tập. - Giải trí. + Buổi tối: - Quây quần cùng gia đình trò chuyện, vui chơi... - Chuẩn bị bài cho ngày mai. - Đi ngủ. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ:.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> - Em rất quý thời gian, biết sử dụng thời gian vào những việc có ích. - Cố gắng rèn luyện nề nếp tốt trong cuộc sống hằng ngày. II. BÀI LÀM Em là Hoàng Đức Hải, học sinh lớp 6A trường Trung học cơ sở Lý Tự Trọng, phường 4, thị xã Tân An, tỉnh Long An. Em là con trai lớn. Dưới em là cô út Hoàng Mai vì hay nhõng nhẽo nên có biệt danh là “Mít ướt”. Ba em là bộ đội biên phòng, thường xuyên công tác xa nhà. Mẹ em là công nhân xí nghiệp may xuất khẩu của tỉnh. Vì hoàn cảnh gia đình khá khó khăn nên em sớm biết lo. Buổi sáng, khoảng năm giờ rưỡi, khi chú gà trống nhà bác Mười kế bên cất tiếng gáy vang là em đã thức giấc. Dưới bếp, mẹ em đang nấu bữa sáng cho cả nhà. Tập thể dục xong, em chạy bộ khoảng hơn cây số dọc theo quốc lộ. Khí trời mát mẻ, trong lành khiến em thấy khỏe khoắn hẳn ra. Em bắt tay vào quét dọn nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp các thứ cho gọn gàng, ngăn nắp. Em thay mẹ nhắc nhở em gái chuẩn bị sách vở. Ăn sáng xong, hai anh em cùng đi học. Ngôi trường khang trang chỉ cách nhà độ chừng cây số. Buổi trưa, khi mẹ nấu cơm, em cho gà ăn, thay nước cho chúng và lượm những quả trứng hồng bỏ vào chiếc giỏ nhựa có lót rơm. Đàn gà mấy chục con mỗi ngày đẻ hơn hai chục trứng là nguồn thu nhập thêm của gia đình em. Bữa cơm đơn giản với ba món: trứng chiên, đậu đũa xào và canh bí xanh nấu tôm khô. Ba mẹ con ăn rất ngon miệng. Mẹ em tranh thủ chợp mắt. Bé Mai cũng “tranh thủ” nằm gọn trong lòng mẹ. Em ra ngoài hiên, nằm đu đưa trên chiếc võng dù màu xanh lá cây của ba rồi cũng thiu thiu ngủ. Lúc em thức dậy thì mẹ đã đi làm. Nắng chiều chiếu chếch qua khung cửa sổ, in những sọc vàng trên nền gạch. Đã đến giờ tự học. Em xem lại những bài học buổi sáng và giải mấy bài toán cô yêu cầu. Bé Mai cũng chăm chỉ học. Chỉ khi nào gặp chỗ khó Mai mới hỏi em..

<span class='text_page_counter'>(94)</span> Buổi tối, mấy mẹ con quây quần trò chuyện. Mẹ nhắc nhiều về ba. Chúng em cũng mong Tết tới, ba sẽ được nghỉ phép về nhà. Chỉ nghĩ đến thôi đã thấy vui biết mấy! Sau mục thời sự và những tiết mục văn nghệ dành cho thiếu nhi trên tivi, em và bé Mai ngồi vào bàn học. Chuyện đó đã thành nếp. Em cố gắng rèn cho mình những thói quen tốt như biết quý thời gian, biết sử dụng thời gian vào những việc làm có ích cho bản thân và gia đình. Em thấy mình đã lớn.. Bài 8. * Cây bút thần * Danh từ * Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự CÂY BÚT THẦN (Truyện cổ tích Trung Quốc) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Cây bút thần là truyện cổ tích nổi tiếng của Trung Quốc kể về chú bé Mã Lương nghèo khổ, mồ côi cha mẹ nhưng ham thích học vẽ. Chú được Tiên ông tặng cho cây bút thần nên tài năng càng có điều kiện phát triển. Chú bé đã dùng cây bút thần để vẽ các đồ vật cần thiết cho người nghèo trong làng nhưng nhất quyết không chịu vẽ bất cứ thứ gì cho tên địa chủ giàu có, tham lam. Hắn tức giận, nhốt chú vào chuồng ngựa. Nhờ cây bút thần, chú đã trốn thoát. Khi tên địa chủ đuổi theo, chú đã dùng bút thần vẽ chiếc cung tên để trừng trị hắn. Đến khi bị bắt vào hoàng cung, với trí thông minh kết hợp với sự kì diệu của cây bút thần, chú đã vẽ biển khơi gió to sóng lớn để dìm chết tên vua tàn ác và lũ quần thần của hắn. Chú bé trở lại với cuộc sống dân dã, đi khắp đó đây để giúp đỡ những người nghèo khổ..

<span class='text_page_counter'>(95)</span> * Truyện Cây bút thần thể hiện quan niệm công lí và ước mơ về khả năng kì diệu của con người; đồng thời nhấn mạnh mục đích của người nghệ sĩ là đem tài năng sáng tạo nghệ thuật để phục vụ nhân dân và làm đẹp cuộc đời. Sức hấp dẫn lạ lùng của truyện không chỉ ở nội dung, ý nghĩa, mà còn ở rất nhiều chi tiết hoang đường, kì ảo. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Mã Lương thuộc một kiểu nhân vật rất phổ biến nào trong truyện cổ tích? Hãy kể tên một số nhân vật tương tự trong truyện cổ tích mà em biết. (Mã Lương thuộc kiểu nhân vật có tài năng kì lạ rất phổ biến trong truyện cổ tích ở nước ta cũng như trên thế giới, cổ tích Việt Nam có Thạch Sanh, Chữ Đồng Tử, Sọ Dừa,... Nhưng khác với tài năng kiểu nhân vật dũng sĩ như Thạch Sanh, hay kiểu trí khôn dân gian như Em bé thông minh, tài năng của Mã Lương là tài năng nghệ thuật. Mã Lương đem tài năng sáng tạo nghệ thuật để phục vụ nhân dân và làm đẹp cuộc đời.) Câu 2. Những điều gì đã giúp cho Mã Lương vẽ giỏi như vậy? Những điều ấy có quan hệ với nhau ra sao? (a. Những điều giúp Mã Lương vẽ giỏi: - Nguyên nhân thực tế: Đó là năng khiếu sẵn có kết hợp với sự say mê, cần cù và trí thông minh. - Nguyên nhân thần kì: Mã Lương được Tiên ông tặng cho cây bút thần để vẽ được những vật như thật (con chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót; con cá vẫy đuôi, trườn xuống sông...). Nguyên nhân này tô đậm và thần kì hóa tài vẽ của Mã Lương. Mặt khác, đây cũng là sự ban thưởng xứng đáng cho người có tâm, có tài, có chí, khổ công rèn luyện..

<span class='text_page_counter'>(96)</span> b. Những nguyên nhân nói trên có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên ông cho Mã Lương cây bút thần chứ không phải vật gì khác và cũng chỉ có Mã Lương chứ không phải ai khác được nhận cây bút thần.) Câu 3. Mã Lương đã vẽ gì cho những người nghèo khổ và cho những kẻ tham lam? Hãy đánh giá ngòi bút thần của Mã Lương qua những gì mà Mã Lương đã vẽ. (a. Mã Lương đã dùng cây bút thần vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn, v.v... Mã Lương không vẽ thóc gạo, nhà cửa, vàng bạc, châu báu mà vẽ cái cày, cái cuốc, cái đèn, cái thùng. Các đồ vật Mã Lương vẽ là những công cụ hữu ích cho mọi nhà. Điều này có ý nghĩa rất sâu sắc. Mã Lương không vẽ cũa cải vật chất có sẵn chỉ việc hưởng thụ mà vẽ các phương tiện cần thiết để người dân sản xuất, sinh hoạt, tạo ra thóc gạo, nhà cửa... của cải phải do chính con người làm ra. b. Mã Lương dùng bút thần chống lại tên địa chủ và tên vua tham lam, độc ác vì rất căm ghét chúng. - Tác giả dân gian đã để nhân vật trải qua nhiều tình huống thử thách từ thấp đến cao. Lần thử thách sau khó khăn, phức tạp hơn lần trước. Do đó phẩm chất của nhân vật ngày càng bộc lộ rõ hơn. Từ chỗ Mã Lương không vẽ gì cho tên địa chủ đến chỗ vẽ ngược hẳn ý muốn của vua. Từ chỗ chú trừng trị kẻ ác để thoát thân đến chỗ tiêu diệt kẻ ác lớn nhất để trừ họa cho dân lành. Mã Lương như được Trời trao cho sứ mệnh vung bút thần lên để tiêu diệt kẻ ác, thực hiện công lí. - Để tiêu diệt kẻ ác, Mã Lương chỉ có tinh thần khẳng khái, dũng cảm và cây bút thần thì chưa đủ mà cần phải có trí thông minh nữa.).

<span class='text_page_counter'>(97)</span> Câu 4. Truyện kể này được xây dựng theo trí tưởng tượng rất phong phú và độc đáo của nhân dân. Theo em, những chi tiết nào trong truyện là lí thú và gợi cảm hơn cả? (* Truyện có rất nhiều chi tiết lí thú và gợi cảm nhưng lí thú và gợi cảm hơn cả là hình ảnh cây bút thần với những khả năng kì diệu của nó. Đây là báu vật giống như đũa thần, lọ nước thần, chiếc nhẫn thần, cây đàn thần, v.v... ở nhiều truyện cổ tích khác. Cây bút thần lí thú và gợi cảm ở chỗ: - Là phần thưởng xứng đáng cho Mã Lương. - Có những khả năng kì diệu. - Chỉ ở trong tay Mã Lương, bút thần mới tạo ra được những vật hữu ích như mong muốn; còn ở trong tay kẻ ác, nó tạo ra những điều ngược lại. - Cây bút thần thực hiện công lí của nhân dân là giúp đỡ người nghèo khó và trừng trị kẻ tham lam, độc ác. Nó cũng thể hiện ước mơ về những khả năng kì diệu của con người.) Câu 5. Hãy nêu ý nghĩa của truyện Cây bút thần. (Ý nghĩa của truyện Cây bút thần: - Thể hiện quan niệm của nhân dân về công lí xã hội: Những người chăm chỉ, tốt bụng, thông minh sẽ được nhận phần thưởng xứng đáng; kẻ độc ác, tham lam tất sẽ bị trừng trị. - Khẳng định tài năng nghệ thuật phải được sử dụng để phục vụ nhân dân, phục vụ chính nghĩa, chống lại cái ác. - Khẳng định nghệ thuật chân chính thuộc về nhân dân, về những người tốt bụng, có tài và khổ công luyện tập. - Thể hiện ước mơ và niềm tin về những khả năng kì diệu của con người. Trong truyện cổ tích, con người mơ ước có được những báu vật và phương tiện thần kì để từ đó sáng tạo ra tất cả.).

<span class='text_page_counter'>(98)</span> DANH TỪ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ Các em cần ôn lại đặc điểm của danh từ và cách phân loại danh từ. * Đặc điểm của danh từ: Ý nghĩa. Ngữ pháp. Danh từ là những Danh từ có thể kết hợp với - Chức vụ điển hình trong câu từ chỉ người, vật, từ chỉ số lượng ở phía của danh từ là chủ ngữ. Khi hiện tượng, khái trước và kết hợp với các từ làm vị ngữ, danh từ cần có từ niệm. như này, ấy, đó, nọ ở phía là đứng trước. Ví dụ:. Ví dụ: vua, nông sau. dân,. + Làm chủ ngữ:. học. sinh, Ví dụ: ba quyển vở, cái cặp Mẹ / ra đồng gặt lúa. nắng, mưa, Hà sách này, chiếc xe đó... + Làm vị ngữ: Nội, Sài Gòn... Anh tôi / là công nhân. * Chú ý: Có thể hình dung việc phân loại danh từ theo sơ đồ sau: DANH TỪ - DT chỉ đơn vị Đơn vị tự nhiên: con, cái, vị, chú, thím... Đơn vị quy ước Chính xác: ki-lô-gam, mét... Ước chừng: miếng, mẩu, bó, cục... - DT chỉ sự vật DT riêng: Hà Nội, Sài Gòn... DT chung: trâu, bò, gió, mây... II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> * Câu 1. Liệt kê một số danh từ chỉ sự vật mà em biết. Đặt câu với một trong các danh từ ấy. (* Một số danh từ chỉ sự vật: lợn, gà, bàn, cửa, nhà, dầu, mỡ,... * Đặt câu: - Con lợn này nặng 50 kg. - Đàn gà nhà em rất đẹp. - Cái bàn này bằng gỗ lim. * Trên cơ sở phần gợi ý, học sinh tự làm.) * Câu 2. Liệt kê các loại từ: a) Chuyên đứng trước danh từ chỉ người, ví dụ: ông, vị, cô,... b) Chuyên đứng trước danh từ chỉ đồ vật, ví dụ: cái, bức, tấm,... (Các loại từ: a. Chuyên đứng trước danh từ chỉ người: ngài, viên, người, em,... b. Chuyên đứng trước danh từ chỉ đồ vật: quyển, quả, pho, tờ, chiếc,... * Học sinh tự đặt câu với các danh từ trên.) * Câu 3. Liệt kê các danh từ: a) Chỉ đơn vị quy ước chính xác, ví dụ: mét, lít, ki-lô-gam,... b) Chỉ đơn vị quy ước ước chừng, ví dụ: nắm, mớ, đàn,... (Các danh từ: a. Chỉ đơn vị quy ước chính xác: yến, tạ, tấn, ki-lô-mét,... b. Chỉ đơn vị quy ước ước chừng: hũ, bó, vốc, gang, đoạn,... * Học sinh tự đặt câu với các danh từ trên.).

<span class='text_page_counter'>(100)</span> * Câu 4. Chính tả (nghe - viết): Cây bút thần (Từ đầu đến... dày đặc các hình vẽ). (Yêu cầu viết đúng chính tả các phụ âm đầu s, d và các vần uông, ương.) * Câu 5. Lập danh sách các danh từ chỉ đơn vị và danh từ chỉ sự vật trong bài chính tả trên. (- Các danh từ chỉ đơn vị: em, que, con, bức,... - Các danh từ chỉ sự vật: Mã Lương, cha mẹ, củi, cỏ, chim,...) NGÔI KỂ VÀ LỜI KỂ TRONG VĂN TỰ SỰ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần nắm được ngôi kể và vai trò của ngôi kể trong văn tự sự. * Trong văn tự sự có hai ngôi kể: ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất. * Học sinh học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Thay đổi ngôi kể trong đoạn văn sau thành ngôi thứ ba và nhận xét ngôi kể đem lại điều gì mới cho đoạn văn: Ngày nào cũng vậy, suốt buổi tôi chui vào trong cùng hang, hì hục đào đất để khoét một cái ổ lớn làm thành một cái giường ngủ sang trọng. Rồi cũng lo xa như các cụ già trong họ hàng dế, tôi đào hang sâu sang hai ngả làm những con đường tắt, những cửa sau, những ngách thượng, phòng khi gặp việc nguy hiểm, có thể thoát thân ra lối khác được. (Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí) (- Đoạn văn được kể theo ngôi thứ nhất với người kể xưng là “tôi”. Thay đổi ngôi kể thành ngôi thứ ba tức là chuyển “tôi” thành tên gọi của nhân vật: Dế Mèn. Như vậy, sau khi thay đổi ngôi kể, người kể tự giấu mình đi để có thể kể một cách khách quan về những gì đã diễn ra với nhân vật.).

<span class='text_page_counter'>(101)</span> * Câu 2. Thay đổi ngôi kể trong đoạn văn sau thành ngôi thứ nhất và nhận xét ngôi kể đem lại điều gì khác cho đoạn văn: Một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra, rơi xuống mặt bàn. Thanh định thần nhìn rõ: con mèo già của bà chàng, con mèo già vẫn chơi đùa với chàng ngày trước. Con vật nép chân vào mình khẽ phe phẩy cái đuôi, rồi hai mắt ngọc thạch xanh giương lên nhìn người. Thanh mỉm cười lại gần vuốt ve con mèo. (Thạch Lam, Dưới bóng hoàng lan) (- Đoạn văn được kể theo ngôi thứ ba, tức là gọi các nhân vật bằng tên (Thanh). Thay đổi ngôi kể thành ngôi thứ nhất tức là chuyển từ tên gọi nhân vật thành cách xưng là tôi. - Khi kể theo ngôi thứ nhất, nhân vật có thể trực tiếp kể ra những gì mình nghe, mình thấy, mình trải qua; có thể trực tiếp nói ra cảm tưởng, ý nghĩ của mình.) * Câu 3. Truyện Cây bút thần kể theo ngôi nào? Vì sao như vậy? (Chỉ cần xem người kể có xưng là “tôi” hay gọi nhân vật bằng tên gọi hay không thì sẽ xác định được là ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba. Truyện gọi nhân vật bằng tên (Mã Lương) nên ngôi kể là ngôi thứ ba.) * Câu 4. Vì sao trong các truyện cổ tích, truyền thuyết người ta hay kể chuyện theo ngôi thứ ba mà không kể theo ngôi thứ nhất? (Bởi vì: Kể theo ngôi thứ ba (gọi các nhân vật bằng tên) thì người kể có thể kể linh hoạt, tự do những gì diễn ra với nhân vật. Cách kể này trở thành hình thức “giấu mình” của người kể. Người kể biết hết từ bề ngoài cho đến ý nghĩ thầm kín của nhân vật.) * Câu 5. Khi viết thư, em sử dụng ngôi kể nào?.

<span class='text_page_counter'>(102)</span> (Viết thư là tự kể chuyện mình và trao đổi tình cảm của mình với người nhận thư, vì vậy phải sử dụng ngôi thứ nhất thì mới có thể trực tiếp nói ra những điều đó.) * Câu 6. Dùng ngôi thứ nhất để kể về cảm xúc của em khi nhận được quà tặng của người thân. (* Tham khảo đoạn văn dưới đây: Cuối năm học vừa qua, vì tôi đạt được danh hiệu Học sinh giỏi nên mẹ đã tặng cho tôi một chiếc cặp sách bằng da rất đẹp. Chiếc cặp khá lớn và có ba ngăn. Trước ngày khai giảng, tôi đã sắp xếp sách vở và đồ dùng học tập vào trong cặp. Ngăn đựng sách giáo khoa, ngăn đựng tập vở, ngăn đựng thước kẻ, bút chì, bút mực... đâu ra đấy. Tôi ngắm nhìn không chán mắt rồi đeo thử chiếc cặp lên vai, lòng vui phơi phới.). Bài 9. * Ông lão đánh cá và con cá vàng * Thứ tự kể trong văn tự sự * Viết bài Tập làm văn số 2 - Văn kể chuyện ÔNG LÃO ĐÁNH CÁ VÀ CON CÁ VÀNG I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Ngày xưa, có hai vợ chồng người đánh cá già sống rất nghèo khổ. Một hôm, ông lão kéo lưới bắt được một con cá vàng. Cá vàng van xin ông lão thả nó ra, ông lão muốn gì sẽ được nấy. Mụ vợ tham lam bắt ông lão phải thực hiện những điều mụ yêu cầu. Lòng tham vô tận, mụ muốn làm Long vương để bắt cá vàng hầu hạ. Cá vàng tức giận, bắt mụ trở về cuộc sống nghèo khổ như xưa..

<span class='text_page_counter'>(103)</span> * Truyện sử dụng những biện pháp nghệ thuật tiêu biểu của truyện cổ tích như: sự lặp lại theo kiểu tăng tiến của các tình huống, sự đối lập giữa các nhân vật, sự xuất hiện các yếu tố tưởng tượng, hoang đường... để nhấn mạnh nội dung ca ngợi lòng biết ơn đối với những người nhân hậu và nêu ra bài học đích đáng cho những kẻ tham lam, bội bạc. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Trong truyện, mấy lần ông lão ra biển gọi cá vàng? Việc kể lại những lần ông lão ra biển gọi cá vàng là biện pháp lặp lại có chủ ý của truyện cổ tích. Hãy nêu tác dụng của biện pháp này. (a. Trong truyện, năm lần ông lão ra biển gọi cá vàng để thực hiện yêu cầu của mụ vợ: - Lần thứ nhất: Đòi một cái máng mới cho lợn ăn. - Lần thứ hai: Đòi một toà nhà đẹp. - Lần thứ ba: Đòi làm nhất phẩm phu nhân. - Lần thứ tư: Đòi làm nữ hoàng. - Lần thứ năm: Đòi làm Long Vương ngự trên mặt biển. b. Việc kể lại những lần ông lão ra biển gọi cá vàng là biện pháp lặp lại có chủ ý của truyện cổ tích. Biện pháp này có mấy dụng ý như sau: - Tạo nên tình huống gay cấn, tạo cảm giác hồi hộp cho người đọc, người nghe. - Sự lặp lại ở đây không phải là lặp lại nguyên xi mà có thêm những chi tiết mốc (cảnh biển thay đổi, yêu cầu của mụ vợ thay đổi). Đây là sự lặp lại có tính chất tăng tiến.) Câu 2. Mỗi lần ông lão ra biển gọi cá vàng, cảnh biển thay đổi như thế nào? Vì sao?.

<span class='text_page_counter'>(104)</span> (Trong truyện, ông lão năm lần ra biển thì gọi cá vàng để nhờ cậy. Lần thứ nhất: biển gợn sóng êm ả. Lần thứ hai: biển xanh nổi sóng. Lần thứ ba: biển xanh nổi sóng dữ dội. Lần thứ tư: biển nổi sóng mù mịt. Lần thứ năm: một cơn dông tố kinh khủng kéo đến, mặt biển nổi sóng ầm ầm. Năm lần gọi cá vàng là năm lần cảnh biển thay đổi. Một bên là những yêu cầu ngày càng quá quắt của mụ vợ ông lão, một bên là phản ứng của biển mỗi lúc một tăng tương ứng với những yêu cầu đó. Qua những lần lặp lại như thế, tính cách nhân vật (ông lão, mụ vợ, cá vàng) và chủ đề truyện càng được tô đậm. Trong truyện, biển không chỉ đơn thuần làm nền cho các nhân vật hoạt động mà còn tham gia tích cực vào diễn biến của truyện. Biển tượng trưng cho phản ứng của nhân dân, của đất trời trước thói tham lam và bội bạc.) Câu 3. Em có nhận xét gì về lòng tham và sự bội bạc của nhân vật mụ vợ? Sự bội bạc của mụ đối với chồng đã tăng lên như thế nào? Khi nào sự bội bạc của mụ đi tới tột cùng? (Chú ý thái độ của mụ vợ đối với cá vàng thể hiện ở ý muốn cuối cùng). (a. Mở đầu truyện là cảnh sống bình thường của hai vợ chồng nghèo: Ngày ngày chồng đi thả lưới, vợ ở nhà kéo sợi. Thế rồi khi xuất hiện cá vàng có khả năng kì diệu thỏa mãn được mọi ước muốn thì tình cảnh thay đổi hẳn. b. Chúng ta hãy quan sát thái độ của mụ vợ ông lão đánh cá đối với chồng. Khi mụ đòi ông lão xin cá vàng cho một cái máng lợn mới, được máng rồi mụ lại mắng ông lão là: Đồ ngu!Khi đòi một ngôi nhà đẹp, được nhà rồi mụ lại mắng như tát nước vào mặt ông lão: Đồ ngu, ngốc sao ngốc thế! Khi đã là nhất phẩm phu nhân mụ vợ mắng lão một thôi và bắt lão xuống quét dọn chuồng ngựa. Khi đã thành nữ hoàng mụ vợ không thèm nhìn ông lão, ra lệnh đuổi đi. Được ít tuần, mụ vợ lại nổi cơn thịnh nộ sai người bắt ông lão để được làm Long vương..

<span class='text_page_counter'>(105)</span> c. Với mụ vợ, ông lão đánh cá không chỉ là chồng mà còn là ân nhân bởi nhờ ông lão mà mụ có tất cả. Nhưng ông lão đánh cá càng giúp mụ thoả mãn lòng tham bao nhiêu thì lại càng bị mụ cư xử tệ bạc bấy nhiêu. Mụ không còn coi ông lão là chồng mà coi ông như một kẻ đầy tớ. Ông lão nhất thiết phải tuân theo lệnh mụ. Đặc biệt, mụ không có công ơn gì với cá vàng. Cá vàng vì nể tình ông lão mà mang lại tiền bạc và quyền uy cho mụ. Nhưng lòng tham của mụ là không đáy. Mụ đòi hỏi tất cả mọi thứ của cải vật chất mà con người có thể có. Chưa đủ, mụ còn muốn có trong tay quyền lực vô biên. Vì thế cuối cùng, mụ muốn bắt cá vàng làm nô lệ để mụ tiện sai khiến. Những tình tiết ấy đã làm nổi rõ nghịch lí: lòng tham càng lớn thì tình nghĩa vợ chồng càng nhạt phai rồi tiêu biến. Sự tàn ác, bội bạc cứ tăng dần mỗi khi mụ có địa vị cao sang hơn. d. Khi đã làm nữ hoàng với quyền uy tột đỉnh, mụ thẳng tay đuổi ông lão đi vì ân nhân đã trở thành chướng ngại. Sự bội bạc và tham lam của mụ đã tới mức trời và người đều không thể dung tha. Biển cả đã giận dữ trừng trị mụ vợ tham lam, bội bạc và tàn nhẫn của ông lão đánh cá.) Câu 4. Câu chuyện đã được kết thúc như thế nào? Ý nghĩa của cách kết thúc đó. (Mở đầu truyện là cảnh mụ vợ ông lão đánh cá sống trong cảnh nghèo khó, chưa bao giờ được sung sướng, giàu sang, lên xe xuống ngựa. Còn ở kết thúc truyện, sau khi mụ đã được hưởng tột đỉnh giàu sang, danh vọng mà lại phải trở lại cảnh nghèo khó ban đầu thì quả thật chẳng dễ chịu chút nào. Mụ sẽ suy sụp cả về tinh thần lẫn thể xác; sẽ nhục nhã ê chề tới cực điểm. Đây chính là sự trừng phạt đích đáng đối với nhân vật tham lam, độc ác này.) Câu 5. Cá vàng trừng trị mụ vợ vì tội tham lam hay tội bội bạc? Hãy nêu ý nghĩa tượng trưng của hình tượng con cá vàng..

<span class='text_page_counter'>(106)</span> (a. Cá vàng trừng trị mụ vợ ông lão vì cả hai tội nhưng có lẽ tội bội bạc nặng hơn. Thực ra, giữa hai tội này có sự liên quan chặt chẽ: lòng tham vô hạn thường làm cho người ta mất hết lương tri và nhân tính, không còn khả năng nhận biết đúng, sai. Ở trong mỗi con người, lòng tham ít hay nhiều không phải là chuyện lạ. Có lẽ tác giả muốn nhấn mạnh lòng tham là một trong những nguyên nhân chính dẫn con người đến nhiều tai họa. b. Hình tượng cá vàng có ý nghĩa rất sâu sắc, tượng trưng cho lòng biết ơn đối với ân nhân đã giúp mình qua cơn hoạn nạn, khó khăn. Cá vàng còn đại diện cho công lí, cho lòng tốt và cái thiện. Cá vàng còn tượng trưng cho quan niệm của dân gian: những kẻ bội bạc, tham lam tất sẽ bị trừng trị đích đáng. Truyện nhỏ nhưng ý nghĩa lớn. Điều đó đã làm say mê, xúc động bao thế hệ người đọc từ trước đến nay.) III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP Câu 1. Có người cho rằng truyện này nên đặt tên là Mụ vợ ông lão đánh cá và con cá vàng. Ý kiến của em thế nào? (Nếu đặt tên truyện là Mụ vợ ông lão đánh cá và con cá vàng thì cũng có có sở bởi vì mụ vợ là nhân vật chính. Trong truyện cổ tích thần kì, nhân vật chính thường là nhân vật tích cực và người xưa thường lấy nhân vật chính để đặt tên cho truyện. Nhưng trong trường hợp này, nếu lấy nhân vật phản diện để đặt tên cho truyện thì ý nghĩa của truyện cũng không thay đổi: Nêu bài học đích đáng cho những kẻ tham lam, bội bạc như mụ vợ ông lão đánh cá.) Câu 2. Hãy kể diễn cảm truyện cổ tích ông lão đánh cá và con cá vàng. (* Tham khảo cách kể dưới đây: I. DÀN Ý 1. Mở bài:.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> * Giới thiệu bối cảnh và nhân vật chính: - Ngày xưa, ở nước Nga, có hai vợ chồng ông lão đánh cá nghèo khổ. - Ngày ngày, ông lão mang lưới ra biển đánh cá... 2. Thân bài: * Diễn biến của truyện: + Ông lão đánh cá thả cá vàng: - Ông lão kéo lưới, bắt được cá vàng. - Cá vàng van xin ông lão thả ra và hứa sẽ đền ơn. + Ông lão bị mụ vợ bắt phải đi tìm cá vàng đòi đền ơn: - Lần thứ nhất: đòi một cái máng mới cho lợn ăn. - Lần thứ hai: đòi một toà nhà đẹp. - Lần thứ ba: đòi làm nhất phẩm phu nhân. - Lần thứ tư: đòi làm nữ hoàng. - Lần thứ năm: đòi làm Long Vương ngự trên mặt biển. 3. Kết bài: * Kết thúc truyện: + Cá vàng trừng trị thói tham lam, bội bạc của mụ vợ ông lão: - Lâu đài, cung điện biến mất. - Trở lại túp lều nát ngày xưa. - Mụ vợ ngồi trước cái máng lợn sứt mẻ. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm). THỨ TỰ KỂ TRONG VĂN TỰ SỰ.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Cần nắm được thứ tự kể trong văn tự sự: Theo thứ tự thời gian hoặc không theo thứ tự thời gian. * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Đọc câu chuyện sau đây và trả lời câu hỏi: Tôi và Liên là bạn thân cùng lớp, nhưng hồi Liên mới từ quê đến khu tập thể ở với bố bên cạnh nhà tôi, thì không hiểu sao tôi lại rất ghét Liên. Có thể là vì Liên mới ở quê ra mà biết ăn mặc lịch sự, lại hay giặt giũ phơi phóng, ra điều ta đây chăm chỉ, ngoan ngoãn, làm cho tôi như bị kém cạnh! Tôi nhớ như in lần va chạm đầu tiên với Liên. Lần ấy, ngày đầu tiên nắng to sau một tuần mưa dầm dề, mọi người ai cũng giặt giũ, phơi phóng đầy cả sân. Khi tôi giặt xong quần áo đem phơi, thì sợi dây phơi áo nhà tôi đã phơi đầy áo quần của Liên. Tôi bực mình lùa một cách thô bạo áo quần của Liên vào một đầu, rồi phơi áo quần của mình vào phần dây còn lại, xong việc tôi đi vào nhà. Liên nhìn thấy nhưng không nói gì. Cô đi tìm sợi dây khác buộc làm dây phơi rồi phơi áo quần của mình lên đó. Hôm ấy tôi cùng mẹ đi phố, nhân thể ghé thăm bà ngoại, đến chiều mới về. Không ngờ đến chiều thì trời đổ mưa to. Nhìn trời mưa tôi nghĩ, chắc áo quần của mình phơi đã ướt sạch rồi. Nhưng khi về nhà thì áo quần đã được ai thu dọn. Tôi đang đưa mắt nhìn quanh, thì Liên sang bảo, khi trời sắp mưa, cô đã kịp rút hộ vào và đem trả lại cho tôi. Nhìn xấp quần áo khô đã gấp gọn gàng, tôi thực sự ngạc nhiên và cảm động. Tôi cảm thấy mặt mình nóng bừng lên. Thì ra tôi đã nghĩ xấu cho Liên. Từ đó, tôi và Liên trở thành đôi bạn thân trong khu tập thể, vui buồn có nhau....

<span class='text_page_counter'>(109)</span> (Tự thuật của một học sinh) Câu hỏi: Câu chuyện được kể theo thứ tự như thế nào? Chuyện kể theo ngôi nào? Yếu tố hồi tưởng đóng vai trò như thế nào trong câu chuyện? (Lúc đầu người kể đang ở thời điểm hiện tại để nói về bạn mình: Tôi và Liên là bạn thân cùng lớp..., nhưng sau đó lại: Tôi nhớ như in lần va chạm đầu tiên với Liên, như vậy là câu chuyện xảy ra trong quá khứ. Người kể đã nhớ lại và kể tiếp các sự việc đã xảy ra trong lần va chạm đó. Thứ tự kể ở đây là kể ngược: hiện tại quá khứ. - Người kể ở đây tự xưng là tôi, như vậy ngôi kể là ngôi thứ nhất. - Yếu tố hồi tưởng làm cho câu chuyện chân thành và xúc động. Nhân vật chính nhớ lại những sự việc có thật đã xảy ra khiến cho hai người trở thành đôi bạn thân). * Câu 2. Cho đề văn: Kể câu chuyện về lần đầu em được đi chơi xa. Em hãy tìm hiểu đề, lập dàn ý và viết bài văn trên. (* Tham khảo dàn bài và bài viết dưới dây: I. TÌM HIỂU ĐỀ - Lần đầu em được đi chơi xa trong trường hợp nào? Ai đưa em đi? - Nơi ấy là đâu? Về quê, ra thành phố, hay đi tham quan nơi nào?... - Em đã thấy những gì trong chuyến đi ấy? Điều gì làm em thích thú và nhớ mãi? - Em ước ao những chuyến đi như thế nào? II. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu chung:.

<span class='text_page_counter'>(110)</span> - Hoàn cảnh cuộc đi thăm và tên của danh lam thắng cảnh. 2. Thân bài: * Kể về cảnh đẹp đèo Hải Vân: - Đường lên đèo một bên là núi, một bên là biển. - Đường vượt đèo ngoằn ngoèo hiểm trở. - Cảnh non nước, trời mây hùng vĩ, đẹp như một bức tranh. - Đèo Hải Vân tạo ra sự khác biệt về thời tiết giữa hai miền Nam Bắc. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Đèo Hải Vân là một thắng cảnh nổi tiếng của nước ta. III. BÀI LÀM Hè năm ngoái, đoàn Học sinh giỏi của trường Tiểu học Ngô Sĩ Liên, quận Ba Đình được thưởng một chuyến du lịch miền Nam. Con tàu tốc hành đưa chúng em từ Hà Nội vào thăm thành phố mang tên Bác Hồ đang vun vút lao trên tuyến đường sắt xuyên Việt. Phong cảnh hai bên đường thật tuyệt vời! Việt Nam quả là một giang sơn gấm vóc. Cô trưởng đoàn thông báo tàu chuẩn bị vượt đèo Hải Vân, đèo lớn nhất trên lộ trình Bắc Nam một cảnh quan nổi tiếng của nước ta. Kia rồi! Đèo Hải Vân đã hiện ra trước mắt. Dãy Trường Sơn sừng sững chắn ngang. Từ xa, chúng em đã nhìn thấy con đường đèo ngoằn ngoèo uốn khúc vắt từ sườn núi này sang sườn núi nọ. Đã đến chân đèo. Con tàu giảm tốc độ, ì ạch kéo các toa đầy hành khách từ từ leo dốc. Dù đã được lắp thêm một đầu máy đẩy phía sau, nó vẫn trườn đi một cách nặng nhọc. Có lúc, đoàn tàu chui vào đoạn đường hầm hun hút, tối om xuyên lòng núi. Có lúc, nó bám cheo leo vào sườn núi, hoặc lượn vòng như con.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> rắn khổng lồ. Không gian tĩnh mịch và thoáng đãng. Thỉnh thoảng, có tiếng chim rừng lảnh lót trong nắng sớm. Xa xa, biển Đông bao la tít tắp đến chân trời. Những chỗ biển ăn sâu vào chân núi tạo thành những vũng, những vịnh xinh xinh, nước xanh ngăn ngắt. Thỉnh thoảng hiện ra trong tầm mắt du khách những cồn cát trắng có rặng dừa xanh viền quanh làng chài ven biển. Dăm ba chiếc thuyền sau một đêm ra khơi đang từ từ về bến. Đoàn tàu lướt đi trong mây gió bồng bềnh. Xuống đến chân đèo, mặt biển bỗng trở nên gần gũi lạ thường. Hành khách có thể nhìn rõ từng cánh chim hải âu chao mình trên sóng rồi bay vút lên cao. Từng đợt sóng dào dạt vỗ bờ, bọt tung trắng xoá. Gió biển mát lộng mang lại sự sảng khoái lạ thường cho du khách. Đèo Hải Vân phân chia rõ khí hậu hai miền Bắc Nam. Hình như mọi cơn gió lạnh, mọi trận mưa phùn đều dừng lại phía bắc đèo. Tạo hóa sắp đặt mới khéo làm sao! Ở đây có đủ trời mây, non nước hữu tình. Đèo Hải Vân là một cảnh quan hùng vĩ hiếm có của nước ta. Ai đã qua đây một lần ắt không thể nào quên. VIẾT BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 2 - VĂN KỂ CHUYỆN (Làm tại lớp) Học sinh tham khảo dàn bài và bài viết một số đề dưới đây: ĐỀ 1: Kể về một việc tốt mà em đã làm. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu cụ thể việc tốt: - Tuần trước, trong đợt thi đua học tập và làm theo Năm điều Bác Hồ dạy, em đã làm một việc tốt: nhặt được của rơi, trả lại cho người bị mất. 2. Thân bài:.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> * Diễn biến của sự việc: - Buổi trưa, đi học về, em nhặt được một túi xách bằng da màu đen. - Em cố ý chờ người đánh rơi quay lại tìm kiếm nhưng gần đến nhà rồi mà vẫn không thấy ai. - Em đem đến nộp cho công an phường. - Nhà trường biết tin đã tuyên dương em trong lễ chào cờ đầu tuần. - Người đánh rơi nhận lại túi xách, tìm đến tận nhà cảm ơn em. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Em rất vui vì đã làm được một việc nhỏ nhưng có ích. Bố mẹ, thầy cô đều khen em là một học sinh ngoan. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm). ĐỀ 2: Kể về một lần em mắc lỗi (bỏ học, nói dối, không làm bài...). I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu chung: - Lỗi lầm em gây ra là gì? (Nói dối). - Xảy ra bao giờ? (Cách đây hơn nửa năm). 2. Thân bài: * Kể lại diễn biến câu chuyện: - Em rất thích trò chơi điện tử. - Bị thua điểm bạn trong một trò chơi..

<span class='text_page_counter'>(113)</span> - Em muốn thắng nên nói dối mẹ là đến nhà bạn hỏi bài để trốn đi chơi. - Mải chơi đến khuya, quên cả giờ giấc. - Bố đến nhà bạn đón không gặp mà gặp em vừa ở chỗ chơi bước ra. - Mọi chuyện vỡ lở, em hối hận kể lại sự thật với ông bà, cha mẹ và xin được tha thứ. - Hứa sẽ không tái phạm. 3. Kết bài: * Kết thúc sự việc: - Không nên dối trá. - Nói dối chỉ đem lại hậu quả xấu mà thôi. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm). ĐỀ 3: Kể về một thầy giáo hay một cô giáo mà em quý mến. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu nhân vật và tình huống: - Trên một chuyến xe về thăm quê, em gặp lại cô giáo chủ nhiệm hồi lớp 5. Em nhớ lại kỉ niệm cũ. 2. Thân bài: * Kể về kỉ niệm gắn với (thầy) cô: - Hồi còn ở quê, em thường hay đi học cùng với bạn Lâm. - Hôm ấy, Lâm không đi học. Em định đến chiều sẽ sang nhà bạn ấy xem sao nhưng vì trời mưa rét nên ngại..

<span class='text_page_counter'>(114)</span> - Buổi tối em đến thăm Lâm, thấy cô giáo đang giảng bài cho bạn ấy. - Việc làm của cô khiến em xúc động. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Kỉ niệm về cô giáo cũ còn in đậm trong lòng em. II. BÀI LÀM Gia đình em theo bố chuyển ra thị xã đã được hơn một năm. Hôm nay, em mới có dịp về thăm quê. Vừa lên xe, em đã nhận ra cô Nga, cô giáo chủ nhiệm lớp 5A mà em rất quý mến. Em khoanh tay lễ phép chào cô. Cô mỉm cười kéo tay em ngồi xuống ghế bên cạnh. Cô ân cần hỏi thăm tình hình học tập và sinh hoạt của em. Gặp cô, em mừng lắm. Bao nhiêu kỉ niệm tốt đẹp về cô lại trỗi dậy trong kí ức em... Hồi ấy, quê em còn nghèo. Đường làng lồi lõm, quanh co. Sau mỗi cơn mưa, đất nhão thành bùn dính bết vào chân, đi lại rất khó khăn. Dân làng làm việc quần quật suốt ngày ngoài đồng, quanh năm vất vả. Trẻ em phải phụ giúp cha mẹ những việc nhỏ như chăn trâu, cắt cỏ, dọn dẹp nhà cửa... Sáng sáng, em đi học cùng bạn Lâm. Nhà bạn ấy cách nhà em một xóm. Hôm đó, chờ mãi không thấy Lâm đến rủ, em đành tới trường một mình. Suốt mấy ngày mưa phùn lây rây, không khí ướt và lạnh. Bầu trời xám xịt, mặt trời bị che khuất sau những đám mây dày sũng nước. Đến lớp, em thấy bạn nào cũng co ro vì lạnh, chân tay, quần áo lem nhem bùn đất. Cô Nga nhìn chúng em với ánh mắt ái ngại và thương cảm. Cô khen chúng em chịu khó, chăm học rồi cô bắt đầu giảng bài như thường lệ. Chúng em say mê nghe, quên cả trời đang mưa lạnh. Giờ chơi, các bạn ùa ra hành lang, túm năm tụm ba chuyện trò vui vẻ. Em nhớ tới Lâm và định bụng tan học sẽ đến thăm xem bạn ấy vì sao mà nghỉ học..

<span class='text_page_counter'>(115)</span> Buổi trưa, ăn cơm xong, nghĩ tới đoạn đường đến nhà Lâm, em ngại quá. Em chui tọt vào chăn rồi ngủ quên mất. Mãi đến tối, em lấy hết can đảm dấn bước trên con đường trơn trượt để đến nhà Lâm. Em ngạc nhiên khi thấy bên ngọn đèn, cô Nga đang hướng dẫn Lâm làm toán. Lâm quàng chiếc khăn kín cổ, mặt đỏ bừng như người đang sốt. Nhìn cảnh ấy, lòng em xao xuyến. Em thương Lâm và cô giáo bao nhiêu thì lại tự trách mình bấy nhiêu. Lẽ ra tan học, em phải đến với Lâm ngay để giúp bạn ấy chép bài, làm bài mới đúng là bạn tốt. Em thật có lỗi! Dường như nhận ra vẻ bối rối của em, cô Nga tươi cười bảo: “Đạt tới thăm Lâm đấy ư? Tốt lắm! Cô và hai em cùng giải mấy bài toán khó này nhé!”. Thế rồi cô hướng dẫn cặn kẽ cho tới lúc bạn Lâm tự làm được bài. Mẹ Lâm nói với em: “Hôm qua, Lâm ra đồng giúp bác nhổ cỏ lúa suốt buổi chiều nên bị cảm. Đêm nó sốt cao quá nên sáng nay phải nghỉ học. Nó mong cháu mãi đấy!”. Nghe bác nói, em càng ân hận, trách mình sao quá vô tình. Chín giờ khuya, cô Nga cùng em trở về trên con đường lầy lội. Cô dặn em: “Nếu mai Lâm chưa đi học được thì Đạt tới chép bài cho Lâm nhé! Bạn bè phải giúp đỡ nhau lúc khó khăn, em ạ!”. Em tần ngần đứng nhìn theo ánh đèn trong tay cô xa dần mà lòng dâng lên niềm kính phục và quý mến vô hạn. Hơn một năm sống và học tập trong ngôi trường mới, em luôn nhớ đến những ngày thơ ấu dưới mái trường làng với bao kỉ niệm khó quên về thầy cô và bạn bè thân yêu. Mái trường nơi quê nghèo nhưng ấm áp tình người. ĐỀ 4: Kể về một kỉ niệm hồi thơ ấu mà em nhớ mãi. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu sơ lược về kỉ niệm đáng nhớ:.

<span class='text_page_counter'>(116)</span> - Về chuyện gì? xảy ra bao giờ? Có liên quan đến ai? (Việc em rèn luyện chữ viết hồi học lớp 3.) 2. Thân bài: * Kể lại trình tự sự việc: - Vì chữ rất xấu nên em sợ môn Chính tả. - Chưa được điểm cao bao giờ. - Mẹ khuyên nhủ, động viên em nên tập viết chữ cho sạch đẹp. - Em cố gắng rất nhiều, kiên trì luyện tập. 3. Kết bài: * Kết quả: - Chữ viết của em càng ngày càng sạch đẹp hơn. - Em đã đạt được điểm 10 chính tả. - Em tự nhủ phải cố gắng hơn nữa. II. BÀI LÀM Năm nay, em đã là học sinh lớp 6 nhưng những kỉ niệm hồi còn thơ ấu em không bao giờ quên. Trong những kỉ niệm ấy có chuyện rèn luyện chữ viết năm em học lớp 3. Giờ đây, em trở thành học sinh giỏi Văn cũng là nhờ một phần vào những ngày rèn luyện gian khổ ấy. Trong các môn học, em sợ nhất môn Chính tả vì chữ em rất xấu, Mỗi khi đến giờ chép chính tả theo lời cô đọc, em thấy khổ sở vô cùng. Chưa bao giờ em đạt điểm cao môn này. Nhiều buổi tối, em giở tập, lặng nhìn những điểm kém và lời phê nghiêm khắc của cô giáo rồi buồn và khóc. Mẹ thường xuyên theo dõi việc học tập của em. Biết chuyện, mẹ không trách mắng mà ân cần khuyên nhủ: - Con lớn rồi, phải cố tập viết sao cho đẹp, ông bà mình bảo nét chữ là nết người đấy con ạ!.

<span class='text_page_counter'>(117)</span> Em ngẫm nghĩ và thấy lời khuyên của mẹ rất đúng. Vì thế em quyết tâm tập viết hằng ngày đến bao giờ chữ em trở nên sạch đẹp mới thôi. Em tự đề ra cho mình kế hoạch mỗi ngày dành ra một tiếng đồng hồ tập chép. Trước hết, em chép lại những bài tập đọc trong sách giáo khoa. Sau đó, tập chép những bài thơ ngắn. Mẹ dạy em cách cầm bút sao cho thoải mái để viết lâu không bị mỏi tay. Em học theo và đã quen dần với cách cầm bút ấy. Mỗi bài, em viết nhiều lần ra nháp, khi nào tự thấy đã tương đối sạch đẹp thì mới chép vào vở. Xong xuôi, em nhờ mẹ chấm điểm. Những bài đầu, mẹ chỉ cho điểm 5, điểm 6 vì còn sai chính tả và nét chữ chưa đều. Em không nản chí, càng cố gắng hơn. Đến bài thứ chín, thứ mười, em đã có nhiều tiến bộ. Những dòng chữ đều đặn, ngay hàng thẳng lối hiện dần ra dưới ngòi bút của em. Mẹ không ngừng động viên làm cho em tăng thêm quyết tâm phấn đấu. Lần đầu tiên được cô giáo cho điểm 10 Chính tả, em vô cùng sung sướng. Cô giáo khen em trên lớp và khuyên các bạn hãy coi em là gương tốt để học tập. Em nghĩ đến mẹ và thầm cảm ơn mẹ. Em cầm quyển vở có điểm 10 đỏ tươi về khoe với mẹ. Mẹ xoa đầu em nói: - Thế là con đã chiến thắng được bản thân. Con đã trở thành người học sinh có ý chí và nghị lực trong học tập. Mẹ tự hào về con. Bố con biết tin này chắc là vui lắm! Từ đó, cái biệt danh Tuấn gà bươi mà các bạn tinh nghịch trong lớp đặt cho em không còn nữa. Tuy vậy, em vẫn kiên trì tập viết để nét chữ ngày một đẹp hơn. Sau Tết, em sẽ tham gia hội thi Vở sạch chữ đẹp do trường tổ chức. Đúng là Có chí thì nên, Có công mài sắt có ngày nên kim, phải không các bạn? ĐỀ 5: Kể về một tấm gương tốt trong học tập hay trong việc giúp đỡ mọi người mà em biết..

<span class='text_page_counter'>(118)</span> I. DÀN Ý 1. Mở bài: - Giới thiệu hoàn cảnh xuất hiện người tốt việc tốt. 2. Thân bài: - Kể về người tốt, việc tốt mà em biết. (Diễn biến của sự việc theo trình tự từ trước đến sau.) 3. Kết bài: - Phát biểu cảm nghĩ của em. - Học tập gương tốt, cố gắng trở thành người có ích. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm).. Bài 10. * Ếch ngồi đáy giếng * Thầy bói xem voi * Đeo nhạc cho mèo * Danh từ (tiếp theo) * Luyện nói kể chuyện ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG (Truyện ngụ ngôn) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Vì sống lâu trong một cái giếng nhỏ nên con ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng cái vung, còn nó thì oai như một vị chúa tể. Một năm nọ, trời.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> mưa to, nước giếng tràn bờ đưa ếch ra ngoài. Quen thói cũ, nó nhâng nháo đưa mắt nhìn lên bầu trời, chẳng thèm để ý gì đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹp. Từ câu chuyện về cách nhìn thế giới bên ngoài chỉ qua miệng giếng nhỏ hẹp của chú ếch, truyện Ếch ngồi đáy giếng ngụ ý phê phán những kẻ trình độ hạn hẹp mà lại hay huênh hoang, tự phụ. Truyện còn khuyên nhủ mọi người phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình, không được chủ quan, kiêu ngạo. * Hình thức là truyện ngụ ngôn ngắn gọn nhưng ý nghĩa sâu xa. Thủ pháp nghệ thuật chủ đạo là nhân hóa loài vật để nói chuyện loài người. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Vì sao ếch tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng cái vung và nó thì oai như một vị chúa tể? (Ếch tưởng bầu trời chỉ bé bằng cái vung, còn nó thì oai như một vị chúa tể, bởi vì: - Ếch sống lâu ngày dưới đáy một cái giếng chật hẹp. - Xung quanh nó chỉ có một vài loài vật bé nhỏ. - Hằng ngày, ếch cất tiếng kêu ồm ộp làm vang động cả giếng, khiến các con vật kia rất hoảng sợ. * Những chi tiết ấy chứng tỏ: - Môi trường sống của ếch rất nhỏ. Chưa bao giờ nó biết thêm một môi trường nào khác ngoài đáy giếng. Do ít hiểu biết nên tầm nhìn của ếch hạn hẹp và tình trạng ấy kéo dài quá lâu. - Ếch chủ quan và kiêu ngạo. Thái độ chủ quan, kiêu ngạo đó đã thành thói quen, thành căn bệnh trầm trọng của nó.) Câu 2. Do đâu ếch bị con trâu đi qua giẫm bẹp?.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> (Sau một lần mưa to, nước giếng tràn đầy đẩy ếch ra ngoài, nhưng đó chỉ là hoàn cảnh, chứ không phải là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ếch. Quen thói cũ, nó nhâng nháo đưa cặp mắt nhìn lên bầu trời, chả thèm để ý đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua dẫm bẹp. Nguyên nhân của kết cục bi thảm kia chính là sự kiêu ngạo, chủ quan của ếch.) Câu 3. Truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng nhằm nêu lên bài học gì? Ý nghĩa của bài học? (- Dù môi trường, hoàn cảnh sống hạn hẹp nhưng chúng ta vẫn phải cố gắng mở rộng sự hiểu biết bằng nhiều hình thức học hỏi khác nhau. Phải biết khắc phục những hạn chế của mình để có tầm nhìn xa trông rộng. - Không được chủ quan, kiêu ngạo, coi thường người khác. Kẻ chủ quan, kiêu ngạo dễ bị trả giá đắt, thậm chí bằng cả tính mạng. * Ý nghĩa của bài học: - Những bài học trên có ý nghĩa nhắc nhở, khuyên bảo tất cả mọi người ở mọi lĩnh vực, nghề nghiệp khác nhau. Các hình ảnh như: cái giếng, bầu trời, con ếch và các con vật khác trong truyện đều có ý nghĩa ẩn dụ, thích ứng với từng con người, từng hoàn cảnh. Điều đó cho thấy phạm vi ý nghĩa của những bài học mà truyện ngụ ngôn này nêu ra là rất rộng.) III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Hãy tìm và gạch chân hai câu văn trong văn bản mà em cho là quan trọng nhất trong việc thể hiện nội dung, ý nghĩa của truyện. (Hai câu văn quan trọng nhất trong bài là: - Ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng chiếc vung và nó thì oai như một vị chúa tể. - Nó nhâng nháo đưa cặp mắt nhìn lên bầu trời, chả thèm để ý đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹp.).

<span class='text_page_counter'>(121)</span> * Câu 2. Thử nêu một số hiện tượng trong cuộc sống ứng với thành ngữ “Ếch ngồi đáy giếng”. (- Một người suốt đời chỉ quanh quẩn, ru rú ở góc nhà, xó bếp, nhưng hễ mở miệng ra là ba hoa, khoác lác về những chuyện trên trời, dưới biển, ra vẻ ta đây hiểu nhiều, biết rộng. Đó là một kiểu Ếch ngồi đáy giếng. - Một người trẻ tuổi, trình độ học vấn thấp, kinh nghiệm sống chưa nhiều nhưng không chịu nghe ai khuyên nhủ; thích làm theo ý mình, dù là sai. Đó cũng là một kiểu Ếch ngồi đáy giếng.) THẦY BÓI XEM VOI (Truyện ngụ ngôn) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Truyện Thầy bói xem voi kể về cuộc xem voi đặc biệt của năm thầy bói mù. (Cách xem voi và nhận xét của từng người về con voi). Chưa ai biết gì về voi nên nhân buổi ế hàng, nghe nói có voi đi qua, họ bèn chung tiền biếu người quản tượng, xin cho voi dừng lại để cùng xem. Sự khác biệt trong nhận thức về hình dáng con voi giữa các thầy bói dẫn đến cuộc tranh luận bất phân thắng bại, thậm chí xô xát, đánh nhau toác đầu, chảy máu. Từ câu chuyện chế giễu cách xem voi và cách nhận xét rất phiến diện, chủ quan về voi của năm ông thầy bói mù, truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi khuyên mọi người muốn hiểu biết đầy đủ về sự vật, sự việc nào đó thì phải xem xét một cách kĩ càng và toàn diện. * Các hình ảnh, tình tiết trong truyện đều chứa đựng ý nghĩa phê phán nhẹ nhàng, hài hước nhưng không kém phần sâu sắc. Đây là một truyện ngụ ngôn điển hình. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN.

<span class='text_page_counter'>(122)</span> Câu 1. Hãy nêu cách các ông thầy bói xem voi và phán về voi. Thái độ của các thầy bói khi phán như thế nào? (a. Cách xem voi của năm ông thầy bói là dùng tay để sờ: Thầy thì sờ vòi, thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy thì sờ chân, thầy thì sờ đuôi. Thầy nào sờ được bộ phận nào thì nhận xét về hình thù con voi như thế. Thầy sờ vào vòi cho rằng nó sun sun giống con đỉa. Thầy sờ vào ngà bảo nó chần chẫn như cái đòn càn. Thầy sờ vào tai khăng khăng nó bè bè như cái quạt thóc. Thầy sờ vào chân voi thì cãi: Nó sừng sững như cái cột đình. Bốn nhận định của bốn thầy khác xa nhau nên thầy này phủ nhận ý kiến của thầy kia. Thầy thứ năm sờ vào cái đuôi thì phủ nhận tất cả bốn thầy trước: Các thầy nói không đúng cả. Chính nó tun tủn như cái chổi sể cùn. Dựa trên thực tế mà mình “xem” được, mỗi thầy đều đưa ra nhận xét về hình thù con voi bằng hình thức ví von, so sánh. Điều đó làm cho truyện thêm sinh động và có tác dụng tô đậm sai lầm trong cách xem voi và “phán” về voi của các thầy. b. Thái độ của các thầy bói khi “phán” về voi: - Cả năm thầy bói đều “phán” sai về voi nhưng ai cũng khẳng định chỉ có mình là đúng và phủ nhận triệt để ý kiến của người khác. Đó là thái độ chủ quan sai lầm. - Cái sai nọ dẫn đến cái sai kia, cả năm thầy không ai chịu ai, cãi vã thành ra xô xát. Ở đây, truyện sử dụng thủ pháp nghệ thuật phóng đại để tô đậm sai lầm về kiểu “lí sự” cũng như thái độ của các thầy bói xem voi.) Câu 2. Năm thầy bói đều đã được sờ voi thật và mỗi thầy cũng đã nói được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ nào? (- Năm thầy bói đều được sờ voi thật và mỗi thầy đều nói đúng một bộ phận của voi nhưng không ai nói đúng về con voi cả. Sai lầm của họ là mỗi.

<span class='text_page_counter'>(123)</span> người chỉ sờ được vào một bộ phận của con voi mà đã nhất quyết cho rằng đó là toàn bộ con voi. Điều đáng buồn cười là các thầy bói đều sai nhưng ai cũng cho mình là đúng. Thực ra, họ đều sai lầm trầm trọng bởi vì đã lấy nhận xét chủ quan về một chi tiết của sự vật để khẳng định, đánh giá về toàn thể sự vật và phủ nhận ý kiến của người khác. Năm thầy đều chung một cách xem voi phiến diện và cách đánh giá chủ quan. - Truyện không nhằm chế giễu cái “mù” về thể chất (đây chỉ là chi tiết cần có của tình huống truyện), mà muốn nói đến cái “mù” về nhận thức và phương pháp nhận thức của các thầy bói. Cao hơn thế, truyện phê phán những người làm nghề xem bói (Thầy bói nói càn). Tiếng cười trong truyện nhẹ nhàng nhưng cũng rất thâm thuý.) Câu 3. Truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi cho ta bài học gì? (Truyện là màn hài kịch ngắn nhưng chứa đựng một bài học bổ ích. Người xưa muốn thông qua truyện để nhắc nhở mọi người là khi giao tiếp, vấn đề nào hiểu chưa thấu đáo thì không nên thể hiện quan điểm của mình. Không thể nào có được một nhận thức đúng đắn về thực tế xung quanh (hiện tượng, sự việc, sự vật, con người) nếu ta không tìm hiểu đầy đủ, kĩ càng. Muốn kết luận đúng về sự vật thì phải xem xét nó một cách toàn diện. Những hiểu biết hời hợt, nông cạn, những suy đoán mò mẫm thiếu thực tế... chỉ dẫn đến nhận thức lệch lạc, sai lầm mà thôi. Qua truyện, người xưa còn ngầm phê phán những kẻ thiếu hiểu biết nhưng lại hay tỏ ra thông thái. Ý nghĩa này được gói gọn trong câu thành ngữ: Thầy bói xem voi.) III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP Kể một số ví dụ của em hoặc của các bạn về những trường hợp mà em hoặc các bạn đã nhận định, đánh giá sự vật hay con người một cách sai lầm theo kiểu Thầy bói xem voi và hậu quả của những đánh giá sai lầm này..

<span class='text_page_counter'>(124)</span> (* Tham khảo ví dụ dưới dây: Lớp 6B có bạn Minh cùng tuổi với chúng em nhưng thân hình to lớn hơn nhiều. Chúng em đặt tên cho cậu ta là “Minh béo”. Cậy có sức khỏe vô địch nên “Minh béo” nghênh ngang lắm, lúc véo tai bạn này, lúc đá đít bạn kia, lúc giật tóc bạn nọ... Thấy không ai dám phản ứng lại, cậu ta càng vênh váo tợn. Một hôm, lớp em nhận một thành viên mới ở trường khác chuyển về. Đó là Oanh, cô bé có dáng dấp mảnh khảnh, đôi mắt rất sáng và vẻ mặt hiền lành. Tan học, “Minh béo” giở trò ma cũ bắt nạt ma mới, đứng trước cửa lớp dang tay chắn lối, không cho Oanh về. Mấy bạn gái xôn xao, lo sợ Oanh sẽ bị “Minh béo” dằn mặt. Đám con trai hồi hộp chờ xem thái độ của Oanh ra sao. Oanh nhìn thẳng vào mặt “Minh béo”, nhỏ nhẹ nói: - Bạn hãy tránh ra cho tôi đi! “Minh béo” trừng mắt: - Làm gì có chuyện lạ ấy! Có giỏi thì cứ thử đi qua xem nào! Mấy bạn trai thì thầm đánh cuộc với nhau là Oanh có dám đương đầu với “Minh béo” hay không. Hùng nói có, Tiến nói không. Tiến khẳng định Oanh bé tí thế kia thì làm sao chống lại “Minh béo”, khác nào “châu chấu đá voi”. Không khí ngột ngạt, căng thẳng. Oanh vẫn giữ vẻ mặt bình thản và từ tốn nhắc lại lời đề nghị một lần nữa. “Minh béo” hung hăng khiêu khích: - Sao? Sợ rồi hả nhóc? Sợ thì ta tha cho! Bỗng nhiên “huỵch” một cái, cu cậu ngã lăn ra đất. Oanh đã hạ “Minh béo” bằng một thế võ karatê nhanh như chớp. Mọi người ồ lên kinh ngạc. Thật là bất ngờ ngoài sức tưởng tượng! Oanh cười nhẹ:.

<span class='text_page_counter'>(125)</span> - Xin lỗi bạn, mình chẳng muốn thế đâu! Mình chỉ muốn nhắc bạn là không nên cậy khỏe bắt nạt yếu, vậy thôi! “Minh béo” đỏ mặt xấu hổ. Chắc cậu ta đã được một bài học thấm thía. Chúng em đưa mắt nhìn nhau như muốn nói: “Thấy chưa? Oanh bé mà bé hạt tiêu đấy! Chớ có coi thường!”. Từ nay trở đi, chắc “Minh béo” không dám nghĩ rằng ở lớp này, mình là người mạnh nhất.) ĐEO NHẠC CHO MÈO (Truyện ngụ ngôn) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Truyện kể về cuộc họp mặt của làng chuột để bàn cách chống mèo. Chuột Cống có sáng kiến lạ lùng là đeo nhạc cho mèo để mèo đi đến đâu, chuột sẽ biết trước mà tránh, cả làng chuột đồng tình với sáng kiến đó nhưng không ai dám đi đeo nhạc vào cổ mèo. Cuối cùng, chuột vẫn cứ bị mèo ăn thịt và mãi mãi khiếp sợ mèo. Thông qua truyện, người xưa muốn phản ánh đôi nét về hiện thực của cuộc sống đương thời dưới xã hội phong kiến trì trệ và đầy mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai cấp bị trị. Đồng thời đặt ra bài học thiết thực về mối quan hệ giữa lí thuyết với thực hành; giữa nói và làm trong mọi công việc lớn nhỏ của cuộc sống hằng ngày. Nếu lí thuyết không thể biến thành hiện thực thì đó chỉ là thứ lí thuyết suông, làm tốn thời gian tranh cãi, bàn bạc một cách vô ích. * Truyện khai thác triệt để đặc trưng nghệ thuật của truyện ngụ ngôn: nhân hóa loài vật, mượn chuyện loài vật để nói chuyện loài người. Cách kể chuyện hài hước và thú vị. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Hãy tóm tắt truyện, dựa vào mấy ý sau: - Lí do cuộc họp làng chuột;.

<span class='text_page_counter'>(126)</span> - Cảnh họp làng chuột lúc đầu và sáng kiến “đeo nhạc cho mèo”; - Cảnh họp làng chuột lúc cử người “đeo nhạc cho mèo”. - Kết quả việc cử người và thực hiện sáng kiến. (- Xưa nay, loài chuột bị mèo giết hại đã nhiều. Chúng bèn họp nhau lại, bàn cách để chống mèo. - Cuộc họp của “làng dài răng” rất đông đủ. Chuột Cống đưa ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo để khi mèo đến gần, chuột biết đường mà chạy trốn, cả làng chuột đồng thanh ưng thuận sáng kiến ấy. - Tìm được nhạc rồi, hội đồng chuột lại họp. Mọi người lao xao, hớn hở nhưng khi cử người đi đeo nhạc vào cổ mèo thi cả làng đùn đẩy nhau, ông Cống có lí sự của ông cống, anh Nhắt có lí sự của anh Nhắt. Cuối cùng, chuột Chù đầy tớ làng - đành phải nhận việc. - Do nhút nhát nên vừa trông thấy mèo, chuột Chù đã cắm đầu chạy, cả làng chuột cũng bỏ chạy tán loạn. Rút cuộc, chuột vẫn sợ mèo.) Câu 2. Cảnh họp làng chuột lúc đầu và lúc cử người “đeo nhạc cho mèo” rất đối lập nhau. Hãy chỉ ra và nêu ý nghĩa của những chi tiết đối lập ấy. (- Lúc đầu, cảnh họp làng chuột rất có khí thế. Làng hội đủ cả, từ người có “vai vế” cao nhất như ông Cống đến kẻ thấp hơn nhưng vẫn thuộc hàng “chiếu trên” như anh Nhắt, rồi tới đầy tớ làng như anh Chù. Tất cả đều thán phục và đồng thanh ưng thuận sáng kiến của ông cống, hớn hở nghĩ đến ngày chuột không còn bị mèo làm hại. - Lúc cử người đi đeo nhạc cho mèo thì cả làng chuột im phăng phắc, không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Không khí nặng nề, sợ hãi bao trùm. Không ai dám nhận công việc nguy hiểm ấy nên sự phân công thành chuyện đùn đẩy, né tránh, bắt ép kẻ dưới..

<span class='text_page_counter'>(127)</span> - Ý nghĩa: Những chi tiết đối lập ấy chứng tỏ sự hèn nhát của hội đồng chuột. “Hội đồng chuột” là hội đồng của những sáng kiến hăng hái nhưng viển vông (không kẻ nào dám và có thể thực hiện được sáng kiến đưa ra cho nên sáng kiến hoá thành “tối kiến”.) Câu 3. Em có nhận xét gì việc tả các loại chuột trong truyện. Phải chăng mỗi loại chuột ám chỉ một loại người nào đó trong xã hội cũ? (a. Việc tả các loại chuột trong truyện rất sinh động, đặc sắc: - Trước hết là tả các loại chuột trong làng chuột nói chung: Làng chuột được gọi là làng dài răng (tả rất đúng về mặt sinh học của loài gặm nhấm cũng như bản chất phá hoại của chuột). Khi đồng thanh ưng thuận, cả làng chuột phấn chấn dẩu mõm, quật đuôi; lúc sợ hãi thì cả hội đồng im phăng phắc, không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Tai không nhích vì giả vờ như... chưa nghe thấy gì; răng không nhe vì... sợ phải lên tiếng, sợ bị chú ý. - Tả “vai” nào ra “vai” ấy bằng cách gọi từng loại chuột theo tên gọi dân gian của chúng, kết hợp với những câu ví cùng với lối chơi chữ đồng âm khác nghĩa (ông Cống, chuột Cống). b. Từng loại chuột ứng với từng loại người bị ám chỉ (từ tên gọi đến bộ dạng, hành động, ngôn ngữ, tính cách). Ông Cống là bậc vai vế trong làng (lí trưởng) có quyền xướng việc và sai khiến. Chú Nhắt tuy bé cũng là bậc đàn anh (địa chủ, lính lệ) lại là người nhanh nhảu, láu lỉnh. Anh Chù thân phận thấp kém (mõ làng, cùng đinh) chỉ để cho làng sai bảo và phải nhận những việc khó khăn, nguy hiểm).) Câu 4. Trong cuộc họp của làng chuột, ai có quyền xướng việc và sai khiến? Ai phải nghe theo và nhận những việc khó khăn, nguy hiểm? (Cuộc họp của làng chuột chẳng khác gì cuộc họp của hội đồng làng xã ở nông thôn Việt Nam thời phong kiến..

<span class='text_page_counter'>(128)</span> - Quyền xướng việc, sai bảo thuộc về các vị tai to mặt lớn, có vai vế, quyền lực trong làng (ông cống). Khi các vị đã phán, dù là chuyện viển vông, dân chỉ biết phục là chí lí và đồng thanh ưng thuận, có nghĩa là nhất nhất phải nghe theo. - Những việc khó khăn, nguy hiểm cuối cùng đều đùn đẩy cho những đầy tớ của làng (anh Chù). Họ không được nói, không biết cãi ra sao, đành phải nhận. - Truyện ngầm phê phán những cuộc họp bàn việc làng của những kẻ đứng đầu làng xã thời trước. Những điều đưa ra bàn bạc thường viển vông, hão huyền. Những kẻ tai to mặt lớn trong làng đều là những kẻ đạo đức giả, ham sống sợ chết, trút hết khó khăn, nguy hiểm cho những người dân thấp cổ bé họng. Đó cũng chính là ý nghĩa của thành ngữ Hội đồng chuột mà dân gian thường sử dụng.) Câu 5. Mục đích chính của truyện ngụ ngôn là khuyên nhủ, răn dạy con người ta bài học nào đó trong cuộc sống. Truyện Đeo nhạc cho mèo đưa ra bài học gì? (a. Truyện phê phán những ý tưởng vu vơ, hão huyền, không thực tế; những hành động phiêu lưu mạo hiểm không bao giờ thực hiện được. Sáng kiến của chuột Cống mới nghe qua có vẻ hay ho và được cả làng chuột đồng thanh ưng thuận nhưng rốt cuộc không giải quyết được việc gì. Làm sao chuột lại có thể đeo nhạc cho mèo khi từ trước đến nay chưa trông thấy mèo, chỉ mới nghe thấy tiếng, chuột đã chết khiếp?! b. Bài học mà truyện đặt ra nhắc nhở chúng ta tính thực tiễn, tính khả thi trong dự định và kế hoạch về một điều cụ thể nào đó. - Phê phán những đại diện chóp bu của xã hội phong kiến cũ, những kẻ đạo đức giả thường đùn đẩy và bắt ép kẻ dưới phải nhận những việc khó khăn, nguy hiểm.).

<span class='text_page_counter'>(129)</span> III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP Phân tích, đánh giá tính cách chuột cống. (* Tham khảo bài viết dưới đây: Đeo nhạc cho mèo là một chuyện ngụ ngôn hài hước, thú vị chứa đựng ý nghĩa xã hội sâu sắc. Truyện kể về cuộc họp lạ lùng của làng chuột để bàn cách chống mèo. Chuột Cống nêu ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo để mèo đi đến đâu, chuột sẽ biết trước mà tránh. Cả họ nhà chuột đồng tình với sáng kiến đó nhưng không ai dám nhận việc đeo nhạc vào cổ mèo. Cuối cùng, chuột vẫn bị mèo ăn thịt và mãi mãi khiếp sợ mèo. Truyện có nhiều nhân vật, nhưng nổi bật nhất là hình ảnh chuột cống đại diện cho những kẻ chỉ biết nói mà không biết làm; đưa ra lí thuyết nhưng không thể nào thực hiện được lí thuyết ấy trong cuộc sống. Chuột Cống (loại chuột lớn nhất) vốn tự cho mình là thông minh hơn cả. Nó đã đưa ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo: Cái giống quái kia sở dĩ nó chụp được anh em mình chỉ vì trời phú cho nó cái tài rình mò và khéo bắt lén mà thôi. Bây giờ, bà con ta nên mua một cái nhạc buộc vào cổ nó, để khi nào nó đến, nghe tiếng nhạc, ta biết đường chạy trước, thì nó còn làm gì nổi ta nữa. Chuột Cống nêu nguyên nhân vì sao mèo hại được chuột, rồi đưa ra cách giải quyết thật nhẹ nhàng và khẳng định chắc chắn là mèo không còn làm gì nổi loài chuột nữa. Lời lẽ của chuột Cống mới nghe qua thấy rất hợp lí. Mèo thường rình chuột rất kín đáo và vồ chuột bất ngờ nên chuột không sao tránh kịp. Bây giờ đeo nhạc (lục lạc) vào cổ mèo thì mèo đi đến đâu, tiếng nhạc sẽ vang lên, báo cho chuột biết đường mà trốn cho kĩ. Ý kiến của chuột Cống hay ho tới mức xua tan được nỗi sợ hãi bấy lâu và khơi dậy niềm hi vọng thoát khỏi nanh vuốt của mèo, khiến cả làng chuột nghe nói, dẩu mõm, quật đuôi, đều lấy làm phục cái câu chí lí của ông Cống và đồng thanh ưng thuận..

<span class='text_page_counter'>(130)</span> Vậy là sáng kiến của chuột Cống đã được tán đồng. Bước một (lí thuyết) đã xong, nhạc cũng đã kiếm được rồi, hội đồng chuột lại họp để bàn bạc cử người đi đeo nhạc vào cổ mèo (bước hai - thực hành). Nực cười thay, lúc hội đồng chuột hỏi ai dám đem nhạc đeo vào cổ mèo, tức là thực hiện cái sáng kiến tuyệt vời ấy thì cả hội đồng im phăng phắc, không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Trái ngược với lúc nghe chuột Cống nói, làng chuột con nào con nấy dẩu mõm, quật đuôi, lao xao, hớn hở. Những chi tiết đối lập này có ý nghĩa mỉa mai, châm biếm sâu sắc. Không ai tự nguyện nhận công việc vô cùng nguy hiểm đến tính mạng ấy nên làng chuột đành cử ông Cống phải đi, vì chính ông Cống đã xướng lên cái thuyết đeo nhạc vậy. Mọi người cho rằng chuột Cống nói được ắt phải làm được. Đây là điều bất ngờ với chuột Cống vì nó cho rằng mình chỉ đưa ra cách chống mèo thôi, còn thực hiện ắt phải là kẻ khác. Cho nên nghe vậy, Cống ta trong lòng tuy nao (lo sợ), mà ngoài mặt làm ra bộ bệ vệ kẻ cả, nói rằng: Tôi đây, chẳng gì nhờ tổ ấm cũng được vào bậc ông Cống, ông Nghè, ăn trên ngồi trước trong làng, có đâu làng lại cắt tôi đi làm cái việc tầm thường ấy được! Trong làng ta nào có thiếu chi người! Tôi xin cử anh Nhắt, anh ấy nhanh nhảu chắc làm được việc. Chuột Cống tinh ranh vin ngay vào chức vị của mình (kẻ trên), nêu ra sự bất xứng giữa chức vị ấy với công việc tầm thường (đeo nhạc vào cổ mèo) và vội vàng đùn đẩy phần nguy hiểm sang cho kẻ khác (đề cử chuột Nhắt). Đáng cười ở chỗ lúc nêu ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo, chuột Cống cho đây là đại sự (việc lớn), đến túc bị làng cắt cử phải làm, chuột Cống lại từ chối khéo với lí do đó là việc tầm thường, không xứng với địa vị, chức tước, tài năng của mình. Thông qua nhân vật chuột Cống, truyện ngầm phê phán cách suy nghĩ viển vông và đưa ra bài học thiết thực đối với mỗi người. Trước khi làm gì, ta nên suy xét, cân nhắc cho thật kĩ khả năng thực hiện vấn đề đó. Truyện còn phê.

<span class='text_page_counter'>(131)</span> phán những kẻ tham sống sợ chết, chỉ dám nói mà không dám làm, những lúc khó khăn nguy hiểm thì vội vàng trút hết trách nhiệm cho kẻ khác.) DANH TỪ (Tiếp theo) I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Phân loại danh từ: Các loại Đặc DANH điểm nghĩa TỪ. ý. DANH TỪ CHỈ ĐƠN VỊ Nêu tên đơn vị dùng để tính đếm, đo lường sự vật.. Nêu tên từng loại hoặc từng cá thể người, vật, hiện tượng, khái niệm.. QUY ƯỚC. Các. TỰ. nhóm. NHIÊN. Chính xác. chiếc,. lít, ki-lô-. con.... gam.... Ví dụ. DANH TỪ CHỈ SỰ VẬT. Ước. CHUNG. RIÊNG. chim, nhà,. Sài Gòn,. bàn.... Hà Nội.... chừng mớ, bó.... * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Tìm danh từ chung và danh từ riêng trong câu sau: Ngày xưa, / ở / miền / đất / Lạc Việt, / cứ / như / bây giờ / là / Bắc Bộ / nước / ta, / có / một / vị / thần / thuộc / nòi / rồng, / con trai / thần / Long Nữ, / tên / là / Lạc Long Quân. (Con Rồng, cháu Tiên) (Các danh từ chung và danh từ riêng: - Các danh từ chung: Ngày xưa, miền, đất, nước, thần, nòi, rồng, con trai, tên. - Các danh từ riêng: Lạc Việt, Bắc Bộ, Long Nữ, Lạc Long Quân..

<span class='text_page_counter'>(132)</span> * Câu 2. Các từ được in đậm dưới đây có phải là danh từ riêng không? Vì sao? a) Chim, Mây, Nước và Hoa đều cho rằng tiếng hót kì diệu của Họa Mi đã làm cho tất cả bừng tỉnh giấc. (Võ Quảng) b) Nàng út bẽn lẽn dâng lên vua mâm bánh nhỏ. (Nàng Út làm bánh ót) c) [...] Khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy. (Thánh Gióng) (Các từ được in đậm: a. Chim, Mây, Nước, Hoa, Họa Mi b. Út c. Cháy đều là những danh từ riêng vì chúng được dùng để gọi tên riêng của một sự vật, một con người cá biệt, duy nhất chứ không phải dùng để gọi tên chung một loại sự vật, một loại người.) * Câu 3. Có bạn chép đoạn thơ sau đây của nhà thơ Tố Hữu mà quên viết hoa một số danh từ riêng. Em hãy viết lại các danh từ riêng ấy cho đúng. Ai đi Nam Bộ Tiền giang, hậu giang Ai vô thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng..

<span class='text_page_counter'>(133)</span> Ai về thăm bưng biền đồng tháp Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc pháp Nơi chôn nhau cắt rốn của ta! Ai đi Nam - Ngãi, Bình - Phú, Khánh Hoà Ai vô Phan Rang, Phan Thiết Ai lên tây nguyên, công tum, đắc lắc Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền trung Ai về với quê hương ta tha thiết Sông hương, bến hải, cửa Tùng... Ai vô đó với đồng bào, đồng chí Nói với Nửa - Việt nam yêu quý Rằng: nước ta là của chúng ta Nước việt nam dân chủ cộng hoà! (Đoạn thơ được viết lại như sau là đúng: Ai đi Nam Bộ Tiền Giang, Hậu Giang Ai vô thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng. Ai về thăm bưng biền Đồng Tháp Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp Nơi chôn nhau cắt rốn của ta! Ai đi Nam - Ngãi, Bình - Phú, Khánh Hoà.

<span class='text_page_counter'>(134)</span> Ai vô Phan Rang, Phan Thiết Ai lên Tây Nguyên, Công Tum, Đắc Lắc Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền Trung Ai về với quê hương ta tha thiết Sông Hương, Bến Hải, cửa Tùng... Ai vô đó với đồng bào, đồng chí Nói với Nửa - Việt Nam yêu quý Rằng: nước ta là của chúng ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!) * Câu 4. Chính tả (nghe - viết): Ếch ngồi đáy giếng (cả bài). (Chính tả: Viết đúng các chữ l/n và vần - ênh, - êch.). LUYỆN NÓI KỂ CHUYỆN * Tham khảo dàn ý và bài viết một số đề dưới đây: ĐÊ 1: Kể lại một chuyến về quê. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu chung về chuyến thăm quê: - Em được về thăm quê vào dịp nào? Đi với ai? Quê em ở đâu? 2. Thân bài: * Diễn biến của chuyến đi: - Trên đường đi. - Kể chuyện về cảnh đẹp và cảnh sinh hoạt ở quê em..

<span class='text_page_counter'>(135)</span> 3. Kết bài: - Cảm nghĩ của em về chuyến đi. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm). ĐỀ 2: Kể về một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu chung về cuộc đi thăm: - Thời gian, thành phần tham dự, đối tượng được thăm. 2. Thân bài: * Kể lại diễn biến cuộc đi thăm: - Mục đích cuộc đi thăm. - Các sự việc cụ thể trong buổi thăm viếng: hỏi thăm sức khỏe, tặng quà, giúp đỡ một số việc cần thiết... - Thái độ, tình cảm của người đến thăm và người được thăm. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em về cuộc thăm viếng đó: - Hiểu rõ thêm về đạo lí của dân tộc ta. - Biết ơn và quan tâm thường xuyên đối với những gia đình có công với cách mạng... II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm). ĐỀ 3: Kể về một cuộc đi thăm di tích lịch sử.

<span class='text_page_counter'>(136)</span> I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu hoàn cảnh cuộc đi: - Ai tổ chức? Đi vào dịp nào? Thăm di tích nào? 2. Thân bài: * Diễn biến cuộc đi thăm: - Tả lại cảnh đẹp mà em đã đến thăm. - Kể lại những chi tiết thú vị nhất trong chuyến đi. 3. Kết bài: * Nêu cảm nghĩ của em vể chuyến đi đó: - Gắn bó hơn với bạn bè, người thân. - Hiểu và yêu thêm quê hương, đất nước. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm.) ĐỀ 4: Kể về một chuyến ra thăm thành phố. I. DÀN Ý *1. Mở bài: * Giới thiệu hoàn cảnh chuyến đi: - Em đạt danh hiệu Học sinh giỏi. - Được ba cho đi tham quan thành phố Đà Lạt mấy ngày. 2. Thân bài: * Tả cảnh hai bên đường: - Rừng cao su bát ngát....

<span class='text_page_counter'>(137)</span> - Phong cảnh rừng núi nên thơ. * Tả cảnh thành phố Đà Lạt: - Cảnh thành phố bồng bềnh trong mây... - Cảnh thác nước... - Cảnh nhà hàng có thức ăn đặc sản... - Cảnh hồ Xuân Hương... - Cảnh chợ trung tâm thành phố... 3. Kết bài: * Cảm xúc của em về chuyến đi: - Thú vị, bất ngờ... - Mở mang hiểu biết về cảnh đẹp đất nước. II. BÀI LÀM Hè vừa qua, ba cho em đi chơi Đà Lạt năm ngày. Đó là phần thưởng ba dành cho em vì em đã cố gắng học tập và đạt được danh hiệu Học sinh giỏi. Ba em chuẩn bị rất đầy đủ cho chuyến đi này. Từ mấy hôm trước, ba đã mua vé ở Trung tâm du lịch Lửa Việt. Sáng thứ sáu, mẹ ra tận nơi xe đậu, tiễn hai cha con lên đường. Trên xe đã gần đủ người, anh lái xe nhấn còi báo hiệu cho khách biết rằng sắp tới giờ xe chạy. Đúng 5 giờ 30 phút, xe rời bến. Thành phố lúc sớm mai thật quang đãng, mát mẻ. Trên đường, người và xe cộ còn thưa thớt. Ra khỏi thành phố, xe rẽ ra quốc lộ 1 và bắt đầu tăng tốc. Em ngồi ghế sát cửa sổ nên tha hồ ngắm phong cảnh hai bên đường. Chẳng mấy chốc, xe đã tới ngã ba đi Đà Lạt. Từ đây, quốc lộ 20 uốn mình chạy giữa một màu xanh bát ngát của những rừng cao su nối tiếp nhau. Đây đó,.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> những tốp công nhân đang chăm chú cạo mủ ở thân cây. Những dòng nhựa trắng tuôn ra đục như màu sữa. Phong cảnh hai bên đường mỗi lúc một khác. Chiếc xe lên dốc, xuống đèo liên tục. Có những đèo rất cao và dài hàng chục cây số. Anh lái xe bình tĩnh và khéo léo lái xe qua những chặng đường cheo leo, nguy hiểm, một bên là núi cao, một bên là vực sâu. Hành khách tỏ vẻ rất yên tâm, hoàn toàn trông cậy vào tay lái thành thạo của anh. Một số người ngả đầu vào thành ghế ngủ ngon lành. Ba giờ chiều, xe đã tới địa phận thành phố Đà Lạt, điểm du lịch nổi tiếng cả nước. Từ xa, em đã nhìn thấy những đồi thông nhấp nhô trong nắng. Anh lái xe dừng lại cho hành khách chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thác Pren. Nước từ trên cao xối xuống như một tấm thảm khổng lồ. Tiếng thác đổ đều đều, triệu triệu bụi nước li ti óng ánh bảy sắc cầu vồng. Càng tiến vào gần thành phố, khung cảnh càng hấp dẫn hơn. Ồ! Quả là một cảnh tượng lạ lùng bày ra trước mắt như trong một câu chuyện thần tiên nào đó. Thành phố bồng bềnh trong mây. Giữa rừng thông, thấp thoáng những ngôi nhà mái nhọn, lợp ngói đỏ tươi trông như những lâu đài huyền bí. Nửa giờ sau, xe đỗ trước cửa khách sạn Anh Đào. Khách sạn nhỏ nhưng xinh đẹp và đầy đủ tiện nghi. Bữa ăn đầu tiên, cha con em được thưởng thức những món ăn cao nguyên như thịt heo rừng nướng vỉ, thịt bò xào hành tây... thật là ngon miệng. Đêm hôm ấy, em kéo chiếc chăn bông lên tận cổ và đánh một giấc thật say bên cạnh ba. Suốt mấy ngày ở đây, em được đi thăm rất nhiều cảnh đẹp của Đà Lạt như: hồ Xuân Hương, thác Cam Ly, đồi Cù, đồi thông hai mộ, thung lũng tình yêu, hồ Đa Thiện, thiền viện Trúc Lâm... Ba chụp cho em rất nhiều ảnh. Em thích nhất là kiểu cưỡi ngựa trên đỉnh đồi, dưới gốc thông cổ thụ..

<span class='text_page_counter'>(139)</span> Tới công viên thành phố, em vui sướng vịn vai chú gấu đen khổng lồ nhồi bông ngay gần cổng để cho ba chụp ảnh. Em say mê ngắm chim, ngắm thú quên cả thời gian. Rồi ba đưa em đi chợ Đà Lạt. Em sững sờ trước sự phong phú, tươi đẹp của các loài hoa xứ lạnh: hồng nhung, lay-ơn, thược dược, cẩm chướng và bao nhiêu loại cúc khác nhau. Trái cây cũng thật hấp dẫn: mận, đào, dâu tây, cam, bơ, nho, táo... thứ gì cũng ngon, cũng rẻ. Ba em mua mấy hộp mứt dâu và một túi xách đầy những trái bơ sắp chín. Chắc mẹ và bé Hồng rất thích. Mấy ngày tham quan trôi qua vùn vụt, Đã tới lúc tạm biệt Đà Lạt, trở về với mái ấm gia đình. Lúc xe rời bến, em thò đầu ra cửa sổ, lưu luyến vẫy chào những rừng thông, ngọn núi, con đường, những thung lũng mờ sương, những mái nhà xinh xắn và những vườn hoa rực rỡ... Tạm biệt nhé, Đà Lạt! Hẹn mùa hè sang năm, em sẽ quay trở lại! Chuyến đi thú vị đã mở mang tầm hiểu biết của em về đất nước, con người. Đất nước mình đâu đâu cũng đẹp như tranh và con người thật nhân hậu, hiếu khách!. Bài 11. * Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng * Cụm danh từ * Trả bài Tập làm văn số 2 * Luyện tập xây dựng bài tự sự - Kể chuyện đời thường CHÂN, TAY, TAI, MẮT, MIỆNG (Truyện ngụ ngôn) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT.

<span class='text_page_counter'>(140)</span> * Truyện kể về hành động dại dột của Chân, Tay, Tai, Mắt vì suy bì, ganh tị với Miệng mà bảo nhau đồng loạt không làm việc, để cho Miệng tự kiếm lấy miếng ăn. Hành động nông nổi thiếu suy nghĩ ấy dẫn đến hậu quả tai hại là làm cho cả bọn mệt mỏi, rã rời. Hiểu ra sai lầm, tất cả kéo nhau đến giảng hoà với Miệng. Rồi ai tiếp tục làm việc nấy, mọi người lại sống hòa thuận như xưa. Thông qua truyện, người xưa ngầm khẳng định: Trong xã hội, trong một tập thể, mọi người đều có liên quan chặt chẽ với nhau; không ai có thể tách rời khỏi cộng đồng. Chỉ có đoàn kết, nương tựa lẫn nhau mới có thể tạo nên sức mạnh. Nếu chia rẽ sẽ dẫn tới suy yếu, diệt vong. Do đó, mọi người phải biết gắn bó, hợp tác và tôn trọng công sức của nhau. * Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ rất đặc trưng của truyện ngụ ngôn. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Vì sao cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay, bác Tai so bì với lão Miệng? (Cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay và bác Tai so bì với lão Miệng vì họ cho rằng họ phải làm việc mệt nhọc quanh năm, còn lão Miệng chẳng làm gì cả, chỉ ngồi ăn không. Rõ ràng là nếu chỉ nhìn bề ngoài thì thấy: Mắt phải nhìn, Tai phải nghe, Chân phải đi, Tay phải làm để phục vụ cho Miệng; riêng Miệng không làm gì thì lại được hưởng thụ tất cả. Bốn nhân vật trên so bì, ganh tị với Miệng vì chưa nhìn ra được bản chất của sự việc là nhờ Miệng nhai nuốt thức ăn mà toàn bộ cơ thể được nuôi dưỡng khỏe mạnh.) Câu 2. Truyện mượn các bộ phận của cơ thể người để nói chuyện con người. Có thể ví cơ thể người như một tổ chức, một cộng đồng, v.v... mà Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng là những cá nhân trong tổ chức, cộng đồng đó. Từ mối quan hệ này, truyện nhằm khuyên nhủ, răn dạy con người điều gì? (Từ mối quan hệ gắn bó giữa các nhân vật, truyện ngụ ngôn này đã khéo léo đặt ra bài học cho con người:.

<span class='text_page_counter'>(141)</span> - Trong cuộc sống, một cá nhân không thể tồn tại nếu tách rời khỏi cộng đồng. Mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng là hết sức quan trọng và cần thiết. - Truyện tuy ngắn gọn nhưng là lời khuyên khôn ngoan và thiết thực về quan niệm sống: Mình vì mọi người, mọi người vì mình, bởi suy nghĩ, hành động, và cách ứng xử của cá nhân không chỉ tác động đến bản thân mà còn ảnh hưởng chung đến cả cộng đồng, tập thể. - Điều thú vị là qua truyện ngụ ngôn này, ông cha ta đã khẳng định: Trong xã hội, mỗi người có một năng lực, một trình độ khác nhau, do đó sự phân công công việc và cách thức đóng góp cũng khác nhau. Không nên suy bì, tị nạnh một cách nông nổi, thiếu suy nghĩ dẫn đến hậu quả xấu, ảnh hưởng đến lợi ích chung. Bên cạnh việc đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau, mỗi thành viên phải tự giác làm việc, cống hiến hết sức mình cho cả cộng đồng, Có như vậy cuộc đời sẽ ngày càng tốt đẹp hơn.) CỤM DANH TỪ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần nắm được thế nào là cụm danh từ và đặc điểm của nó. * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Tìm các cụm danh từ trong những câu sau: a) Vua cha yêu thương Mị Nương hết mực, muốn kén cho con một người chồng thật xứng đáng. (Sơn Tinh, Thủy Tinh) b) [...] Gia tài chỉ có một lưỡi búa của cha để lại. (Thạch Sanh).

<span class='text_page_counter'>(142)</span> c) Đại bàng nguyên là một con yêu tinh ở trên núi, có nhiều phép lạ. (Thạch Sanh) (Các cụm danh từ có trong câu: a) một người chồng thật xứng đáng b) một lưỡi búa của người cha để lại c) một con yêu tinh ở trên núi, có nhiều phép lạ * Chú ý: Phần in đậm là danh từ trung tâm.) * Câu 2. Chép các cụm danh từ nói trên vào mô hình cụm danh từ. Mô hình của các cụm danh từ trong bài tập trên như sau: Phần trước t2. Phần trung tâm. Phần sau. t1 một. T1 người. T2 chồng. s1 thật xứng đáng. một. lưỡi. búa. của cha để lại. một. con. yêu tinh. ở trên núi, có nhiều phép lạ. s2. * Câu 3. Tìm phụ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống trong phần trích sau: Khi kéo lưới lên, thấy nằng nặng, Lê Thận chắc mẩm được mẻ cá to. Nhưng khi thò tay vào bắt cá, chàng chỉ thấy có một thanh sắt. Chàng vứt luôn thanh sắt... xuống nước, rồi lại thả lưới ở một chỗ khác. Lần thứ hai cất lưới lên cũng thấy nặng tay, Thận không ngờ thanh sắt... lại chui vào lưới mình. Chàng lại ném nó xuống sông. Lần thứ ba, vẫn thanh sắt... mắc vào lưới. (Theo Sự tích Hồ Gươm) (Các thể điền các phụ ngữ sau đây vào các chỗ trống: - Chàng vứt luôn thanh sắt ấy xuống nước. - Thận không ngờ thanh sắt vừa rồi lại chui vào lưới mình..

<span class='text_page_counter'>(143)</span> - Lần thứ ba, vẫn thanh sắt cũ mắc vào lưới.) TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 2 Hãy đối chiếu bài viết của em theo các yêu cầu sau: 1. Việc xảy ra đã được kể đủ rõ chưa? (Ai làm, việc gì, thời gian, địa điểm, nguyên nhân, diễn biến, kết quả). 2. Bài tập làm văn của em có đủ các phần Mở bài, Thân bài và Kết bài chưa? 3. Trong bài em đã sử dụng ngôi kể nào và kể theo thứ tự nào? 4. Em kể chuyện này nhằm mục đích gì? Bài văn đã đạt mục đích chưa? 5. Hãy sửa lại các lỗi chính tả, các từ dùng sai, các câu viết sai ngữ pháp do thầy, cô giáo yêu cầu sửa. 6. Giọng văn trong bài có phù hợp với nội dung của câu chuyện kể không? LUYỆN TẬP XÂY DỰNG BÀI TỰ SỰ KỂ CHUYỆN ĐỜI THƯỜNG I. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH LÀM MỘT BÀI VĂN KỂ CHUYỆN Kể chuyện là dựng lại cho người đọc, người nghe câu chuyện về một hay nhiều người, một hay nhiều việc nào đó mà họ chưa biết, giúp họ hình dung ra và rung cảm với câu chuyện. Muốn làm tốt một bài văn kể chuyện, cần thực hiện theo các bước sau: 1. Phải xây dựng được một cốt truyện hợp lí và hấp dẫn: Cốt truyện là một chuỗi sự việc và hành động chính diễn ra liên tiếp, cốt truyện gồm: - Phần trình bày. - Phần thắt nút. - Phần phát triển..

<span class='text_page_counter'>(144)</span> - Phần cao trào (điểm đỉnh). - Phần mở nút. Trong cốt truyện, các sự việc phải được liên kết với nhau một cách chặt chẽ, được sắp xếp theo một trình tự hợp lí. Đồng thời, cốt truyện phải hấp dẫn người đọc, người nghe. 2. Có nhân vật mang diện mạo, tính cách rõ nét: Các nhân vật trong truyện gồm nhân vật chính và nhân vật phụ. Dù chính hay phụ, mỗi nhân vật đều được miêu tả bằng những chi tiết cụ thể, sinh động, gắn chặt với cốt truyện. Dó đó mỗi nhân vật có một diện mạo riêng và đặc điểm riêng về mặt tính cách. 3. Chọn cho truyện một ý nghĩa xã hội nhất định: (khen, chê...). Ý nghĩa truyện phải toát ra từ cốt truyện và nhân vật. Ý nghĩa của truyện càng sâu sắc thì truyện càng có giá trị. * Lưu ý: - Muốn kể lại câu chuyện đã học hoặc đã đọc, người kể phải nhớ cốt truyện với những tình tiết chủ yếu của nó. Sau đó lập dàn bài và viết thành bài văn. - Muốn kể lại câu chuyện về người thực, việc thực, cần nắm vững về người hoặc sự việc mình sẽ kể: Sự việc diễn ra vào lúc nào? ở đâu? Nhân vật chính của câu chuyện là ai? Làm gì? Làm như thế nào? Kết thúc câu chuyện ra sao?... II. DÀN Ý CHUNG CỦA MỘT BÀI VĂN KỂ CHUYỆN 1. DẠNG THỨ NHẤT Kể lại một câu chuyện có sẵn. * Mở bài:.

<span class='text_page_counter'>(145)</span> - Giới thiệu: tên truyện, thời gian, không gian, nhân vật,... * Thân bài: - Kể tuần tự các diễn biến trong truyện theo trình tự từng đoạn một, từ trước đến sau. * Kết bài: - Nêu cảm nghĩ về truyện vừa kể: (Cảm nghĩ chân thực, ngắn gọn, tự nhiên). 2. DẠNG BÀI THỨ HAI Kể chuyện về người thực, việc thực * Mở bài: - Giới thiệu thời gian, địa điểm xảy ra câu chuyện, nhân vật chính. * Thân bài: - Kể phần mở đầu câu chuyện: Hoàn cảnh dẫn đến sự việc và sự xuất hiện của nhân vật chính. - Kể phần diễn biến chính của câu chuyện theo trình tự thời gian: Việc gì xảy ra trước kể ra trước, xảy ra sau kể sau. Miêu tả các hoạt động của nhân vật chính và phụ cũng theo trình tự thời gian. - Kể phần kết thúc của câu chuyện: Kết thúc như thế nào? xấu hay tốt? * Kết bài: - Cảm nghĩ của bản thân về câu chuyện vừa kể. Có thể rút ra được bài học gì từ câu chuyện trên ? III. THAM KHẢO DÀN Ý VÀ BÀI VIẾT MỘT SỐ ĐỀ DƯỚI ĐÂY: ĐẾ 1: Kể về một kỉ niệm đáng nhớ của em (được khen, bị chê, gặp rủi ro, bị hiểu lầm...)..

<span class='text_page_counter'>(146)</span> I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu tình huống bị điểm kém: - Vì chủ quan, thiếu cẩn thận trong khi làm bài kiểm tra. 2. Thân bài: * Nhớ lại cảm xúc của mình lúc đó: - Hồi hộp khi nhận bài cô trả. - Sững sờ khi bị điểm kém, cảm thấy xấu hổ. - Bình tĩnh tìm hiểu lí do. - Suy nghĩ, tự phân tích về sai lầm của mình. 3. Kết bài: * Rút ra bài học: - Quyết tâm phấn đấu để không mắc sai lầm nữa. II. BÀI LÀM Em nhớ mãi tiết trả bài hôm ấy. Giờ phút ngỡ ngàng và đau khổ nhất đối với em từ khi bước vào lớp 6, bởi vì em đã bị một điểm 3 môn Làm văn. Cô Thanh trả bài kiểm tra cho lớp. Em không thể tin vào mắt mình: một điểm 3 to tướng! Em bất ngờ và choáng váng trước sự thật phũ phàng ấy. Không, không thể như vậy được! Em định thần nhìn lại nhưng con số 3 in rõ trong khung điểm như giễu cợt em. Em vội vàng gập bài vào rồi nhìn các bạn xung quanh. Hình như bạn nào cũng hớn hở với kết quả của mình, chẳng ai để ý đến nỗi đau khổ của em. Có lẽ các bạn nghĩ rằng em đang sung sướng với điểm khá giỏi như mọi lần vì em là cây Văn của lớp cơ mà! Càng nghĩ càng xấu hổ, em cúi gầm mặt xuống. Dòng chữ cô phê như hiện lên rõ ràng trước mắt em: Lạc đề!.

<span class='text_page_counter'>(147)</span> Em đọc lại đề bài và nhận ra đúng là mình sai thật. Đề bài yêu cầu tả một dòng sông (một cánh đồng hay một góc phố...) gắn với những kỉ niệm thời thơ ấu, vậy mà em lại đi kể về một kỉ niệm sâu sắc thời nhỏ. Đề bài đó đối với em không khó. Nhớ lại giờ làm bài hôm ấy, em đã nộp bài đầu tiên trước bao cặp mắt thán phục của bạn bè, quên mất lời cô nhắc nhở: Các em phải xem lại bài thật kĩ trước khi nộp. Có lẽ do ỷ vào sức học của mình, và thỏa mãn trước lời khen của thầy cô, bè bạn nên em đã nhiễm thói xấu chủ quan, hợm hĩnh từ lúc nào chẳng biết. Đúng lúc ấy, bạn Hà thì thầm bên tai em, giọng mừng rỡ: - Lan ơi, hôm nay tớ được 7 điểm nhé! Cố mãi rồi mình cũng đạt điểm khá rồi đây. Mẹ tớ chắc mừng lắm... ủa! Mà sao mặt cậu tái thế kia? Được mấy điểm? Cho tớ xem nào! Nghe Hà nói, em lại càng buồn bã và xấu hổ. Hà đang sung sướng với điểm 7 đầu tiên của môn Làm văn. Còn em, kẻ vẫn coi điểm 7 là xoàng xĩnh thì hôm nay lại bị điểm 3! Không thể nào diễn tả hết nỗi đau khổ của em lúc ấy. Em cảm thấy ánh mắt cô giáo nhìn em vừa ngạc nhiên, vừa khó hiểu: “Sao lại thế hả Lan? Cô rất buồn...”. Trên đường về, đôi chân em nặng trĩu bởi nỗi buồn bã và lo lẳng. Bố mẹ tin tưởng ở em nhiều lắm. Nếu biết em bị 3 điểm môn Làm văn thì bố mẹ sẽ nghĩ gì đây? Bố thường động viên em học cho giỏi và mong rằng sau này em cũng sẽ trở thành một luật sư như bố. Còn mẹ, biết bao đêm mẹ ngồi đan len, cố chờ em học và làm xong bài mới cùng đi ngủ. Mẹ cũng chỉ mong có một điều là con gái mẹ học giỏi. Không thể làm cho bố mẹ thất vọng. Em sẽ giấu bài đi, sẽ nói rằng cô giáo không chấm vì cả lớp làm bài kém quá... Quanh quẩn với ý nghĩ dối trá ấy, em đã về đến nhà lúc nào không biết..

<span class='text_page_counter'>(148)</span> Em vừa về đến cổng, thì mẹ đã vội vàng đón em. Ánh mắt mẹ chợt hoảng hốt khi thấy em có vẻ bơ phờ mệt mỏi. Em đã ôm chầm lấy mẹ và bật khóc tức tưởi. Không, em không thể lừa dối người mẹ yêu quý của mình! Tối hôm ấy, em đã xem kĩ lại bài. Điểm 3 như một lời cảnh báo và nhắc nhở em hãy nhìn lại mình. Em tự nhủ: “Nhất định chỉ có một điểm 3 này thôi. Mình sẽ tìm lại những điểm 9, điểm 10 cùng ánh mắt tin cậy của cha mẹ, thầy cô và bè bạn”. ĐỀ 2: Kể về một người bạn mới quen (cùng lớp, do hoạt động văn nghệ, thể thao mà quen,…) và nêu rõ tính tình của bạn ấy. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu chung: - Tên tuổi, nơi ở của người bạn. 2. Thân bài: * Kể về bạn: - Kể lại một số chi tiết trong hình dáng, tính cách của bạn và tình bạn giữa em với người bạn đó. - Kể về tình cảm của em đối với bạn. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Cố gắng giữ mãi tình bạn chân thành và gắn bó. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm). ĐỂ 3: Kể về những đổi mới ở quê em (có điện, có đường, có trường học mới...)..

<span class='text_page_counter'>(149)</span> I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu chung: - Quê em ở đâu? - Cảnh đổi mới ở quê em là cảnh gì? (Bộ mặt của quê hương nói chung). 2. Thân bài: * Kể về những sự đổi mới của quê hương: - Đường sá: Những con đường đất lồi lõm, nắng bụi mưa lầy giờ đây đã được tráng xi-măng phẳng phiu, sạch sẽ. Cây trồng hai bên đường đang lên xanh tốt. - Trường học: Ngôi trường Tiểu học cũ kĩ ở đầu làng đã được thay thế bằng ngôi trường mới xây hai tầng khang trang, đẹp đẽ. - Trạm y tế xã nằm trong một khu vườn rợp mát, đủ phương tiện chữa những bệnh thông thường cho bà con nông dân. - Đường điện cao thế đã về đến làng. Có điện, mọi hoạt động của xóm làng thay đổi hẳn: (máy xay xát gạo, máy bơm nước...). Nhiều nhà có tivi, quạt điện, cuộc sống ngày càng văn minh. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Rất vui trước sự thay đổi lớn lao của quê hương. - Cố gắng học tập thật tốt để mai sau góp phần xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm)..

<span class='text_page_counter'>(150)</span> ĐỀ 4: Kể vể thầy giáo (hoặc cô giáo), người đã quan tâm, to lắng và giúp đỡ I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu nhân vật: - Cô Phương, giáo viên chủ nhiệm hồi em học lớp 5. - Giữa cô và em có nhiều kỉ niệm khó quên. 2. Thân bài: * Kể về cô giáo: - Cô Phương là người thành phố, được phân công về dạy ở trường em (ở vùng ven). - Cô rất yêu thương học sinh, thường quan tâm đến những bạn có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có em. - Những lúc em buồn, cô động viên an ủi. - Cô mua cho em sách bút, tập vở. Cuối năm, em đạt danh hiệu Học sinh tiên tiến; cô Phương tặng em một chiếc cặp sách rất đẹp. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Xúc động trước sự quan tâm giúp đỡ chân thành của cô. - Yêu mến, biết ơn và kính trọng cô. - Ao ước sau này cũng trở thành một giáo viên giỏi và tận tụy như cô. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm.) ĐỀ 5: Kể về một người thân của em (ông, bà, bố, mẹ, anh, chị,...).

<span class='text_page_counter'>(151)</span> I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu nhân vật: - Bà nội yêu quý của em. 2. Thân bài: * Những phẩm chất tốt đẹp của bà: - Bà hết lòng nuôi dạy các con. - Bà thương yêu các cháu, chăm sóc các cháu tận tình. - Bà thuộc nhiều ca dao, cổ tích... - Bà thường ao ước được về thăm quê. 3. Kết bài: * Tình cảm của các cháu đối với bà: - Yêu mến, kính trọng, mong bà khỏe mạnh, sống lâu. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm.) ĐỀ 6: Kể về một cuộc gặp gỡ (đi thăm các chú bộ đội, gặp các thiếu niên vượt khó,…) I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu chung về cuộc đi thăm: - Thời gian, thành phần, đối tượng thăm: (Sáng chủ nhật, thầy giáo dẫn cả lớp đi thăm doanh trại của bộ đội biên phòng...). 2. Thân bài:.

<span class='text_page_counter'>(152)</span> * Kể lại diễn biến cuộc đi thăm: - Mục đích: Giao lưu, gặp gỡ. - Các sự việc cụ thể diễn ra trong buổi thăm viếng: Chuyện trò, tham quan doanh trại, liên hoan văn nghệ... - Thái độ, tình cảm của người đến thăm và người được thăm: cởi mở, thân tình... 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Rất vui vì được gặp gỡ và giao lưu với các chú bộ đội. - Hiểu thêm về đời sống và kỉ luật của quân đội. - Biết ơn các chú bộ đội đang nắm chắc tay súng bảo vệ Tổ quốc. II. BÀI LÀM (Học sinh tự làm.). Bài 12. * Treo biển * Lợn cưới, áo mới * Số từ và lượng từ * Viết bài Tập làm văn số 3 * Kể chuyện tưởng tượng TREO BIỂN (Truyện cười) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT.

<span class='text_page_counter'>(153)</span> * Truyện kể về ông chủ một cửa hàng bán cá đã lâu, một hôm treo tấm biển: Ở đây có bán cá tươi. Nội dung tấm biển được một số người qua đường góp ý theo cách “nghĩ gì nói nấy”, ông chủ nghe theo, cứ bỏ dần từng chữ và cuối cùng thì cất luôn tấm biển. * Mượn câu chuyện ngụ ngôn về ông chủ cửa hàng bán cá ai nói gì cũng nghe theo, truyện tạo nên tiếng cười vui vẻ, có ý nghĩa phê phán nhẹ nhàng những người thiếu chủ kiến trong cuộc sống, không suy xét kĩ khi nghe những ý kiến khác nhau. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Nội dung tấm biển treo ở cửa hàng “Ở đây có bán cá tươi" có mấy yếu tố? Vai trò của từng yếu tố? (Tấm biển treo ở cửa hàng “Ở đây có bán cá tươi” có bốn yếu tố, thông báo bốn nội dung: - Ở đây: thông báo địa điểm cửa hàng. - Có bán: thông báo hoạt động của cửa hàng. - Cá: thông báo loại mặt hàng. - Tươi: thông báo chất lượng hàng. Bốn yếu tố, bốn nội dung đó là cần thiết cho một tấm biển quảng cáo bằng ngôn ngữ.) Câu 2. Có mấy người “góp ý” về cái biển để ở cửa hàng bán cá? Em có nhận xét gì về từng ý kiến? (Có bốn người góp ý về tấm biển. Mỗi người bảo ông chủ bỏ bớt một yếu tố trong dòng chữ đề trên biển. Người đầu tiên bảo:.

<span class='text_page_counter'>(154)</span> - Nhà này xưa quen bán cá ươn hay sao mà bây giờ phải đề biển là cá tươi? Sự đối lập giữa tươi và ươn đã đánh vào lòng tự ái của ông chủ nên ông ta vội xoá bỏ chữ TƯƠI đi. Tấm biển còn dòng chữ: ở ĐÂY có BÁN CÁ. Người thứ hai đến mua cá, nhìn tấm biển, cười bảo: - Người ta chẳng nhẽ ra hàng hoa mua cá hay sao, mà phải đề là ở ĐÂY? Nghe thế, ông chủ vội xoá hai chữ ấy đi. Dòng chữ còn lại là: có BÁN CÁ. Vài hôm sau, người khách khác đến mua cá, cũng cười bảo: - Ở đây chẳng bán cá thì bày cá ra khoe hay sao mà phải đề là có BÁN? Ngẫm cũng có lí, ông chủ xóa liền hai chữ có BÁN. Rốt cuộc, tấm biển còn mỗi chữ CÁ. Chẳng cứ ông chủ cửa hàng mà đến chính người đọc, người nghe cũng tưởng rằng đến đây thì chẳng còn gì để góp ý nữa nhưng người thứ tư lại bảo: - Chưa đi đến đầu phố đã ngửi thấy mùi tanh, đến gần nhà thấy đầy những cá, ai chẳng biết là bán cá, còn đề biển làm gì nữa? Vậy thì tấm biển treo lên là thừa, là vô ích, chủ nhà bèn cất luôn tấm biển. Thoạt nghe, ta tưởng ý kiến của từng người đều có lí nhưng nghĩ kĩ thì hóa ra không phải. Bởi vì, người góp ý không hiểu được chức năng, ý nghĩa của yếu tố mà họ cho là thừa và mối quan hệ giữa nó với những yếu tố khác. Mỗi người đều lấy sự hiện diện của mình ở cửa hàng và sự trực tiếp được nhìn, ngửi, xem xét mặt hàng thay cho thông báo gián tiếp vốn là chức năng, đặc điểm của ngôn ngữ. Vì vậy, họ chỉ quan tâm đến một hoặc hai từ mà họ cho là quan trọng, chứ không thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của các từ ngữ khác trong câu.) Câu 3. Đọc truyện này, những chi tiết nào làm em cười? Khi nào cái đáng cười bộc lộ rõ nhất? Vì sao?.

<span class='text_page_counter'>(155)</span> (Đọc truyện này, ta thấy cứ mỗi lần có người góp ý là ông chủ cửa hàng không cần suy nghĩ, vội làm theo ngay. Ta cười vì thái độ tiếp thu thụ động, không suy xét cẩn thận của ông ta. Ta cười vì ông ta không hiểu mục đích treo biển để làm gì và những điều viết trên biển có ý nghĩa gì. Kết thúc truyện cũng là lúc tiếng cười vang lên bởi vì ý kiến của từng người mới nghe qua tưởng là có lí nhưng làm theo thì kết quả cuối cùng lại thành phi lí. Ta bật cười vì trên đời này có lẽ không có ông chủ nào lại nghe góp ý theo kiểu “đẽo cày giữa đường” như thế.) Câu 4. Hãy nêu ý nghĩa của truyện? (Từ truyện này, chúng ta rút ra bài học: Trong cuộc sống, chúng ta nên lắng nghe lời góp ý của mọi người nhưng không nên vội vàng làm theo khi chưa suy xét kĩ. Làm bất cứ việc gì cũng phải đặt ra mục đích, phải có chủ kiến và biết tiếp thu một cách chọn lọc, sáng tạo ý kiến của người khác để vận dụng thiết thực vào hoàn cảnh của mình. Trước khi làm, nên đặt ra câu hỏi: Làm việc ấy để làm gì? Làm như thế nào? Qua truyện này, chúng ta cũng rút ra bài học về cách sử dụng từ ngữ. Từ dùng phải có nghĩa, có thông tin cần thiết, không dùng từ thừa và thiếu. Từ được sử dụng phải ngắn gọn, rõ ràng, chính xác, đem lại hiệu quả cao nhất trong giao tiếp.) LỢN CƯỚI, ÁO MỚI (Truyện cười) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Truyện kể về cuộc tranh tài bất ngờ và thú vị giữa hai anh chàng cùng có tính hay khoe, mà của đem khoe chẳng đáng là bao. Một anh khoe con lợn cưới bị sổng chuồng và một anh khoe chiếc áo mới may..

<span class='text_page_counter'>(156)</span> Thông qua đó, truyện chế giễu những người có tính hay khoe. Tính xấu ấy thường biến họ thành trò cười cho thiên hạ. * Lợn cưới, áo mới là một trong những truyện cười đặc sắc của kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam. Truyện ngắn gọn như một màn hài kịch nhỏ nhưng có đủ nhân vật, mâu thuẫn và tình huống bất ngờ, thú vị. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Em hiểu thế nào về tính khoe của? Anh đi tìm lợn khoe của trong tình huống như thế nào? Lẽ ra, anh phải hỏi người ta ra sao? Từ “cưới” (lợn cưới) có phải là từ thích hợp để chỉ con lợn bị sổng và là thông tin cần thiết cho người được hỏi không? (a. Tính khoe của là tính thích tỏ ra, trưng ra cho mọi người biết là mình giàu có. Đây là thói xấu thường thấy ở nhiều người. Nó biểu hiện qua cách ăn mặc, nói năng, giao tiếp, cách trang sức và xây cất, bài trí nhà cửa lố lăng, kệch cỡm... b. Anh đi tìm lợn khoe của trong một hoàn cảnh đặc biệt: lúc nhà anh ta đang có việc lớn (chuẩn bị làm đám cưới), mà con lợn để làm cỗ cưới lại bị sổng mất, nghĩa là trong lúc việc nhà đang bận bịu và bối rối, một tình huống tưởng như người mất lợn không còn tâm trí nào để khoe khoang. c. Khi đi tìm lợn, lẽ ra anh ta chỉ cần hỏi: Bác có thấy con lợn của tôi chạy qua đây không? Hoặc nói rõ con lợn ấy là lợn gì, to hay nhỏ, trắng hay đen, thì anh ta lại hỏi: Bác có thấy con lợn CƯỚI của tôi chạy qua đây không? Câu hỏi thừa từ cưới, vì từ cưới không phải là từ thích hợp để chỉ đặc điểm bên ngoài của con lợn bị sổng và cũng không phải là thông tin cần thiết đối với người được hỏi. Người được hỏi không cần biết con lợn ấy được dùng vào việc gì (đám cưới hay đám tang), thế nhưng nó lại rất quan trọng đối với anh đi tìm lợn vì nó là cái cớ để anh ta khoe đám cưới to của mình. Thành ra câu hỏi của anh ta vừa có mục đích tìm lợn, vừa có mục đích khoe của, nhưng để khoe của là chính.).

<span class='text_page_counter'>(157)</span> Câu 2. Anh có áo mới thích khoe của đến mức nào? Điệu bộ của anh ta khi trả lời có phù hợp không? Hãy phân tích yếu tố thừa trong câu trả lời của anh ta. (a. Anh có áo mới cũng thích khoe của đến mức vừa may được cái áo, không đợi đến ngày lễ, ngày Tết, hay đi chơi mới mặc mà đem ra mặc ngay. Tính thích khoe của đã biến anh ta thành trẻ con (Già được bát canh, trẻ được manh áo mới). Nhưng trẻ con thích khoe áo mới thì đó là lẽ thường tình bởi chúng ngây thơ, trong sáng; còn nhân vật trong truyện cười này mặc áo mới với mục đích là để khoe của. b. Cách khoe áo của anh ta cũng thật buồn cười: đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi qua người ta khen. Vì nôn nóng khoe áo mới mà anh ta đã đứng mãi từ sáng tới chiều, kiên nhẫn đợi để khoe bằng được. Đợi mãi chẳng thấy ai hỏi đến, anh ta tức lắm. Đang lúc cụt hứng vì không tìm được ai để mà khoe áo mới thì anh chàng mất lợn chạy tới hỏi thăm. Mừng như bắt được vàng, anh có áo mới vội giơ ngay vạt áo ra để khoe và trả lời rằng: Từ lúc tôi mặc CÁI ÁO MỚI này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả. Đúng ra, anh ta chỉ cần đáp là có nhìn thấy hay không nhìn thấy, nhưng anh ta lại cố tình khoe áo mới cả bằng điệu bộ lẫn lời nói. Đấy là những yếu tố thừa nhưng lại là nội dung, mục đích thông báo chính của anh ta.) Câu 3. Đọc truyện Lợn cưới, áo mới vì sao em lại cười? (Đọc truyện, chúng ta bật cười vì nhiều lẽ: - Trước hết là về hành động, lời nói của nhân vật, của đem khoe chẳng đáng là bao, chỉ là chiếc áo, con lợn mà vẫn thích khoe. (Đây cũng chính là đặc điểm của loại người này). Sau đó là lời khoe và cách khoe đều sống sượng và trơ trẽn. - Tác giả dân gian đã tạo ra cuộc ganh đua gay cấn trong việc khoe của giữa hai nhân vật. Người đi tìm lợn sống mà cứ nhấn mạnh là lợn cưới. Kẻ lẽ ra.

<span class='text_page_counter'>(158)</span> phải trả lời là không thấy lợn thì lại cố đưa thêm cái áo mới của mình vào. Những chi tiết trái tự nhiên, không hợp với lẽ thường xuất hiện, khiến cho tiếng cười chế giễu vang lên. - Anh áo mới đứng hóng ở cửa, kiên nhẫn đợi suốt từ sáng đến chiều mà vẫn chưa khoe được áo. Đang tức tối thì lại bị anh lợn cưới khoe của trước. Anh áo mới đã không bỏ lỡ cơ hội cả ngày chỉ có một lần để khoe áo trước mặt anh lợn cưới. Kết thúc bất ngờ của truyện tạo cảm giác buồn cười và thú vị cho người đọc.) Câu 4. Hãy nêu ý nghĩa của truyện Lợn cưới, áo mới. (Truyện Lợn cưới, áo mới phê phán tính hay khoe của, một tính xấu khá phổ biến trong xã hội. Tính xấu ấy đã biến nhân vật thành trò cười cho mọi người.) SỐ TỪ VÀ LƯỢNG TỪ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần hiểu được ý nghĩa, công dụng của số từ, lượng từ, từ đó biết cách dùng hai loại từ này cho tốt. * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Tìm số từ trong bài thơ sau. Xác định ý nghĩa của các số từ ấy. KHÔNG NGỦ ĐƯỢC Một canh... hai canh... lại ba canh Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành; Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt, Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh. (Hồ Chí Minh).

<span class='text_page_counter'>(159)</span> (Số từ trong bài thơ KHÔNG NGỦ ĐƯỢC: một, hai, ba, bốn, năm (canh) - Các số từ này có ý nghĩa chỉ số lượng và thứ tự của sự vật: - Chỉ số lượng: Một canh, hai canh, lại ba canh - Chỉ thứ tự: Canh bốn, canh năm...) * Câu 2. Các từ in đậm trong hai dòng thơ sau dược dùng với ý nghĩa như thế nào? Con đi trăm núi, ngàn khe Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm. (Tố Hữu) (Trong hai câu thơ trên, các từ trăm, ngàn, muốn có ý nghĩa chỉ số nhiều không đếm xuể.) * Câu 3. Qua hai ví dụ sau, em thấy nghĩa của các từ từng và mỗi có gì khác nhau? a) Thần dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi [...]. (Sơn Tinh, Thủy Tinh) b) Một hôm bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng rút lui mỗi người một ngả. (Sự tích Hồ Gươm) (Qua hai ví dụ, ta thấy: Hai từ từng và mỗi khác nhau ở chỗ: - Từ từng hàm ý việc bốc đổi, dời núi diễn ra không cùng một lúc mà làm xong việc này mới tiếp đến việc kia. - Từ mỗi (thường đi kèm với một thành 1 cặp từ) hàm ý chỉ sự việc diễn ra cùng một lúc (mọi người chạy cùng một lúc nhưng mỗi người một ngả). * Câu 4. Chính tả (nghe - viết): Lợn cưới, áo mới (cả bài)..

<span class='text_page_counter'>(160)</span> (Học sinh tự làm). VIẾT BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 3 (Làm tại lớp) Có thể chọn một trong bảy đề bài nêu ở mục 1 phần Luyện tập: Xây dựng bài tự sự - kể chuyện đời thường. a) Kể về một kỉ niệm đáng nhớ (được khen, bị chê, gặp may, gặp rủi, bị hiểu lầm,...) b) Kể về một chuyện vui trong sinh hoạt (như nhận lầm, nhát gan,...). c) Kể về người bạn mới quen (do cùng hoạt động văn nghệ, thể thao mà quen, nêu rõ tính tình của bạn,...). d) Kể về một cuộc gặp gỡ (đi thăm các chú bộ đội, gặp các thiếu niên vượt khó,...). đ) Kể về những đổi mới ở quê em (có điện, có đường, có trường mới,...). e) Kể về thầy giáo (cô giáo) của em (người quan tâm, lo lắng và động viên em học tập). g) Kể về một người thân của em (ông bà, bố mẹ, anh chị,...) Em hãy tìm thêm một, hai đề văn tự sự cùng loại và ghi vào vở. (Bài viết chỉ ra một đề; yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề và lập dàn ý trước khi xây dựng văn bản. (Có thể dựa vào cách làm một số đề trước đó để tham khảo). KỂ CHUYỆN TƯỞNG TƯỢNG I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần hiểu những đặc điểm và cách thức kể chuyện tưởng tượng. * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK..

<span class='text_page_counter'>(161)</span> II. TÌM HIỂU CHUNG VỀ KỂ CHUYỆN TƯỞNG TƯỢNG Câu 1. Kể tóm tắt truyện ngụ ngôn Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng và cho biết trong truyện người ta đã tưởng tượng ra những gì? Trong truyện tưởng tượng này, chi tiết nào dựa vào sự thật, chi tiết nào được tưởng tượng ra? (a. Tóm tắt cốt truyện: Chân, Tay, Tai, Mắt suy bì, tị nạnh với lão Miệng là lão chẳng phải làm gì mà lại được ăn. Cả bọn không chịu làm việc, để cho lão Miệng chết đói. Sau vài ngày, bọn Chân, Tay, Tai, Mắt thấy mỏi mệt. Chúng mới vỡ lẽ ra rằng nếu Miệng không được ăn thì chúng cũng không có sức. Chúng xin lỗi lão Miệng và đi kiếm thức ăn cho lão. Cuối cùng, cả bọn lại sống hòa thuận như xưa. b. Trong truyện này, các bộ phận của cơ thể người được tưởng tượng thành những nhân vật riêng biệt và được gọi bằng bác, cô, cậu, lão. Mỗi nhân vật đều có nhà riêng. Truyện ngụ ngôn Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng là truyện được đặt ra hoàn toàn bằng trí tưởng tượng. Tình huống truyện được đặt ra như là một giả thiết, để cuối cùng đi đến kết luận: cơ thể là một khối thống nhất, miệng có nhai nghiền thức ăn thì các bộ phận khác mới khỏe mạnh. Các chi tiết tưởng tượng nhằm làm nổi bật một sự thật hiển nhiên: sống trong xã hội, mọi người phải đoàn kết, nương tựa vào nhau; nếu tách rời nhau thì không thể tồn tại được.) Câu 2. Đọc các truyện sau và suy nghĩ về cách kể một câu chuyện tưởng tượng. Truyện thứ nhất: SÁU CON GIA SÚC SO BÌ CÔNG LAO (LỤC SÚC TRANH CÔNG). Truyện thứ hai: GIẤC MƠ TRÒ CHUYỆN VỚI LANG LIÊU. (* Truyện tưởng tượng là những truyện do người kể nghĩ ra bằng trí tưởng tượng, không có sẵn trong sách vở hay trong thực tế, nhưng chứa đựng một ý nghĩa nhất định nào đó. Trong thực tế làm gì có sáu con gia súc so bì công lao,.

<span class='text_page_counter'>(162)</span> nhưng người kể đã tưởng tượng ra truyện Lục súc tranh công để so bì, khẳng định: ai cũng có công việc, có phần đóng góp của mình, không nên so bì, tị nạnh thiệt hơn. Trong truyện này, tác giả dân gian đã tưởng tượng ra: + Sáu con gia súc biết nói tiếng người. + Sáu con gia súc kể công và kể khổ. - Những chi tiết tưởng tượng ấy dựa trên đặc điểm và công việc cụ thể của mỗi giống vật trong cuộc sống hằng ngày của con người. - Tưởng tượng như vậy nhằm mục đích khẳng định các giống vật tuy khác biệt nhưng đều có ích cho con người, không nên so bì, tị nạnh lẫn nhau. * Truyện Giấc mơ trò chuyện với Lang Liêu: Trong truyện, người kể tưởng tượng ra: - Một cô bé ngày Tết đang nấu bánh chưng thì được gặp Lang Liêu thời Hùng Vương. - Cô bé hỏi Lang Liêu về chuyện chàng được thần mách bảo cách làm bánh dâng vua cha. Tưởng tượng như vậy nhằm mục đích vừa giải thích nguồn gốc của hai loại bánh chưng, bánh giầy vừa phản ánh thành tựu của nền văn minh nông nghiệp buổi đầu dựng nước với thái độ đề cao lao động, đề cao nghề nông và thể hiện sự tôn kính trời đất, tổ tiên của nhân dân ta. * Truyện tưởng tượng được kể ra một phần dựa vào những điều có thật, rồi tưởng tượng thêm cho kì ảo, thú vị để làm cho ý nghĩa thêm nổi bật.). III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP Tìm ý và lập dàn bài cho một trong các đề văn sau:.

<span class='text_page_counter'>(163)</span> ĐỀ 1: Hãy tưởng tượng cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh trong điều kiện ngày nay với máy xúc, máy ủi, xi-măng cốt thép, máy bay trực thăng, điện thoại di động, xe lội nước... I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu chung: - Nhắc lại nguồn gốc mối thù dai dẳng giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. - Thời gian xảy ra cuộc giao chiến. (Ví dụ: Mùa lũ năm 2005 ở đồng bằng sông Hồng.). 2. Thân bài: * Tả cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh: + Khung cảnh trước trận đất: - Bầu trời tối đen, chớp rạch loang loáng, sấm nổ đì đùng... - Sơn Tinh bình tĩnh chuẩn bị mọi phương tiện hiện đại để sẵn sàng đánh trả. + Trong trận đấu: - Thủy Tinh hóa phép hô gió gọi mưa. Giông tố nổi lên ầm ầm, mưa như trút. Nước sông Hồng dâng lên cuồn cuộn đe dọa phá vỡ đê... - Sơn Tinh bày binh bố trận, phối hợp chặt chẽ các lực lượng và phương tiện để chống đỡ, đẩy lùi các đợt tấn công của Thủy Tinh. + Kết thúc trận đấu: - Sau nhiều ngày đêm giao tranh, Thủy Tinh thua trận phải rút quân về. - Nhân dân vui mừng trước thắng lợi to lớn, càng tin tưởng vào tài năng và đức độ của Sơn Tinh..

<span class='text_page_counter'>(164)</span> 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh phản ánh ước mơ chế ngự thiên nhiên, chiến thắng thiên tai của người xưa. - Cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác, đó là chân lí, là ước mơ ngàn đời của nhân dân ta. II. BÀI LÀM Ngày xửa ngày xưa, Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một người chồng thật xứng đáng. Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người tên là Sơn Tinh, chúa tể của miền non cao, tài nghệ phi thường. Chàng vẫy tay về phía Đông, phía Đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía Tây, phía Tây mọc lên từng dãy núi đồi. Một người tên là Thủy Tinh, chúa tể của vùng nước thẳm, có tài gọi gió, gió đến, hô mưa, mưa về. Hai người đều xứng đáng làm rể vua Hùng nhưng vua Hùng chỉ có một người con gái, băn khoăn không biết gả cho ai. Cuối cùng, vua đành phán rằng: “Sáng mai, ai đến trước thì sẽ được cưới Mị Nương”. Sơn Tinh mang đủ sính lễ theo yêu cầu của vua Hùng: Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi. Vua Hùng ưng ý, cho Sơn Tinh rước Mị Nương về núi Tản Viên. Vì đến muộn nên khônq lấy được vợ, Thủy Tinh giận dữ, đùng đùng đuổi theo. Chàng hóa phép gây ra mưa to gió lớn, dâng nước sông lên cao hòng nhấn chìm đồng ruộng, núi đồi. Sơn Tinh chiến đấu kiên cường. Cuối cùng, Thủy Tinh sức kiệt thua trận, ôm mối hận tình. ... Mối thù từ ngàn xưa cho đến giờ Thủy Tinh vẫn không quên. Mùa lũ năm 2005, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh hòng cướp lấy Mị Nương..

<span class='text_page_counter'>(165)</span> Gần một tuần nay, những đám mây xám xịt che kín mặt trời. Tiếng sấm nổ ran. Ánh chớp nhoang nhoáng xé rách bầu trời u ám. Từ thượng nguồn, nước lũ đổ về cuồn cuộn, cuốn phăng mọi thứ bắt gặp trên đường. Sông Hồng sục sôi sóng đỏ, giống như một con ngựa bất kham đang tung bờm phi nước đại. Nước dâng mấp mé mặt đê, con đê khổng lồ chạy dọc theo sông, làm nhiệm vụ ngăn nước lũ để bảo vệ mùa màng. Mặc cho Thủy Tinh điên cuồng, hung hãn báo thù, Sơn Tinh vẫn bình tĩnh chống trả bằng mọi lực lượng và phương tiện hiện đại. Trên chiếc trực thăng đặc biệt do đại bàng cầm lái đang bay là là gần mặt sông, Sơn Tinh dùng ống nhòm quan sát, phát hiện ra những chỗ Thủy Tinh tập trung nhiều quân nhất để tấn công phá vỡ thân đê. Thôi thì đủ cả thuồng luồng, ba ba, binh tôm, tướng cá... đàn đàn lũ lũ hùng hổ kéo sau Thủy Tinh, tưởng sẽ nhấn chìm đất Phong Châu trong biển nước. Sơn Tinh sáng suốt chỉ huy trận đánh qua máy bộ đàm. Hàng trăm chiếc máy xúc, máy ủi sẵn sàng chờ lệnh, ở những quãng đê xung yếu, người đông như kiến, hối hả khiêng đất, khiêng đá và móc các khối bê tông đúc sẵn vào cần cẩu. Hàng chục chiếc cần cẩu giống như những cánh tay bằng thép khổng lồ làm việc không biết mệt. Chỉ sau một thời gian, dãy xà lan có sức chứa hàng ngàn tấn đã được xếp đầy đất đá để dùng cho việc vá đê nếu chẳng may đê bị vỡ. Trên mặt sông, hàng chục xe lội nước dàn hàng ngang, rà lưới sát đáy sông, bắt sống vô số quân tướng của Thủy Tinh, khiến cho hàng ngũ bị rối loạn, mất tinh thần chiến đấu. Cho đến lúc này, dẫu Thủy Tinh đã trổ hết tài nhưng con đê sông Hồng vẫn sừng sững như bức tường thành không gì tàn phá nổi. Hễ Thủy Tinh dâng nước cao bao nhiêu thì Sơn Tinh lại hóa phép nâng con đê lên cao bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà Thủy Tinh thì sức cùng lực kiệt, bại trận đành rút quân về. Khắp mặt đất rộn ràng tiếng trống chiêng và tiếng reo hò mừng chiến thắng. Bầu trời lại xanh trong, chan hòa ánh nắng. Cây cối xanh tươi trở lại, chim.

<span class='text_page_counter'>(166)</span> chóc líu lo, muông thú tưng bừng mở hội. Người người hân hoan và càng thêm tin tưởng vào tài đức tuyệt vời của Sơn Tinh - vị thần ngự trên đỉnh Tản Viên hùng vĩ. Suốt mấy ngàn năm qua, năm nào Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng chưa bao giờ thắng nổi. Tuy vậy, Thủy Tinh không nguôi mối hận thù, hằng năm cứ đến tháng bảy, tháng tám lại ra tay... Sơn Tinh – Thủy Tinh là một truyền thuyết đẹp và hay vào bậc nhất trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Truyện phản ánh ước mơ chế ngự được thiên tai của người xưa đồng thời cũng nêu lên chân lí: cái thiện cuối cùng sẽ chiến thắng cái ác. Có như thế thì cuộc đời mới càng ngày càng trở nên tốt đẹp. ĐỀ 2: Trong nhà em có ba phương tiện giao thông: xe đạp, xe máy và ôtô. Chúng cãi nhau, so bì hơn thua kịch liệt. Hãy tưởng tượng em nghe thấy cuộc cãi nhau đó và sẽ dàn xếp như thế nào? I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu hoàn cảnh xảy ra câu chuyện: - Chủ nhật, cả nhà được nghỉ. - Ôtô, xe máy, xe đạp tranh cãi với nhau ai hơn ai kém. 2. Thân bài: * Diễn biến cuộc tranh luận: - Ôtô nói trước, khẳng định mình hơn hẳn xe máy, xe đạp về mọi mặt. Ôtô có nhiều cái thuận tiện và ưu việt hơn xe đạp, xe máy: oai vệ, sang trọng và an toàn hơn. - Xe máy khẳng định mình được việc hơn ôtô. Xe máy cơ động, phù hợp với xã hội hiện đại..

<span class='text_page_counter'>(167)</span> - Xe đạp chê ôtô, xe máy chạy tốn xăng, xả khói làm ô nhiễm môi trường, đồng thời khẳng định mình có ích nhất. Xe đạp vừa rẻ tiền lại gọn nhẹ, không cần nhiên liệu, ít tốn kém, dễ tập, dễ đi, ai cũng đi được, lại có thể đi vào tận ngõ ngách nhỏ... 3. Kết bài: * Kết thúc cuộc tranh luận: - Em phân tích mặt mạnh, mặt yếu của cả ba phương tiện. - Khẳng định phương tiện nào cũng có ích cho con người. II. BÀI LÀM Ba em là Giám đốc công ty xây dựng số 1 của sở xây dựng thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan cấp cho ba em một chiếc xe du lịch màu xanh hiệu Tôyôta để làm phương tiện đi lại. Mẹ em là giáo viên Văn trường chuyên Lê Hồng Phong. Ngày ngày, mẹ đi dạy bằng xe máy, còn em đi học bằng chiếc xe đạp leo núi mà ba mua cho hồi Tết. Sáng nay chủ nhật, gia đình em có mặt đông đủ ở nhà. Sau bữa điểm tâm, ba vào phòng khách đọc báo, mẹ xách giỏ đi chợ chuẩn bị cho bữa cơm trưa. Em lấy chiếc bình nước tưới cho mấy chậu hoa đặt trước lối vào nhà để xe. Chợt em nghe có tiếng trao đổi xì xầm. Lấy làm lạ, em nép ngoài cửa lắng nghe. Thì ra anh ôtô, chị xe máy và cậu xe đạp đang sôi nổi tranh hơn tranh kém với nhau. Anh ôtô giọng Ồm Ồm kẻ cả: - Cô cậu nghe đây! Chỉ so về hình thức, anh đã hơn hẳn cô và cậu rồi! Anh bệ vệ, sang trọng khó bì. Ông chủ mỗi khi đi đâu đều nhẹ nhàng, thảnh thơi, mưa không tới mặt, nắng chẳng tới đầu. Còn cô cậu thì kém anh đủ điều, so làm sao được? Cho nên ông chủ quý anh nhất là phải thôi! Chị xe máy không chịu lép:.

<span class='text_page_counter'>(168)</span> - Anh nói chẳng sai! Nhưng tôi hỏi anh, ngoài những lúc đưa ông chủ đến cơ quan hoặc đi công tác, anh được dùng vào việc gì nữa nào? Còn tôi, tôi được việc hơn anh nhiều! Này nhé! Sáng sáng tôi đưa bà chủ đi dạy học. Rồi đi chợ, đi chơi, đi thăm người thân... lúc nào tôi cũng kề cận bên bà chủ. Tiện lợi biết bao! Tôi thấy mình có ích nhất nhà. Xe đạp nãy giờ đứng dựa vào tường nghe ôtô và xe máy tranh luận, giờ mới lên tiếng: - Em tuy nhỏ bé nhưng rất có ích. Ngày ngày, em cùng anh Huy tới trường, tới câu lạc bộ. Thỉnh thoảng giúp anh ấy đi picnic với bạn bè ở trong hay ngoài thành phố. Dẫu có kẹt xe kẹt cầu, em vẫn luồn lách được, chứ cứ như anh ôtô với chị xe máy thì đành chịu chết. Em lại chỉ làm chứ không ăn uống tốn kém gì. Trong khi đó hai người phải uống no xăng mới chạy được. Lại còn xả khói gây ô nhiễm môi trường nữa chứ! Ôtô và xe máy nghe xe đạp nói vậy có vẻ không bằng lòng. Cuộc tranh luận vẫn còn tiếp diễn. Em bước vào nói: - Các bạn không nên so bì như thế! Dù có những mặt mạnh, mặt yếu khác nhau nhưng ai cũng có ích cả. Ba mẹ tôi và tôi đều yêu quý các bạn như nhau. Các bạn có đồng ý với tôi không nào? Ôtô, xe máy và xe đạp nhìn nhau với ánh mắt thân thiện, cùng cười vui rồi hô to: Đồng ý! ĐỀ 3: Kể chuyện mười năm sau em về thăm lại mái trường mà hiện nay em đang học. Hãy tưởng tượng những đổi thay có thể xảy ra. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu sơ lược về bản thân:.

<span class='text_page_counter'>(169)</span> - Năm nay em đang học lớp 6, tưởng tượng mười năm sau trở lại thăm trường cũ. - Em đã là kĩ sư, tốt nghiệp đại học Bách khoa, được về công tác tại tỉnh nhà. - Nhân dịp ngày Nhà giáo Việt Nam 20 - 11, em về thăm lại trường xưa. 2. Thân bài: * Kể vài nét về khung cảnh của ngôi trường: - Nhớ lại hình ảnh ngôi trường cũ đơn sơ. - Hình ảnh ngôi trường mới to đẹp, khang trang với đầy đủ các phòng, các phương tiện phục vụ giảng dạy và học tập. 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của bản thân: - Ngạc nhiên, vui mừng trước những thay đổi to lớn của trường. - Cuộc gặp mặt ấm áp tình nghĩa thầy trò. - Hình ảnh ngôi trường thân yêu mãi mãi in đậm trong kí ức. II. BÀI LÀM Tiết sinh hoạt cuối tuần của lớp em hôm nay thật vui vẻ và bổ ích. Cô giáo chủ nhiệm hướng dẫn chúng em thảo luận đề tài Tuổi trẻ và mơ ước. Cô khuyến khích từng người hãy mạnh dạn nói lên những suy nghĩ, khát vọng của mình. Trong khi các bạn gái nhìn nhau vẻ e thẹn, ngượng ngùng thì đám con trai chúng em thi nhau giơ tay xin phát biểu. Sơn hùng hồn tuyên bố sau này sẽ trở thành kiến trúc sư. Lâm mơ thành phi công lái máy bay. Tùng lại mơ sau này sẽ là một chuyên gia vi tính hàng đầu như Billgate... Ước mơ nào cũng đẹp, cũng bay bổng, chắp cánh cho trí tưởng tượng của chúng em. Riêng em, em cũng có một ước mơ giản dị là sẽ trở thành kỹ sư cơ khí, nối nghiệp của ba. Hình dung.

<span class='text_page_counter'>(170)</span> ra cảnh mười năm sau trở về thăm trường cũ, trong tâm hồn em chợt dâng lên một cảm xúc thú vị lạ lùng! ... Sau bốn năm miệt mài học tập ở trường Đại học Bách khoa, em đã trở thành kĩ sư và được nhận vào làm việc trong một nhà máy cơ khí của tỉnh nhà. Thời gian trôi đi nhanh quá! Mới ngày nào em còn là cậu học sinh lớp 6, thoắt cái mà đã mười năm. Bao kỉ niệm của thời học trò tinh nghịch, đáng yêu vẫn còn tươi rói trong kí ức... Năm nay, ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 lại đúng vào thứ bảy, em trở về thăm các thầy cô và thăm ngôi trường cũ xa cách đã lâu. Hồi học lớp 6A do cô Nhân dạy Toán làm chủ nhiệm, em được cử làm lớp trưởng. Các bạn trong lớp “tín nhiệm” phần vì em học khá, phần vì em rất nhiệt tình trong mọi công việc của lớp. Trường em nằm trên một khu đất rộng, có tường xây bao quanh. Đoạn đường dẫn từ quốc lộ 1 vào tới cổng trường rộng chừng sáu mét, hai bên trồng bạch đàn. Chiếc bảng đề tên trường màu xanh, nổi bật hàng chữ trắng: Trường Trung học cơ sở Võ Thị Sáu, từ xa đã nhìn thấy rất rõ. Ba dãy phòng học lợp tôn nối với nhau theo hình chữ U, ở giữa là sân trường với cột cờ đặt trước cửa phòng Ban Giám hiệu. Hình ảnh ngôi trường cũ thân yêu luôn hiện lên trong nỗi nhớ. Về thăm trường lần này, em hi vọng thấy lại những gì quen thuộc một thời. Nhưng sao lạ thế này nhỉ?! vẫn tên trường cũ, vẫn con đường dẫn vào trường ngày nào nhưng hàng cây thì đã cao vút, thân tròn, thẳng tắp. Mặt đường tráng xi-măng phẳng phiu, cổng trường được xây bề thế và quét vôi trắng trông rất đẹp. Ấn tượng nhất là ngôi trường ba tầng cao sừng sững, mái ngói đỏ tươi. Tường quét vôi vàng, cửa lớn, cửa sổ sơn xanh nhìn thật hài hòa. Hai bên là hai dãy phòng làm việc của Ban Giám hiệu, hội trường, thư viện, phòng thí nghiệm, phòng vi tính và phòng truyền thống của trường. Trước cửa các lớp học đều có.

<span class='text_page_counter'>(171)</span> bồn hoa. Hoa cúc, hoa hồng rung rinh trước gió. Sau trường là vườn sinh vật trồng nhiều loại cây. Ở mỗi cây đều có gắn bảng đề tên thường gọi và tên khoa học. Quả là một sự thay đổi lớn lao và kì diệu! Gặp lại các thầy cô cũ, lòng em trào lên một niềm xúc động lạ thường. Các thầy cô vẫn nhớ đến em, trìu mến gọi tên và hỏi thăm về mọi mặt. Cô Nhân bắt tay em thật chặt, chúc mừng em đã trưởng thành. Em thầm nghĩ dù đi đâu, về đâu, mình cũng sẽ mãi mãi nhớ về ngôi trường này, về các thầy cô và bè bạn thân yêu. ĐỀ 4: Trẻ em vẫn mơ ước vươn vai một cái là trở thành tráng sĩ như Thánh Gióng. Em hãy tưởng tượng mình mơ thấy Thánh Gióng và hỏi ngài bí quyết, xem ngài khuyên em như thế nào? I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu chung: - Buổi sáng ở trường, em được học truyền thuyết Thánh Gióng và câu chuyện thần kì đã cuốn hút em. - Ban đêm, em mơ mình được gặp Thánh Gióng. 2. Thân bài: * Kể lại giấc mơ gặp Thánh Gióng: - Em mơ thấy một tráng sĩ tư thế oai phong lẫm liệt, đầu đội mũ sắt, cưỡi trên lưng con ngựa sắt, tự xưng là Thánh Gióng. - Em bày tỏ ước muốn của mình và hỏi Thánh Gióng bí quyết làm thế nào để vươn vai một cái là trở thành tráng sĩ có sức mạnh phi thường. - Thánh Gióng khuyên em nên chăm chỉ học hành, thường xuyên rèn luyện sức khỏe để trở thành người có trí tuệ sáng suốt trong một thân thể khỏe mạnh. Như vậy thì mới có ích cho gia đình và xã hội..

<span class='text_page_counter'>(172)</span> 3. Kết bài: * Cảm nghĩ của em: - Giấc mơ gặp Thánh Gióng thật đẹp và nhiều ý nghĩa. - Em thấm thía lời khuyên thiết thực của Thánh Gióng. Cố gắng phấn đấu thành con người toàn diện. II. DÀN BÀI Sáng nay, trong tiết Văn, chúng em được học về truyền thuyết Thánh Gióng, người anh hùng nhỏ tuổi đã lập nên kì công quét sạch giặc Ân xâm lược ra khỏi bờ cõi nước ta. Giọng kể truyền cảm, sinh động của cô giáo Hương đã đưa chúng em vào thế giới đầy những chi tiết huyền ảo, phi thường. Hình ảnh đẹp đẽ của Thánh Gióng đã để lại trong tâm trí em một ấn tượng sâu đậm có sức cuốn hút lạ lùng. Đến đêm, trước khi đi ngủ, em giở sách ra đọc lại truyện một lần nữa và ao ước rằng giá như mình vươn vai một cái cũng trở thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt như Thánh Gióng. Ao ước cháy bỏng ấy đã theo em vào cả giấc mơ... Em đang đi giữa một vùng quê thanh bình đầy hoa thơm cỏ lạ. Những ngôi làng được bao bọc bằng lũy tre đằng ngà, thân vàng óng, lá xanh rì rào trước ngọn gió xuân hây hẩy. Dọc đường, ao chuôm nối tiếp nhau thành dãy, mặt nước lung linh soi bóng mây trời. Mỗi hình ảnh đều gợi lại chiến công của Thánh Gióng. Dòng người đông đúc đang hối hả kéo nhau về đền thờ Thánh Gióng. Tiếng trống, tiếng chiêng rộn rã, náo nức cả một vùng. Em ngước mắt lên nhìn bầu trời xanh thẳm, ô kìa lạ chưa?! Có một đám mây ngũ sắc giống hệt hình người đang cưỡi ngựa. Đám mây hạ thấp dần, thấp dần và em không tin vào mắt mình nữa. Trước mặt em là Thánh Gióng bằng xương, bằng thịt đầu đội mũ sắt, mặc áo giáp sắt, cưỡi trên lưng ngựa sắt... hiển hiện trên bãi cỏ xanh. Thánh Gióng vui vẻ cất tiếng chào:.

<span class='text_page_counter'>(173)</span> - Chào cậu bé! Ta là Thánh Gióng. Ta đã nhận được lời nguyện cầu của cậu. Cậu có muốn ta giúp gì chăng?! Sự ngạc nhiên tột độ đã nhanh chóng biến thành niềm vui mừng khôn xiết. Em vội vàng bày tỏ: - Thưa ngài! Em và các bạn chỉ ao ước một điều là vươn vai một cái trở thành tráng sĩ như ngài. Xin hỏi ngài bí quyết để biến điều đó thành hiện thực. Thánh Gióng cất tiếng cười vang động không gian: - Ồ! Ta hiểu! Tuổi thơ bao giờ cũng có những ước mơ đẹp đẽ lạ thường! Ngày xưa, ta cũng vậy. Chính sự tồn vong của đất nước trước nạn ngoại xâm đã khơi dậy trong ta sức mạnh thần kì. Chính dân làng đã góp gạo nuôi ta lớn nhanh như thổi để mà đánh giặc. Sức mạnh của ta là sức mạnh về lòng yêu nước của toàn dân. Việc ta vươn vai một cái trở thành tráng sĩ tượng trưng cho khát vọng chiến thắng quân thù. Ta thay mặt nhân dân trừng trị đích đáng lũ giặc ngông cuồng, dám xâm phạm vào giang sơn gấm vóc của tổ tiên. Còn bây giờ, trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão, con người không cần phải khổng lồ về thể xác nhưng phải khổng lồ về ý chí và trí tuệ. Một trí tuệ sáng suốt, một nghị lực phi thường trong một thân thể khỏe mạnh là những điều rất cần thiết cho cuộc sống ngày nay. Đó là những lời tâm huyết mà ta muốn nói. Cậu bé hãy suy nghĩ cho kĩ xem có đúng không. Nếu đúng thì hãy làm theo và ta cũng nói trước đó là cả quá trình phấn đấu lâu dài và gian khổ đấy! Ta chúc cậu mai sau trở thành người hữu ích cho đất nước! Chào cậu! Ta đi đây! Thánh Gióng dứt lời, ngựa sắt hí vang, bốn vó từ từ nhấc khỏi mặt đất cả người lẫn ngựa bay càng lúc càng cao, rồi mờ dần, mờ dần giữa những đám mây ngũ sắc. Em bàng hoàng tỉnh giấc, ôi! Thì ra là một giấc mơ! Một giấc mơ lạ lùng! Tiếng nói của Thánh Gióng vẫn văng vẳng đâu đây. Em thấm thía lời khuyên chí.

<span class='text_page_counter'>(174)</span> tình của ngài. Đúng là chỉ có thể bằng con đường học tập, rèn luyện và phấn đấu không ngừng thì chúng ta mới biến được những ước mơ đẹp đẽ thành hiện thực. ĐỀ 5: Do một lỗi lầm nào đó mà em bị phạt, buộc phải biến thành một trong các con vật sau đây: chó, mèo, chim, cá vàng, chuột... trong thời hạn ba ngày. Trong ba ngày đó, em đã gặp những điều thú vị và rắc rối gì? Vì sao em mong chóng hết hạn để trở lại làm người? I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Hoàn cảnh xảy ra câu chuyện: - Buổi trưa đi học về, em đói bụng, ăn vụng miếng thịt bò xào. - Mẹ nhìn thấy, nhắc nhở. - Em chối và thề là nếu ăn vụng thì sẽ bị biến thành con chuột. 2. Thân bài: * Diễn biến câu chuyện: - Tiên ông biến em thành chú chuột nhắt để trừng phạt thói dối trá của em. - Bố mẹ lo lắng đi tìm em... - Em không có cách nào để chứng minh mình là con trai của bố mẹ. - Mấy ngày trôi qua trong buồn bã và lo sợ. - Đêm thứ ba, em bị mèo Mi Mi bắt được, doạ sẽ ăn thịt sau khi vờn cho chết khiếp. - Em hoảng sợ kêu cứu, bố mẹ lay gọi bên giường, thì ra đó chỉ là một cơn ác mộng. 3. Kết bài:.

<span class='text_page_counter'>(175)</span> * Kết thúc câu chuyện: - Em tự nhủ từ nay phải bỏ thói xấu ăn vụng vì mình đã lớn. II. BÀI LÀM Trời đã quá trưa. Nắng chói chang tỏa xuống mặt đất cái nóng gay gắt của ngày hè. Em rảo chân bước vội về nhà, bụng đói cồn cào, ổ bánh mì lót dạ hồi sáng đã bay đâu mất. Chà chà! Mùi gì mà thơm thế nhỉ? Cơn đói lại càng thôi thúc. Mà lạ! Sao nhà vắng chẳng có ai? Em rón rén vào bếp. Trên bàn, cơm canh đã bày sẵn cả. Đĩa thịt bò xào hành, đĩa sườn chiên còn nóng hổi tỏa mùi thơm quyến rũ. Không kìm được cơn thèm, em nhón miếng thịt bò cho vào miệng nhai ngấu nghiến. Vị bùi, béo, ngọt, thơm... tan trên đầu lưỡi. Ngon! Ngon quá! Nào! Làm miếng nữa! Vừa ngửa cổ, há miệng để đón miếng thứ hai, em chợt giật bắn người vì tiếng nói của mẹ: - Toàn! Con làm gì thế? Ăn vụng hả? xấu lắm nhé! Em xấu hổ đỏ mặt nhưng vẫn chối bay chối biến: - Con có ăn vụng đâu?! - Mẹ nhìn thấy mà con còn cãi ư? - Con thề đấy! Con mà ăn vụng thì con sẽ bị biến thành con chuột! Em vừa dứt lời thì phép lạ xảy ra. Em nghe bên tai văng vẳng có tiếng: “Ngươi sẽ bị biến thành chuột trong vòng ba ngày. Nếu thực tâm hối cải, ngươi sẽ được trở lại thành người!”. Tự nhiên, vụt một cái, người em thu nhỏ lại và biến thành con chuột nhắt bé tí teo. Hoảng hốt vô cùng, em vội chạy vào gầm trạn, ôm mặt khóc thút thít: “Mẹ ơi! Cứu con với mẹ ơi! Chít, chít!”. Em biết mình đã bị Tiên ông trừng trị vì thói dối trá, nhưng biết làm sao bây giờ ? Trong khi đó, mẹ em lo lắng tìm kiếm khắp nơi. Mẹ gọi lạc cả giọng: “Toàn ơi! Con ở đâu? Tại.

<span class='text_page_counter'>(176)</span> sao mẹ gọi mà con không thưa?”. Em cố đáp lại nhưng cổ họng chỉ phát ra tiếng kêu chít chít... thảm hại. Màn đêm buông xuống rất nhanh. Căn bếp tối mờ mờ. Tất cả đồ vật đều trở nên khổng lồ trước cặp mắt của chú chuột nhắt là em. Ngoài phòng khách, bố mẹ đang bàn bạc ngày mai sẽ báo công an và đăng tin tìm trẻ lạc trên truyền hình. Em nghe thấy hết nhưng làm cách nào để chứng minh được chú chuột nhắt xấu xí này lại chính là Toàn, con trai của bố mẹ?! Vừa sợ hãi, tủi thân, vừa ân hận, em khóc đến mờ cả mắt. Trời sáng dần. Tiếng guốc quen thuộc của mẹ dường như vội vã hơn mọi ngày. Em nghe rõ mẹ than thở: “Khổ thân con tôi! Giờ này con ở đâu hả Toàn?!”. Rồi tiếng giày của bố hối hả xuống thang. Bố bảo mẹ: “Anh đến đài truyền hình đây! Anh sẽ nhờ đài nhắn tin ngay tối nay!”. Từ chỗ nấp, em nhìn thấy mẹ lấy tay áo chùi nước mắt. Em thương mẹ quá! - Toàn ơi! Đi học thôi! Như thường lệ, Đức “cận” đã đứng trước cửa, cặp kính dày cộm trễ xuống mũi, thò đầu vào rủ em đi học. Mẹ em chạy vội ra, mếu máo báo cho Đức biết: - Cháu à! Thằng Toàn nhà cô đi đâu mất từ trưa hôm qua đến giờ. Cháu có biết nó hay đến nhà ai chơi không? Đức “cận” sửng sốt: - Thế ạ?! Để cháu nhờ các bạn trong lớp hỏi và tìm giúp. Chào cô, cháu đi! Em muốn chạy ngay theo Đức nhưng khổ nỗi chú mèo Mi Mi ngồi lù lù trên chiếc ghế dựa, đôi mắt xanh như hai hòn bi ve đang mở to hết cỡ. Mi Mi mà nhìn thấy thì toi đời! Đến chiều, cô chủ nhiệm và các bạn trong lớp kéo đến chật nhà để hỏi thăm. Bố mẹ em vẫn lắc đầu buồn bã. Chứng kiến cảnh ấy, em đau lòng vô cùng và tự trách mình mãi. Cô giáo và các bạn về rồi, căn nhà lại chìm trong không.

<span class='text_page_counter'>(177)</span> khí quạnh hiu. Thỉnh thoảng, chú chó Bin ngửa cổ hực lên mấy tiếng vu vơ. Chắc nó nhớ em và mong em về đấy! Lại một đêm nữa trôi qua. Đói và lạnh. Em bò loanh quanh định kiếm chút thức ăn nhưng lại sợ mèo vồ, đành ôm bụng rỗng chui vào chiếc vỏ lon sữa bò ở xó bếp, cố ngủ cho quên đói nhưng không sao ngủ được. Khốn khổ thay cho kiếp chuột! Em mong cho chóng hết hạn bị Tiên ông trừng phạt. Ngày thứ ba chậm chạp trôi qua. Có lẽ đêm đã khuya. Căn nhà chìm trong bóng tối. Bố mẹ và cu Bi đã lên hết trên gác ngủ, dưới này chỉ còn chú chó Bin canh cửa và chú mèo Mi Mi rình bắt chuột. Mi Mi bắt chuột tài lắm! Từ con chuột nhắt tinh ranh đến gã chuột cống to đùng, Mi Mi đều hạ gục nhanh như chớp. Từ ngày có chú mèo này, lũ chuột đỡ phá phách hẳn, cả nhà em ai cũng yêu quý chú. Riêng đối với em, Mi Mi quấn quýt không rời. Chú thường sà vào lòng em để được vuốt ve, âu yếm. Nghĩ tới thân phận mình đang là con chuột nhắt, một nỗi sợ hãi ập đến khiến em lạnh toát sống lưng, bốn chân và cả cái đuôi cứ run bần bật. Em lùi dần, lùi dần vào tận góc khuất của cầu thang, thấp thỏm mong cho trời mau sáng. Bỗng nhiên em bị túm gáy nhấc bổng lên. Bên tai em là tiếng reo thích thú của Mi Mi: “Meo! A ha! Ta tóm được chú mày rồi nhé! Phen này thì chú mày có mà chạy đằng trời!”. Em cố gắng vùng vẫy nhưng không sao thoát khỏi nanh vuốt sắc nhọn của nó. Mi Mi lại giở trò mèo vờn chuột như mọi ngày. Nó tha em đến giữa sàn bếp rồi buông ra. Em nằm đờ giả chết, mắt mở he hé nhìn trộm nó. Mi Mi ngồi chống hai chân trước ở ngay bên cạnh. Vài phút trôi qua, thừa lúc nó quay đầu chỗ khác, em vùng chạy, nhưng chỉ được vài bước thì đã bị tóm lại. Mi Mi khoái chí cười rung râu: “Ha ha! Ta thách chú mày trốn thoát đấy! Ta sẽ vờn cho chú mày sợ mất mật rồi mới ăn thịt. Thị chú mày vừa mềm vừa béo, ta thích lắm!”..

<span class='text_page_counter'>(178)</span> Trời ơi! Làm sao nói cho Mi Mi hiểu mình là anh Toàn vẫn ngày ngày cho nó ăn và bồng bế nó trên tay?! Làm thế nào bây giờ?! Mi Mi thộp cổ em, đưa lên cái miệng đỏ lòm đang ngoác rộng của nó. Ôi! Hàm răng nhọn hoắt trông gớm ghiếc vô cùng! Chỉ vài giây nữa thôi, em sẽ bị nó cắn xé ra từng mảnh. Em hét to lên cầu cứu: “Bố ơi! Mẹ ơi! Cứu con với! Cứu con với!”. Em choàng tỉnh dậy, mồ hôi ướt trán. May quá! Hóa ra chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ hãi hùng. Bố và mẹ đang cúi xuống bên em, ân cần hỏi: - Toàn à! Con mê ngủ ư? Con mê thấy gì mà hét to thế?! Em bàng hoàng dụi mắt. Giấc mơ vẫn hiển hiện rõ rệt trong óc. Kể lại cho bố mẹ nghe thì xấu hổ lắm! Em bẽn lẽn lắc đầu: “Không có gì đâu ạ!”. Chiếc đồng hồ treo tường chỉ đúng 6 giờ. Em ngồi dậy rửa mặt, đánh răng, ăn vội bát mì mẹ nấu rồi cắp cặp đi học. Trên đường đến trường, em ngẫm nghĩ: “Hú vía! May mà đó chỉ là một giấc mơ! Nhưng mình cũng phải chừa cái thói ăn vụng đi mới được! Chẳng gì cũng là học sinh lớp 6 rồi!”.. Bài 13. * Ôn tập truyện dân gian * Chỉ từ * Luyện tập kể chuyện tưởng tượng ÔN TẬP TRUYỆN DÂN GIAN * Câu 1. Hãy đọc lại, ghi chép và học thuộc định nghĩa ở những phần chú thích có dấu (★) trong sách giáo khoa này về các thể loại: truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười. (★ Truyền thuyết là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ, thường có yếu tố tưởng tượng, kì ảo. Truyền.

<span class='text_page_counter'>(179)</span> thuyết thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử được kể. * Truyện cổ tích là loại truyện dân gian kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc: - Nhân vật bất hạnh (như: con mồ côi, con riêng, con út, người có hình dạng xấu xí,...). - Nhân vật dũng sĩ và nhân vật có tài năng kì lạ. - Nhân vật thông minh và nhân vật ngốc nghếch. - Nhân vật là động vật (con vật biết nói năng, hoạt động, có tính cách như người). Truyện cổ tích thường có yếu tố hoang đường, thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của cái thiện đối với cái ác, cái tốt đối với cái xấu, sự công bằng đối với sự bất công. * Truyện ngụ ngôn là loại truyện kể bằng văn xuôi hoặc văn vần, mượn chuyện về loài vật, đồ vật hoặc chính con người để nói bóng gió, kín đáo chuyện con người, nhằm khuyên nhủ, răn dạy mọi người bài học nào đó trong cuộc sống. * Truyện cười là loại truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống nhằm tạo ra tiếng cười mua vui hoặc phê phán, đả kích những thói hư, tật xấu trong xã hội.) * Câu 2. Đọc lại truyện dân gian trong sách giáo khoa. (Học sinh đọc lại từng truyện dân gian trong sách giáo khoa rồi tự tóm tắt cốt truyện và học thuộc chủ đề truyện.) * Câu 3. Viết lại tên những truyện dân gian (theo thể loại) mà em đã học và đã đọc (kể cả truyện dân gian của một số nước khác). (Ghi lại tên những truyện dân gian theo thể loại:.

<span class='text_page_counter'>(180)</span> - Truyền thuyết: Con Rồng, cháu Tiên; Bánh chưng, bánh giầy; Nàng út làm bánh ót; Thánh Gióng; Sơn Tinh, Thủy Tinh; Sự tích Hồ Gươm; Ấn, kiếm Tây Sơn. - Truyện cổ tích: Sọ Dừa; Thạch Sanh; Em bé thông minh; Cây bút thần; Ông lão đánh cá và con cá vàng. - Truyện ngụ ngôn: Ếch ngồi đáy giếng; Thầy bói xem voi; Đeo nhạc cho mèo; Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng; Truyện sáu con gia súc so bì công lao. - Truyện cười: Thế thì không mất; Treo biển; Lợn cưới, áo mới; Đẽo cày giữa đường.) * Câu 4. Từ các định nghĩa và từ những tác phẩm đã học, hãy nêu và minh họa một số đặc điểm tiêu biểu của từng thể loại truyện dân gian. (a. Truyền thuyết: * Về nội dung: Truyện kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ. * Về ý nghĩa: Truyện thể hiện rõ thái độ và cách đánh giá của nhân dân về các nhân vật và sự kiện ấy. * Về hình thức: Truyện có nhiều yếu tố tưởng tượng, kì ảo. * Về cách phổ biến: Được truyền miệng trong dân gian qua nhiều đời. b. Cổ tích: * Về nội dung: + Truyện kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc: - Nhân vật bất hạnh. - Nhân vật dũng sĩ hoặc có tài năng kì lạ. - Nhân vật thông minh hoặc ngốc nghếch..

<span class='text_page_counter'>(181)</span> - Nhân vật là động vật (con vật biết nói năng, hoạt động, có tính cách như người). * Về ý nghĩa: Truyện thường thể hiện ước mơ và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng của cái thiện đối với cái ác, mong muốn sự công bằng xã hội. * Về hình thức: Truyện cũng có những yếu tố hoang đường. * Về cách phổ biến: Truyền miệng trong dân gian qua nhiều đời. c. Truyện ngụ ngôn: * Về nội dung: Kể về những nhân vật là người hoặc vật (chuột, mèo, hổ, thỏ, ếch...). * Về ý nghĩa: Truyện thường có ý khuyên nhủ, răn dạy người ta một bài học nào đó trong cuộc sống. * Về hình thức: Truyện có nhiều yếu tố tưởng tượng nhưng không kì ảo mà rất gần với đời sống xã hội. * Về cách phổ biến: Truyền miệng trong dân gian qua nhiều đời. d. Truyện cười: * Về nội dung: Truyện kể về các hiện tượng đáng cười trong cuộc sống. * Về ý nghĩa: Có những truyện chỉ gây cười để mua vui nhưng nhiều truyện gây cười với mục đích châm biếm, chế giễu, phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội. * Về hình thức: Truyện thường khai thác những sự việc trái với lẽ thường hoặc những chi tiết đột ngột, bất ngờ, những mâu thuẫn đối lập để gây cười. * Về cách phổ biến: Truyền miệng trong dân gian qua nhiều đời.) * Câu 5. So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa truyền thuyết và truyện cổ tích, giữa truyện ngụ ngôn với truyện cười. (a. Giữa truyền thuyết và cổ tích:.

<span class='text_page_counter'>(182)</span> * Những điểm giống nhau: Hai loại truyện này đều bắt nguồn từ thực tế nhưng lại có nhiều yếu tố tưởng tượng, kì ảo và được truyền miệng qua nhiều đời. * Những điểm khác nhau: - Truyền thuyết thường kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử. - Cổ tích thường kể về các nhân vật trong đời thường. - Truyền thuyết thường thể hiện thái độ và cách đánh giá đối với nhân vật và sự kiện. - Cổ tích thường thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân vào chiến thắng cuối cùng của lòng nhân ái, lẽ phải và sự công bằng đối với thói gian tham, áp bức bất công; của cái thiện đối với cái ác. b. Giữa ngụ ngôn và truyện cười. * Những điểm giống nhau: Hai loại truyện này gần gũi với con người trong cuộc sống hằng ngày và đều được truyền miệng qua nhiều đời. * Những điểm khác nhau: - Truyện ngụ ngôn mang ý nghĩa khuyên nhủ, răn dạy hoặc nêu lên những bài học cần thiết trong cuộc sống. - Truyện cười thường mang ý nghĩa cười cho vui hoặc cười để chế giễu, phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội.) * Câu 6. Tham gia hoạt động ngoại khóa của lớp, trường với nội dung sau: - Thi kể chuyện dân gian (đã học hoặc đã đọc). - Diễn kịch (kịch bản được chuyển từ truyện dân gian), nếu có thể..

<span class='text_page_counter'>(183)</span> - Vẽ tranh, làm thơ, sáng tác truyện dựa vào truyện dân gian, nếu có thể. (Học sinh sẽ làm theo sự hướng dẫn của thầy, cô giáo. Có thể dựa vào nội dung của các truyện dân gian.) CHỈ TỪ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần nắm được ý nghĩa, công dụng của chỉ từ, từ đó có kĩ năng sử dụng chỉ từ cho đúng. * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. Sau đây là nghĩa của một vài chỉ từ thường dùng: * ấy: Chỉ sự vật đã được nói tới nhưng không ở kế bên người nói (cảnh đẹp ấy) hoặc không ở thời điểm nói của người nói (ngày ấy), hoặc vị trí sự vật (nơi ấy). * đây: Chỉ một sự vật hoặc sự việc ở nơi vị trí người nói (nơi đây). * đấy: Chỉ một sự vật hoặc sự việc đã được xác định nhưng không ở cùng vị trí với người nói (nơi đấy). * nay: Chỉ thời gian hiện tại, ở đúng vào thời điểm nói để phân biệt với quá khứ, tương lai (hôm nay, ngày nay). * này: Chỉ một sự vật hoặc sự việc được xác định ở khoảng cách rất gần với vị trí người nói hoặc vào thời điểm nói của người nói (nơi này, tháng này). II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Tìm chỉ từ trong những câu sau đây. Xác định ý nghĩa và chức vụ của các chỉ từ ấy. a) Vua cha xem qua một lượt rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu, rất vừa ý, bèn gọi lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần ra kể lại. Vua.

<span class='text_page_counter'>(184)</span> cha ngẫm nghĩ rất lâu rồi chọn hai thứ bánh ấy đem tế Trời Đất cùng Tiên vương. (Bánh chưng, bánh giầy) b) Đấy vàng, đây cũng đồng đen Đấy hoa thiên lí, đây sen Tây Hồ. (Ca dao) c) Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. (Con Rồng, cháu Tiên) d) Từ đó nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng. (Sự tích Hồ Gươm) (Ý nghĩa và chức vụ ngữ pháp của các chỉ từ trong các câu văn trên như sau: a. Trong cụm danh từ hai thứ bánh ấy, thì ấy là chỉ từ, có tác dụng: + Định vị sự vật trong không gian. + Làm phụ ngữ sau trong cụm danh từ. b. Trong câu này thì chỉ từ là đấy, đây, có tác dụng: + Định vị sự vật trong không gian. + Làm chủ ngữ trong câu. c. Trong câu này thì chỉ từ là nay, có tác dụng: + Chỉ thời gian hiện tại, ở đúng vào thời điểm nói. + Làm trạng ngữ trong câu. d. Trong câu này thì chỉ từ là đó, có tác dụng:.

<span class='text_page_counter'>(185)</span> + Định vị sự vật trong không gian. + Làm trạng ngữ trong câu.) * Câu 2. Thay các cụm từ in đậm dưới đây bằng những chỉ từ thích hợp và giải thích vì sao cần thay như vậy. a) Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Đến chân núi Sóc, một mính một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. (Thánh Gióng) b) Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng bị lửa thiêu cháy về sau gọi là làng Cháy. (Thánh Gióng) (Có thể thay như sau: a) đến chân núi Sóc = đến đấy b) làng bị lửa thiêu cháy = làng đó Thay như vậy sẽ tránh lỗi lặp từ, câu văn ngắn gọn, hay hơn.) * Câu 3. Có thể thay các chỉ từ trong đoạn dưới đây bằng những từ hoặc cụm từ nào không? Rút ra nhận xét về tác dụng của chỉ từ. Năm ấy, đến lượt Lí Thông nộp mình. Mẹ con hắn nghĩ kế lừa Thạch Sanh chết thay. Chiều hôm đó, chờ Thạch Sanh kiếm củi về, Lí Thông dọn một mâm rượu thịt ê hề mời ăn, rồi bảo: - Đêm nay, đến phiên anh canh miếu thờ, ngặt vì dở cất mẻ rượu, em chịu khó thay anh, đến sáng thì về. (Thạch Sanh) (- Năm ấy, chỉ từ ấy không xác định cụ thể thời điểm của người nói..

<span class='text_page_counter'>(186)</span> - Chiều hôm đó, chỉ từ đó cũng không xác định thời điểm của người nói. - Đêm nay, chỉ từ nay chỉ thời điểm của người nói (Lí Thông). Vậy trong đoạn văn này không thay được chỉ từ. Điều này cho thấy chỉ từ có vai trò rất quan trọng. Chúng có thể chỉ ra những sự vật, thời điểm khó gọi thành tên, giúp người nghe, người đọc định vị được sự vật hoặc thời điểm trong chuỗi sự vật hay trong dòng thời gian vô tận.) LUYỆN TẬP KỂ CHUYỆN TƯỞNG TƯỢNG Câu 1. Đề bài luyện tập ĐỀ 1: Kể tâm tình của vua cha khi nhận được những quả dưa lạ do An Tiêm gửi về I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu nhân vật và tình huống: - Mùa hè nóng nực, vua cha nếm thử quả lạ do các quan dâng lên; thấy ngon liền hỏi nguồn gốc. - Vua bồi hồi nhớ lại chuyện cũ về Mai An Tiêm. 2. Thân bài: * Phát triển câu chuyện: - Vua cảm thấy ân hận về chuyện đày An Tiêm ra đảo hoang. - Vua thương xót An Tiêm khổ sở, gian nan. - Vua thầm phục An Tiêm chịu thương chịu khó. - Vua cảm động vì An Tiêm vẫn nhớ đến vua cha và quê hương. 3. Kết bài: * Kết thúc câu chuyện:.

<span class='text_page_counter'>(187)</span> - Vua truyền lệnh đón cả gia đình An Tiêm về và ban thưởng cho chàng. II. BÀI LÀM Trời mùa hè nóng như thiêu đốt. Quần thần, dân chúng ai nấy đều mệt mỏi rã rời. Tuổi cao, sức yếu, vua Hùng càng cảm thấy khó chịu vì thời tiết nóng nực. Ăn miếng dưa xanh vỏ đỏ lòng do thị thần dâng lên, đức vua cảm thấy sảng khoái, dễ chịu nhờ vị ngọt mát, ngon lành của thứ quả lạ. Đang lúc vui vẻ, nhà vua truyền hỏi: - Thứ dưa quý này ở đâu ra vậy? Khi biết rằng đó là thứ quả từ biển Đông dạt vào, quả nào cũng khắc tên An Tiêm gửi biếu vua cha, Hùng Vương lặng đi trong nỗi ưu tư và xúc động. An Tiêm ư? Nhà vua nhớ lại người con nuôi hiếu thảo, trung thực và khảng khái mà ông hằng yêu quý. Nhưng cũng chính An Tiêm đã làm ông nổi giận vì ân đức vua ban, người khác coi là quý giá, còn An Tiêm lại dửng dưng mà nói rằng: Của biếu là của lo, của cho là của nợ. Nói như thế, khác nào An Tiêm coi thường lộc vua ban? Phạm tội khi quân tày trời, phải chịu án lưu đày biệt xứ cũng đáng. Nhưng hình như ta đã nóng giận mà tàn nhẫn quá chăng? Đày ra hoang đảo mà không cho đem theo lương thực, áo quần, cấm tiệt cả cày cuốc cùng giống lúa, giống ngô thì vợ chồng con cái An Tiêm sẽ khó bề sống nổi. May mà trời đất phù hộ, không thì ta đã phạm tội giết hại bốn mạng người còn gì? Nhấp một ngụm trà thơm phức, nhà vua truyền lệnh cho quan hầu đem đến cho mình xem tận mắt thứ quả quý. Ngắm thứ quả hình tròn, màu xanh bóng, trên vỏ khắc rõ mấy chữ: Kính biếu vua cha và quê hương, vua Hùng mừng thầm trong lòng và cảm thấy cay cay nơi khoé mắt. Như thế là gia đình An Tiêm vẫn còn sống đến hôm nay..

<span class='text_page_counter'>(188)</span> An Tiêm đã tìm ra được giống quả quý và điều quan trọng hơn cả là chàng không hề oán hận vua cha. Trước mắt vua Hùng như hiển hiện cảnh đảo hoang trơ trọi giữa biển khơi. Gia đình An Tiêm phải hái quả rừng, mò trai hến ăn cho qua bữa. Trong tay chỉ có thanh gươm cùn, An Tiêm chắc đã phải đổ bao mồ hôi mới dựng nổi mái lều trú tạm. Rồi ngày ngày, tháng tháng, gia đình ấy vẫn sống giữa đói khổ, mưa gió, giữa muôn vàn hiểm nguy rình rập. Thế mà họ vẫn vượt qua được. Tất cả là nhờ ở nghị lực, trí tuệ và công sức của An Tiêm. Nhưng còn giống dưa quý hóa ấy từ đâu đến? Giữa mênh mông trời biển, làm gì có thuyền bè nào liên lạc với An Tiêm? Có lẽ là do trời xui đất khiến. Vận may đem đến cho hắn, giúp hắn vượt hiểm nghèo. Hắn vẫn còn nhớ đến quê hương, nhớ đến ta và gửi dưa về, như thế cũng là người biết trọng nghĩa tình sau trước. Trừng phạt hắn như vậy là đủ rồi. Chi bằng ta cho gọi hắn về, trăm họ sẽ học được nghề trồng dưa quý mà ta cũng không mang tiếng là hẹp hòi, cố chấp... Dứt mạch suy tư, vua Hùng truyền lệnh cho quân lính đem thuyền ra đảo đón gia đình An Tiêm trở lại quê hương. Nghĩ đến ngày sum họp, nhà vua không khỏi bồi hồi, xúc động. Câu 2. Các đề bài bổ sung: ĐÊ 2: Mượn lời một đồ vật hay con vật gần gũi với em để kể chuyện tình cảm giữa em và đồ vật hay con vật đó. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu nhân vật: - Mèo Mi Mi, một tuổi. - Từ quê lên thành phố ở với nhà chị Hằng. 2. Thân bài:.

<span class='text_page_counter'>(189)</span> * Diễn biến của chuyện: - Mẹ con chị Hằng về quê xin bà ngoại một con mèo. - Mèo Mi Mi làm quen với ngôi nhà mới. - Chị Hằng rất quý Mi Mi. Mỗi lần Mi Mi bắt được chuột, chị Hằng lại thưởng. Hai chị em thường quấn quýt bên nhau. 3. Kết bài: * Kết thúc chuyện: - Chị Hằng đi chơi xa, Mi Mi rất nhớ, mong chị mau về. II. BÀI LÀM Meo! Meo! Tôi xin tự giới thiệu tôi là mèo tam thể Mi Mi, vừa tròn một tuổi. Tôi về ở với chị Hằng đã được nửa năm rồi. Chuyện của tôi với chị Hằng đầu đuôi là thế này: Năm ngoái, nhà chị Hằng ở trên thành phố có nuôi một anh Mèo Mướp. Chị Hằng kể là anh Mèo Mướp bắt chuột rất tài. Lũ chuột cống, chuột nhắt cứ thấy bóng anh ấy là khiếp vía, tìm đường trốn chạy. Nhờ thế mà đồ đạc trong nhà đỡ bị cắn phá. Ai cũng quý, cũng yêu anh ấy. Nhưng rồi anh Mèo Mướp bị bọn trộm bắt mất. Lũ chuột được thể hoành hành dữ dội. Mẹ con chị Hằng phải về quê xin bà ngoại một con mèo khác. Đó chính là tôi. Phải xa mái nhà vốn đã quen thuộc, gắn bó, tôi thấy lòng nôn nao khó tả. Lên thành phố, lạ cảnh, lạ người, tôi sẽ sống ra sao? Nhưng nỗi băn khoăn ấy nhẹ hẳn đi khi chị Hằng đón tôi từ tay bà ngoại. Chị Hằng là một cô bé xinh xắn và lanh lợi. Chị ôm tôi vào lòng, thủ thỉ: - Mi Mi ngoan của chị! về với chị nhé! ôi, bộ lông của Mi Mi mới đẹp làm sao!.

<span class='text_page_counter'>(190)</span> Nghe chị Hằng khen, tôi thích lắm! Kể từ nay, chị Hằng sẽ là cô chủ nhỏ của tôi. Đường lên thành phố xa ơi là xa! Dễ đến mấy chục cây số. Lúc trời xẩm tối, mẹ con chị Hằng mới về đến nhà. Đèn điện bật sáng. Ồ! Tất cả đều lạ lùng đối với tôi! Căn nhà hơi chật mà lại nhiều đồ đạc thế kia thì lũ chuột tha hồ mà ẩn nấp. Suốt mấy ngày, tôi loanh quanh trong nhà, làm quen với nơi ở mới. Chị Hằng chăm sóc tôi rất kĩ. Lúc chị học bài, tôi nằm cạnh bàn, mắt lim dim. Học bài xong, trước lúc đi ngủ, bao giờ chị cũng vuốt ve và âu yếm trò chuyện với tôi như với đứa em mà chị thương yêu. Đáp lại tình cảm đặc biệt mà chị Hằng dành cho tôi, tôi cố làm tròn phận sự của mình. Sau những lần tôi bắt được chuột, chị Hằng đều dành cho tôi những phần thưởng xứng đáng. Chị Hằng yêu tôi và tôi cũng rất mến chị Hằng. Mấy ngày chị ấy cùng với các bạn trong lớp đi tham quan xa nhà, tôi nhớ lắm! Tôi thích nghe giọng nói dịu dàng của chị mỗi lúc chị khen: “ôi! Mi Mi của chị giỏi quá chừng! Lại đây với chị nào!”. ĐỀ 3: Thay ngôi kể để bộc lộ tâm tình của một nhân vật trong truyện cổ tích mà em yêu thích. (Ví dụ: Truyện Tấm Cám). I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu nhân vật và tình huống: - Sau khi hóa thân thành trái thị vàng, tôi (Tấm) được về ở với bà cụ hàng nước. Tuy sống trong cảnh đầm ấm, yêu thương nhưng tôi vẫn buồn vì nhớ đồng quê và mong được đoàn tụ với đức vua. 2. Thân bài: * Phát triển câu chuyện:.

<span class='text_page_counter'>(191)</span> - Tôi nhớ lại ngày còn ở nhà, tuy phải làm lụng vất vả nhưng cũng có niềm vui trong lao động. - Nhớ lại những kỉ niệm hạnh phúc khi sống bên cạnh đức vua. - Ao ước vợ chồng được đoàn tụ. 3. Kết bài: * Kết thúc câu chuyện: - Mong ước của tôi đã thành sự thật. Trên đường đi tìm tôi, đức vua ghé vào hàng nước, nhận ra miếng trầu têm cánh phượng và xin phép bà cụ đưa tôi về cung. II. BÀI LÀM Từ ngày về ở với bà cụ hàng nước, tôi được sống trong khung cảnh ấm cúng của gia đình. Bà cụ yêu quý tôi vô cùng, coi tôi như con đẻ. Còn tôi cũng coi bà như mẹ. Tôi quán xuyến lo toan hết mọi việc trong nhà. Bà cụ chỉ việc ngồi bán hàng. Sợ lộ tung tích, tôi không dám ra ngoài nhưng cứ quanh quẩn trong nhà mãi, cũng có lúc tôi cảm thấy trống trải, cô đơn. Những khi ấy, kỉ niệm lại xôn xao sống dậy... Tôi nhớ lại hồi còn ở nhà với dì ghẻ và đứa em cùng cha khác mẹ tên là Cám. Tôi phải làm lụng vất vả nhưng tôi còn được tự do lúc chăn trâu, cắt cỏ ngoài đồng hay xúc tép dưới ruộng. Khoan khoái biết bao giữa thiên nhiên tươi đẹp, gió thổi lồng lộng, nắng sớm long lanh. Dù đi đâu ở đâu, tôi vẫn nhớ và mong ước được trở lại với đồng quê, dẫu chỉ trong chốc lát. Tôi cũng bồi hồi tưởng tượng lại cảnh vật trong cung cùng với những ngày hạnh phúc tuyệt vời bên đức vua trẻ tuổi. Tất cả như hiển hiện rõ ràng trước mắt tôi. Ngày hội Xuân năm ấy, tôi bước lên thử hài trước bao con mắt ngưỡng mộ và ghen tị. Khi bàn chân tôi nằm gọn trong chiếc hài xinh đẹp, tất cả mọi.

<span class='text_page_counter'>(192)</span> người ồ lên kinh ngạc. Đức vua đã nhìn tôi âu yếm biết nhường nào! Buổi đầu gặp gỡ cũng là kỉ niệm hạnh phúc đầu tiên. Rồi những ngày đầm ấm trong cung, tôi ngồi têm trầu trên chiếc tràng kỉ, cạnh án thư. Đức vua chợt dừng đọc sách, đến ngồi bên tôi, cầm trên tay miếng trầu tôi vừa têm, đức vua ngắm nghía rồi vui vẻ hỏi: - Sao miếng trầu nàng têm lại có cánh thế này? - Tâu bệ hạ, têm trầu có nhiều cách. Thiếp têm trầu theo kiểu cánh phượng, vì thế mà miếng trầu trông xinh xắn hơn. Nhà vua khen: - Nàng có đôi bàn tay thật khéo léo! Ta chưa từng thấy ai têm trầu đẹp như nàng! Rồi những ngày yên vui ấy qua mau. Mẹ con mụ dì ghẻ bày mưu tính kế, quyết giết chết tôi cho bằng được. Tôi cũng đã chống trả đến cùng. Trong những ngày hoạn nạn, tôi hiểu thêm về sự chung tình của đức vua đối với tôi. Tôi không còn nữa, đức vua buồn lắm. Tuy có Cám thường xuyên chăm sóc nhưng đức vua vẫn nhớ tôi không nguôi. Đức vua yêu quý con chim Vàng Anh đến mức suốt ngày rủ rỉ trò chuyện với chim, chẳng đoái hoài gì đến Cám. Rồi chim Vàng Anh xinh đẹp bị mẹ con Cám độc ác ăn thịt, vứt lông ra ngoài vườn. Từ đống lông chim mọc lên hai cây xoan đào tươi tốt. Vua sai mắc võng giữa hai gốc xoan đào để nằm đọc sách và nhớ đến người vợ yêu quý của mình. Chim Vàng Anh và hai gốc xoan đào đều là hóa thân của tôi, cho nên tôi đã chứng kiến tất cả. Vì thế tôi càng thương nhớ đức vua. Ngồi têm trầu cho bà cụ hàng nước, tôi rưng rưng nhớ lại kỉ niệm xưa, nước mắt rơi trên miếng trầu cánh phượng. Tôi gửi vào những miếng trầu đẹp đẽ này bao niềm thương nỗi nhớ..

<span class='text_page_counter'>(193)</span> Ngày ngày, người qua kẻ lại vào hàng nước nghỉ chân, uống bát nước chè tươi hãm đặc, cầm miếng trầu lên, ai cũng tấm tắc khen sao mà khéo thế! Biết đâu, chẳng có ngày đức vua đi qua đây. Tôi vừa làm vừa suy nghĩ miên man và không nguôi hi vọng... Rồi một hôm, có chàng thư sinh ghé vào quán. Bà lão rót nước, đem trầu mời khách. Vừa nhìn thấy miếng trầu, người ấy đã nắm lấy tay bà lão hỏi dồn: - Bà ơi bà, trầu này ai têm mà khéc vậy? - À, của con gái bà têm đấy! Nghe tiếng lao xao ngoài quán tôi đứng nép trong buồng, hồi hộp lắng nghe. - Bà ơi, bà làm ơn cho tôi gặp người têm trầu! Nhất định người đó là Tấm rồi! Tôi đã tìm nàng khắp nơi mà không thấy. Chỉ có nàng mới têm được những miếng trầu cánh phượng này. Bà ơi con gái bà đâu? Hãy cho tôi được gặp nàng! Nghe lời cầu khẩn tha thiết của chàng thư sinh khôi ngô tuấn tú, bà lão xiêu lòng định lên tiếng gọi. Vừa lúc ấy tôi từ cửa bước ra. Chàng trai nhìn tôi ngỡ ngàng trong giây phút rồi nắm tay sung sướng, nghẹn ngào. Tôi cũng cảm động đến rơi nước mắt. Thì ra thương nhớ tôi khôn nguôi, đức vua đã cải trang thành một thư sinh, đi tìm khắp nơi. Miếng trầu cánh phượng đã thành chiếc cầu nối cho chúng tôi sum họp. Còn bà lão hàng nước hết sức ngạc nhiên vì cô gái trong quả thị hôm nào ai ngờ lại chính là hoàng hậu?! Bà chân thành chia sẻ niềm vui và cầu chúc cho chúng tôi mãi mãi hạnh phúc bên nhau. ĐỀ 4: Tưởng tượng đoạn kết mới cho một truyện cổ tích nào đó (chẳng hạn truyện Sọ Dừa, Cây bút thần, Cây tre trăm đốt...). I. DÀN Ý.

<span class='text_page_counter'>(194)</span> 1. Mở bài: * Phần đầu truyện: - Kể như phần đầu của truyện Cây tre trăm đốt. 2. Thân bài: * Phát triển truyện: - Anh Khoai vào rừng tìm cây tre trăm đốt. - Tìm mãi không được, anh hiểu ra thâm ý của lão nhà giàu. - Anh vội trở về nhà, giữa lúc tiệc cưới đang diễn ra linh đình. - Anh Khoai tức giận vạch mặt lão phú hộ tham lam, lật lọng. 3. Kết bài: * Kết thúc truyện: - Phú ông bẽ mặt trước mọi người. - Cô Út vốn yêu mến anh Khoai nên bằng lòng làm vợ anh. - Phú ông tức giận, thẳng tay trấn áp anh Khoai. II. BÀI LÀM Ngày xưa, có anh nông dân nghèo khổ, chất phác tên là Khoai đi ở cho lão phú hộ trong vùng. Anh bị lão dụ dỗ, lừa gạt để bóc lột sức lao động. Tin vào lời hứa của lão là sẽ gả con gái cho anh, anh cố gắng làm lụng, quên cả mệt nhọc, vất vả. Sau ba năm, lão phú hộ lật lọng lén gả cô út cho con trai một nhà giàu làng bên. Sợ anh Khoai biết, lão tiếp tục lập mưu lừa gạt, bắt anh phải lên rừng chặt cây tre trăm đốt mang về để vót đũa dùng trong cỗ cưới. Anh Khoai thật thà tin lời, lập tức vác dao vào rừng..

<span class='text_page_counter'>(195)</span> Nhưng đi hết khu rừng này đến khu rừng khác, anh tìm đâu cũng không ra cây tre có đủ trăm đốt. Buồn quá, anh ngồi bệt xuống một gốc cây, nghĩ ngợi miên man: “Vót đũa thì chỉ cần từng đốt tre là được, cần gì phải cả cây tre trăm đốt? Có lẽ lão phú hộ lừa ta đây, chứ làm gì có cây tre nào trăm đốt? Ta đã mất bao nhiêu công lao khó nhọc làm lụng cho lão, mong có ngày được lấy con gái lão làm vợ. Nàng xinh đẹp, ngoan ngoãn, ta yêu nàng... Nhất định ta phải lấy được nàng!”. Anh vội vã trở về nhà. Trên đường về, càng ngẫm nghĩ anh càng khẳng định là lão phú hộ rắp tâm lừa gạt anh. Suốt mấy năm trời, anh thức khuya dậy sớm, đổ bao mồ hôi để làm giàu cho lão. Vậy mà giờ đây, lão tính cướp trắng công sức của anh ư? Không! Không thể như thế được! Tiếng cười nói từ xa vọng tới khiến chân anh bước thêm nhanh. Anh tự nhủ may ra còn kịp. Trong sân có tới hàng trăm người dự lễ cưới. Đám cưới đang lúc náo nhiệt. Tiếng mời chào, tiếng bát đũa lanh canh. Lão phú hộ đang chạm cốc với lão thông gia, cả hai mặt đỏ phừng phừng vì men rượu. Đám đông mải mê ăn uống, không ai để ý đến anh. Anh Khoai đưa mắt tìm cô út. Kia rồi! Cô đứng nép bên cột nhà, vẻ mặt âu sầu, rầu rĩ. Anh Khoai biết rõ tình cảm của cô đối với mình. Thấy anh chăm chỉ, thật thà, cô đem lòng yêu mến nhưng vì sợ cha nên cô không dám công khai bày tỏ tình cảm của mình. Trong óc anh Khoai vụt loé lên ý nghĩ: “Phải rồi! Nếu nàng thực lòng yêu mình, nàng sẽ chống lại cuộc hôn nhân lừa gạt này”. Tình yêu giúp cho anh có thêm sức mạnh và lòng can đảm. Anh rẽ đám đông lách tới bên nàng. Gặp lại anh, nàng mừng khôn xiết. Anh Khoai cầm tay nàng, thong thả bước ra giữa sân. Đợi cho tiếng ồn ào lắng hẳn, anh mới dõng dạc nói:.

<span class='text_page_counter'>(196)</span> - Thưa tất cả bà con! Tôi làm thuê cho phú ông đã được ba năm. Phú ông có hứa với tôi rằng, nếu tôi chăm chỉ làm ăn, ông sẽ gả con gái cho tôi. Suốt ba năm ròng, nhờ công lao của tôi mà phú ông có lúa đầy bồ, có bò đầy chuồng. Nay ông ta trở mặt, tiếp tục lừa dối tôi bằng cách bắt tôi lên rừng kiếm cho được cây tre trăm đốt về vót đũa cưới, trong khi đó ông ta đem con gái gả cho người khác. Thử hỏi ông ta đối xử với tôi như thế có đúng hay không? Vả lại, tôi với nàng út đây đã ngầm thề ước với nhau kết thành chồng vợ. Xin bà con hai họ hãy nghe lời nàng nói! Quá sửng sốt trước sự việc xảy ra bất ngờ, phú ông luống cuống buông rơi chén rượu xuống sân vỡ tan. Mặt lão trắng bệch rồi tím bầm lại vì tức giận. Lão chỉ tay vào mặt anh Khoai, thét lớn: - Này thằng kia, mày đừng có mà nói láo! Con gái ta đời nào lại bằng lòng lấy một thằng khố rách áo ôm như mày?! Trước cơn thịnh nộ của phú ông, anh Khoai vẫn bình tĩnh đáp: - Thưa ông! Đó chính là sự thực. Không tin, ông hãy hỏi con gái ông sẽ rõ! Phú ông chưa kịp hỏi thì nàng út đã cất tiếng nhỏ nhẹ nhưng rành rọt: - Thưa cha! Con bằng lòng làm vợ anh Khoai. Anh ấy là một người thật thà, chăm chỉ. Con ao ước có được một người chồng như thế. Xin cha vui lòng cho phép! Nghe đến đây, phú ông tức sùi bọt mép. Lão quát đầy tớ lôi cô út vào trong nhà rồi sai gia nhân xông tới đánh đập và trói anh Khoai vào gốc cây sau vườn. Lòng sục sôi uất ức nhưng anh Khoai đành nuốt hận. Anh muốn kêu to lên cho thấu tới trời xanh nhưng trời cao thăm thẳm nghe sao được lời anh?! Sợi dây trói vẫn thít chặt vào thân thể anh đau nhức. Ngoài sân, tiếng cười ha hả đắc chí của lão nhà giàu như dùi nhọn chích vào trái tim chàng trai nghèo khổ..

<span class='text_page_counter'>(197)</span> Bài 14. * Con hổ có nghĩa * Động từ * Cụm động từ * Trả bài Tập làm văn số 3 CON HỔ CÓ NGHĨA (Truyện trung đại Việt Nam) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Truyện kể về hai con hổ có nghĩa: Hổ đực đền ơn bà đỡ Trần mười lạng bạc vì bà đã cứu hổ cái qua một cơn đẻ khó. Hổ trán trắng được bác tiều phu gỡ giúp khúc xương mắc ngang họng. Hôm sau, nó tha một con nai đến trước cửa nhà bác để tạ ơn. Hơn mười năm sau, bác tiều phu qua đời, nó đến tận mộ để vĩnh biệt ân nhân, Hằng năm, cứ đến ngày giỗ bác tiều phu, hổ trán trắng lại đưa dê hoặc lợn đến để trước nhà bác. * Về hình thức, đây cũng là một truyện ngụ ngôn điển hình, nhân hóa loài vật để lồng vào đó bài học đạo lí: làm người thì phải sống có tình có nghĩa. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Văn bản này thuộc thể văn gì? Có mấy đoạn? Mỗi đoạn nói gì? (a. Đây không phải là truyện dân gian truyền miệng mà là văn học viết thời trung đại (từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX). Truyện trung đại là thể loại được viết bằng văn xuôi chữ Hán, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại ngày nay: vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần với kí (ghi chép sự việc), gần với sử (ghi chép chuyện thật) và thường mang tính giáo huấn..

<span class='text_page_counter'>(198)</span> Cốt truyện đơn giản, nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. b. Những câu chuyện cảm động về hổ được kể trong hai đoạn văn có một kết cấu giống nhau: hổ (hoặc gia đình hổ) gặp nạn, người cứu hổ, hổ đền ơn. - Đoạn thứ nhất là câu chuyện giữa hổ đực và bà đỡ Trần ở huyện Đông Triều. Hổ đực đền ơn mười lạng bạc vì bà đỡ Trần đã cứu vợ con nó, số bạc ấy đã giúp bà sống qua năm mất mùa đói kém. - Đoạn thứ hai kể về chuyện đã xảy ra giữa hổ trán trắng và bác tiều phu ở huyện Lạng Giang. Hổ bị hóc xương, không thể nào lấy ra được. Nó đau đớn giãy giụa làm cỏ cây nghiêng ngả. Bác tiều phu đã giúp hổ lấy khúc xương ra khỏi họng. Hổ đền ơn bác tiều. Hơn mười năm sau, bác tiều qua đời, hổ đến bên quan tài tỏ lòng thương xót. Sau đó, mỗi năm cứ đến ngày giỗ bác là hổ lại đem dê hoặc lợn đến để trước cửa nhà.) Câu 2. Với văn bản này, biện pháp nghệ thuật cơ bản, bao trùm được sử dụng là biện pháp gì? Tại sao lại dựng lên chuyện “Con hổ có nghĩa” mà không phải là “Con người có nghĩa”? (a. Với văn bản này, biện pháp nghệ thuật cơ bản, được sử dụng là biện pháp nhân hóa. b. Tác giả dựng lên chuyện “Con hổ có nghĩa” mà không phải là “Con người có nghĩa” vì: Trong thực tế có những con vật sống rất có nghĩa với người (chó, ngựa...) nhưng chắc hẳn là không thể có hành động cao đẹp như hai con hổ trong truyện. Tưởng tượng ra hai con hổ có nghĩa đến mức lí tưởng như vậy, mục đích của tác giả là mượn chuyện hổ để nói chuyện con người.) Câu 3. Chuyện gì đã xảy ra giữa bà đỡ Trần (người huyện Đông Triều) với con hổ thứ nhất và giữa bác tiều (ở huyện Lạng Giang) với con hổ thứ hai?.

<span class='text_page_counter'>(199)</span> Trong mỗi chuyện, chi tiết nào em cho là thú vị? Chuyện con hổ với bác tiều so với chuyện con hổ với bà đỡ Trần có thêm ý nghĩa gì? (a. Khi bà đỡ Trần giúp cho hổ cái được mẹ tròn con vuông, sau những phút mừng rỡ đùa giỡn với con, hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy tay đào lên một cục bạc. Hành động đền ơn đáp nghĩa của nó diễn ra ngay tức thì, không chút đắn đo. Mà hổ đền ơn những hơn mười lạng bạc. Hổ tuy là một con vật nhưng lại biết cư xử có nghĩa có tình với người đã giúp gia đình nó vượt qua cơn hoạn nạn. Chi tiết thú vị là khi tiễn ân nhân về, hổ cúi đầu vẫy đuôi. Đến khi bà đỡ Trần đã đi khá xa, nó gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Đây là tiếng chào tiễn biệt, là lời cảm ơn chân thành của hổ đực đối với ân nhân. b. Cũng đáp đền ân nghĩa nhưng cách trả ơn của hổ trán trắng có khác. Sau khi được cứu giúp mấy ngày, nó đã mang một con nai đến đặt trước cửa nhà bác tiều phu để tạ ơn, cảm động nhất là mười năm sau, khi bác tiều phu qua đời, nó vẫn nhớ đến bác và về tận mộ để vĩnh biệt ân nhân của mình. Chi tiết thú vị là khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đứng trước mộ nhảy nhót... Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài, gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Không phải chỉ trong ngày bác tiều mất mà từ đó về sau, hằng năm tới ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa... Trong đoạn thứ hai, tác giả đặc tả ân nghĩa thủy chung của con hổ trán trắng qua hai tiếng gầm của nó: một tiếng gầm tỏ ý cảm ơn khi đem nai về cho bác tiều và một tiếng gầm tỏ ý tiếc thương để vĩnh biệt ân nhân. Tiếng gầm ấy cũng là lời hứa không bao giờ quên ơn người đã khuất. Hổ trán trắng đã làm đúng như lời hứa trước mộ bác tiều phu. c. Tưởng tượng ra hai con hổ có nghĩa đến mức lí tưởng như vậy mục đích chính của tác giả là mượn chuyện hổ để nói chuyện con người. Cái nghĩa.

<span class='text_page_counter'>(200)</span> của con hổ sau hơn hẳn so với con hổ trước. Hổ trước đền ơn một lần là xong; hổ sau đền ơn mãi mãi, lúc ân nhân còn sống và cả lúc ân nhân đã chết.) Câu 4. Truyện Con hổ có nghĩa đề cao, khuyến khích điều gì cần có trong cuộc sống con người? (Xưa nay, trong tâm thức của nhân dân ta, hổ là con vật dữ tợn nhất, thế mà chúng lại biết cư xử có nghĩa có tình như thế. Vậy thì con người phải sống sao đây? Cách nói bằng hình tượng nghệ thuật dễ tiếp thu hơn là lời giáo huấn khô khan: Là con người thì phải sống cho có tình có nghĩa. Đó cũng là bài học được tác giả gửi gắm một cách kín đáo và thấm thía trong câu chuyện này.) III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP ĐỀ: Em hãy kể về một con chó có nghĩa với chủ. Nếu chưa biết để kể thì hãy nhờ bố mẹ hoặc ai đó kể cho em nghe và từ đó viết vài lời cảm nghĩ. * Tham khảo bài viết dưới đây: I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu sơ lược về con chó: - Con chó của nhà em (hay của ai?). - Nuôi từ bao giờ? - Tên là gì? Mấy tuổi? Giống chó gì? Lớn hay nhỏ? 2. Thân bài: * Kể về chuyện con chó có nghĩa: - Tinh khôn, hiểu ý chủ, biết nghe lời. - Quấn quýt với mọi người trong gia đình. - Dũng cảm cứu chủ trong cơn hoạn nạn..

<span class='text_page_counter'>(201)</span> 3. Kết bài: * Nêu cảm nghĩ của em về con chó đó: - Nó là con chó có nghĩa có tình. - Cả nhà đều yêu mến và tin tưởng nó. II. BÀI LÀM Cách đây bốn năm, lúc em mới học lớp hai, ông ngoại cho một con chó nhỏ khoảng vài tháng tuổi, lông màu nâu sẫm. Em đặt tên cho nó là Lăc-ki. Lúc trưởng thành, Lăc-ki có thân hình rất đẹp: ngực nở, bụng thon, bốn chân cao và mảnh. Chiếc đầu nhỏ, đôi tai nhọn dựng đứng, cặp mắt tinh nhanh. Chiếc mũi ướt đánh hơi rất tài. Đã nhiều lần, nó tấn công và giết chết những con chuột cống đáng ghét dám mò vào bếp ăn vụng. Lăc-ki thông minh lắm. Dường như nó hiểu được tiếng người, hiểu được ý định của người sai khiến. Vì em chăm sóc Lăc-ki từ nhỏ nên nó gắn bó với em hơn cả. Trừ những lúc đi học, còn ở nhà thì em đi đâu, Lăc-ki cũng theo sát như hình với bóng. Nó rất thích chơi trò kéo co với em và phần thắng bao giờ cũng thuộc về nó. Vì Lăc-ki khỏe như vậy nên em còn đặt thêm cho nó biệt danh là Lực sĩ. Ban ngày, Lăc-ki nằm trước thềm nhà, mõm gác lên hai chân trước, mắt lim dim. Nó chẳng ngủ đâu mà đang trông nhà đấy! Một tiếng động nhẹ, một bóng người thoáng qua... nó đứng phắt lên, dỏng tai nghe ngóng. Tiếng sủa của Lăc-ki lớn và vang. Trông bộ dạng của nó lúc giận dữ, kẻ có tà ý phải lùi xa. Ban đêm, nó không hề ngủ, cứ đi loanh quanh để giữ nhà. Có nó, mọi người rất yên tâm. Ấy thế nhưng đối với người thân, Lăc-ki lại rất hiền. Nó thích bày tỏ tình cảm bằng cách bắt tay, ngoáy tít cái đuôi hay nằm khoanh dưới chân chờ lệnh..

<span class='text_page_counter'>(202)</span> Lòng trung thành của Lăc-ki đã để lại trong em một ấn tượng không thể nào quên. Mùa hè năm ngoái, vào một buổi chiều, bạn Quốc và bạn Tùng trong xóm rủ em ra kênh tắm. Con kênh đào dẫn nước ngọt tưới mát cho cả một vùng. Từ ngày có dòng kênh này, quê em bốn mùa phủ kín một màu xanh của lúa khoai, cây trái... Chiếc cầu bắc ngang kênh là nơi bọn con trai chúng em tụ tập vui chơi nô đùa hằng ngày. Chiều hôm ấy, chơi chán trò rồng rắn, trò đánh trận giả... cả đám ùa xuống dòng kênh té nước vào nhau và la hét vang trời. Sau đó, chúng em thách nhau bơi thi xem ai giỏi nhất. Vốn không sợ nước và bơi cũng khá nên em nhận lời ngay. Sau tiếng hô bắt đầu của cu Tèo, ba “vận động viên” nhảy ùm xuống kênh, trổ tài bơi lội. Chặng đầu tiên, em vượt lên trước Quốc và Tùng cả đoạn dài. Tính hiếu thắng trỗi dậy, em dồn sức bơi thật nhanh để về đích trước. Nhưng... Ôi! Sao chân trái của em tự nhiên cứng đờ và đau quá thế này! Em đã bị “chuột rút”. Không thể duỗi chân ra bơi tiếp được nữa nên em vội kêu to nhưng càng kêu, nước càng ộc vào miệng nhiều hơn. Em mất thăng bằng, lạng người đi rồi trôi theo dòng nước. Một ý nghĩ đen tối vụt hiện lên. Phen này chắc em chết mất! Trong cơn hoảng hốt, bỗng nhiên tay em quờ phải một vật gì đó mềm và ấm. Rồi hình như có ai đó túm chặt lấy áo em, cố lôi đi. Em định thần nhìn lại thì hóa ra là Lăc-ki, chú chó thân yêu. Nó đã dũng cảm lao xuống cứu em trong cơn nguy hiểm. Vừa lúc đó, Quốc và Tùng cũng đã đến kịp thời, cả ba dìu em vào bờ. Lăc-ki rùng mình rũ nước rồi mừng rỡ chạy quanh em, cất tiếng sủa vang. Được chứng kiến cảnh chú chó liều mình cứu chủ, ai cũng khen là con chó có nghĩa. Còn em và tất cả những người thân trong gia đình từ hôm ấy càng yêu quý Lăc-ki hơn..

<span class='text_page_counter'>(203)</span> ĐỘNG TỪ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần nắm được đặc điểm của động từ và các loại động từ chính. * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Tìm động từ trong truyện Lợn cưới, áo mới. Cho biết các động từ ấy thuộc những loại nào? (Các động từ trong truyện Lợn cưới, áo mới là: - Động từ tình thái: đem (đem ra mặc, đem ra ăn, đem ra đọc...) - Động từ chỉ hành động: khoe, may, đứng, mặc, chạy, khen, hỏi, thấy, giơ, bảo. - Động từ chỉ trạng thái: tức, tức tối.) * Câu 2. Đọc truyện vui sau và cho biết câu chuyện buồn cười ở chỗ nào? THÓI QUEN DÙNG TỪ Có anh chàng nọ tính tình rất keo kiệt. Một hôm, đi đò qua sông, anh chàng khát nước bèn cúi xuống, lấy tay vục nước sông uống. Chẳng may quá đà, anh ta lộn cổ xuống sông. Một người ngồi cạnh thấy thế, vội giơ tay ra, hét lên: - Đưa tay cho tôi mau! Anh chàng sắp chìm nghỉm nhưng vẫn không chịu nắm tay người kia. Bỗng một người có vẻ quen biết anh chàng chạy lại, nói: - Cầm lấy tay tôi này! Tức thì anh ta cố ngoi lên, nắm chặt lấy tay người nọ và được cứu thoát. Trong lúc anh chàng còn mê mệt, người nọ giải thích:.

<span class='text_page_counter'>(204)</span> - Tôi nói thế vì biết tính anh này. Anh ấy chỉ muốn cầm của người khác, chứ không bao giờ chịu đưa cho ai cái gì. (* Câu chuyện tạo ra tiếng cười do: - Sự đối lập về nghĩa giữa hai động từ đưa và cầm. - Từ sự đối lập nghĩa này, ta có thể thấy rõ sự tham lam, keo kiệt quá mức đến khó hiểu, không có trong thực tế của anh nhà giàu. Truyện THÓI QUEN DÙNG TỪ buồn cười ở chỗ: Anh chàng keo kiệt dù sắp chết đuối vẫn không bỏ được “thói quen” của mình: chỉ muốn cầm của người khác, chứ không bao giờ chịu đưa cho ai cái gì, mặc dù trong trường hợp này chỉ là đưa tay để người ta cứu. Truyện còn buồn cười ở chỗ: Một người biết rõ “thói quen” của anh ta nên đã nói: Cầm lấy tay tôi này. Câu nói này như truyền cho anh ta sức mạnh để cố ngoi lên, nắm chặt lấy tay người quen ấy và được cứu thoát. Truyện châm biếm và chế giễu loại người có thói keo kiệt đến mức quá đáng.) * Câu 3. Chính tả (nghe - viết): Con hổ có nghĩa (từ Hổ đực mừng rỡ... đến... làm ra vẻ tiễn biệt). (Chính tả: Viết đúng các chữ s / x và các vần ăn, ăng...). CỤM ĐỘNG TỪ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ * Học sinh cần hiểu thế nào là cụm động từ và cấu tạo của cụm động từ. * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Tìm các cụm động từ trong những câu sau:.

<span class='text_page_counter'>(205)</span> a) Em bé còn đang đùa nghịch ở sau nhà. (Theo Em bé thông minh) b) Vua cha yêu thương Mị Nương hết mực, muốn kén cho con một người chồng thật xứng đáng. (Theo Sơn Tinh, Thủy Tinh) c) Cuối cùng, triều đình đành tìm cách giữ sứ thần ở công quán để có thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh nọ. (Theo Em bé thông minh) (Các cụm động từ trong câu: a. còn đang đùa nghịch ở sau nhà (động từ trung tâm: đùa nghịch). b. Câu này có hai cụm động từ: - yêu thương Mị Nương hết mực (động từ trung tâm: yêu thương). - muốn kén cho con một người chồng thật xứng đáng (động từ trung tâm: kén). c. Câu này có ba cụm động từ: - đành tìm cách giữ sứ thần ở công quán để có thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh nọ (động từ trung tâm: tìm) - có thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh nọ (động từ trung tâm: có). - đi hỏi ý kiến em bé thông minh nọ (động từ trung tâm: hỏi).) * Câu 2: chép các cụm động từ nói trên vào mô hình cụm động từ. Phần trước. Phần trung tâm. còn đang. đùa nghịch. muốn. kén. Đành. tìm. Phần sau ở sau nhà cho con một người chồng xứng đáng cách giữ sứ thần ở công quán để có thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh nọ.

<span class='text_page_counter'>(206)</span> để. có. thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh nọ. đi. hỏi. ý kiến em bé thông minh nọ. * Câu 3. Nêu ý nghĩa của các phụ ngữ được in đậm trong đoạn dưới đây. Việc dùng các phụ ngữ này trước động từ miêu tả hành động của người cha và viên quan nói lên điều gì về trí thông minh của chú bé trong truyện Em bé thông minh? Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan [...]. Viên quan nghe cậu bé hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Quan thầm nghĩ, nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu mất công. (Em bé thông minh) (Hai phụ ngữ chưa và không đều có ý nghĩa phủ định. Chưa là sự phủ định tương đối, hàm nghĩa “không có đặc điểm X ở thời điểm nói, nhưng có thể có đặc điểm X trong tương lai”. Còn không là phủ định tuyệt đối, hàm nghĩa “không có đặc điểm X”. Cách dùng hai từ này đều cho thấy sự thông minh, nhanh trí của em bé: Cha chưa kịp nghĩ ra câu trả lời thì con đã đáp lại bằng một câu mà viên quan không thể trả lời được.) * Câu 4. Viết một câu trình bày ý nghĩa của truyện Treo biển. Chỉ ra các cụm động từ có trong đoạn văn đó. (Học sinh tự làm bài tập này.). TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 3 Đọc lại bài viết của em và chú ý đến các điểm sau đây: 1. Chuyện kể về ai? Bài làm giới thiệu nhân vật đã đủ rõ chưa? 2. Sự việc được lựa chọn có ý nghĩa thú vị như thế nào? Có chứng tỏ là em đã chịu khó quan sát và suy nghĩ không? Có gợi lên được không khí sinh hoạt và tính nết của con người hay không?.

<span class='text_page_counter'>(207)</span> 3. Các phần của bài có cân đối không? Phần Mở bài có gây được chú ý, phần Kết bài có làm cho ý nghĩa bài viết thêm nổi bật không? 4. Sửa các lỗi chính tả và lỗi diễn đạt trong bài.. Bài 15. * Mẹ hiền dạy con * Tính từ và cụm tính từ * Bài kiểm tra tổng hợp cuối học kì MẸ HIỀN DẠY CON (Trích Liệt nữ truyện) I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT Nội dung truyện gồm năm sự việc diễn ra giữa hai mẹ con thầy Mạnh Tử khi thầy còn nhỏ: - Sự việc 1: Nhà gần nghĩa địa, thấy con bắt chước người ta đào, chôn, lăn, khóc, bà mẹ nghĩ: Chỗ này không phải chỗ con ta ở được, nên dọn nhà ra gần chợ. - Sự việc 2: Nhà gần chợ, thấy con bắt chước học theo thói bán buôn điên đảo, bà mẹ nghĩ: Chỗ này cũng không phải là chỗ con ta ở được, nên dọn nhà đến cạnh trường học. - Sự việc 3: Nhà gần trường học, con bắt chước lễ phép, chăm chỉ học hành, bà mẹ vui lòng nói: Chỗ này là chỗ con ta ở được lâu dài. - Sự việc 4: Thấy nhà hàng xóm giết lợn, con hỏi mẹ: Người ta giết lợn làm gì thế? Mẹ nói đùa: Để cho con ăn đấy. Biết lỡ lời, bà đi mua thịt lợn về cho con ăn..

<span class='text_page_counter'>(208)</span> - Sự việc 5: Con đang đi học bỏ về nhà chơi. Mẹ cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt để ví với việc con đang đi học mà bỏ học. Sau khi nghe mẹ khuyên, con học tập rất chuyên cần. * Bà mẹ thầy Mạnh Tử là tấm gương sáng về tình thương con và đặc biệt là về cách dạy con. Bà đã tạo cho con một môi trường sống tốt đẹp, dạy con vừa có đạo đức, vừa có chí học hành. Bà rất thương con nhưng không nuông chiều, mà rất nghiêm khắc. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Lập bảng tóm tắt năm sự việc đã diễn ra giữa mẹ con thầy Mạnh Tử (thuở nhỏ): * Tham khảo bảng dưới đây:. sự. Con. việc. Nhà gần nghĩa địa: 1. Mẹ Không phải chỗ con ta ở được ->. Bắt chước người ta đào, chôn, lăn, Dọn nhà ra gần chợ. khóc. 2. Nhà gần chợ:. Cũng không phải chỗ con ta ở. Bắt chước thói bán buôn điên đảo.. được -> Dọn nhà đến ở cạnh trường học.. Nhà gần trường học: Học lễ phép, Bà mẹ mới vui lòng nói: 3. chăm chỉ.. Chỗ này là chỗ con ta ở được lâu dài.. Thấy nhà hàng xóm giết lợn, hỏi mẹ: Nói đùa: Để cho con ăn đấy. Biết 4. Người ta giết lợn làm gì thế?. lỡ lời, bà đi mua thịt lợn cho con ăn.. 5. Đang đi học, bỏ về nhà chơi -> sau khi Cầm dao cắt đứt tấm vải đang thấy mẹ cầm dao cắt đứt tấm vải thì dệt trên khung để ví với việc con.

<span class='text_page_counter'>(209)</span> học tập rất chuyên cần.. đang đi học mà bỏ học.. Câu 2. Ý nghĩa của việc dạy con trong ba sự việc đầu là gì? Trong hai sự việc sau là gì? ở hai sự việc sau, về ý nghĩa có gì khác so với ba sự việc đầu? Hãy nêu lên tác dụng cách dạy con của bà mẹ thầy Mạnh Tử. (a. Ý nghĩa của việc dạy con trong ba sự việc đầu là: - Môi trường sống ảnh hưởng rất lớn đến tính cách con người. * Ý nghĩa của việc dạy con trong hai sự việc sau là: - Đề cao chữ tín trong cuộc sống, - Tác dụng của hành động và lời nói của người lớn đối với con trẻ. b. Tác dụng cách dạy con của bà mẹ thầy Mạnh Tử: * Vấn đề mà bà mẹ thầy Mạnh Tử quan tâm trước hết trong việc dạy con là môi trường sống. - Phải tạo ra một môi trường sống trong sạch thì đứa con mới có điều kiện tiếp thu những mặt tích cực, lành mạnh, từ đó phát triển tính cách theo chiều hướng tốt. - Nếu môi trường sống không tốt thì con cái sẽ bị ảnh hưởng bởi những điều không tốt. Như khi nhà ở gần nghĩa địa, Mạnh Tử đã bắt chước người ta đào, chôn, lăn khóc. Đến lúc dọn nhà ra gần chợ thì lại bắt chước theo thói bán buôn điên đảo. - Chỉ khi dọn nhà đến cạnh trường học thì bà mẹ mới yên tâm: Chỗ này mới là chỗ con ta ở được lâu dài, vì Mạnh Tử đã bắt chước theo thái độ lễ phép và chăm chỉ học hành của học trò. Đúng là Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng như nhân dân ta vẫn nhắc nhở con cái. * Ở sự việc thứ tư, khi biết mình lỡ lời nói đùa, bà mẹ đã kịp thời chữa lại ngay. Không phải bà đính chính lại câu nói đùa mà bà đi chợ mua thịt lợn về cho con ăn..

<span class='text_page_counter'>(210)</span> - Bà muốn chứng tỏ câu nói của bà là đúng. Bà phải giữ chữ tín trước con trẻ vì bà nghĩ rằng con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng hóa ra ta dạy nó nói dối hay sao? Mà nếu để trẻ em học nói dối từ nhỏ thì sẽ hết sức nguy hiểm. - Cách dạy của bà mẹ thật khéo léo và tế nhị, giữ cho tâm hồn con trẻ trong sáng, hồn nhiên. Hơn thế, bà dạy con phải biết quý trọng chữ tín vì nếu mất chữ tín thì không ai tin mình cả và mình sẽ không thể làm tốt mọi việc. * Bên cạnh cách dạy dỗ khéo léo là thái độ kiên quyết. Phải nói rằng thái độ này của bà đã gây ấn tượng mạnh và có tác dụng tích cực đối với thầy Mạnh Tử. - Hành động, lời nói của bà mẹ xuất phát từ tình thương con, muốn con nên người. - Sự nghiêm khắc của bà mẹ có tác dụng rất lớn trong việc hướng con trai mình vào việc học tập chuyên cần để về sau trở nên bậc đại hiền. * Câu kết của truyện: Thế chẳng là nhờ có cái công giáo dục quý báu của bà mẹ hay sao? vừa là lời kể, vừa là lời bình của tác giả. Mạnh Tử trở thành người tài giỏi trước hết là nhờ công lao giáo dục và tình thương yêu của bà mẹ. Hành động kiên quyết (cắt đứt tấm vải đang dệt) và lời nói nghiêm khắc của bà mẹ đã thành ấn tượng sâu sắc, thành bài học nhớ đời cho thầy Mạnh Tử. Thấm thía lời mẹ dạy, từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần.) Câu 3. Em hình dung bà mẹ thầy Mạnh Tử là người như thế nào? (Bà mẹ thầy Mạnh Tử là tấm gương sáng về tình thương và cách dạy con. * Bài học rút ra từ truyện: - Dạy con trước hết phải chọn môi trường sống tốt cho con. - Dạy con trước hết phải dạy đạo đức làm người..

<span class='text_page_counter'>(211)</span> - Dạy đạo đức chưa đủ, còn phải dạy con lòng say mê học tập và ý chí phấn đấu trong cuộc sống. - Đối với con, không nên nuông chiều mà phải nghiêm khắc. Thái độ nghiêm khắc phải dựa trên tình yêu thương và mong muốn thiết tha con mình trở thành người có tài có đức.) Câu 4. Hãy đọc lại chú thích dấu sao (★) ở bài Con hổ có nghĩa, đoạn nói về cách viết truyện trung đại, từ đó nêu nhận xét về cách viết truyện Mẹ hiền dạy con. (Truyện Mẹ hiền dạy con nổi tiếng từ xưa ở Trung Quốc cũng như ở nước ta. Tuy ra đời sớm hơn truyện trung đại Việt Nam nhưng cũng tạm xếp vào cụm bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau, như cách viết kí, viết sử ở thời trung đại. Truyện viết theo thể loại văn xuôi (chữ Hán), truyện dùng biện pháp hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) kết hợp với cách viết kí (ghi chép sự việc) với sử (ghi chép chuyện thật). Cốt truyện đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể truyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật.) III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP Câu 1. Hãy phát biểu cảm nghĩ của em về sự việc: Bà mẹ thầy Mạnh Tử đang ngồi dệt vải, thấy con bỏ học về nhà chơi liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung. * Tham khảo ý kiến dưới đây: (Bà mẹ thầy Mạnh Tử đang ngồi dệt vải, thấy con bỏ học về nhà chơi liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung. Đây là hành động đã gây ấn tượng mạnh và có tác dụng tích cực đối với thầy Mạnh Tử, bày tỏ thái độ phê phán quyết liệt: Con đang đi học mà bỏ học thì cũng như ta đang dệt tấm vải này mà cắt đứt đi vậy. Tác hại của việc bỏ học của con được bà mẹ chứng minh một.

<span class='text_page_counter'>(212)</span> cách cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thấm. Bà mẹ phải đau đớn lắm mới nói như thế và cũng kiên quyết lắm mới cắt đứt tấm vải như thế. Tất cả đã thành ấn tượng không bao giờ quên, thành bài học nhớ đời cho thầy Mạnh Tử và từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần để sau này trở thành một bậc đại hiền. Người mẹ nào mà không thương con, nhưng không được nuông chiều thói hư tật xấu của con và phải biết dạy con bằng nhiều phương pháp linh hoạt: khi khéo léo, khi kiên quyết... Đây là bài học quý báu cho các bà mẹ.) Câu 2. Từ chuyện mẹ con thầy Mạnh Tử xưa, em có suy nghĩ gì về đạo làm con của mình? * Tham khảo ý kiến dưới đây: (Đạo làm con là đạo đức, là trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ. Các con phải biết vâng lời cha mẹ để cha mẹ vui lòng. Bổn phận làm con là phải một lòng nâng niu, kính mến, chăm sóc cha mẹ. Thực hiện đạo hiếu với cha mẹ phải bằng tình cảm chân thành, trọn vẹn và phải được thể hiện qua thái độ, lời nói và hành động. Kính yêu cha mẹ là tình cảm tự nhiên. Bổn phận, trách nhiệm và lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ là thước đo phẩm chất đạo đức đối với mỗi người.) * Câu 3. Có hai yếu tố Hán Việt đồng âm: - tử: chết - tử: con Hãy cho biết các kết hợp dưới đây được sử dụng với nghĩa nào? công tử, tử trận, bất tử, hoàng tử, đệ tử, cảm tử. (- công tử, hoàng tử, đệ tử: tử được sử dụng với nghĩa là con. - tử trận, bất tử, cảm tử: tử được sử dụng với nghĩa là chết.). TÍNH TỪ VÀ CỤM TÍNH TỪ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ.

<span class='text_page_counter'>(213)</span> * Học sinh cần hiểu đặc điểm của tính từ, cấu tạo của cụm tính từ. * Học thuộc phần Ghi nhớ trong SGK. II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP * Câu 1. Dưới đây là năm câu của năm ông thầy bói nhận xét về con voi (truyện Thầy bói xem voi). Tìm cụm tính từ trong các câu ấy. a) Nó sun sun như con đỉa. b) Nó chần chần như cái đòn càn. c) Nó bè bè như cái quạt thóc. d) Nó sừng sững như cái cột đinh. đ) Nó tun tủn như cái chổi sể cùn. (Các cụm tính từ có trong câu là: a) sun sun như con đỉa. Tính từ: sun sun. b) chần chẫn như cái đòn càn. Tính từ: chần chẫn. c) bè bè như cái quạt thóc. Tính từ: bè bè. d) sừng sững như cái cột đình. Tính từ: sừng sững. đ) tun tủn như cái chổi sể cùn. Tính từ: tun tủn.) * Câu 2. Việc dùng các tính từ và phụ ngữ so sánh trong những câu trên có tác dụng phê bình và gây cười như thế nào? - Xét về mặt cấu tạo, tính từ trong những câu trên thuộc kiểu cấu tạo nào? Từ đó cấu tạo như vậy thường có tác dụng gì? - Hình ảnh mà các tính từ trên gợi ra có lớn lao, khoáng đạt không? - Các sự vật được dem so sánh với con voi là những sự vật như thế nào? Điều đó nói lên đặc điểm gì của năm ông thầy bói?.

<span class='text_page_counter'>(214)</span> (Xét về mặt cấu tạo, các tính từ nêu trên đều là từ láy, có tác dụng gợi hình, gợi cảm, gợi ra hình dáng, kích thước, đặc điểm, tính chất của sự vật một cách khá cụ thể. - Hình ảnh mà các tính từ trên gợi ra đều là những sự vật tầm thường, không tương xứng với việc nhận thức một sự vật to lớn, lạ lẫm như con voi. (Trừ trường hợp so sánh chân voi như cái cột đình). - Điều đó nói lên đặc điểm chung của năm ông thầy bói là nhận thức hạn hẹp, đánh giá chủ quan.) * Câu 3. Trong truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng, ông lão tội nghiệp phải ra biển năm lần để cầu xin con cá thỏa mãn lòng tham không đáy của vợ. Mỗi lần như vậy, biển xanh được tả một khác. Hãy so sánh cách dùng động từ và tính từ trong năm câu văn tả biển ấy và cho biết những khác biệt đó nói lên điều gì. - Lần 1 (xin cái máng lợn mới): Biển gợn sóng êm ả. - Lần 2 (xin một ngôi nhà mới): Biển xanh nổi sóng. - Lần 3 (xin cho vợ làm nhất phẩm phu nhân): Biển xanh nổi sóng dữ dội. - Lần 4 (xin cho vợ làm nữ hoàng): Biển nổi sóng mù mịt. - Lần 5 (xin cho vợ làm Long vương): Một cơn dông tố kinh khủng kéo đến, mặt biển nổi sóng ầm ầm. (Động từ và tính từ được dùng trong những lần sau có ý nghĩa tăng cấp về mức độ, mang tính chất mạnh mẽ, dữ dội hơn lần trước, thể hiện sự bất bình ngày càng tăng của con cá vàng trước những đòi hỏi mỗi lúc một quá quắt của mụ đàn bà tham lam. So sánh: - gợn sóng êm ả -> nổi sóng -> nổi sóng mù mịt -> nổi sóng ầm ầm.).

<span class='text_page_counter'>(215)</span> Câu 4. Quá trình thay đổi từ không đến có, rồi từ có đến không trong đời sống của vợ chồng người đánh cá (truyện ông lão đánh cá và con cá vàng) thể hiện qua cách dùng các tính từ trong những cụm danh từ sau đây như thế nào? a) cái máng lợn đã sứt mẻ -> một cái máng lợn mới -> cái máng lợn sứt mẻ. b) một túp lều nát -> một ngôi nhà đẹp -> một tòa lâu đài to lớn -> một cung điện nguy nga -> túp lều nát ngày xưa. (Quá trình thay đổi từ không có -> không trong đời sống vợ chồng ông lão đánh cá được thể hiện qua cách dùng tính từ trong những cụm tính từ. - sứt mẻ -> mới -> sứt mẻ - nát -> đẹp to lớn -> nguy nga -> nát Những tính từ được dùng lần đầu phản ánh cuộc sống nghèo khổ. Mỗi lần thay đổi tính từ là mỗi lần cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng cuối cùng tính từ dùng lần đầu được dùng lặp lại thể hiện sự trở lại như cũ.) BÀI KIỂM TRA TỔNG HỢP CUỐI HỌC KÌ I I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN CHÚ Ý SGK đã viết rõ và cụ thể các phần Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn để các em chú ý khi ôn tập. Cụ thể là: 1. Về phần Văn (Đọc - hiểu văn bản) - Nắm được đặc điểm các thể loại truyện đã học: truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, truyện trung đại Việt Nam (phần kiến thức). - Nắm được nội dung cụ thể của mỗi truyện: nhân vật, cốt truyện, một số chi tiết tiêu biểu và ý nghĩa của truyện. - Nắm được sự biểu hiện cụ thể của đặc điểm thể loại ở mỗi truyện đã học..

<span class='text_page_counter'>(216)</span> * Đọc kĩ phần KIẾN THỨC CẦN NHỚ. 2. Về phần Tiếng Việt - Nắm được kiến thức về cấu tạo từ; từ mượn; ý nghĩa của từ và hiện tượng chuyển nghĩa của từ; các từ loại; cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ. Biết vận dụng kiến thức về tiếng Việt khi viết và khi đọc - hiểu các văn bản chung ở phần Văn, cũng như khi tạo lập các kiểu văn bản đã học ở phần Tập làm văn. 3. Về phần Tập làm văn - Nắm được các kiến thức chung về văn tự sự: bản chất, mục đích, dàn bài, ngôi kể, thứ tự kể... - Biết cách làm một bài văn tự sự: kể lại một câu chuyện dân gian đã học, kể lại một chuyện trong đời sống hằng ngày, kể lại một câu chuyện tưởng tượng. * Đọc kĩ những dàn bài và bài viết mẫu, từ đó tự viết thành bài văn của mình. II. HƯỚNG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ 1. Hướng kiểm tra, đánh giá là hướng tích hợp dựa vào cùng một hệ thống văn bản chung cho cả 3 phần: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn trong môn Ngữ văn. Các em cần nhớ điều này để khi ôn tập biết liên hệ và gắn các kiến thức của mỗi phân môn với các văn bản chung có trong SGK. 2. Đề bài có sự thay đổi mới theo cách học tích hợp để kiểm tra toàn diện hơn và đánh giá đầy đủ hơn. Vì vậy không phải là một bài Tập làm văn (như trước đây thường có) mà là một bài kiểm tra tổng hợp gồm 2 phần: phần trắc nghiệm nhằm kiểm tra các kiến thức về Đọc - hiểu văn bản, về Tiếng Việt; phần tự luận nhằm kiểm tra kiến thức và kĩ năng Tập làm văn qua một bài (đoạn) văn ngắn. Đề bài kiểm tra các kiến thức đã học, vì thế các em không nên học tủ, học lệch mà phải ôn tập toàn diện..

<span class='text_page_counter'>(217)</span> 3. Sự đổi mới trong đề bài tham khảo của SGK: - Phần trắc nghiệm: Từ một đoạn văn trong một văn bản đã học (Sơn Tinh, Thủy Tinh), đề bài nêu lên chín câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra những kiến thức cơ bản về Văn, Tiếng Việt (và cả Tập làm văn): phương thức biểu đạt, ngôi kể, thứ tự kể, mục đích kể, cụm động từ, cụm danh từ, từ láy, từ mượn, cách giải thích nghĩa của từ. - Phần tự luận: Đề yêu cầu “Kể lại truyện Con hổ có nghĩa theo vai bà đỡ Trần”. Như vậy là xuất phát từ một câu chuyện đã học (phần Văn), lại thay đổi ngôi kể và lời kể, do đó phải xác định được phần kể là phần nào trong truyện (yêu cầu của phần Tập làm văn). Học sinh không nhớ văn bản truyện và không nắm được ngôi kể, lời kể trong văn tự sự thì sẽ không làm được bài. III. TỰ LÀM BÀI KIỂM TRA THEO SÁCH GIÁO KHOA Đề bài (gồm hai phần) PHẦN I: Trắc nghiệm Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bằng cách khoanh tròn vào chữ cái của câu trả lời đúng nhất trong bốn câu trả lời sau mỗi câu hỏi. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh. Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước. (Sơn Tinh, Thủy Tinh) 1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức biểu đạt chính nào? A - Biểu cảm B - Tự sự C - Miêu tả.

<span class='text_page_counter'>(218)</span> D - Nghị luận 2. Người kể trong đoạn văn trên ở ngôi thứ mấy? A - Ngôi thứ nhất B - Ngôi thứ hai C - Ngôi thứ ba D - Ngôi thứ nhất số nhiều 3. Đoạn văn trên nhằm mục đích gì? A - Tả cảnh sông nước. B - Kể người và việc. C - Nêu cảm nghĩ về lụt lội. D - Bàn về tác hại của lụt lội. 4. Đoạn văn trên được kể theo thứ tự nào? A - Theo thứ tự thời gian (trước, sau). B - Theo kết quả trước, nguyên nhân sau. C - Theo vị trí trên núi trước, dưới nước sau. D - Không theo thứ tự nào. 5. Trong câu “Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi” có mấy cụm động từ? A-Một cụm B - Hai cụm C - Ba cụm D - Bốn cụm.

<span class='text_page_counter'>(219)</span> 6. Trong câu “Thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước” có mấy cụm danh từ? A-Một cụm B - Hai cụm C - Ba cụm D - Bốn cụm 7. Trong đoạn văn trên có bao nhiêu từ láy ? A - Một từ B - Hai từ C - Ba từ D - Bốn từ 8. Trong các từ sau đây, từ nào là từ mượn? A - dông bão B - Thuỷ Tinh C - cuồn cuộn D - biển 9. Nghĩa của từ lềnh bềnh được giải thích dưới đây theo cách nào? lềnh bềnh: ở trạng thái nổi hẳn lên trên bề mặt và trôi nhẹ nhàng theo làn sóng, làn gió. A - Miêu tả sự vật, hành động mà từ biểu thị. B - Trình bày khái niệm mà từ biểu thị. C - Đưa ra từ đồng nghĩa với từ cần giải thích. D - Đưa ra từ trái nghĩa với từ cần giải thích..

<span class='text_page_counter'>(220)</span> Sau khi học sinh tự làm, có thể xem lại phần gợi ý sau: GỢI Ý. Câu số. Đáp án. Câu số. Đáp án. Câu số. Đáp án. 1. B. 4. A. 7. C. 2. C. 5. C. 8. B. 3. B. 6. B. 9. A. PHẦN II. Tự luận ĐỀ: Hãy đóng vai bà đỡ Trần trong truyện Con hổ có nghĩa để kể lại câu chuyện ấy. I. DÀN Ý 1. Mở bài: * Giới thiệu nhân vật: - Tôi họ Trần, quê ở huyện Đông Triều. - Làm nghề đỡ đẻ đã mấy chục năm. * Giới thiệu hoàn cảnh: - Vào một đêm, tôi đang ở nhà thì đột nhiên hổ xuất hiện cõng tôi vào rừng. - Tôi lo sợ, hoảng hốt đến ngất đi. 2. Thân bài: * Diễn biến của chuyện: - Hổ đực cõng tôi vào rừng, nhờ tôi đỡ đẻ cho hổ cái trong tình trạng nguy kịch. - Tôi quan sát và giúp đỡ hổ cái. Hổ cái sinh được một chú hổ con. - Hổ đực đền ơn tôi bằng một cục bạc lớn..

<span class='text_page_counter'>(221)</span> - Nhờ cục bạc đó, tôi sống qua nạn đói. 3. Kết bài: * Kết thúc chuyện: - Hổ tuy là loài vật nhưng rất có nghĩa có tình, biết quý trọng và trả ơn ân nhân của mình. II. BÀI LÀM Tôi họ Trần, người huyện Đông Triều, làm nghề đỡ đẻ đã mấy chục năm nay. Kể ra thì cũng có đến hàng trăm đứa trẻ trong vùng được hai bàn tay tôi đón ra chào đời. Một đêm nọ, tôi đã lên giường đi ngủ, chợt nghe có tiếng gõ cửa dồn dập rất lạ. Tôi mở cửa ra nhìn thì chẳng thấy một ai. Vừa định quay vào nhà thì một con hổ lao tới cõng tôi chạy vào rừng. Tôi sợ quá ngất đi. Tỉnh dậy, tôi thấy một con hổ cái đang lăn lộn, móng vuốt của nó cào bới liên tục trên mặt đất. Tưổng hổ sắp ăn thịt mình, tôi khiếp hãi đứng im, không dám nhúc nhích. Chợt con hổ đực cầm lấy tay tôi, mắt nó nhìn tôi như van lơn, cầu khẩn. Tôi nhìn kĩ bụng hổ cái thì thấy như có cái gì đang động đậy. Với kinh nghiệm của nghề đỡ đẻ, tôi biết là nó sắp sinh con. Tôi xoa bụng cho nó để giúp nó dễ sinh. Lát sau, một chú hổ con xinh xắn ra đời. Hổ bố mừng lắm, âu yếm đùa giỡn với con; còn hổ mẹ mệt mỏi nằm phục xuống trên mặt cỏ. Rồi hổ bố đi đến một gốc cây to, lấy chân trước đào bới và lôi lên một cục bạc lớn. Nó đưa cho tôi với ý tạ ơn. Tôi nhận cục bạc rồi theo hổ bố ra khỏi rừng. Được một quãng, tôi nói: Xin chúa rừng hãy quay về! Hổ bố cúi đầu vẫy đuôi, tỏ vẻ tiễn biệt và cứ đứng nhìn theo. Đi đã khá xa, tôi quay lại thì hổ bố gầm lên một tiếng rồi trỏ vào rừng, về nhà, tôi cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, nạn đói diễn ra khắp nơi. Nhờ số bạc hổ trả ơn, tôi sống được qua kì đói kém..

<span class='text_page_counter'>(222)</span> Bài 16. * Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng * Chương trình địa phương (phần Tiếng Việt); Rèn luyện chính tả * Hoạt động Ngữ văn: Thi kể chuyện THẦY THUỐC GIỎI CỐT NHẤT Ở TẤM LÒNG I. TÓM TẮT NỘI DUNG - NGHỆ THUẬT * Truyện kể về Thái y lệnh Phạm Bân, một bậc lương y chân chính đã mang hết tiền của để cứu dân lành, ông là tấm gương sáng ngời về y đức của người thầy thuốc. * Truyện có đầy đủ cốt truyện, nhân vật, được kể theo trình tự thời gian. Nhân vật chính có tính cách rõ nét, bộc lộ qua các tình huống chứa đựng mâu thuẫn. Lối kể chuyện rành mạch, tự nhiên, hấp dẫn. II. HƯỚNG DẪN: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Hãy kể ra những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm. Từ đó: a) Trả lời các câu hỏi sau: - Vị Thái y lệnh là người như thế nào? - Trong những hành động của ông, điều gì làm em cảm phục nhất và suy nghĩ nhiều nhất? b) Phân tích, bình luận lời đối thoại của vị Thái y với quan Trung sứ: Ngài đáp: Tôi có mắc tội... tôi xin chịu tội. (a. Những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm:.

<span class='text_page_counter'>(223)</span> - Là một vị “quan thầy thuốc” cao nhất ở trong triều nhưng Phạm Bân rất quan tâm giúp đỡ, chữa trị cho những bệnh nhân nghèo khổ. - Phạm Bân đã đem hết tiền của trong nhà ra mua thuốc tốt, tích trữ thóc gạo để vừa nuôi ăn, vừa chữa bệnh cho người nghèo. Dầu bệnh có nặng đến đâu, ông cũng không né tránh, ông làm nhà cho người bệnh ở, chu cấp cơm cháo đầy đủ và chữa bệnh không lấy tiền, ông đã cứu sống hơn ngàn người trong những năm đói kém, dịch bệnh. - Ông đã quyết tâm cứu sống người đàn bà nghèo trước rồi sau đó mới chữa bệnh cho quý nhân trong cung vua, dù đã có lệnh của vua. - Khi vào cung, ông đến yết kiến Trần Anh vương và xin nhận tội vì đã không vào triều ngay, nhưng nhà vua chẳng những không bắt tội mà còn khen ông là một lương y chân chính. Qua đó ta thấy: - Vị Thái y lệnh là một thầy thuốc vừa giỏi về chuyên môn, vừa giàu lòng nhân ái, tận tụy cứu chữa cho bệnh nhân, ông là người có y đức cao quý. - Trong hành động của ông, điều làm ta cảm phục nhất là ông đã dùng nhà mình làm “bệnh xá” rồi nuôi cơm, cấp thuốc cho mọi người mà không nề hà bẩn thỉu, tốn kém. Trước bệnh nhân, ai nguy kịch hơn thì ông chữa trước, ai nhẹ bệnh hơn thì ông chữa sau, bất kể giàu nghèo. b. Qua lời đối thoại của vị Thái y với quan Trung sứ: Ngài đáp: Tôi có mắc tội... tôi xin chịu tội. - Đây là một tình huống thử thách gay go đối với y đức và bản lĩnh của vị Thái y lệnh. Thái độ và lời nói của quan Trung sứ đã đặt Thái y lệnh trước những mâu thuẫn quyết liệt, cần có sự lựa chọn để tìm ra giải pháp đúng đắn nhất: + Giữa việc cứu người dân thường lâm bệnh nặng nếu không cứu ngay thì sẽ chết với việc thi hành phận làm tôi, ông sẽ chọn việc nào làm trước?.

<span class='text_page_counter'>(224)</span> + Giữa tính mệnh của người dân thường lâm bệnh nguy cấp với tính mệnh của chính mình trước quyền uy của nhà vua, ông sẽ chọn bên nào? - Lời đáp của Thái y lệnh với quan Trung sứ chứng tỏ ông đã vượt qua thử thách đó rất nhẹ nhàng. Lời đáp của ông đã bộc lộ nhân cách tốt đẹp và bản lĩnh cứng cỏi của ông: + Quyền uy không thắng nổi y đức. + Tính mệnh của cá nhân đặt dưới tính mệnh của người dân thường lâm bệnh nguy cấp. + Ngoài y đức và bản lĩnh, ở Thái y lệnh Phạm Bân còn có sức mạnh và vẻ đẹp của trí tuệ. Câu nói: Nếu người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần còn trông vào chúa thượng, may ra thoát vừa thể hiện y đức, bản lĩnh, vừa thể hiện sự thông minh nhanh nhạy trong cách ứng xử. Bởi nói như vậy, ông vẫn giữ được phận làm tôi, mặc dù đã không tuân theo lệnh của vua. Vả lại, nếu vua là người có lương tâm và lương tri, chắc chắn sẽ không trị tội Thái y lệnh Phạm Bân.) Câu 2. Trước cách xử sự của vị Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương diễn biến như thế nào? Qua đó, nhân cách của Trần Anh Vương được thể hiện ra sao? (Lúc đầu, nhà vua rất tức giận, nhưng sau khi nghe Thái y lệnh trình bày thì không những hết giận mà còn ban khen. Điều đó chứng tỏ Trần Anh Vương cũng là một ông vua sáng suốt và nhân đức. Phạm Bân lấy tấm lòng chân thành của mình để giải trình điều hơn lẽ thiệt, từ đó thuyết phục được nhà vua. Đây là thắng lợi vẻ vang của y đức, của bản lĩnh, trí tuệ và lòng nhân ái.) Câu 3. Qua câu chuyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng có thể rút ra cho những người làm nghề y hôm nay và mai sau bài học gì?.

<span class='text_page_counter'>(225)</span> (Qua câu chuyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng, có thể rút ra cho những người làm nghề y hôm nay và mai sau bài học: Phải hết lòng vì dân nghèo, quên mình để cứu người, bất chấp quyền uy cũng như sự nguy hiểm đến tính mạng bản thân. Thầy thuốc phải như mẹ hiền.) Câu 4. Hãy so sánh nội dung y đức được thể hiện ở văn bản truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng với văn bản kể về Tuệ Tĩnh như thế nào? (a. Cả hai văn bản đều ca ngợi y đức cao đẹp của người thầy thuốc trước những quyền lực tối thượng, thông qua hai tình huống gần giống nhau. b. Tuy nhiên, so với văn bản kể về Tuệ Tĩnh (trang 44, SGK) thì ở văn bản truyện này, nội dung y đức được thể hiện phong phú, sâu sắc hơn. - Truyện về Thái y lệnh họ Phạm, ngoài câu chuyện nhà vua triệu ông về cung chữa bệnh cho bậc quý nhân thì còn có những chuyện ông tận tâm cứu giúp bệnh nhân nghèo và uy tín, đạo đức của ông để lại cho con cháu đời sau. Trong khi đó, truyện Tuệ Tĩnh chỉ kể về cách xử sự của bậc danh y này khi nhà quý tộc đến để mời đi chữa bệnh. - Tình huống xảy ra đối với Thái y lệnh Phạm Bân so với Tuệ Tĩnh cũng gay cấn hơn nhiều vì đây là cuộc đối đầu giữa y đức với quyền lực tối thượng của nhà vua. Còn ở trường hợp Tuệ Tĩnh, chỉ mới là cuộc đụng độ giữa y đức với uy thế của một vị quý tộc. - Cuộc đụng độ trực tiếp giữa Thái y lệnh Phạm Bân với quan Trung sứ của nhà vua cũng gay gắt hơn so với cuộc đụng độ giữa Tuệ Tĩnh với con của nhà quý tộc. Bởi, người con của vị quý tộc chỉ muốn đặt Tuệ Tĩnh vào cái thế “đã rồi” để ép buộc. Còn quan Trung sứ của nhà vua thì đe dọa tính mệnh của Thái y lệnh Phạm Bân.) III. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP.

<span class='text_page_counter'>(226)</span> * Câu 1. Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương phải như thế nào? Hãy so sánh nội dung đó với nội dung trong lời thề của Hi-pôcờ-rát được trích ở phần đọc thêm. (Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương phải dốc toàn tâm, toàn ý, toàn lực để cứu người mà không nề hà, không tính toán thiệt hơn. Nội dung trong lời thề của Hi-pô-cờ-rát là không lấy tiền thù lao quá đáng và sẽ săn sóc miễn phí cho người nghèo. So sánh sự giống và khác nhau giữa hai người: + Giống nhau: cả hai đều là bậc lương y chân chính, hết lòng vì dân nghèo, quên mình để cứu người. + Khác nhau: Thái y lệnh không sợ nguy hiểm đến tính mạng của mình.) * Câu 2. Nhan đề văn bản này nguyên văn chữ Hán là Y thiện dụng tâm (y: chữa bệnh, thầy thuốc; thiện: giỏi, tốt, lành; dụng: dùng, đem dùng; tâm: lòng, tấm lòng). Có sách dịch nhan đề trên là Thầy thuốc giỏi ở tấm lòng, ở đây dịch: Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Vậy có gì khác nhau? Em tán thành cách nào? Lí do? (Nếu dịch là Thầy thuốc giỏi ở tấm lòng thì dường như có ý khẳng định chỉ cần có tấm lòng là đủ; trong khi đó, người thầy thuốc giỏi vừa phải có tấm lòng vừa phải có tài năng. Trong thực tế, có những thầy thuốc có lòng nhân ái nhưng tay nghề yếu. Ngược lại, có thầy thuốc tay nghề giỏi mà y đức lại kém. Cả hai trường hợp đó đều chưa đạt yêu cầu lí tưởng. Thầy thuốc giỏi phải có cả tài và đức nhưng trong đó phải lấy tấm lòng làm gốc rễ. Cách dịch: Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng là đúng nhất.) CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA PHƯƠNG (Phần tiếng Việt) RÈN LUYỆN CHÍNH TẢ I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ 1. Đối với một số tỉnh miền Bắc:.

<span class='text_page_counter'>(227)</span> Các phụ âm đầu và phần vần khi phát âm và viết chính tả dễ mắc lỗi: - Phụ âm đầu tr / ch. Ví dụ: tra xét, trầm tĩnh, trại giam, trơ trụi, trợ cấp, trách nhiệm, trật tự,... / chặt chẽ, chắc chắn, chắt lọc, chọn lựa, chuyển dịch,... - Phụ âm đầu s / x. Ví dụ: sáng tạo, sản xuất, sang trọng, sôi nổi, sỏi đá, sung sướng, sáo sậu, sấp ngửa,... / xô đẩy, xì xào, xa cách, xương xẩu, xó xĩnh,... - Phụ âm đầu r / d / gi. Ví dụ: rừng rực, rùng rợn, bịn rịn, bứt rứt, rầm rập,... / do thám, dính dáng, dò la, dông dài,... / giở ra, giỗ tết, giương buồm,... - Phụ âm đầu l/n. Ví dụ: la hét, lo liệu, lo sợ, lập nghiệp, luật pháp, luận điểm, lẫn lộn, lợi ích,... / nêu lên, nương tựa, nảy sinh, nan giải, nô lệ, nóng bức,... 2. Đối với các tỉnh miền Trung, miền Nam: Đọc và viết đúng: - Vần -ac, -at, -ang, -an. Ví dụ: lệch lạc, nhếch nhác, xệch xạc / ran rát, man mát / khang khác, thênh thang / lạy van, phân tán,... - Vần -ươc, -ươt, -ương, -ươn. Ví dụ: dược liệu, được thua, cá cược, mưu chước / lướt thướt, xanh mướt / thường dân, vương quốc, học đường, hướng dương / con lươn, lượn lờ, vay mượn,... - Thanh hỏi / ngã. Ví dụ: thủ thỉ, phấn khởi, đầy đủ, ngái ngủ, của cải / sợ hãi, lỗi lầm, dễ chịu, mũm mĩm,... 3. Riêng với các tỉnh miền Nam: Đọc và viết đúng: - Phụ âm đầu v / d. Ví dụ: vạm vỡ, vanh vách, vênh váo, vi vu, vụng về, vớ vẩn / dô hò, du thuyền, chu du, cơn dông,... II. THỰC HÀNH: LUYỆN TẬP.

<span class='text_page_counter'>(228)</span> * Câu 1. Điền tr/ch, s /x, r/d/gi, l/n vào chỗ trống: - ...ái cây, ...ờ đợi, ...uyển chỗ, ...ải qua, ...ôi chảy, ...ơ trụi, nói ...uyện, chương ...ình, ...ẻ tre. - ...ấp ngửa, sản ...uất, ...ơ sài, bổ ...ung, ...ung kích, ...ua đuổi, cái ...ẻng, ...uất hiện, chim ...áo, ...âu bọ. - ...ũ rượi, ...ắc rối, ...ảm giá, giáo ...ục, rung ...inh, rùng ...ợn, ...ang sơn, rau ...iếp, ...ao kéo, ...ao kèo, ...áo mác. - ...ạc hậu, nói ...iều, gian ...an, ...ết na, ...ương thiện, ruộng ...ương, ...ỗ chỗ, lén ...út, bếp ...úc, ...ỡ làng. (Điền tr / ch, s / x, r / d / gi, I / n vào những chỗ trống như sau là đúng: - trái cây, chờ đợi, chuyển chỗ, trải qua, trôi chảy, trơ trụi, nói chuyện, chương trình, chẻ tre. - sấp ngửa, sản xuất, sơ sài, bổ sung, xung kích, xua đuổi, cái xẻng, xuất hiện, chim sáo, sâu bọ. - rũ rượi, rắc rối, giảm giá, giáo dục, rung rinh, rùng rợn, giang sơn, rau diếp, dao kéo, giao kèo, giáo mác. - lạc hậu, nói liều, gian nan, nết na, lương thiện, ruộng nương, lỗ chỗ, lén lút, bếp núc, lỡ làng.) * Câu 2. Lựa chọn từ điền vào chỗ trống: a) vây, dây, giây ... cá, sợi... điện, ... cánh, ... dưa, ... phút, bao... b) viết, diết, giết ... giặc, da ... văn, chữ... chết. c) vẻ, dẻ, giẻ.

<span class='text_page_counter'>(229)</span> hạtda ... vang, văn ... lau, mảnh ... đẹp, ... rách. (Lựa chọn từ điền vào chỗ trống như sau là đúng: a. vây cá, sợi dây, dây điện, vây cánh, dây dưa, giây phút, bao vây. b. giết giặc, da diết, viết văn, chữ viết, giết chết. c. hạt dẻ, da dẻ, vẻ vang, văn vẻ, giẻ lau, mảnh dẻ, vẻ đẹp, giẻ rách.) * Câu 3. Chọn s hoặc x để điền vào chỗ trống cho thích hợp: Bầu trời ...ám xịt như sà xuống ...át mặt đất ...ấm rền vang, chớp loé ...áng rạch ...é cả không gian. Cây ...ung già trước cửa ...ổ trút lá theo trận lốc, trơ lại những cành ...ơ ...ác, khẳng khiu. Đột nhiên, trận mưa dông ...ầm ...ập đổ, gõ lên mái tôn loảng ...oảng. (Chọn s hoặc x để điền vào chỗ trống như sau là thích hợp: Bầu trời xám xịt như sà xuống sát mặt đất sấm rền vang, chớp loé sáng rạch xé cả không gian. Cây sung già trước cửa sổ trút lá theo trận lốc, trơ lại những cành xơ xác, khẳng khiu. Đột nhiên, trận mưa dông sầm sập đổ, gõ lên mái tôn loảng xoảng.) * Câu 4. Điền từ thích hợp có vần -uôc hoặc –uôt vào chỗ trống: thắt lưng ... bụng, ... miệng nói ra, cùng một con bạch thẳng đuồn…, quả dưa bị... rút, trắng….. con chẫu ... (Điền từ thích hợp có vần -uôc hoặc -uôt vào chỗ trống như sau là đúng: thắt lưng buộc bụng, buột miệng nói ra, cùng nột giuộc, con bạch tuộc, thẳng đuồn đuột, quả dưa chuột, bị chuột rút, trắng muốt, con chẫu chuộc.) * Câu 5. Viết hỏi hay ngã vào những chữ in nghiêng: ve tranh, biêu quyết, dè biu, bủn run, dai dăng, hương thụ, tương tượng, ngày giô, lô mang, cổ lô, ngẫm nghi,....

<span class='text_page_counter'>(230)</span> (Điền dấu hỏi, dấu ngã vào những chữ in nghiêng như sau là đúng: vẽ tranh, biểu quyết, dè bỉu, bủn rủn, dai dẳng, hưởng thụ, tưởng tượng, ngày giỗ, lỗ mãng, cổ lỗ, ngẫm nghĩ,...) * Câu 6. Chữa lỗi chính tả có trong những câu sau: - Tía đã nhiều lần căng dặng rằn không được kiêu căn. - Một cây tre chắng ngang đường chẳn cho ai vô dừng chặc cây, đốn gỗ. - Có đau thì cắng răng mà chịu nghen. (Sau khi chữa lỗi chính tả (chữ in đậm), các câu văn sẽ như sau: - Tía đã nhiều lần căn dặn rằng không được kiêu căng. - Một cây tre chắn ngang đường chẳng cho ai vô rừng chặt cây, đốn gỗ. - Có đau thì cắn răng mà chịu nghen.) * Câu 7. Viết chính tả: Các em yêu mến, hãy nghĩ xem, còn gì sung sướng hơn được làm lụng đổ mồ hôi trên đất nước của Tổ quốc liền một khối từ Lạng Sơn đến Cà Mau, đất nước mà hiện giờ ta đang phải lấy cả máu mình để bảo vệ; còn gì sung sướng hơn được nói, viết, học tiếng Việt, tâm hồn ta gắn làm một với tinh hoa tiếng nói Việt Nam yêu quý! (Theo Xuân Diệu) (Học sinh tự làm.) HOẠT ĐỘNG NGỮ VĂN: THI KỂ CHUYỆN I. NỘI DUNG: 1. Tất cả học sinh trong lớp đều phải tham gia..

<span class='text_page_counter'>(231)</span> 2. Mỗi học sinh phải chuẩn bị kể lại một truyện mà mình thích nhất, bất cứ truyện đó thuộc thể loại nào (truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện trung đại, truyện đời thường, truyện tưởng tượng). 3. Tư thế kể đàng hoàng, tự tin, mắt nhìn thẳng vào mọi người, tiếng nói đủ nghe. 4. Khi kể phải phát âm đúng. Kể chứ không phải đọc thuộc lòng. Lời kể phải rõ ràng, mạch lạc, diễn cảm, lên giọng, xuống giọng, nhấn từ, nhấn câu đúng chỗ, đúng lúc. 6. Trước khi kể phải nói lời mở đầu và khi đã kể xong phải cảm ơn người nghe. 7. Tóm lại, người kể chuyện hay, hấp dẫn là người thuộc và hiểu truyện, biết cách kể, gây được ấn tượng tốt đẹp cho người nghe. II. CÁC BƯỚC THỰC HIỆN: Mỗi em cần chuẩn bị theo các bước sau đây: 1. Chọn một truyện mà mình thuộc, hiểu và yêu thích để thi kể chuyện (thể loại nào cũng được). 2. Nhớ lại nội dung truyện để có thể kể một cách chủ động, tự tin bằng cách sau đây: - Phải viết một dàn bài chi tiết về truyện để dễ nhớ. - Từ dàn bài đó, nhớ lại những chi tiết chính và tự kể lại nhiều lần cho đến khi thuộc câu chuyện. Hoặc tập kể trước một số em nhỏ hay bạn trong nhóm, tổ lớp để rút kinh nghiệm. (Chú ý: Khi tập kể được cầm sách hay dàn bài. Khi nào lưu loát, thành thục thì không cần tài liệu nữa.).

<span class='text_page_counter'>(232)</span> Bài 17. * Ôn tập tiếng Việt * Kiểm tra tiếng Việt * Chương trình địa phương (phần Văn và Tập làm văn) ÔN TẬP TIẾNG VIỆT 1. Cấu tạo từ: từ đơn, từ phức (từ ghép, từ láy) 2. Nghĩa của từ: nghĩa gốc nghĩa chuyển 3. Phân loại từ theọ nguồn gốc: từ thuần việt; từ mượn: từ mượn tiếng Hán (từ gốc Hán, từ Hán Việt), từ mượn các ngôn ngữ khác 4. Lỗi dùng từ: lặp từ, lẫn lộn các từ gần âm, dùng từ không đúng nghĩa 5. Từ loại và cụm từ: - Danh từ - Cụm danh từ - Động từ - Cụm động từ - Tính từ - Cụm tính từ - Số từ - Lượng từ - Chỉ từ KIỂM TRA TIẾNG VIỆT 1. Những kiến thức cơ bản cần luyện tập: a. Nội dung kiến thức cơ bản về tiếng Việt nêu lên ở phần ôn tập. (Học sinh nêu định nghĩa và ví dụ). b. Xem lại các bài tập đã làm ở phần Luyện tập. c. Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn:.

<span class='text_page_counter'>(233)</span> Học sinh nên đọc lại những bài văn đã làm; xem lại vở ghi các môn học khác để phát hiện những lỗi sai về ngữ pháp, cách dùng từ, lỗi chính tả và tập sửa. 2. Nội dung kiểm tra: Dựa vào nội dung trên, em thử làm bài kiểm tra sau: * Câu 1. Hãy phân biệt nghĩa của từ chân trời được sử dụng trong những câu sau đây: a) Cỏ non xanh rợn chân trời. (Truyện Kiều) b) Nhắn ai góc bể chân trời Nghe mưa ai có nhớ lời nước non. (Ca dao) c) Một chân trời khoa học đã mở rộng ra trước mắt người học sinh giỏi Toán đó. * Câu 2. Điền thêm cho hoàn chỉnh những câu tục ngữ, châm ngôn sau đây: - Học đi đôi... - Học ... cày ... -... đố mày làm nên - Cô giáo như... - Trọng thầy mới được ... - Chọn bạn ... - Học thầy không tầy ... - Không biết... muốn giỏi....

<span class='text_page_counter'>(234)</span> - Học, học nữa, ... CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA PHƯƠNG (Phần Văn và Tập làm văn) I. TÌM HIỂU Ở NHÀ: 1. Em hãy tìm hiểu ở địa phương em hai nội dung sau đây: - So sánh các truyện dân gian ở quê hương em với các truyện dân gian đã học có gì giống và khác nhau về nội dung và nghệ thuật? - Các sinh hoạt văn hóa dân tộc khác nhau như chọi gà, chọi trâu, chơi đu, đấu vật, hội hát quan họ... có những nét đặc biệt gì? - Đối với các truyện dân gian và các sinh hoạt văn hóa dân gian cần chép lại thành văn bản rồi kể lại để mọi người có thể hình dung được. 2. Để chuẩn bị cho phần Hoạt động trên lớp được tốt, em hãy tập kể lại một truyện dân gian, hoặc tập giới thiệu một trò chơi dân gian địa phương mà em yêu thích. II. HOẠT ĐỘNG TRÊN LỚP: Theo sự hướng dẫn của thầy cô, những câu chuyện, những trò chơi dân gian có thể được giới thiệu ở tổ, ở lớp. - Kể miệng một câu chuyện dân gian ở địa phương em. - Đọc văn bản truyện đã sưu tầm và chép lại được. - Giới thiệu một sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo ở quê hương em. - Biểu diễn một trò chơi dân gian mà em yêu thích. (Để công việc có kết quả, học sinh cần chuẩn bị thật kĩ về cách kể, cách đọc, cách biểu diễn cho thành thục - kể cả việc hóa trang khi biểu diễn các trò chơi dân gian.).

<span class='text_page_counter'>(235)</span> MỤC LỤC Bài 1 • Con Rồng, cháu Tiên. • Bánh chưng, bánh giầy. • Từ và cấu tạo của từ tiếng Việt. • Giao tiếp, văn bản và phương thức biểu đạt. Bài 2 • Thánh Gióng. • Từ mượn. • Tìm hiểu chung về văn tự sự. Bài 3 • Sơn Tinh, Thủy Tinh. • Nghĩa của từ. • Sự việc và nhân vật trong văn tự sự. Bài 4 • Sự tích Hồ Gươm. • Chủ đề và dàn bài của bài văn tự sự. • Tìm hiểu đề và cách làm bài văn tự sự. • Viết bài Tập làm văn số 1 - Văn kể chuyện. Bài 5 • Sọ Dừa..

<span class='text_page_counter'>(236)</span> • Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ. • Lời văn, đoạn văn tự sự. Bài 6 • Thạch Sanh. • Chữa lỗi dùng từ. • Trả bài Tập làm văn số 1. Bài 7 • Em bé thông minh. • Chữa lỗi dùng từ (tiếp theo). • Luyện nói kể chuyện. Bài 8 • Cây bút thần. • Danh từ. • Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự. Bài 9 • Ông lão đánh cá và con cá vàng. • Thứ tự kể trong văn tự sự. • Viết bài Tập làm văn số 2 - Văn kể chuyện. Bài 10 • Ếch ngồi đáy giếng. • Thầy bói xem voi. • Đeo nhạc cho mèo. • Danh từ (tiếp theo)..

<span class='text_page_counter'>(237)</span> • Luyện nói kể chuyện. Bài 11 • Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng. • Cụm danh từ. • Trả bài Tập làm văn số 2. • Luyện tập xây dựng bài tự sự - Kể chuyện đời thường. Bài 12 • Treo biển. • Lợn cưới, áo mới. • Số từ và lượng từ • Viết bài Tập làm văn số 3. • Kể chuyện tưởng tượng. Bài 13 • Ôn tập truyện dân gian. • Chỉ từ. • Luyện tập kể chuyện tưởng tượng. Bài 14 • Con hổ có nghĩa. • Động từ. • Cụm động từ. • Trả bài Tập làm văn số 3. Bài 15 • Mẹ hiền dạy con..

<span class='text_page_counter'>(238)</span> • Tính từ và cụm tính từ. • Bài kiểm tra tổng hợp cuối học kì I. Bài 16 • Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. • Chương trình địa phương (Phần tiếng Việt): Rèn luyện chính tả. • Hoạt động Ngữ văn: Thi kể chuyện. Bài 17 • Ôn tập tiếng Việt. • Kiểm tra tiếng Việt. • Chương trình địa phương (Phần Văn và Tập làm văn). ---//--TỰ HỌC NGỮ VĂN 6 TẬP MỘT Bồi dưỡng học sinh giỏi Giáo viên và phụ huynh tham khảo Tác giả: TRẦN THỊ THÌN NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 62 Nguyễn Thị Minh Khai - Q.1 Điện thoại: 38 225340 - 38 296764 - 38 247225 - Fax: 08. 38 222726 Email: - Website: www.nxbhcm.com.vn Liên kết xuất bản: Nhà sách Thanh Trúc 242/102 Nguyễn Thiện Thuật - P. 3 - Q. 3 - Tp. Hồ Chí Minh. Điện thoại: 08.38399287 - Fax: 08.38336623 Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG.

<span class='text_page_counter'>(239)</span> Biên tập: THANH HƯƠNG Sửa bản in: THẢO TRINH Trình bày: THANH TRÚC Bìa: VÕ TRƯỜNG LINH In số lượng 2.000 cuốn. Khổ 16cm x 24cm. In tại Công ty cổ Phần Văn Hóa Đông Dương, 73 Trần Bình Trọng, Phường 1, Quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh. Số đăng kí KHXB: 114-11/CXB/341-10/THTPHCM. Giấy phép trích ngang số: 739/QĐ-THTPHCM-2011 ngày 31 tháng 05 năm 2011. Nộp lưu chiểu tháng 08 năm 2011..

<span class='text_page_counter'>(240)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×