Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN nâng cao hiệu quả dạy học ngữ văn 6 ở trường THCS ban công, bá thước thông qua việc sử dụng sơ đồ tư duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.28 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC NGỮ VĂN 6
Ở TRƯỜNG THCS BAN CÔNG, BÁ THƯỚC
THÔNG QUA VIỆC SỬ DỤNG S ĐỒ TƯ DUY

Người thực hiện: Vũ Thị Anh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Ban Công
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2019


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.....................................................................
1.2. Mục đích nghiên cứu..............................................................
1.3. Đối tượng nghiên cứu.............................................................
1.4. Phương pháp nghiên cứu........................................................
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận...........................................................................
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN....................
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ
văn lớp 6 ở trường THCS Ban Công thông qua việc sử dụng sơ đồ
tư duy..................................................................................................
2.4.


Hiệu
quả
của
SKNN................................................................
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận...................................................................................
3.2.
Kiến
nghị.................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC ĐỀ TÀI SKKN

Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 6
Trang 17
Trang 19
Trang 19
Trang 19
Trang 20
Trang 20


1. MỞ ĐẦU

1. 1. Lí do chọn đề tài
Theo điều 28.2 Luật giáo dục (14/6/2005) đã ghi: Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS [3]. Do đó mà trong quá trình giảng dạy
hiện nay, việc sử dụng các phương pháp dạy học đòi hỏi người thầy luôn phải
đặt ra cái đích, đó là giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản, hình thành phương
pháp, kỹ năng, kỹ xảo, tạo thái độ và động cơ học tập đúng đắn.
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn học có
vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.
Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư
tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công
cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong
nhà trường phổ thông. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học
khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn Điều đó
đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn
kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống.. Vì tầm
quan trọng của việc dạy học môn Ngữ văn nói chung và Ngữ văn lớp 6 nói riêng
đáp ứng việc đổi mới phương pháp và giảng dạy theo quan điểm tích cực trong
dạy học Ngữ văn là vấn đề cần được quan tâm nhất hiện nay.
Trong thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ Văn ở trường THCS Ban Công, tôi
nhận thấy rằng học sinh lớp 6 mới chuyển từ một môi trường tiểu học lên môi
trường THCS đang còn rất bỡ ngỡ về cách học trong một môi trường mới, chính
vì lí do đó, nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi nhớ kiến thức vào bộ não
mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không
nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được điểm cốt lõi trong bài học đó,
hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
Để nâng cao chất lượng dạy học, cần phải đổi mới phương pháp dạy học
các môn học ở trường nói chung và môn Ngữ văn nói riêng. Công nghệ thông

tin được ứng dụng vào môn Sinh học đã góp phần cải thiện sự nhàm chán và gây
hứng thú học tập bộ môn cho HS. Để đa dạng hóa các hình thức dạy học, để
khắc sâu kiến thức trong bộ não một cách lôgic mà lại phát huy được khả năng
tiềm ẩn trong bộ não của HS, trong quá trình giảng dạy của mình, đặc biệt là ở
các tiết ôn tập, tôi thường hướng dẫn HS ghi nhớ bài học dưới dạng từ khóa và
chuyển cách ghi bài truyền thống sang phương pháp ghi bài bằng SĐTD. Tôi
nhận thấy phương pháp này là thực sự cần thiết nhằm giúp HS rút ngắn thời gian
học, giúp các em dễ nhớ, nhớ lâu, dễ dàng hệ thống hoá kiến thức với lượng lớn,
đồng thời phát triển tư duy cho các em.
Việc vận dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) trong dạy học sẽ dần hình thành cho
HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một
cách hệ thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học
1


tích cực khác như vấn đáp gợi mở, có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH.
Sau mỗi chương hoặc mỗi phần. Nếu sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống thì HS sẽ
khắc sâu được những kiến thức đó một cách nhanh nhất có hệ thống và hiệu quả
nhất. Xuất phát từ những lợi ích thiết thực của việc áp dụng phương pháp dạy
học bằng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn và khắc phục những mặt còn hạn
chế trong dạy học Ngữ văn hiện nay tôi đã chọn đề tài: Nâng cao hiệu quả dạy
học Ngữ văn 6 ở trường THCS Ban Công thông qua việc sử dụng sơ đồ tư
duy để nghiên cứu nhằm đóng góp ý kiến nhỏ của mình trong tìm ra những giải
pháp tốt nhất cho việc nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn nói chung và
Ngữ văn 6 nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tôi khi viết sáng kiến này là nhằm tìm ra những giải pháp
chung nhất và hiệu quả nhất trong việc dạy học phân môn văn trong chương
trình Ngữ văn 6. Đặc biệt chú trọng sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn
để nâng cao chất lượng học sinh mũi nhọn, học sinh đại trà ở môn phụ trách dạy

học. Đồng thời tự bồi dưỡng năng lực chuyên môn trong quá trình công tác ở
đơn vị.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Việc sử dụng SĐTD trong giảng dạy Ngữ văn 6 để nâng cao tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của HS, đáp ứng được mục tiêu của giáo dục hiện nay.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tham khảo, nghiên
cứu tài liệu hướng dẫn về phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực nói chung và
phương pháp, kỹ thuật dạy học sử dụng sơ đồ tư duy. Tham khảo SGK, SGV,
sách chuẩn kiến thức kĩ năng bộ môn Ngữ văn.
- Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát thái độ, mức độ hứng thú học
tập của học sinh.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm dạy và học: Tích lũy các giờ dạy
trên lớp, dự giờ đồng nghiệp, đồng nghiệp dự giờ góp ý.
- Phương pháp thực nghiệm: Lựa chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng;
áp dụng dạy thử nghiệm trên lớp.
- Phương pháp phân tích: So sánh chất lượng giờ dạy, lực học, mức độ
tích cực của học sinh khi chưa áp dụng SKKN với khi đã áp dụng SKKN.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Theo nghị quyết 29- NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của BCH TW tại
hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
có ghi: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện
đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng
của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ
2



yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội,
ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học” [5] .
Trong hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tập trung thiết kế
các hoạt động sao cho học sinh có thể tự lực khám phá, chiếm lĩnh các tri thức
mới dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của thầy. Bởi một đặc điểm cơ bản của hoạt
động học là người học hướng vào việc cải biến chính mình, nếu người học
không chủ động, tích cực, tự giác, không có phương pháp học tốt thì mọi nỗ lực
của người thầy chỉ đem lại những kết quả hạn chế.
Sơ đồ tư duy (SĐTD) là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở
rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một
chủ đề…bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết.
SĐTD được coi là công cụ ghi chú tối ưu do Tony Buzan khởi xướng. Sự
khác nhau cơ bản giữa ghi chú truyền thống và ghi chú bằng SĐTD là: Nếu ghi
chú truyền thống chỉ lấy “chữ” làm phương tiện biểu hiện theo một trật tự nhất
định (thường là từ trên xuống dưới, từ trái sang phải) thì SĐTD sử dụng cả
đường nét, hình vẽ, màu sắc…lại được người sử dụng thiết kế hoàn toàn theo sở
thích cá nhân của họ.
Theo các nhà nghiên cứu thì bộ não con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in
đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, vẽ theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy việc
sử dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm
năng của bộ não. Việc học sinh lập SĐTD còn giúp cho các em phát triển khả
năng thẩm mỹ, do việc thiết kế nó phải bố cục màu sắc, các đường nét, các
nhánh sao cho đẹp, sắp xếp các ý tưởng một cách khoa học, súc tích, hợp lý, trực
quan, dễ hiểu, dễ đọc, dễ tiếp thu, sơ đồ tư duy do các em tự "sáng tác" nên trên
mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và
SĐTD do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý và trân trọng "tác phẩm" của
mình.
SĐTD giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ động, tích cực.
Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, một số học sinh có xu hướng không thích

học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học thường
phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích học
tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết
liên hệ với phần trước, không biết hệ thồng kiến thức, liên kết kiến thức với
nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau. Do đó, việc
sử dụng thành thạo SĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh học được phương
pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
Dạy học bằng SĐTD cũng có tác dụng rất thiết thực vì vẽ SĐTD bằng
những vật liệu dễ kiếm, rất kinh tế và cách làm đơn giản, SĐTD có thể vận dụng
được với bất kỳ điều kiện nào của nhà trường hiện nay.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

3


Năm học 2018 - 2019 là năm học Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đổi mới
phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong các nhà
trường phổ thông.
Việc đổi mới phương pháp dạy cùng với sự hỗ trợ đắc lực của các phương
tiện kĩ thuật đã và đang phần nào đạt được những yêu cầu đặt ra như phương
pháp tổ chức hoạt động nhóm của học sinh, phương pháp dạy học theo góc, dạy
giáo án điện tử, ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin vào giảng dạy. Tuy
nhiên, các phương pháp này đòi hỏi mất rất nhiều thời gian, trang thiết bị dạy
học trong khi do điều kiện học tập ở nhà trường còn chưa trang bị được máy
chiếu cho tất cả các lớp học và một tiết học trên lớp chỉ có 45 phút thì không đủ
thời gian cho các hoạt động.
Về phía giáo viên: trong quá trình giảng dạy các tiết ôn tập sau một
chương hay sau một học kỳ để HS nắm được kiến thức trọng tâm, và ghi nhớ hệ
thống kiến thức đã học là rất khó. Trong các quá trình đó, người dạy mà không
vận dụng tốt các khâu lên lớp, chuẩn bị tốt các phương tiện cũng như phương

pháp kĩ thuật dạy học cho phù hợp, người học sẽ tiếp thu bài không tốt. Vì vậy
đòi hỏi người giáo viên cần lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp với
đặc trưng bộ môn đồng thời hình thành cho học sinh phương pháp học hiệu quả
từ đó giúp các em tích cực, chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức là một vấn đề
bức thiết được đặt ra. Nhiều giáo viên mặc dù đã được tập huấn và biết các
phương pháp dạy học tích cực nhưng việc vận dụng các phương pháp đó vào
giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn:
- Do nhiều giáo viên dạy các tiết ôn tập thường áp dụng phương pháp
truyền thống là giáo viên đưa ra các câu hỏi, học sinh nhớ lại kiến thức trong các
bài, các chương để trả lời.
- Việc sử dụng phần mềm mindmap để thiết kế sơ đồ tư duy của đa số giáo
viên còn gặp khó khăn nên thường không thiết kế SĐTD trong các tiết ôn tập.
Mặt khác, phần mềm mindmap khi cài đặt lên máy tính thường làm cho tốc độ
xử lí của máy tính chậm lại nên nhiều giáo viên thường không cài đặt phần mềm
này.
Về phía học sinh:
- Do chương trình Ngữ văn lớp 6 là phần mở đầu cho chương trình Ngữ
văn của bậc THCS, giúp HS bắt đầu làm quen với bộ môn khoa xã hội thuộc
lĩnh vực văn học nghệ thuật, nghệ thuật ngôn từ. Như vậy, trong quá trình dạy và
học chúng ta sẽ thường gặp một số khó khăn như là: học sinh chưa biết cách
học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một
cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm
được điểm cốt lõi trong bài học, trong tài liệu tham khảo, hoặc không biết liên
tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
- Nhiều học sinh chưa có kỹ năng tìm lại, nhớ lâu, nhớ lại kiến thức đã
học do thói quen học ở cấp 1 còn ít lượng kiến thức nên các em chỉ học thuộc
lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc.

4



Trong thực tế, quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 6 ở trường THCS
Ban Công năm học 2015- 2016, 2016-2017, trước khi áp dụng đề tài nghiên cứu
này là :
Bảng số 1. Kết quả điểm kiểm tra học kì 2 (bài tổng hợp), năm học
2015- 2016 và năm học 2016 – 2017:
Điểm dưới
Điểm Tb
Điểm Khá Điểm Giỏi

Tb
Lớp Năm học
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6
2015-2016 67
12 18,0 34 50,7 15 22,3
6
9,0
6
2016- 2017 45
8
17,8 20 44,4 12 26,7

5
11,1
Bảng số 2. Kết quả khảo sát mức độ tích cực, chủ động học tập môn Ngữ
văn của học sinh lớp 6 trường THCS Ban Công:
Rất tích
Không tích
Tích cực Bình thường
Tổng
cực
cực
Năm học
số
SL
% SL
%
SL
%
SL
%
2015-2016
67
4
6,0 12 18,0
20
29,8
31
46,2
2016- 2017
45
3

6,6
9
20,0
12
26,7
21
46,7
Qua quan sát trên lớp trong các giờ học Ngữ văn 6 ở các tiết dạy học văn
bản với phương thức truyền thống, tôi nhìn thấy các em ít để tâm vào công việc
học, thiếu hào hứng, thiếu tích cực chủ động trong học tập, chính vì vậy mà kết
quả chưa cao. Nhiều năm tôi trăn trở suy nghĩ phải chăng do cách tổ chức giờ
học chưa thực phù hợp, áp dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp. Những
năm gần đây, tôi đã vận dụng phương pháp sơ đồ tư duy kết hợp với sử dụng
công nghệ thông tin và các phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động khác
trong giảng dạy bộ môn mình phụ trách đã làm thay đổi căn bản suy nghĩ, cách
học cũng như sự hứng thú, tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh từ đó đem
lại hiệu quả cao trong học tập. Tổ chức dạy học theo phương thức và phương
pháp này sẽ giúp mỗi cá nhân trong nhóm phát huy được tính chủ động, tích cực
sáng tạo trong hoạt động. Các em được tham gia một cách chủ động, tích cực
sáng tạo, thoải mái.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ văn
lớp 6 ở trường THCS Ban Công thông qua việc sử dụng sơ đồ tư duy.
2.3.1. Bản thân giáo viên phải nắm rõ vai trò của sơ đồ tư duy, biết
sử dụng phần mềm mindmap để thiết kế sơ đồ tư duy .
Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng
và đào sâu các ý tưởng. SĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu
tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét,
màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con
người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả hơn: Việc rèn

luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu
quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học
5


rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học
phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau,
không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số
học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để
lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo
SĐTD trong dạy học sẽ giúp học sinh có được phương pháp học, tăng tính độc
lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên
cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do
chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử
dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng
của bộ não..
Sử dụng sơ đồ tư duy sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm tòi
xây dựng kiến thức mới. Nhờ sự liên kết các nét vẽ cùng với màu sắc thích hợp
và cách diễn đạt riêng của mỗi người, sơ đồ tư duy giúp bộ não liên tưởng, liên
kết các kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống… để phát triển,
mở rộng ý tưởng. Sau khi HS tự thiết lập sơ đồ tư duy kết hợp việc thảo luận
nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt của GV dẫn đến kiến thức của bài học một cách nhẹ
nhàng, tự nhiên.
Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học ở một số tiết học cho thấy,
sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp HS học tập một cách chủ
động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào
hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng
ngày của HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh HS khi
chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát

triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên
sơ đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để
chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ,
chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống
Ưu điểm của sơ đồ tư duy
- Kích thích hứng thu học tập của HS.
- Kích thích sáng tạo của HS.
- Giúp mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức.
- Giúp hệ thống hoá kiến thức.
- Giúp ôn tập kiến thức.
- Giúp ghi nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu kiến thức.
- Dễ phát triển ý tưởng.
- Trực quan, dễ nhìn, dễ hiểu, dễ nhớ do nó được thể hiện bởi màu sắc, liên
kết, liên hệ giữa các ý của một vấn đề.
- Dễ dạy, dễ học, dễ nhớ
- Dễ thực hiện với bất kì điều kiện nào của các nhà truờng hiện nay: có thể
dùng giấy, bút, phấn, bảng,... hoặc dùng phần mềm vẽ sơ đồ tư duy (ứng dụng
6


CNTT). Việc sử dụng phần mềm để vẽ bản đồ tu duy còn có thể liên kết với các
file hình ảnh, âm thanh, video,... Rất tiện lợi cho GV trong giảng dạy, tăng
cường năng lực sáng tạo cho HS.
Hạn chế của sơ đồ tư duy
- Đôi khi mất nhiều thời gian cho HS tô, vẽ quá nhiều
- Do mỗi người thể hiện sơ đồ tư duy theo cách hiểu và sở thích của riêng
mình nên khi nhìn vào sơ đồ tư duy của một người khác lập ra thì cảm giác hơi
rối mắt và đôi lúc khó hiểu.
- Việc sử dụng phần mềm mindmap trên máy tính của nhiều giáo viên thấy
khó khăn, khó thực hiện. thậm chí không biết thiết kế ra sao…

2.3.2. Giáo viên nắm vững quy trình thiết lập sơ đồ tư duy để hướng
dẫn cho học sinh
Bước 1: Lập sơ đồ tư duy
HS lập sơ đồ tư duy theo nhóm hoặc cá nhân với các gợi ý liên quan đến
chủ đề kiến thức của bài học.
- Chọn từ trung tâm ( hay còn gọi là từ khóa) là tên cửa một bài hay một chú
đề hay một nội dung kiến thức cần khai thác.
- Vẽ nhánh cấp 1: Các nhánh cáp 1 chính là các nội dung chính của bài học
hay chủ đề đó (hay tên các mục của sách giáo khoa)
- Vẽ nhánh cấp 2,3 ….
Các nhánh con cấp 2,3,... chính là các nhánh con của nhánh con trước đó
(hay nói rõ hơn nhánh con cấp 2,3,... là các ý triển khai của nhánh trước đó).
Bước 2: Báo cáo, thuyết minh sơ đồ tư duy ( vừa thiết lập ở bước 1)
Các cụm từ, công thức, hình vẽ,... trên sơ đồ tư duy thường ngắn gọn, các
khái niệm, định lí,... thường viết ý chính chưa thành câu, vì vậy cần cho HS
thuyết minh một cách đầy đủ. Một vài HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên
báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. Hoạt động này
vừa giúp biết nõ việc hiểu kiến thức cửa các em vừa là một cách rèn cho các em
khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn.
Bước 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện sơ đồ tư duy
Tổ chức cho HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duy
về kiến thức của bài học. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh
sơ đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học.
Khi hướng dẫn cho học sinh vẽ sơ đồ tư duy trong 1 tiết học, giáo viên
không nên gò bó học sinh theo một motyp nhất định mà phải tôn trọng các ý
tưởng của học sinh, của nhóm, giáo viên chỉ gợi ý, định hướng và chỉnh sửa các
lỗi của các em khi thiết kế sơ đồ tư duy.
2.3.3. Hướng dẫn học sinh làm sơ đồ tư duy
- Phương tiện thiết kế sơ đồ tư duy:


7


Giáo viên, học sinh căn cứ vào điều kiện, phương tiện hiện có của nhà
trường để thiết kế sơ đồ tư duy sao cho phù hợp với kiểu bài, đối tượng và tình
hình thực tế:
Dùng những phương tiện sẵn có của một lớp học bình thường như: bảng
đen, bảng phụ, phấn màu,bút màu , giấy A4 hoặc A0. GV, HS có thể dùng phấn
màu vẽ trực tiếp lên bảng (nếu có khả năng vẽ được). Thay vì dùng máy, GV, HS
có thể thực hiện các thao tác trên bằng tay. Có thể vẽ trên giấy A4 hoặc A0 bằng
bút màu.
Dùng phương tiện dạy học hiện đại máy tính cũng như các phần mềm ứng
dụng: Dùng phương tiện máy tính thiết kế trên powerpoint, sử dụng phần mềm
ConceptDraw MINDMAP để vẽ SĐTD.
- Các bước thiết kế sơ đồ tư duy:
Bước 1: Bắt đầu từ một chủ đề chúng ta sẽ ghi lại một từ hoặc một hình
ảnh tượng trưng cho ý tưởng đầu tiên.
Bước 2: Viết ra hoặc vẽ lại những điều đầu tiên xuất hiện trong đầu khi bắt
đầu nghĩ vấn đề liên quan quanh chủ đề
Bước 3: Khi các ý tưởng nảy sinh, hãy viết ra một hoặc hai từ mô tả ý
tưởng đó trên các nhánh lớn, nhánh nhỏ
Bước 4: Diễn dịch các ý tưởng dưới dạng các từ ngữ, hình ảnh, số hoặc
biểu tượng
Bước 5: Sử dụng bút màu để phân biệt các ý tưởng
Bước 6: Thêm các liên kết, các mối liên hệ và có thể kết nối các ý phụ với
ý chính
2.3.4. Vận dụng sơ đồ tư duy vào giảng dạy
Để giảng dạy theo sơ đồ tư duy, giáo viên có thể chủ động vẽ hình trên
bảng rồi cho học sinh tiếp tục lên phân nhánh bản đồ hay để học sinh chia thành
từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ bản đồ theo cách hiểu của mình sau đó giáo viên định

hướng lại từng nội dung cho học sinh.
* Tiến trình dạy học trên lớp với sơ đồ tư duy:
Hoạt động 1: HS lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV.
Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh
về sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duy
về kiến thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn
chỉnh sơ đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy mà GV đã chuẩn bị
sẵn hoặc một sơ đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS
lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
Lưu ý: Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm
HS có chung một kiểu sơ đồ tư duy, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến
thức, góp ý thêm về đường nét vẽ màu sắc và hình thức (nếu cần).
8


2.3.4.1. Dùng sơ đồ tư duy để dạy bài mới:
Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu
học sinh vẽ SĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các
từ liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện SĐTD. Qua SĐTD đó học sinh sẽ
nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng.
Với sự hướng dẫn bằng hệ thống câu hỏi hợp lý, giáo viên có thể tác động
vào việc vận động tư duy, học sinh có thể phát hiện và đào sâu kiến thức nhờ
nhìn vào sự phát triển của SĐTD qua các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3…, từ ý lớn,
học sinh có thể phân tích thành nhiều ý nhỏ, nhờ thế mà các em nắm được kiến
thức sâu sắc hơn. Khi giảng xong kiến thức thì đã có một SĐTD hoàn chỉnh,
giáo viên có thể sử dụng SĐTD ấy mà củng cố kiến thức bằng cách cho học sinh
nhìn vào SĐTD để thuyết minh lại các kiến thức đã học. Nhờ thế mà các em sẽ
nắm sâu kiến thức hơn.

* Ví dụ 1: Khi dạy bài "Sự việc và nhân vật trong văn tự sự" (Tiết 12 - Ngữ
văn 6) mục tiêu của tiết học là học sinh phải nắm được thế nào là sự việc, nhân
vật và hiểu được ý nghĩa , mối quan hệ của sự việc và nhân vật trong văn tự sự.
Trong quá trình khai thác ví dụ để hình thành khái niệm, kiến thức giáo viên đưa
ra cụm từ khoá "sự việc, nhân vật trong văn tự sự ". Bằng hệ thống câu hỏi về
mối quan hệ liên tục của sự việc trong văn bản: thời gian, trật tự, diễn biến, kết
quả...học sinh sẽ dần hình thành được nhánh về sự việc và các nhánh con bổ
sung các ý nhỏ: khái niệm, cách thể hiện, ý nghĩa của sự việc trong văn tự sự.
Tương tự như vậy học sinh sẽ hình thành được nhánh tương xứng về nhân vật
vàc các nhánh con: khái niệm, các loại nhân vật, ý nghĩa của nhân vật trong văn
tự sự. Qua đó học sinh vừa nắm vững kiến thức bài học và cảm thấy hứng thú,
nhẹ nhàng với một tiết học phân môn tập làm văn.
Sơ đồ minh hoạ:

9


* Ví dụ 2: Với văn bản: Thầy bói xem voi (Tiết 40 - Ngữ văn lớp 6), sau
phần đọc và tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình SĐTD lên bảng. SĐTD
gồm 5 nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc
vào nội dung bài học.
Để có thể hoàn thiện được mô hình SĐTD của bài học, giáo viên sử dụng
hệ thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức:
+ Bố cục của văn bản: học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý
chính ( Hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con
voi, kết quả ,bài học .)
+ Tiếp tục hoàn thành các nhánh của SĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có
tính gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem voi của các thầy
ra sao, các thầy phán về voi thế nào, kết quả ,bài học rút ra qua câu chuyện?)
Sơ đồ minh hoạ:


Sơ đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ văn 6
* Ví dụ 3: Khi học bài “ So sánh” (Tiết 78 - Ngữ văn lớp 6), đầu giờ giáo
viên cho từ khoá “ So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ SĐTD bằng cách đặt câu
hỏi gợi ý cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các
ý nhỏ ( nhánh con cấp 2, cấp 3…), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em
lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua
10


đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất
hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Sơ đồ minh hoạ:

Sơ đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6
2.3.4.2. Dùng SĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống
kiến thức sau mỗi chương, phần…:
Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến
thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ SĐTD. Mỗi bài học
được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ
giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ
dàng.
Hoặc giáo viên có thể cho HS hệ thống lại kiến thức của bài học trên giấy
A4, chọn một vài em lên bảng thuyết minh lại theo SĐTD của mình những kiến
thức đã tiếp thu được và cho HS cả lớp nhận xét, rút kinh nghiệm. Thực hiện
SĐTD như vậy sẽ giúp cho giáo viên nắm được mức độ tiếp thu kiến thức của
học sinh, và HS cũng nắm vững kiến thức và nhớ lâu hơn.
*Ví dụ 1: Khi dạy bài "Danh từ" (Tiết 32 và 41 – Ngữ văn 6) kiến thức
của cả bài được phân lượng trong 2 tiết vì thế nếu học sinh không chú tâm học
tập sẽ không có khả năng kết nối tổng hợp giữa tiết 1 và 2. Ở tiết thứ nhất học

sinh mới hình thành được khái niệm về danh từ và loại danh từ chỉ đơn vị. sang
tiết thứ hai được học một loại danh từ nữa là danh từ chỉ sự vật. Như vậy khi kết
thúc tiết thứ hai giáo viên hướng dẫn cho học sinh hình thành sơ đồ tư duy với
11


từ khoá "Danh từ" để hình thành các đường, nhánh hoàn thành tổng hợp kiến
thức về danh từ sau 2 tiết học.
Sơ đồ minh hoạ:

Sơ đồ tư duy bài Danh từ-Ngữ văn 6
* Ví dụ 2: Khi hướng dẫn cho học sinh đọc thêm văn bản "Cây bút thần"
(Tiết 30,31 - Ngữ Văn 6). Đây là văn bản rất hay và phù hợp với lứa tuổi học
sinh lớp 6, sau khi tìm hiểu chi tiết văn bản, giáo viên dùng SĐTD để học sinh
tóm tắt nhanh gọn lại tác phẩm và ghi nhớ sâu hơn bài học. Sơ đồ được thiết kế
như sau:
Sơ đồ minh hoạ:

12


* Ví dụ 3: Khi dạy bài "Ôn tập truyện dân gian" (Tiết 54, 55- Ngữ văn 6)
qua tiết ôn tập củng cố khắc sâu về đặc điểm thể loại truyện dân gian đã học:
truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, nắm được nội dung, ý nghĩa
và đặc sắc nghệ thuật của các truyện. Giáo viên tổ chức cho học sinh hình thành
bản đồ tư duy hệ thống hoá kiến thức về phần văn học dân gian đã học. Qua việc
hình thành các nhánh từ từ khoá "Các thể loại truyện dân gian" học sinh tư duy
lại kiến thức đã được học về các loại truyện dân gian đã được học, từ đó so sánh
được sự giống và khác nhau giữa các thể loại. Học sinh có thể sử dụng mầu sắc
phù hợp sở trường, sở thích của các em. Ví như có em thích truyện cổ tích, có

em lại thích truyện cười...điều đó được thể hiện rõ trên bản đồ, chính các em là
những nhà "thiết kế" nên sẽ yêu quý, trân trọng tác phẩm của mình, qua đó giúp
tiết học thêm phần hấp dẫn sôi nổi khi các em được lắng nghe và tham gia nhận
xét, chiêm ngưỡng những tác phẩm của bạn.
Sơ đồ minh hoạ:

13


Sơ đồ tư duy bài Ôn tập truyện dân gian - Ngữ văn 6
* Ví dụ 4: Dạy bài "Ôn tập tiếng Việt" (Tiết 66 – Ngữ văn 6) tôi đã áp
dụng sơ đồ tư duy vào hoạt động ôn tập bằng hình thức thẻ ôn bài để thực hiện
ôn tập kiến thức ở mục 3 (Phân loại từ theo nguồn gốc) và mục 5 (Từ loại và
cụm từ) các bước thực hiện như sau:
Bước 1: -Chuẩn bị trước các thẻ ôn bài với các từ khóa: (có thể phô tô thẻ
thành nhiều bộ), các thẻ được dán băng dính hai mặt phía sau.
-Vẽ trước ở nhà ô chứa từ khoá (trên giấy A0), để trống phần còn
lại để học sinh thực hiên trên lớp:
Phân loại từ theo nguồn gốc

Từ loại và cụm từ

14


Bước 2: Tổ chức hoạt động (theo nhóm tại chỗ, hoặc theo nhóm tiếp sức
trên bảng, hoặc hoạt động cá nhân trên bảng – tuỳ đối tượng và khả năng áp
dụng cụ thể, khi hoạt động HS gấp SGK lại) bộ thẻ đã được đảo lộn không theo
trật tự logic nào. Học sinh trong một khoảng thời gian nhất định thảo luận, lựa
chọn sắp xếp và nối các đường liên kết ( bằng bút màu) từ các thẻ lại sao cho

hợp lí nhất để tạo thành bản đồ tư duy về Phân loại từ theo nguồn gốc và Từ
loại tiếng Việt.
Các thẻ chuẩn bị trước:
Cấu tạo từ

Từ đơn

Số từ

Kết quả thu được là hai dạng sơ đồ tương đương với hai đơn vị kiến thức:
Từ phức
Từ mượn tiếng
Từ láy
Phân loại từ theo nguồn gốc: (tương ứng mục 3) Từ loại và cụm từ:
Hán
(tương ứng mục 5)
Từ ghép
Nghĩa của từ
Từ gốc Hán
Nghĩa gốc

Phân loại
theo việt
nguồn gốc
Từtừthuần

Từ mượn các ngôn ngữ khác

Nghĩa chuyển
Từ mượn

Từ thuần việt
Lỗi dùng từ
Cụm tính từ
Danh từ

Lượng từ

Từ mượn
Lẫn lộn các từ gần âm

Lặp từ
Từ mượn tiếng Hán
Cụm danh từ

Cụm động từ

Chỉ từ
Từ gốc Hán

Từ Hán Việt

Dùng từ không đúng nghĩa
Từ mượn các ngôn ngữ khác
Động từ

Tính từ
Từ Hán Việt

Từ loại và cụm từ


Danh từ

Động từ

Tính từ

Cụm DT

Cụm ĐT

Cụm TT

Số từ

Lượng Từ

Chỉ từ

2.3.4.3. Sử dụng SĐTD trong học tập độc lập, hỗ trợ học tập, phát
triển tư duy lôgic của học sinh.
15


Từ việc ứng dụng SĐTD trong dạy học đã tạo được cho học sinh thói
quen và khả năng học tập của các em:
Học sinh có thể tự sử dụng SĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu
trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ SĐTD trên giấy, bìa…
hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố
khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép.
Nếu những trường có điều kiện và học sinh được học tin học, học sinh có

thể trực tiếp làm viêc với máy tính, sử dụng phần mềm Mindmap, phát triển khả
năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học tập.
* Một số lưu ý trong các tiết dạy:
- Trong quá trình báo cáo kết quả của các nhóm, giáo viên phải là người
trọng tài mẫu mực, đánh giá kết quả của từng nhóm khách quan nhưng nên
mang tính động viên, khích lệ.
- Tránh hiện tượng 1 nhóm nào đó trình bày kém hoặc thiết kế sơ đồ tư
duy không đẹp bị các bạn học sinh khác cười từ đó làm các em thiếu tự tin gây
phản giáo dục. Trong trường hợp này, giáo viên cần tế nhị, khôn khéo trong cách
xử lí tình huống để các em tự tin trình bày theo ý tưởng của mình.
- Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có
chung một kiểu sơ đồ tư duy, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức,
góp ý thêm về đường nét vẽ màu sắc và hình thức (nếu cần).
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục.
Qua một năm học 2017-2018 và học kì I năm học 2018-2019 áp dụng
sáng kiến và quan sát thái độ học tập trên lớp của học sinh tôi nhận thấy: Học
sinh tích cực xây dựng bài, biểu lộ tình cảm, thái độ đúng đắn trong quá trình
tiếp thu kiến thức. Đặc biệt các em đã hứng thú với môn học Ngữ văn hơn đồng
thời liên hệ kiến thức giữa các môn học, liên hệ bài học với thực tiễn cuộc sống
từ đó điều chỉnh thái độ hành vi theo chiều hướng tích cực.
Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng trong thời gian qua và chất
lượng học sinh đã được cải thiện rõ rệt:
Kết quả cụ thể như sau:
- Trước khi áp dụng SKKN:
Bảng số 1. Kết quả điểm kiểm tra học kì 2 (bài tổng hợp), năm học
2015- 2016 và năm học 2016 – 2017:
Điểm dưới
Điểm Tb

Điểm Khá Điểm Giỏi

Tb
Lớp Năm học
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6
2015-2016 67
12 18,0 34 50,7 15 22,3
6
9,0
6
2016- 2017 45
8
17,8 20 44,4 12 26,7
5
11,1

16


Bảng số 2. Kết quả khảo sát mức độ tích cực, chủ động học tập môn Ngữ
văn của học sinh lớp 6 trường THCS Ban Công:

Rất tích
Không tích
Tích cực Bình thường
Tổng
cực
cực
Năm học
số
SL
% SL
%
SL
%
SL
%
2015-2016
67
4
6,0 12 18,0
20
29,8
31
46,2
2016- 2017
45
3
6,6
9
20,0
12

26,7
21
46,7
- Sau khi áp dụng SKKN trong giảng dạy các tiết Ngữ văn 6 ở năm học
2017-2018 và học kì I năm học 2018- 2019 thì kết quả như sau:
Bảng số 1. Kết quả điểm kiểm tra học kì 2 (bài tổng hợp), năm học
2017- 2018 và bài kiểm tra học kì I năm học 2018– 2019:
Điểm dưới
Điểm Tb
Điểm Khá Điểm Giỏi

Tb
Lớp Năm học
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6
2017-2018 52
2
3,8
19 36,6 23 44,2
8
15,4
Học kì I

6
63
1
1,6
22 34,9 29 46,0 11 17,5
2018- 2019
Bảng số 2. Kết quả khảo sát mức độ tích cực, chủ động học tập môn Ngữ
văn của học sinh lớp 6 trường THCS Ban Công qua các tiết học văn bản:
Rất tích
Không tích
Tích cực Bình thường
Tổng
cực
cực
Năm học
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2017-2018
52
9
14,5 30 48,4
20
32,3

3
4,8
Học kì I
63
11
17,5 34 53,9
16
25,4
2
3,2
2018- 2019
Qua so sánh bảng thống kê điểm kiểm tra học kì II môn Ngữ văn lớp 6
trường THCS Ban Công ở các năm học 2015-2016, 2016-2017 và 2017-2018,
học kì I năm học 2018-2019, tôi thấy hiệu quả học tập của học sinh lớp 6 trong
các năm học 2017-2018, và học kì I năm học 2018-2019 được nâng lên rõ rệt.
Cụ thể như sau: tỉ lệ học sinh đạt điểm khá, giỏi đã cao hơn ( giỏi: từ 9,0%;
11,1% tăng lên 15,4%; 17,5% ; khá: từ 22,3%; 26,7% tăng lên 44,2%; 46,0%,
điểm dưới trung bình từ 18,0%; 17,8% giảm còn 3,8%; 1,6%). Điều đó chứng tỏ
rằng việc sử dụng phương thức tích hợp trong dạy học Ngữ văn 6 là có hiệu quả
và hết sức cần thiết. Học sinh nắm kiến thức tốt hơn, nhiều học sinh nhớ bài
được ngay tại lớp. Đồng thời qua so sánh bảng mức độ tích cực, chủ động học
tập của học sinh các năm học 2015-2016, 2016-2017 và 2017-2018, học kì I
năm học 2018-2019, tôi nhận thấy rằng số học sinh tích cực, chủ động trong các
hoạt động học tập Ngữ văn đã tăng lên rõ rệt ( từ 24, 26,6%; tăng lên 62,9%;
71,4%), số học sinh không tích cực đã giảm đi đáng kể ( Từ 46,2%; 46,7% giảm
xuống còn 4,8%; 3,2%), từ đó làm tăng tính sáng tạo và hứng thú học tập cho
học sinh.
17



2.4.2. Đối với bản thân.
Khi sử dụng hợp lí sơ đồ tư duy vào dạy Ngữ văn lớp 6 kết hợp với các
phương pháp dạy học, sử dụng công nghệ thông tin và tổ chức đa dạng các hình
thức hoạt động cho học sinh, bản thân thấy tự tin khi đứng lớp, truyền đạt và
khắc sâu được các kiến thức Văn học cũng như các môn được tích hợp cho học
sinh.
2.4.3. Đối với đồng nghiệp.
Đây cũng là một cách thức tổ chức dạy học đạt kết quả tốt được đồng
nghiệp ủng hộ và áp dụng trong các tiết dạy của mình.
2.4.4. Đối với nhà trường.
Việc đổi mới cách thức phương pháp dạy học trong đó có sử dụng sơ đồ
tư duy làm cho chất lượng giảng dạy bộ môn được nâng lên rõ rệt. Từ đó góp
phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn nói riêng và chất lượng giáo
dục của nhà trường nói chung.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận:
Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện
pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Sử dụng thành
thạo SĐTD trong dạy học, học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc
lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
Việc học sinh tự vẽ SĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của
học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn
màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em
tự “sáng tác” nên trên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức
của từng học sinh và SĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng
“tác phẩm” của mình.
Để một giờ dạy học ngữ văn nói chung và dạy học phân môn văn nói
riêng đạt hiệu quả cao yêu cầu giáo viên phải không ngừng đổi mới phương
pháp, tìm tòi sáng tạo, vận dụng quan điểm tích hợp trong khâu thiết kế giáo án,
tổ chức dạy học (nhất là lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học)

đưa học sinh vào trong những tình huống thực để các em tìm tòi và tự phát hiện,
giải quyết vấn đề qua đó phát triển năng lực vận dụng kiến thức cho các em.
Qua thực tiễn dạy học và áp dụng sáng kiến ở đơn vị tôi nhận thấy giờ dạy
học ngữ văn có chất lượng cao hơn, đặc biệt là học sinh rất chủ động, hăng say
trong các hoạt động và hứng thú với môn học. Các em đã biết vận dụng kiến
thức các môn học có liên quan để giải quyết các vấn đề trong bài học và thực
tiễn. Kết quả học tập của các em chuyển biến rõ nét theo hướng tích cực.
3.2. Kiến nghị:
Đối với giáo viên: để sử dụng thành công sơ đồ tư duy thành công, giáo
viên cần phải thường xuyên tìm tòi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ để có kiến
thức chắc chắn, kiến thức liên ngành rộng mở, kiến thức đời sống - xã hội phong
phú và kinh nghiệm bản thân thì sự tích hợp sẽ phong phú và hợp lí hơn.
18


Đối với tổ chuyên môn: cần đổi mới trong sinh hoạt chuyên môn, chú
trọng vào các chuyên đề đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học. Tổ chức các
giờ dạy mẫu, các giờ dạy thực nghiệm nói chung và đối với môn ngữ văn nói
riêng để đúc rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học.
Trên đây là một số kinh nghiệm sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ
văn lớp 6 ở trường trung học cơ sở Ban công. Trong quá trình áp dụng ở đơn vị
đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên là kinh nghiệm của cá nhân nên không
tránh khỏi những hạn chế thiếu sót, kính mong được sự đóng góp ý kiến của các
bạn đồng nghiệp và Hội đồng khoa học các cấp.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Bá Thước, ngày 26 tháng 03 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác


NGƯỜI THỰC HIỆN

Nguyễn Thị Đào

Vũ Thị Anh

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT BÁ THƯỚC

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị số 55/2008/CT-BGD&ĐT ngày 30-9-2008 của Bộ trưởng bộ
GDĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin giáo
dục giai đoạn 2008- 2012.
2. Dạy học văn bản ngữ văn trung học cơ sở theo đặc trưng phương thức
biểu đạt, NXB GD, 2006.
3. Luật số 38/2005/QH11 – Luật giáo dục ngày 14/6/2005 của Quốc
hội.
4. Một số vấn đề về phương pháp dạy học Văn trong nhà trường,
NXBGD, 2001
5. Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của BCH TW tại
hội nghị trung ương 8 khóa XI.

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Vũ Thị Anh
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THCS Ban Công

Cấp
Kết quả
đánh giá đánh giá
xếp loại xếp loại

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả
dạy học tiết trả bài viết tập làm văn
môn ngữ văn lớp 9 ở trường THCS
Ban Công

2.

Kinh nghiệm tích hợp kiến thức liên
môn để nâng cao hiệu quả dạy học
Ngữ văn 6

Phòng
GD&ĐT

Thước
Phòng
GD&ĐT

Thước


PHỤ LỤC
(Không)

Năm học
đánh giá
xếp loại

C

2014-2015

C

2016-2017



×