Tải bản đầy đủ (.docx) (192 trang)

Tac gia noi ve tac pham van hoc 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.59 KB, 192 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>VĂN LỚP 12 - TÁC GIẢ NÓI VỀ TÁC PHẨM VĂN LỚP 12 TÁC GIẢ NÓI VỀ TÁC PHẨM Nhiều tác giả Nhóm Ban Mai thực hiện. LỜI NÓI ĐẦU Trong vài năm gần đây, các trường đại học trong nước đã tuyển đầu vào với số điểm rất cao, hơn hẳn so với năm mười năm về trước. Với ba môn, khối C, D... thông thường học sinh ở các thành phố lớn (không có điểm ưu tiên) phải đạt ít nhất từ 23 điểm trở lên mới có cơ hội đỗ đại học. Cá biệt có những trường lấy đến 26, 27 điểm cho ba môn thi, trong đó có môn văn. Làm một bài văn bình thường để được điểm 5, điểm 6 không khó. Nhưng với số điểm như vậy thì chắc chắn các bạn có rất ít hi vọng. Vậy làm thế nào để có bài văn thi đại học được điểm 8? Điều đó có vẻ như rất khó khăn. Nhưng nếu bạn đọc kĩ cuốn sách này, bạn sẽ biết rằng, có nhiều cách để đạt đến điểm tám, hoặc số điểm cao hơn nữa. Tiếp cận tác phẩm văn học là một công việc khó khăn đòi hỏi người đọc phải có một vốn văn hóa nhất định. Cảm thụ được ý nghĩa và vẻ đẹp của nó rồi trình bày cho người khác hiểu được bằng ngôn ngữ riêng của mình còn là công việc khó khăn hơn nữa. Việc học văn của học sinh phổ thông theo chúng tôi là nhằm đến mục đích này. Việc phân tích và bình giảng một tác phẩm văn học không có một chuẩn mực chung bởi cảm nhận thế nào là quyền của một người. Cho nên cùng một câu thơ hay một câu văn lại được mỗi người phân tích một cách khác nhau. Đó chính là tính chất đa nghĩa của nghệ thuật. Nhưng cũng chính vì tính chất này mà các em học sinh gặp phải rất nhiều khó khăn. Thứ nhất, họ không phải là độc giả bình thường bởi cái vận văn hóa mà công việc phân tích tác phẩm văn học đòi hỏi thì họ còn đang phải học. thứ hai, chính vì sự giảng dạy theo những giáo trình có sẵn nhiều khi không phát huy được tính sáng tạo của học sinh. Điều này khiến học sinh.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> hiểu tác phẩm văn học rất chung chung, nhiều khi còn ngô nghê nữa. Sau mỗi kỳ thi học sinh giỏi và nhất là kỳ thi đại học, bào chí phản ánh rất nhiều những bài phân tích, bình giảng rất kém của học sinh, chẳng hạn có em cho rằng chồng của cô Đào trong truyện ngắn Mùa lạc của nhà văn Nguyễn Khải là Chí Phèo (nhân vật của nhà văn Nam Cao), hoặc những câu thơ được hiểu theo nghĩa thô tục. Chính vì thế mà chúng tôi làm cuốn sách "Văn lớp 12 - Tác giả nói về tác phẩm này với mục đích duy nhất là giúp các em học sinh tiếp cận gần hơn vào những tác phẩm các em được học trong nhà trường. Đối với một bài thơ hay một truyện ngắn, người hiểu rõ nhất hơn ai hết chính là các tác giả đã sáng tạo ra nó. Họ chính là người đã phải khổ sở, cân nhắc dùng câu này hay dùng câu kia, dùng từ này hay dùng từ kia. Họ chính là người hiểu rõ và tạo ra những lớp nghĩa trong tác phẩm và liên kết chúng trong một ý tưởng. Cho nên chúng tôi đã phỏng vấn trực tiếp các tác giả có tác Phẩm được giảng dạy trong nhà trường và trình bày các câu trả lời của họ một cách giản dị. Đối với một bài thơ hay một truyện ngắn chúng tôi phỏng vấn tác gia theo trình tự sau: Hoàn cảnh sáng tác. Đối với việc phân tích tác phẩm, việc hiểu được tình cảm, tâm tư hay động cơ thúc đẩy tác giả sáng tạo ra nó là một việc hết sức cần thiết. Nó giúp tiếp cận trực tiếp vào tác phẩm. Tại sao tác giả lại viết như thế này mà lại không viết như thế kia? Chúng tôi phỏng vấn tác giả từ về lý do thúc đẩy họ viết, về tình cảm khi họ viết và đặc biệt là sự ảnh hưởng của cuộc sống xã hội xung quanh đối với tác phẩm khi họ viết. * Ý tưởng chính của tác phẩm. Đây là phần phức tạp nhất của việc phân tích tác phẩm văn học. Mỗi người đọc sẽ có một ý kiến chủ quan của mình gán cho tác phẩm bởi những hình ảnh giàu tượng trưng trong tác phẩm. Mặc dù đôi khi tác phẩm có chứa đựng những ý tưởng vượt quá tầm kiểm soát của tác giả nhưng đó là những trường hợp quá hiếm hoi. Hầu hết các tác giả đều nắm chắc mình viết gì..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Chúng tôi cố gắng để tác giả nói lên một cách giản dị và ngắn gọn nhất ý tưởng chủ đạo trong tác phẩm của mình. Khi nắm được ý tưởng này, chúng ta mới có thê phân tích và bình giảng tác phẩm được. * Phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm: Chúng tôi xuất phát từ quan niệm rằng nội dung và hình thức có một gắn bó hữu cơ không thể tách rời bởi chỉ có hình thức đó mới có nội dung đó hay nội dung đó đã bày tỏ ra bên ngoài hình thức đó. Cho nên không thể phân tích riêng biệt từng điều một. Đối với việc phân tích tác phẩm, nắm được các mạch "thơ", "văn" là điều quan trọng. Nhiều học sinh khi phân tích đến đoạn sau thì quên mất nội dung của đoạn trước cho nên bài văn của các em chỉ là những mảng cảm nghĩ tách rời nhau. Chúng tôi làm việc này hết sức thận trọng và tỉ mỉ. Từng câu văn, từng câu thơ, từng tứ, từng điệp từ cho đến các dấu cảm thán trong tác Phẩm lần lượt được các tác giả phân tích và làm rõ ý tưởng của chúng. Không những thế, những ý kiến khác nhau trong việc phân tích một hình ảnh hay câu văn nào đó của các nhà phê bình, nhà giáo đều được mang ra để cho tác giả nhận xét (ví dụ như hình ảnh "Đầu súng trăng treo" trong bài Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu). Nội dung của đoạn văn, đoạn thơ này liên kết như thế nào với nội dung toàn tác phẩm và nó phản ánh ý nghĩa nào của ý tưởng chung. Xen lẫn vào việc phân tích nội dung, bút pháp nghệ thuật của tác giả cũng được làm sáng tỏ đến từng hình ảnh, từng câu chữ. Tác phẩm sẽ được lần lượt phân tích từ từ đầu tiên đến từ cuối cùng. * Ý nghĩa nghệ thuật và xã hội của tác phẩm. Đây là phần mà rất ít các bài phân tích văn học của học sinh đề cập tới. Các bài văn chỉ dừng lại ở phần phân tích nội dung và nghệ thuật. Một tác phẩm văn học bên cạnh phần chứa đựng những giá trị nền tảng tâm hồn muôn đời của con người nói chung nó còn phản ánh một Phần hình ảnh xã.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> hội ở thời điểm tác giả viết ra tác phẩm. Đặc biệt là Phần ý nghĩa xã hội. Học sinh hầu như rất khó khăn trong việc rút ra ý nghĩa này. Mặc dù đã xác định rõ phương pháp làm việc như vậy nhưng khi thực hiện chúng tôi vấp phải nhiều vấn đề hết sức khó khăn. Hầu hết các nhà văn được phỏng vấn đều không biết tác phẩm nào của mình đang được dùng giảng dạy trong nhà trường. Ngay nhà thơ Tố Hữu, một tác gia có tác phẩm được đưa rất nhiều vào sách giáo khoa mà cũng không biết bài thơ nào của mình được giảng dạy. Hơn nữa, tác phẩm của nhà thơ Tố Hữu như Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du... đã được quá nhiều nhà phê bình có tiếng tăm và uy tín phân tích, bình giảng. Vả lại các tác phẩm đã được Bộ giáo dục và Đào tạo chọn đưa vào chương trình giảng dạy là những tác phẩm vừa tiêu biểu cho phong cách của tác giả, vừa tiêu biểu cho một dòng văn học, một thời kỳ văn học. Việc đặt câu hỏi phỏng vấn do đó không kém phần phức tạp. Ví như bài Bên kia sông Đuống của nhà thơ Hoàng Cầm. Bài thơ này là một bài thơ lớn chứa đựng nhiều hàm nghĩa, nhiều tầng văn hóa. Có những cách dung từ mà cả người đọc lẫn học sinh khó mà hiểu được (như từ "dựng trăng") nếu tác giả không chỉ dẫn. Nhưng theo ý chủ quan của nhà thơ Hòang Cầm thì chính ông cũng chỉ là một trong những độc giả của bài thơ bởi vì khi viết bài thơ này nhà thơ luôn nghe một giọng phụ nữ dịu dụng và mơ hồ "đọc cho ông viết" (nguyên văn lời nhà thơ Hoàng Cầm). Cho nên chính chúng tôi cũng phải phỏng vấn ông với tư cách ông là một độc giả đặc biệt của bài thơ Bên kia sông Đuống. Hơn nữa không chỉ nhà thơ Hoàng Cầm sang tác một cách đặc biệt như thế mà những nhà thơ có thơ trong sách giáo khoa cũng đôi lúc trả lời rằng khi ấy họ viết như vậy nhưng chỉ có thể cảm được chứ không hiểu được. Gặp những câu trả lời như vậy về một câu thơ khó hiểu nào đó, chúng tôi lại phải nói lên sự hiểu của cá nhân chúng tôi về câu thơ đó để tác giả hoặc đồng ý hoặc phủ nhận. Với những nhà văn, chúng tôi thuận lợi hơn khi cùng họ phân tích tâm lý của nhân vật. Chính các nhà văn này cũng cho rằng lâu nay những bài phân tích về tác phẩm của họ không chú trọng lắm đến tâm lí của nhân vật.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> mà chỉ cuốn theo tình tiết cốt truyện hay câu chữ. Trong văn xuôi nếu không phân tích tâm lý nhân vật thì các nhân vật chỉ như những bóng mờ thiếu sinh khí của đời sống. Các nhà văn đã vui lòng trả lời về từng nhân vật trong tác phẩm kể cả những nhân vật chỉ xuất hiện một vài lần hay chỉ nhắc đến cái tên thôi. Chúng tôi không phỏng vấn tác giả riêng rẽ từng nhân vật một mà luôn luôn phân tích tất cả các biến thái tâm lý của tất cả những nhân vật ở trong cùng một tình huống tức thời. Tâm lý của như vật này sẽ được tỏ rõ hơn khi soi vào tâm lý của nhân vật đã cùng tạo ra tình huống truyện. Trước khi Phân tích những biến cố tâm lý ở đoạn sau chúng tôi lại lặp tức cùng tác giả liên hệ đến những biến cố tâm lý của nhân vật ở đoạn trước. Điều này giúp chúng ta cảm nhận được các nhân vật không chỉ là hình mẫu đơn thuần của văn học mà nó còn là những con người thực sự với đầy đủ tình cảm và nỗi đau khổ của kiếp người. Cách làm này đã giúp cho những truyện ngắn từng gây khó khăn cho học sinh khi phân tích (ví dụ như truyện ngắn Mùa lạc của nhà văn Nguyễn Khải. Truyện ngăn này trong kỳ thi tuyển sinh Đại học năm 1999 có hơn mười trường đại học và cao đẳng ra đề phân tích) trở nên dễ tiếp nhận hơn, gần gũi hơn. Các nhà văn cũng thẳng thắn trả lời những câu hỏi của học sinh hay giáo viên trên các báo và những vướng mắc trong tác phẩm của họ (như câu hói của một học sinh đã in trên báo Văn Nghệ hỏi tại sao khi Mị bị bắt, người yêu của Mị không đến cứu trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài). Các tác phẩm đề cập trong sách này là các tác phẩm văn học trong chương trình giảng văn lớp 12. Đây là phần quan trọng và chính yếu nhất. Học sinh vừa phải thi tốt nghiệp, đồng thời các đề thi văn đại học và cao đẳng hầu hết đều dùng chương trình giảng văn lớp 12. Cuốn sách đề cập tới những tác phẩm sau trong chương trình lớp 12: * Văn xuôi. - Mùa lạc của nhà văn Nguyễn Khải - Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài - Đôi mắt của nhà văn Nam Cao. - Người lái đò Sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân. * Thơ. - Kính gửi cụ Nguyễn Du, Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. - Các vị La Hán chùa Tây Phương của nhà thơ Huy Cận. - Bên kia sông Đuống của nhà thơ Hoàng Cầm. - Đất nước (trích trường ca) của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. - Tiếng hát con tàu của nhà thơ Chế Lan Viên - Tây tiến của nhà thơ Quang Dũng - Đất nước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi - Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh Trong sách giảng văn còn một phần rất quan trọng đó là các tác phẩm của Hồ Chủ Tịch. Tuy nhiên, do các tác phẩm này đã được phổ biến sâu rộng trong xã hội, đã được nhiều nhà phê bình, nhà văn phân tích kỹ càng và sâu sắc trên các báo, tạp chí và sách, nên các em có thể tìm đọc ở bất kỳ hiệu sách nào. Ngoài ra, còn một vài tác phẩm văn xuôi nữa. Nhưng chúng tôi xét thấy những tác phẩm ấy ít khi được sử dụng trong các kỳ thi đại học, hơn nữa dung lượng cuốn sách có hạn nên đã không đề cập đến ở đây. Ngoài các tác phẩm lớp 12, chúng tôi xin lưu ý các bạn học sinh về tác phẩm "Tràng giang" của nhà thơ Huy Cận. Do tác phẩm lớp 11 này xuất hiện thường xuyên trong các đề thi đại học, nên ở đây cũng phân tích tác phẩm này. Mặc dù chính các tác giả đã phân tích và bình giảng tỉ mỉ từng câu, từng chữ trong tác phẩm của mình, bày tỏ tất cả những bí ẩn tâm lý của nhân vật nhưng công việc cảm thụ và phân tích vẫn dựa vào ý kiến chủ quan hoàn toàn của độc giả và những người phân tích tác phẩm. Cho nên những người làm cuốn sách này mong muốn đưa cho người đọc là học sinh những ý kiến của các tác giả như một sự tham khảo và tránh được lỗi lầm không đáng có.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> khi tiếp cận tác phẩm. Hơn nữa cuốn sách được trình bày theo cách đối thoại trực tiếp với tác giả tức là đối thoại trực tiếp với tác phẩm. Điều này kích thích và tạo cho học sinh khả năng có thể đối thoại được với tác giả thông qua tác phẩm. Do vậy, việc cảm thụ một tác phẩm văn học lớn là chuyện khó khăn từ xưa đến nay. Chúng tôi chân thành cảm ơn các nhà thơ, nhà văn đã bỏ thời gian để cùng chúng tôi phân tích tỉ mỉ từng câu, từng lời, trong tác phẩm. Nguyễn Quang Thiều. Tác phẩm: VỢ NHẶT (TRUYỆN NGẮN) Tác giả: Nhà văn KIM LÂN Nhà văn KIM LÂN phân tích Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1-8-1921 ở Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh. Ông tham gia Hội văn hóa cứu quốc năm 1944. Ông viết không nhiều, chỉ xuất bản hai tập truyện ngắn Nên vợ nên chồng (1955) và Con chó xấu xí (1962). Ông am hiểu về văn hóa làng quê Việt Nam, đặc biệt là chất lãng mạn của nó. Những thú chơi, những điểm đam mê nho nhỏ ngoài giờ lao động trên cánh đồng của những người nông dân đã giúp ông tạo nên những trang văn đầy thi vi như nuôi gà chọi, thả chim câu... Nhưng có lẽ những nhân vật làm nên phong cách riêng của ông lại là những nhân vật nông dân nghèo khổ, cùng khốn. Ông không mô tả sự phản kháng, sự nổi dậy của họ đối với chế độ thực dân cướp nước mà phân tích tâm lý, đời sống thường nhật của họ trong những hoàn cảnh đó. Nhân vật bi đẩy đến ngưỡng và buộc phải biểu lộ phẩm cách của mình: Nhưng dù nhân vật có ở trong đêm đen tối, ông vẫn chỉ ra cho họ một chút ánh sáng mong manh của hi vọng. Đó là ánh sáng của cái thiện, của lòng tin vào cuộc sống. Hỏi: Thưa nhà căn, dịch đói năm 1944-1945 đã cướp đi rất nhiều sinh mạng của đồng bào ta. Ở các vùng nông thôn Bắc Bộ, hầu như gia đình nào cũng.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> có người chết đói: anh em, vợ chồng, cha mẹ, con cái ly tán khắp nơi. Sự sống của mỗi người bị cái đói đe dọa từng ngày. Trong bối cảnh xã hội đó, truyện Vợ nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ chồng, một nguồn sống cho một mầm sống tương lai tại sao lại được bắt đầu ảm đạm và phấp phỏng như thế Đáp: Dịch đói dạo đó thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói, vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác ở khắp nơi. Khi con người bị đẩy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra. Chết đói là một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua những năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ. Có những người đói ngày ngày bới rác tìm một mẩu thức ăn thừa, buổi tối họ lại về nằm cạnh nhau bàn tán về chuyện làng quê, chuyện mùa màng. Có người giữ nề nếp rất nghiêm dù đói khát, con cái đi xin mang phần về cho, ông ta vẫn áo the, đội khăn xếp ngồi giữa nhà để ăn. Có người đói xô vào cướp cám để ăn, bị đánh cũng chịu không đánh lại, họ biết rằng chuyện cướp cám của họ là sai nhưng họ vẫn phải làm vì đói. Nói tóm lại, bi kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu như giống nhau: Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó nó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự. Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy. Hỏi: Cái đói là đề tài của rất nhiều nhà văn. Cái đói trong Vợ nhặt có khác gì những cái đói khác mà các nhà văn thường mô tả?. Đáp: "Cái đói" là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Con.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> người phạm tội và làm đủ chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái "mơ hồ" ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ. Hỏi: Truyện ngắn Vợ nhặt được viết từ một tình huống có thật trong cuộc sống? Đáp: Ban đầu tôi viết một truyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tôi viết trên chương thứ V thì dừng lại. Sau khi hòa bình lập lại, tôi và Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo Xóm ngụ cư có một đoạn luôn ám ảnh tôi là đoạn viết về những người đói, về những buổi sáng ở vùng quê người ta phải ra chợ nhặt xác người đi chôn. Tôi viết lại chương đó thành truyện ngắn Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ. Chuyện Vợ nhặt hoàn toàn không có thực mà do tôi sáng tạo ra. Không thể có một bà mẹ như thế, một cô con dâu như thế trong đời sống thực. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con người trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau, không phải là sự giành giật nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là lạ đó lại được hiện ra với vẻ chân thật. Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, sau khi in ở tờ tuần báo Văn. Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh. Hỏi: Dân ngụ cư là dân đi ở trọ, không phải dân gốc nên thiệt thòi đủ thứ. Mở đầu truyện là mẩu hồi ức "Trước kia mỗi chiều" có vẻ yên ả nhưng cái hồi ức này quá ngắn, trôi qua quá nhanh. Hiện tại là cảnh đói khát ủ rũ, cạnh.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> những người ăn xin "xanh xám như bóng ma", cảnh thây người chết "nằm cong queo bên đường". Vậy mà buổi chiều anh Tràng trở về với một vẻ mặt có "vẻ gì phởn phơ khác thường", một nụ cười tủm tỉm và "hai mắt thì sáng lên lấp lánh", bên cạnh lại có người đàn bà rón rén e thẹn. Đấy là một sự kiện quá ư lạ lùng giữa lúc người ta chỉ nghĩ đến sự sống - chết. Tràng khi đó có ý thức được việc mình làm? Đáp: "Tràng là anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh. Trong thời buổi bấy giờ, hẳn Tràng chẳng dám nghĩ đến chuyện lấy vợ, vì thủ tục cưới cheo hồi đó rườm rà, tốn kém lắm. Vậy mà tự dưng anh chàng lại "nhặt" được vợ. Sự kiện nhặt vợ quá buồn cười. Chỉ là một câu đùa, ai cũng biết là đùa, vậy mà cô kia cũng theo. Điều đó chứng tỏ cô ta cùng đường và sẵn sàng xông vào, bấu víu vào bất cứ cái gì có thể bấu víu được. Còn Tràng, tại sao lại dẫn cô ta về? Vì Tràng là một người nông cạn, không biết tính toán như người khác, cũng không ý thức được về hoàn cảnh của mình. Anh ta chỉ chặc lưỡi theo đúng cách của một người hay "ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch". Đến lúc về tới xóm, trước ánh mắt, thái độ của dân xóm, Tràng mới kịp nhận ra sự thay đổi trong cuộc sống của mình. Anh ta chỉ cảm nhận sự thay đổi, còn ý nghĩa của nó như thế nào thì anh ta chưa thể hiểu. Hỏi: Nhưng nhân vật thứ hai, người đàn bà thì hẳn hiểu hoàn cảnh của mình? Đáp: Thị đã ở bờ vực. Số phận thị đã rõ ràng và thị hiểu được điều ấy. Cho nên thị đi bên Tràng mà đầu cúi xuống, chiếc nón rách "nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt", Thị mặc cảm, gần như nỗi mặc cảm của người nhận lời bán mình trước sự chứng kiến của nhiều người khác. Chính thế nên khi đám trẻ con mới đùa một câu thị đã tỏ vẻ khó chịu. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Tại sao việc Tràng và người đàn bà ngang qua xóm ngụ cư lại khiến cho những "khuôn mặt hốc hác u tối" từ những hiên nhà xác xơ đột nhiên "rạng rỡ hẳn lên"? Sự xuất hiện của Tràng và người vợ như thể thổi vào cuộc sống tăm tối tuyệt vọng của họ một luồng sinh khí tươi mát? Đáp: Trước kia, chiều nào Tràng cũng đi về qua xóm, nhưng hình ảnh đơn độc của Tràng không gây ra bất kỳ một xao động nào trong đời sống của cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy. Sự biến đổi chốc lát như thế phụ thuộc vào hình ảnh người đàn bà bên Tràng. Mọi người bàn tán và cũng đôi phần đoán ra được câu chuyện của Tràng. Họ đoán được bằng chính hoàn cảnh của họ. Việc lấy vợ lấy chồng luôn là một niềm vui và quan trọng, nó chuẩn bị cho một cuộc sống khác, cuộc sống tương lai của đứa con. Nhìn Tràng và người đàn bà, bất chợt họ cũng mơ hồ đến tương lai của chính họ. Tràng đã khiến họ tin vào cuộc sống thêm một chút. Nếu họ ý thức được niềm vui của mình trong giây lát đó, họ sẽ nghĩ rằng "Đó, anh ta không những còn sống mà còn nuôi thêm được một người nữa trong hoàn cảnh này". Nhưng niềm vui trôi qua rất nhanh. Một tiếng "ôi chao" và lời than thở đưa họ về thực tại cuộc sống đói khát cùng quẫn, "họ nín lặng". Hỏi: Chuyện Tràng "nhặt" vợ là một sự lạ, nhưng mọi người như thể thừa nhận điều đó một cách dễ dàng? Đáp: Sự kiện đó chỉ gây ra sự tò mò một chút ban đầu thôi. Do hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống, mọi người không còn đủ sức để nhận ra điều đó là ngược đời. Và nó còn được dùng như một cái thước đo vô hình, kiểm lại cuộc sống hiện tại của họ. Nhưng câu chuyện của Tràng nhanh chóng không còn được bàn tán nữa khi họ "cùng nín lặng" hiểu ra số phận khắc nghiệt đang treo lơ lửng trên đầu họ. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Khi người ta nhìn vào, bàn tán về mình, Tràng biết thế và lấy làm "thích ý" lắm, và hắn vênh vênh "tự đắc với mình". Có lẽ đến lúc này Tràng mới hiểu rằng hành động của mình pha chút "anh hùng", "kiêu bạc" trong cuộc sống khó khăn hiện tại. Nhưng khi đi hết xóm ngụ cư thì Tràng lại đâm ra lo sợ. Tràng sợ vì nuôi mình không đủ lại phải đèo bồng thêm một người nữa ư? Đáp: Tràng không có nỗi sợ đó. Nỗi sợ của Tràng là nỗi sợ phải "một mình" đối diện với người đàn bà. Khi đi từ chợ tỉnh về, ngang qua xóm ngụ cư, những ánh mắt, tiếng cười của người khác đã làm cho Tràng bớt cảm thấy sự có mặt của người đàn bà. Nhưng khi còn hai người ở "con đường sâu thăm thẳm vắng vẻ thì rõ ràng người đàn bà kia là toàn bộ cuộc sống bên ngoài đối với Tràng, Tràng phải tìm hiểu nó. Tràng ý thức đầy đủ sự có mặt của thị là dành cho Tràng. "Hắn định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia". Tại sao vậy? Tại vì thực sự người đàn bà đi bên cạnh Tràng còn hoàn toàn xa lạ với Tràng. Hỏi: Tại sao khi không cảm thấy mà Tràng lại cảm thấy như thế? Đáp: Tôi có chủ ý không tả tâm trạng của người đàn bà khi xa đó. Nếu tả kỹ quá thị sẽ mất đi sự "xa lạ" không phù hợp với hoàn cảnh của câu chuyện. Sự yên lặng và xa lạ của thị khiến cho không gian như đọng lại và cho Tràng cảm thấy thị ở thật gần mình. Điều này khiến Tràng đột nhiên "hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày". Tràng khi đó có lẽ quên tất cả, không phải với vẻ bất cần mà là do hình ảnh thị đã dần xâm nhập và chiếm trọn cõi lòng của Tràng. Ở người "đàn ông nghèo khổ" này cuộc sống đột nhiên "mới mẻ" và lạ lùng. Đó là cảm giác có thật, nó "mơn man khắp da thịt". Có một điều thật ý nghĩa đang diễn ra với Tràng "Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Nhưng tên, hoàn cảnh, quê quán, cha mẹ thị Tràng đều chưa biết. Người đọc có cảm giác là "tình nghĩa của Tràng đối với người đàn bà là không thật? Đáp: Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, tuy nhiên để có tình nghĩa người ta cần phải có thời gian để thấu hiểu nhau. Đặt trong hoàn cảnh khốn khó lúc bấy giờ, khi mỗi người cần đến sự giúp đỡ nhiều hơn của người khác cả về vật chất lẫn tinh thần, thì Tràng là cái phao cuối cùng, là tất cả hy vọng của người đàn bà. Vậy cái nghĩa của Tràng là sự gắn kết giữa con người với con người trong một hoàn cảnh cấp bách. Hơn nữa đó còn là "nghĩa" của một người đàn ông nghèo không đủ khả năng lấy vợ bỗng dưng được một người đàn bà "ưng thuận về không" làm vợ. Và khi cảm thấy có "tình nghĩa" với người đàn bà thì sự đối diện của Tràng với chị ta không còn đáng sợ nữa. Hỏi: Hoàn cảnh đó xô đẩy người đàn bà đến và Tràng. Vậy giữa họ liệu có tình cảm thực sự không? Đáp: Sao lại không. Câu chuyện giữa hai người diễn ra như bất cứ với cặp tình nhân nào. Ban đầu là bắt chuyện vu vơ rồi trêu chọc nhau. Khi câu chuyện ra chiều "thân thân", người đàn bà đã "tủm tỉm" cười phá đi vẻ mặt cau có, ngượng ngập. Chị ta bắt đầu quen với hoàn cảnh mới. Và khi Tràng đùa "vợ mới vợ miếc" và cười cợt, thị đã "phát đánh đét" vào lưng hắn. Đây là cử chỉ "tỏ tình" của thị đối với ân nhân, nó đầy âu yếm và cũng đáng yêu. Nó làm cho Tràng hạnh phúc. Anh chàng "thích chí ngửa cổ cười khanh khách". Cuộc sống thường nhật khốn khổ bị quên lãng. Với Tràng, thị là người đàn bà thứ hai sau mẹ anh yêu thương và cần đến anh. Yêu thương có thể chưa rõ nhưng cần thì đã ro. Anh ta hớn hở vì điều đó. Riêng với người đàn bà, hiểu hoàn cảnh mình nên cử chỉ "tỏ tình" trên kia vừa hàm chứa sự biết ơn vừa tỏ thái độ ưng thuận..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Hỏi: Một lần nữa sự khắc nghiệt của cuộc sống phá tan niềm vui mong manh của hai người, tiếng chó sủa vang lên làm Tràng thẹn thùng và xấu hổ, như thế có ai đó nhòm vào hạnh phúc của anh. Hình như Tràng hiểu ra rằng anh ta đang xây dựng hạnh phúc của mình trên nền tảng một cuộc sống thật bất trắc và khốn đốn? Đáp: Đúng là anh ta có cảm giác đó. Anh ta phải xua cái cảm giác đó đi bằng cách "nhặt một hòn gạch vung tay ném mạnh một cái", như thể ném thẳng vào những thách thức đau đớn của cuộc sống. Tràng cảm thấy có lỗi đối với người đàn bà kia về chuyện không đủ tiền cưới xin, lỗi vì chưa xin phép mẹ, lỗi cả chuyện hoàn cảnh gia đình khốn đốn khó có thể cưu mang được thêm người nữa. Nhưng "ý nghĩ" này của Tràng chứng tỏ Tràng đã có nhiều tình cảm với thị lắm. Cái mặc cảm ấy bây giờ mới nhận ra khiến Tràng thốt lên "Mẹ bố chúng mày cắn gì thế", "cắn gì thế" khi chỉ có Tràng và thị đi qua. Điểm cần chú ý là tiếng chó sủa ngay trước cổng nhà Tràng, nơi Tràng phải thực sự đối mặt với tất cả những điều Tràng cảm thấy. Hỏi: Đi đến cổng nhà Tràng, người đàn bà nhìn quanh và "cái ngực gầy lép nhô hẳn lên nén một tiếng thở dài. Phải chăng thị thất vọng vì sự nghèo túng thái quá mà căn nhà của Tràng đập vào mắt? Đáp: Không hẳn tiếng "thở dài" ấy là bởi nhìn thấy cảnh nghèo túng xác xơ của nhà Tràng. Thị chắc thừa hiểu và đoán được hoàn cảnh của một người đi kéo xe bò thuê. Thị theo về nhưng trong lòng thị vẫn chưa dứt khoát lắm. Thị theo như một sự liều mình. Nhưng khi đặt chân vào ngõ, khi không thể thêm lần thay đổi được tình cảnh, phải thực sự chấp nhận mộc sống mới dù cuộc sống đó có thế nào đi nữa, thì một tiếng thở dài là không tránh khỏi. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Dẫn thị vào nhà, Tràng tỏ ra bối rối. "Tràng quay lại nhìn thị cười cười" cố tỏ vẻ tự nhiên cho thị và cũng cho cả mình, Tràng nói đùa: "Không có người đàn bà nhà cửa thế đấy". Nghe câu đó thị lại nhếch mép cười nhạt nhẽo. Có lẽ, thị không hề có ý "khinh thị" cái từ "nhà cửa" mà Tràng gán cho túp lều tồi tàn của mình. Vậy thì "nhếch mép" vì điều gì. Đáp: Thị "nhếch mép" nhạt nhẽo vì ý khác. Thị tủi cho cái thân phận của thị, thân phận theo trai vì đói: thị biết thị theo Tràng chỉ vì đói và như thế không xứng đáng gì với tư chất người đàn bà trong gia đình Tràng vừa gán cho. Hỏi: Nhưng Tràng lại bối rối thực sự, Tràng sợ mất thị do hoàn cảnh của mình ư? Đáp: Đúng thế. Ở đây diễn ra một tình cảnh khá lạ lùng. Tràng "nhặt" được một người đàn bà nhưng rồi lại sợ mất thị. Cảnh nghèo đói đã hiện lên rõ ràng. Tràng thấy có tội vì đã che giấu mà không thể kể cho thị nghe trước. Sự im lặng của thị, nỗi mặc cảm của thị Tràng không hiểu nổi. Hơn nữa Tràng không thể tự quyết được tất cả mọi việc. Còn ý kiến của bà cụ Tứ nữa chứ. Liệu mẹ có đồng ý không? Sự chờ đợi mẹ về thật nặng nhọc với Tràng. "Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc" rồi "lấm lét bước vội" ra sân. Tràng sợ rằng người đàn bà sẽ bất ngờ từ chối không làm vợ Tràng nữa. Tràng không dám trở lại nhà mà chỉ luẩn quẩn ở sân, ở ngõ. Một lần nữa Tràng sợ đối diện với thị, nhưng không phải vì sự "xa lạ" như trước mà là sợ sự đột nhiên từ chối". Hỏi: Khi viết, ý nghĩa ấy có lúc lóe lên trong đầu ông không Thị cũng có thể bỏ Tràng để đi ăn xin hay theo một kẻ khấác khá hơn chứ? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Không bao giờ. Thị đã có sẵn mặc cảm về thân phận mình cho nên đã chấp nhận hoàn cảnh sống với đôi mắt vô hồn nhìn "bần thần" đâu đó. Thị chỉ dám ngồi ở mép giường. Sự "ngồi mớn ở mép giường" và hai tay vẫn không rời cái thúng, chứng tỏ thị hơn ai hết hiểu rõ số phận của mình. Hỏi: Trong tâm trọng bồn chồn của Tràng và sự tủi thân câm lặng của cô vợ, việc bà cụ Tứ trở về đã xua tan được không khí bế tắc. Tràng vui vẻ hẳn, còn người đàn bà lạ cất một câu chào ấm áp: "U đã về ạ". Bà cụ Tứ có ngỡ ngàng chút ít, nhưng bà cũng đồng ý chóng vánh. Không thấy bà lục vấn hỏi han gì con trai, điều mà các bà mẹ thường làm. Vậy trong mạch truyện, sự đồng ý nhanh chóng của người mẹ có quá gượng ép? Đáp: Chúng ta nên hiểu tâm trạng của bà mẹ. Bà cụ Tứ ngay khi về đến nhà đã bị ngạc nhiên vì sự vui vẻ và chờ đợi "nóng cả ruột" của con trai mình. Bà càng ngạc nhiên khi có người đàn bà lạ ở trong nhà mà lại đứng ở "đầu giường thằng con". Người đó lại chào bà bằng u. Cái cảnh đó chưa được giải thích đến nỗi bà cụ tưởng nhầm như mình đang mơ thấy cái Đục - cô con gái đã chết hiện về. Và khi Tràng giải thích, bà "nín lặng" hiểu ra mọi chuyện. Bà tủi phận vì đã không xứng đáng là một người mẹ, không lo cho con một cách đàng hoàng như người khác. Hơn cả đứa con, bà hiểu rõ hơn hoàn cảnh của chúng. người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy mình. Mà con mình mới có vợ được" bà nghĩ. Có thể bà hơi ngao ngán về chuyện đó một chút nhưng cảm giác "hàm ơn" đối với người đàn bà là nhiều hơn, người đã giúp bà "lo" cho con trai bà bằng cách làm vợ anh ta. Bà không dám tin rằng "Chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này". Ý nghĩa về cuộc sống tương lai, và hiện tại gian nan có người đàn bà lạ tham dự vào là một cách bà đồng ý với Tràng. Cuộc sống không cho họ đòi hỏi nhiều hơn. Dù họ có vật lộn, có làm khó dễ, có khó tính đòi hỏi điều này điều nọ thì câu trả lời cho họ vẫn là cái đói treo lơ lủng trước mặt. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Tương lai của cặp vợ chồng mới này như bóng tối trong con mắt bà. "Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt". Xen vào ý nghĩ tối tăm, hiện thực cuộc sống đồng thanh xác nhận điều đó bằng mùi trấu khét lẹt ở nhà những người chết. Bà nghĩ đến cuộc đời bà và ngầm so sánh với cuộc sống của cặp vợ chồng này. Chúng chỉ có một điểm chung là không một chút nào tươi sáng. Bà nhắc "Con ngồi xuống đây". Lời nhắc này có ý nghĩa với lời chào thuận lòng của người mẹ. Bà thực sự chấp nhận thị là con dâu bà hay do hoàn cảnh mà bà phải chấp nhận? Đáp: Cuộc gặp đầu tiên đó không có cái ý nghĩa "mẹ chồng - con dâu". Cái tình cảm chiếm nhiều nhất trong lòng bà cụ Tứ là tình cảm "thương xót" một người đàn bà cùng đường. Hơn nữa, có một nỗi "hàm ơn mơ hồ" luôn bám lấy bà. Người đàn bà đã giúp bà cái việc bà không thể làm cho con trai là lấy vợ cho anh ta. Hỏi: Ở đoạn văn này, tại sao tác giả tại không phân tích tâm trạng của người đàn bà, tâm trạng nơm nớp vì có thể bà cụ Tứ sẽ không bằng lòng? Đáp: Tôi vẫn có ý định là không mô tả trực tiếp trạng thái tâm lý của người đàn bà. Tôi muốn qua cách nhìn của Tràng, của bà cụ Tứ để làm nổi bật lên sự hiện diện của thị. Ở đây mỗi khi thay đổi cách gọi: người đàn bà, thị, ả là một lần "nhân vật vợ mới" thay đổi vị trí trong hai con người kia. Bà cụ không còn giấu cảm nghĩ của mình nữa. Bà kể lể về đám cưới với dăm ba mâm cỗ cho hàng xóm, họ hàng, nhưng "nhà nghèo" và "năm nay thì đói to" nên chỉ cần "chúng mày hòa hợp là u mừng". Sự thành thật xen lẫn nỗi đắng cay khiến bà khóc. Bà khóc vì lo cho cái hạnh phúc mong manh của con trai khó có thể giữ nổi trong cuộc sống đói khổ này. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Tràng hồi hộp, háo hức chờ mẹ và khi bà cụ Tứ đồng ý "Tràng thở đánh phào một cái, như vừa trút hết gánh nặng. Như vậy là Tràng chính thức có vợ. Nhưng Tràng có hiểu được những giọt nước mắt của mẹ? Đáp: Tràng hiểu bà mẹ chỉ nhìn thấy ở việc mình có vợ những viễn cảnh tăm tối. Đó chính là điều đặc sắc của Tràng. Tràng tin tưởng ở mình, tin tưởng ở những điều tốt đẹp nẩy sinh từ lòng mình. Những điều đó không thể có một kết cục tệ hại được. Có thể là ý nghĩa nhất thời nhưng Tràng phải nhắc nhở mẹ và vợ về điều này. Hỏi: Và ngọn đèn Tràng thắp lên đã an ủi cả mấy người? Đáp: Tràng "hầm hầm bước vào" và "đánh diêm đốt đèn". Hành động kiên quyết tạo ra một hình tượng "Ngọn đèn tỏa sáng trong căn nhà tối tăm". Tại sao Tràng không thắp đèn ngay khi về nhà? Bởi Tràng chỉ thắp khi phải củng cố niềm tin dù là nhỏ nhoi cho người khác. Ngọn đèn vừa mang biểu tượng cho một tương lai tươi sáng, vừa liên kết gắn bó ba người lại với nhau - ba con người đói rách. Ngọn đèn là niềm yêu thương, cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn thương của họ. Và khi thấy sáng, bà lão "vội vàng lau nước mắt". Rõ ràng là căn nhà và trong lòng bà lão đều tốt như nhau. Ánh sáng như một lời hứa quyết tâm của người con trai gửi đến bà mẹ. Dầu đắt thế nhưng bởi có vợ mới nên con trai bà cũng mua được cơ mà. Tuy nhiên đèn sáng lên bà cũng chỉ "uể oải" đứng dậy đi nằm. Cái rạng rỡ của ánh sáng cũng chỉ là một viễn cảnh quá xa. Hỏi: Ánh sáng soi rõ lòng bà mẹ và một lần nữa ngọn đèn toả rọi vào cuộc sống chung của đôi vợ chồng mới? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Thực tại luôn luôn kéo người ta lại với nó. "Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ" đã lấy mất không khí lãng mạn ngọn đèn vừa mang đến. Cả hai một lần nữa lại sượng sùng không biết nói gì. Hình ảnh thực nhất là hình ảnh "ngọn đèn" hạnh phúc tương lai soi rọi họ và "kéo dài hai cái bóng trên vách". Hai cái bóng đó chính là cuộc sống thực của họ. Hai cái bóng lờ mờ, lê thê, khốn khổ. Sự thật trần trụi họ phải tiếp nhận là như thế. Hỏi: Đêm tân hôn của cặp vợ chồng là đêm hạnh phúc. Mọi khó khăn đều tạm quên đi. Hai người hưởng cái niềm vui tột cùng mà thiên nhiên trao tặng. Nhưng cái niềm vui ấy được bao quanh bởi "tiếng khóc tỉ tê nghe càng rõ". Một đêm tân hôn trong tiếng khóc người chết và mùi trấu hun khê nồng. Tràng có cảm thấy hạnh phúc không? Đáp: Tôi tả đêm tân hôn trong hoàn cảnh đó và để phân tích xem hạnh phúc tột cùng đó có chiến thắng cái đói không. Tràng hạnh phúc. Trong khung cảnh tối tăm và ghê rợn như thế nhưng niềm vui của con người vẫn không mất đi. Sáng hôm sau, Tràng thức dậy rất muộn khi "mặt trời lên bằng con sào", chứng tỏ niềm hạnh phúc mà anh được nếm trải. Anh ta trở thành một con người khác. Một người chồng thực sự. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa soi vào hai con mắt của Tràng và mọi thứ bỗng nhiên thay đổi. Hỏi: Đó là thay đổi thực hay Tràng chỉ cảm thấy thế? Đáp: Cuộc sống thay đổi thực dù không nhiều với gia đình ấy. Tràng thấy mọi thứ "mới mẻ, khác lạ". Nhà cửa, vườn tược được thu vén gọn gàng. Các lu đựng nước đầy ắp. Quần áo cũ được giặt giũ và phơi nắng. Một nếp sống khác bắt đầu xuất hiện. Người làm thay đổi nếp sống ấy là người vợ đang "quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất". Cái âm thanh ấy, ngày thường Tràng cũng nghe nhưng chưa bao giờ gợi cảm như thế..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Người vợ mới muốn quét mạnh tay để tạo ra những âm thanh rộn rã khẳng định sự có mặt của mình trong ngôi nhà. Hỏi: Cảnh tượng đó đã khiến Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Tràng là con, là chồng, Tràng có nhiều trách nhiệm hơn với ngôi nhà. Cái trách nhiệm, cái niềm vui của cuộc sống mới đã khiến cho Tràng có "một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng" và "cũng muốn làm một việc gì để dự phần sửa lại căn nhà". Tất cả mọi người đều hiểu phải tiến gần nhau hơn? Đáp: Cả ba đều ý thức thực sự về hoàn cảnh của mình. Tràng rõ ràng cảm thấy mình là chủ gia đình, là nơi nương tựa của hai người đàn bà. Cái khao khát muốn làm một việc gì để "dự phần tu sửa lại căn nhà" như một lời hứa của Tràng. Tràng cảm thấy "hắn nên người". Bà cụ Tứ thì "lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở và bỏ sẵn gieo trồng một thứ gì đó trong vườn. Hỏi: Trong ba người, người vợ lại ít được mô tả nhất. Tại sao? Đáp: Thị thuận lòng làm vợ Tràng do hoàn cảnh nên luôn lặng im và khép nép. Sau đêm tân hôn, sau đêm trở thành một phần đời sống của gia đình này, thị bắt đầu tham gia vào công việc gia đình. Thị thay đổi, là "người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn" nữa. Thị thay đổi nhiều so với "mấy lần gặp ở ngoài tỉnh". Thị không buông xuôi theo cuộc sống nữa mà bắt đầu hoạt động để thu vén, tổ chức lại cuộc sống của mình. Người đàn bà thực thụ đã sống lại trong thị. Hỏi: Mọi người đều có niềm vui, những rõ ràng họ luôn cố gắng tìm cách quên đi thực tại. "Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung Sướng về sau.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> này. Bà mẹ muốn cho ngày đầu tiên này thật tốt đẹp. Người vợ thì quét chổi "sàn sạt". Tràng thì muốn "thu xếp lại cửa nhà". Nhưng họ càng cố gắng thì cuộc sống khó khăn càng hiện ra khủng khiếp hơn? Đáp: Ở đây tôi không chủ tâm diễn tả cái đói mà là muốn thể hiện cuộc sống của một cặp vợ chồng mới trong nạn đói. Cho nên cuộc sống đói khổ chỉ là cái nền thôi. Tuy nhiên chính vì nó mà niềm vui của cặp vợ chồng luôn bấp bênh. Ở đây có một ẩn ý: Cả ba người đều không quên thực tại và cố gắng của họ là tìm thấy niềm vui trong cuộc sống tối tăm. Cái bữa ăn đầu tiên ba người ngồi ăn chung mang ý nghĩa như bữa "tiệc cưới" tội nghiệp. "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rồi và một đĩa muối ăn với cháo. Sự tồi tàn của bữa ăn tương phản với niềm vui của họ: Họ đều "ăn rất ngon lành" và "vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn gia cảnh". Họ gắn bó nhau và yêu thương nhau hơn. Tràng trở nên ngoan ngoãn và nghe lời mẹ. "Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại hòa hợp thế. Tầm quan trọng của bữa ăn đầu thật rõ. Nhưng "tiệc cưới" kéo dài không lâu, mỗi người chỉ được hai lưng cháo "lõng bõng". Màn cuối của bữa hoàn toàn phũ phàng khiến mọi người nhớ đến thực tại khắc nghiệt. Cô dâu đón lấy bát ăn và "đưa lên mắt nhìn" rồi "hai con mắt thị tối lại" vì cảm nhận tận cùng cái cơ cực của cuộc sống mới. Nhưng thị đã "điềm nhiên và vào miệng". Đấy dù sao cũng là lối tốt nhất cho cuộc đời của thị. Hỏi: Nồi cháo đã đập tan không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. "Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau, một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người". Trong sách Văn học lớp 12 phần được trích giảng cũng dừng ở đoạn này. Câu văn dường như bóc nốt lượt cuối lớp vỏ bên ngoài của cuộc sống để cho cả ba thấy cái "đắng chát" cái nghẹn bức trong cổ. Cuộc sống không báo hiệu một tia hy vọng nào? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Thực ra với tứ truyện "Vợ nhặt" truyện nên kết thúc ở đây. Thâm tâm tôi cũng định thế nhưng do diều kiện của tờ báo bấy giờ, truyện mới được kéo dài ra thêm. Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hy vọng vào tương lai. Hỏi: Thưa nhà văn, đoạn nào trong truyện là đoạn gây xúc động nhất cho riêng nhà văn? Đáp: Phần gây xúc động nhất cho tôi là khi đọc lại truyện là đoạn bà cụ Tứ trở về. Ở đây tình cảm người mẹ thật lớn. Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Bà không chỉ thương con trai mà còn đầy lòng thương xót với người đàn bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu truyện. Xin cảm ơn nhà văn!. Tác phẩm: TRÀNG GIANG (THƠ) Tác giả: Nhà thơ HUY CẬN Nhà thơ HUY CẬN phân tích Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận sinh ngày 31-5-1919 ở An Phú, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Lúc nhỏ sống ở quê, sau đó vào Huế học tại trường Quốc Học. Ông bắt đầu làm thơ từ thời kỳ này. Cũng từ đây ông bắt đầu có một tình bạn tri kỷ với nhà thơ Xuân Diệu. Ông viết rất nhiều với những Lửa thiêng (1940), Kinh cầu tự (Luận văn 1942), Vũ từ ca (1942), Trời mỗi ngày lại sáng (1958). Ông là một trong những gương mặt xuất sắc tạo nên nền Thơ Mới 1930-1945. Trong khi làn gió vui tươi thổi khắp thi đàn thì Huy Cận lại xuất.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> hiện với một nỗi sầu lớn, sầu về thân phận mỏng manh nhỏ nhoi của kiếp người trước vũ trụ bao la, sâu về thân phận của người dân mất nước (như ông kể lại). Ông cố gắng bằng thơ ca của mình giữ lại "Ngọn lửa thiêng" riêng biệt và âm thầm sáng trong tâm hồn mỗi người. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, từ vũ trụ ca sâu thẳm, Huy Cận đã tìm thấy vũ trụ ca mới của mình. Ông cảm nhận đời sống mới, đời sống tự do của dân tộc và nỗi sầu xưa được thay bằng niềm vui chung rộng lớn của dân tộc. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" chính là minh chứng cho vũ trụ ca mới ấy của Huy Cận. Bài thơ "Tràng giang" được rút ra từ tập "Lửa thiêng", tập thơ đầu tay (được sáng tác vào những năm 1937 - 1940) đã khẳng định vị trí hàng đầu của Huy Cận trong làng Thơ Mới. Đến nay, "Tràng giang" vẫn được coi là mẫu mặt của thơ ca tiếng Việt quốc ngữ. Hỏi: Thưa nhà thơ Huy Cận, những năm ba mươi có thể coi là một thập kỷ ánh sáng của thơ Việt Nam. Cùng với sự bùng nổ mãnh liệt của chữ quốc ngữ, thơ ca thay da đổi thịt trong luồng gió mới trẻ trung chưa từng có. Hàng loạt các nhà thơ liên tiếp xuất hiện và gây nên những chấn động lớn bàng hoàng cả thi đàn và những người yêu thơ, như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử. Cái không khí thơ ca ấy tới bây giờ hoặc sau này rất khó tìm lại được... Đáp: Nếu có những người được coi là thi sĩ đích thực thì phải nhắc đến những nhà thơ thời đó. Họ đến với thơ trong sạch, tinh khiết và không hề vụ lợi. Cái không khí thơ ca thời đdó thật tưng bừng và cuốn hút tất thẩy những ai dễ rung động và lây lan. Ngày ấy trên đầu các nhà thơ đều lấp lánh một vầng hào quang thực sự. Họ sống và hạnh phúc vì được làm thơ, cho nên Thơ Mới mới có một cú "đoạn tuyệt" thật ngoạn mục với thơ cũ. Mỗi nhà thơ khi ấy không chỉ là nhà thơ đơn thuần mà còn là chiến sĩ tranh đấu cho thơ. Chữ quốc ngữ được dùng thật đắc địa. Vì có nhiều nhà thơ nên hầu như mỗi từ đều được soi rọi, phân tích, và tôn vinh nhiều lần trong các bài thơ. Chính.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> thế ngôn ngữ được bồi đắp nghĩa một cách đa dạng, sâu sắc và thấm nhuần một luồng tinh thần mới. Hỏi: Điều đó dường như chưa đủ để cắt nghĩa cho sự thành công của Thơ Mới. Phải chăng trong cái tâm trạng nô lệ mất nước, các nhà thơ đã trút tất cả tâm huyết và ý chí của mình vào công việc làm thơ, giải tỏa phần nào nỗi nhục mất nước. Mất nước đồng nghĩa với mất đi quê hương trong tâm hồn, mất đi cái căn cốt xây đắp nên nền tảng của mỗi đời người. Tôi cảm giác rằng thiếu vắng quê hương không chỉ các nhà thơ bấy giờ phải mang nặng mà nó là tâm trạng của tất cả những ai còn có một chút ý thức và dân tộc. Các nhà thơ ngoài sự thỏa mãn khát vọng thơ ca, họ còn đến với thơ như tìm về với quê hương trong tâm hồn mình. Đây có thể là yếu tố quan trọng và quyết định cho sự thành công của Thơ Mới Đáp: Đúng Tôi còn nhớ tâm trạng của tôi khi đó. Một tâm trạng tha hương, lưu lạc ngay trên Tổ quốc, ngay trên đất mẹ của mình. Điều này thực khủng khiếp, vì con người sẽ bị khủng hoảng tinh thần tận gốc rễ. Chúng ta thử tưởng tượng xem, những thi sĩ tạo nên thi đàn bấy giờ phần chính đều là trẻ trung, tươi mới và chưa quá tuổi hai mươi. Tuổi hai mươi là tuổi hăng say nhất, khí phách nhất và ý thức về danh dự mạnh mẽ nhất, tuổi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để bảo toàn lấy danh dự của mình, của dân tộc mình. Nhưng những nhà thơ của tuổi hai mươi ấy lại phải chứng kiến kẻ thù giầy xéo mảnh đất yêu thương, tiếng mẹ đẻ bị đẩy ra, chỉ được giảng phụ khóa trong các trường học, những giá trị tinh thần của ông cha bị coi rẻ, vùi lấp. Các thế hệ kế tiếp đứng trước một thực trạng đau đớn, có nguy cơ bị mất gốc hoàn toàn, bị cắt lìa ra khỏi tinh thần cha ông như một cành cây. Và để bảo toàn nó, tức là bảo toàn các giá trị tinh thần đã truyền đời qua ngàn ngàn thế hệ, đã tiếp sức cho các thế hệ trước và truyền lại cho thế hệ sau này, các nhà thơ lúc ấy đã mang tất cả tâm huyết và sinh lực của mình ra để sáng tạo, để níu giữ và bồi trì cho quê hương bất chấp sự áp đặt và xâm lấn của một nền văn minh.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> khác. Với ý tưởng này, các nhà thơ mới bấy giờ, xứng đáng là những chiến sĩ kiên cường của nền thơ ca Việt Nam. Hỏi: Điều đó có thể lý giải cái không khí buồn bã, quạnh hiu trong tập Lửa thiêng. Tập Lửa thiêng được sáng tác vào khoảng năm 1937 - 1940. Đó là những năm mà phong trào dân chủ đang sôi nổi nhất, báo chí được phát triển khá mạnh, xã hội bừng bừng khí thế cho cuộc tập dượt cách mạng lần thứ hai. Chính trong không khí háo hức chuẩn bị, chờ đợi đó, con người càng nhận rõ sự mất nước, sự thiếu vắng quê hương trong hồn mình. Điều này có lẽ tác động rất mạnh vào tâm hồn chàng trai 18 tuổi là ông. Và nỗi mất mát không có gì bù đắp ấy, đã không ngừng tạo ra không khí buồn bã và u tịch trong Lửa thiêng và đặc biệt là trong bài Tràng giang, một bài thơ thành công vang dội mà ngay khi vừa xuất hiện, các nhà thơ đồng thời đó nhìn nhận nó thuộc vào hàng "cổ điển", tức là thuộc về khuôn mẫu của thơ ca. Đáp: Tôi sáng tác bài Tràng giang vào mùa thu năm 1939 khi tôi đang học năm thứ ba trường cao đẳng Nông lâm. Tôi luôn luôn bị một mối sầu lớn vò xé tâm hồn. Hà Nội bấy giờ còn rậm rạp đầy cây cối và hồ nước. Tôi thường đi xe đạp lên đường đê Nhật Tân, con đê nằm giữa Hồ Tây và Sông Hồng. Cảnh vật hoang vắng lạ thường. Mùa đó là mùa nước lũ từ nguồn do về làm dòng sông Hồng mới trước đó còn tĩnh lặng, chậm chạp đột nhiên mở rộng lòng ra mênh mang, đỏ quánh cuồn cuộn đổ về đông. Tôi thường đứng lặng để ngắm cảnh tượng vừa hùng vĩ vừa hoang vắng ấy. Buổi chiều tháng chín năm 1939 đó, như thường lệ, tôi lại đứng ngắm nhìn dòng sông Hồng, thấy rác rến, bèo bọt trôi nổi lênh đênh và phía xa xa một dòng hơi sương lam dâng lên mơ hồ, tĩnh lặng. Ngay cả bóng người cũng không có. Một đôi ba cánh chim chấp chới giữa một vòm trời về chiều nhạt mờ u ám. Có lẽ cảnh thiên nhiên không đến nỗi thiếu sức sống như thế, nhưng có thể tâm hồn tôi khi đó đã rung lên đúng điệu buồn bã cô hoài. Thiên nhiên đã nhập vào tôi.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> theo điệu cô hoài đó và từng lời từng lời bắt đầu như có dòng nước lũ muốn cuốn ra từ lòng tôi. Hỏi: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Theo như xuất xứ của bài thơ, dòng sông Hồng khi đó đang mùa lũ, mênh mông cuồn cuộn. Thế nước thật hùng vĩ. Thế nhưng ngay hình ảnh ban đầu nhập vào bài thơ, con sông lại có vẻ nhẹ nhàng, buồn bã. Động từ "gợn" ở đây nhẹ nhàng gợn lên những điều gì mong manh mơ hồ vừa như da diết vừa như dè chừng một điều gì đó, lại thêm từ "tràng giang" được đặt ngay sau. "Sóng gợn tràng giang" ngay lập tức người ta có thể cảm thấy một cảm giác mơ hồ buồn bã vô tận. Để xác định lại cảm giác ấy câu thơ đi nốt phần nghĩa của mình "buồn điệp điệp". "Điệp điệp" là nỗi buồn chồng chất tầng tầng lớp lớp, nhưng như thế dường như lại trái nghĩa đối với nỗi buồn được "gợn" lên và kéo dài? Đáp: Tôi phải khẳng định rằng, trong tâm hồn con người không chỉ là tâm hồn thi si, không phải cảnh đi vào tâm mà luôn luôn tâm phóng chiếu ra cảnh. Nguyễn Du từng viết: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. "Sóng gợn tràng giang", quả là động từ "gợn" sẽ khiến nhiều người thắc mắc khi biết và đọc phần sau bài thơ. Một dòng sông Hồng mùa lũ không thể có động từ nhẹ nhàng thế được. Nhưng chính trong khung cảnh cuồn cuộn hùng vĩ của dòng sông Hồng đó, động từ "gợn" như một cái gương đối lập làm nổi bật lên nỗi sầu khôn tả của thi sĩ. Người ta buộc phải dừng lại ở động từ như thể "nghịch lý" này, tìm hiểu nó, đánh giá nó, phán quyết nó để cuối cùng nhận ra nỗi sầu kia. Và chỉ cần nhận ra điều đó cả thi si lẫn người đọc sẽ bị cuốn vào "điệp điệp" nỗi sầu. Ở đây không có gì mâu thuẫn cả. Chỉ là sự thay đổi tâm lý. Nó dẫn tới hình ảnh:.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Con thuyền xuôi mái nước song song "Xuôi mái" có thể là con thuyền nương theo dòng nước mà đi nhưng có thể là con thuyền bất lực ngay cả với mái chèo của mình, lênh đênh cho dòng nước cuốn đi. "Buồn điệp diệp" không chỉ ở tâm tư nữa mà nó đã hiện lên bằng hình ảnh. Hỏi: Nhưng từ "song song" đó lý giải rõ hơn rằng, con thuyền đó quả là nương theo dòng nước. Có thể khó giải thích ý nghĩa này nếu như hình ảnh con thuyền không được lặp lại đầy ẩn ý: Thuyền về nước lại sâu trăm ngả Hình ảnh con thuyền và dòng nước luôn luôn là một hình ảnh nói lên sự gắn bó thân thiết. Cho dù có bị cái "buồn điệp điệp" đè nặng, nhưng ít nhất cảnh tình còn cảm thấy gắn bó bớt cô đơn. Con thuyền trên sông giống như cái nút níu giữ cuối cùng cho sự gắn bó của cảnh của tình. Nhưng khi nó dừng chân ở một bến bờ nào đó, cảnh vật dòng sông đột ngột tịch liêu và rời rã. Phải chăng nhà thơ đã rút cái "nút sầu" cuối cùng của bài thơ... Đáp: Đó là "nút sầu" mở đầu thì đúng hơn. Tuy nỗi buồn phía trên có "điệp điệp" nhưng cũng chưa đủ kiến tạo cảm giác cô liêu. Chúng ta phải để ý đến sự thay đổi từ, từ chữ "buồn" tác giả trực tiếp nhấn mạnh sang chữ "sầu". Ở đây có sự tăng cấp rõ ràng của nỗi buồn. "Buồn điệp điệp" và "sầu trăm ngả". Nỗi buồn không chỉ có bề sâu nữa mà nó còn được mở rộng ra "trăm ngả". Bấy giờ dòng nước đã đồng nghĩa với dòng sầu, nước bao nhiêu sầu bấy nhiêu, nước cuồn cuộn hung nộ bao nhiêu, sầu thảm khốc bấy nhiêu. Ở đây dòng sông sầu thảm trong tâm hồn nhà thơ đã tuôn chảy ra và hòa làm một với dòng sông kia. Khoảnh khắc này là khoảnh khắc quan trọng của bài thơ, khi tâm hồn thi sĩ đã nhập cảnh một cách trọn vẹn. Bấy giờ bất kỳ hình ảnh nào, bất kỳ tiếng vang nào cũng máu thịt đối với nhà thơ và nó chính là đời sống tâm hồn của nhà thơ. Bấy giờ chỉ có tiếng nước, tiếng sầu cuồn cuộn,.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> nức nở, triền miên và vô biên. "Thuyền về nước lại sầu trăm ngả". "Nước lại", hai chữ có âm trắc đi liền nhau và đứng vào giữa khoảnh khắc "thuyền về" và "sầu trăm ngả". Nó không du dương, nhiệm vụ của nó là thức tỉnh người đọc. Hỏi: Thơ xưa chuộng những hình ảnh đẹp như mây, gió, trăng, hoa, cả cảnh cả tình phải tao nhã. Những hình ảnh thô không được phép dùng. Nhưng với chỉ một câu "Củi một cành khô lạc mấy dòng", quan điểm trên đã bị lung lay. "Củi một cành khô" một hình ảnh có vẻ tầm thường được đưa vào hết sức tự nhiên. Người đọc có lẽ chấp nhận được ngay vì hình ảnh này một lần nữa lại thu gọn và chứa đựng vào nó một nỗi sầu trăm ngả". Nhưng nếu như trên mặt nước phải chăng dùng hình ảnh một cụm bèo lẻ loi, lênh đênh thì hợp cảnh, hợp tình hơn? Đáp: Tôi phải trở lại với hiện thực khung cảnh khi đó. Dòng sông Hồng mùa lũ cuốn từ trên nguồn đổ về cả bèo, củi khô, rong rêu... có nhiều người cũng thắc mắc, tại sao lại củi khô, tại sao lại mấy dòng. Có nhiều lý do để hình ảnh "củi khô" được tiếp nối trong bài thơ. Thứ nhất, khi tôi viết dòng thơ cứ tuôn trào như thế, nhưng có lẽ ngay trong hồn tôi đã mang sẵn một dụng ý cho nên tôi không chọn bèo hay một hình ảnh khác mà lại chọn củi khô. Trong cái mênh mông buồn bã kia thì một hình ảnh thô, cứng, chắc khỏe sẽ tạo nên sự bền vững cho khổ thơ. Có nhà phê bình gọi đó là câu thơ hiện đại giữa bài thơ cổ điển. Thêm nữa, chữ "củi" làm cho người đọc liên tưởng đến những bữa ăn chiều, "củi một cành khô" gợi nhớ đến sự an bình của gia đình, quê hương trong buổi hoàng hôn chuẩn bị bữa tối. Chính cái cảnh thanh bình đó đang hiện ra và trôi nổi giữa dòng nước. "Lạc mấy dòng" lột tả sự hoảng loạn và ly tán của những cảnh thanh bình ấy. "Củi một cành khô lạc mấy dòng". Sự ly tán và hoảng loạn tràn khắp. Câu thơ này "thực hóa" tất cả nỗi sầu còn lãng mạn, còn mơ hồ ở khổ thơ và đưa nhà thơ trở lại thực tại của khung cảnh và thực tại của đời sống. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Ở đây một thứ gió đìu hiu có vẽ như không hợp với bài thơ nữa cho dù khi dùng chữ "lơ thơ cồn nhỏ", tác giả đã ngụ ý rằng chỉ quan tâm đến cuộc sống của nó. Dường như tác giả có vẻ muốn một lần nữa kiềm chế lại cảm xúc của mình để tiếp sức cho những câu thơ bùng nổ tiếp theo? Đáp: Ở sông Hồng có những cồn cát lớn chạy nối dài giữa sông. Cây dại và chim chóc tụ đầy. Khi nước lên, những cồn cát đó chỉ còn lơ thơ vài cây mọc trên một gò nổi nhỏ bé. Thi sĩ đứng ngắm nhìn hình ảnh ấy mà đột nhiên chạnh lòng về thân phận con người như cồn nhỏ kia đang bị dòng lũ của cuộc đời nhấn chìm, nhấn chìm dần. Cái cảm giác số phận an bài và đứng chịu chân cho cuộc đời phủ lấp. "Lơ thơ cồn nhỏ" cuộc sống thật buồn bã và nhạt mờ. Chính lúc đó thi sĩ một lần nữa thấy gió "hiu hiu" toát lên vẻ cô liêu tịch mịch và u uất của những cồn nhỏ hoang tàn kia. Cái cuộc sống náo nhiệt, ồn ã mà nó được dự vào đâu rồi? "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Đâu những âm thanh náo nức của cuộc sống, dù bụi bặm, dù chen lấn, hù dọa nhau, nhưng vẫn là một thứ âm thanh lôi cuốn và vỗ về lòng người... Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Hai câu thơ, hai hình ảnh hoàn toàn không có liên quan gì tới nhau cả về hình thức lẫn khoảng cách địa lý. Nhưng chúng lại lột tả và bổ khuyết ý nghĩa cho nhau bởi "thân phận" hai hình ảnh ấy là một. Nó cùng chung đúc nên cái hiu hắt, cô đơn, lạnh giá của kiếp người. Hỏi: Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Nhiều nhà phê bình cho rằng tới câu thơ này nỗi buồn của Huy Cận đã vượt ra khỏi lòng người để "nhuộm sầu" vào vũ trụ. Nỗi sầu mà Huy Cận sẽ phản ánh vào tập Vũ trụ ca sau này. Cái buồn của Huy Cận là cái "sầu vũ trụ", là cảm giác mênh mông cô đơn của con người. Con người cảm thấy nhỏ bé, lẻ loi trước sự vần chuyển của các tinh cầu... Đáp: Chúng ta phải chú ý đến cách dựng cảnh, dựng hình của hai câu thơ này. "Xuống", "lên", "sâu", "dài", "rộng" đã đồng thời dựng lên một không gian ba chiều mênh mông, sâu thẳm. Ánh nắng buổi chiều rơi rớt dần như rơi xuống sâu hơn cho dù nó vẫn nằm trên mặt đất. Cái sự hiu hắt, sự lợt lạt của những tia nắng cuối rơi vào thăm thẳm nỗi sầu khiến cho bầu trời - nơi cội nguồn phát khởi của nó "cao chót vót" xa vời hơn, lạ lẫm hơn, hoang tàn hơn: Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu Chúng ta phải xét tới sự đối nghĩa của hai câu ngõ hầu mới làm sáng tỏ câu thơ được. "Nắng xuống" và "sông dài" ("tràng giang" bất ngờ được thay bằng "sông dài") vẽ lên một trục tung được dựng lên bởi sự hiu hắt thê lương của nắng nhạt cuối chiều kết hợp với trục hoành của nỗi sầu "sông dài" dặc dặc. Sự kết hợp này được đẩy lên và mang tính vũ trụ từ hai vế "trời lên" và "trời rộng". Nhưng nếu chỉ có một cái sầu vũ trụ đơn giản và xa lạ thì không sống với đời sống được đến bây giờ. Điều cốt tủy của ý tưởng là nằm ở cuối hai câu thơ: "sâu chót vót" và "bến cô liêu". Rõ ràng một bến nước hiu quạnh được mô tả cộng thêm một cái sầu sâu chót Vót. Bạn nên để ý thi sĩ không dùng chữ "cao" chót vót như thông lệ mà dùng chữ "sâu". Điều này chỉ được giải thích khi cái sầu vũ trụ chất ngất kia bắt nguồn từ sâu thẳm một bến nước bình thường. "Bến cô liêu" đã khiến cho cái sầu vũ trụ ấy thực hơn, nhân tính hơn. Đây là một thủ pháp của thơ ca, dùng cái hư để lột tả tinh thần của cái thực và dùng cái thực để thực hóa hình ảnh của cái hư. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Bài thơ vẫn tiếp tục miêu tả cảnh dòng sông. Bây giờ không còn là sự ly tán, sự hỗn loạn của củi một cành khô lạc mấy dòng nữa, mà là từng hàng nối từng hàng. Một sự trôi dạt của cả mảng bèo lớn trong cái khung cảnh "Mênh mông không một chuyến đò ngang". Người đọc cảm thấy ngay cảnh vật cũng vô phương cứu vớt... Đáp: Trước kia bến sông Hồng có một con đò ngang để chở người qua lại. Buổi hoàng hôn, nước lại lên to nên không ai dám mạo hiểm chèo thuyền cả. Nhưng trong bài thơ nó mang một ý nghĩa khác. "Bèo dạt về đâu", nhà thơ sống trong tâm trạng mất nước và cũng cảm nhận có biết bao thế hệ như mình đang vật vờ, trôi dạt bị cuộc đời cuốn đi mà không biết trôi về đâu. Khi nhắc đến lá bèo là người ta tưởng đến một loại cây phù du nhất và khốn khổ nhất. Nó cũng được sống trong dòng đời, cũng có một mặt nước để chen chân, nhưng nó hoàn toàn bị lệ thuộc vào sự đưa đẩy, dồn nén của dòng đời. Cuộc sống của nó không phải không có mục đích, nhưng lý trí, mục đích ấy luôn luôn bị dòng nước điều khiển dập vùi. Đó là hình cảnh của những người mất nước. "Hàng nối hàng", nhịp một, hai này chỉ xuất hiện đúng một lần trong bài thơ nhưng có lẽ nó ám ảnh suốt cả bài thơ. Nó tạo ra cảm giác về sự đổ vỡ không ngăn chặn được, không có gì lướt "ngang qua" để mang chúng sang bờ bình yên bên kia. Có người hỏi tôi rằng tại sao không viết "Bèo dạt hàng nối hàng về đâu" để nhấn mạnh vào "hàng nối hàng". Nhưng có một điểm này, nếu viết như thế thì chữ "về đâu" chỉ là sự than vãn cho cả một thế hệ, như thế rất dễ đánh mất cái sầu cá nhân trong đó. Cho nên "Bèo dạt về đâu" nó lột tả không chỉ sự than vãn của cả một thế hệ mà còn chỉ rõ khi một đất nước đã bị giày xéo thì ngay cả cá nhân với cá nhân trong đất nước cũng không thể "trôi dạt" bất hạnh "cùng nhau" được. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Không cầu gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng Những câu thơ trên đầu nhuốm một màu sầu lụy khôn tả, nhưng khi đọc tới hai câu này, dường như vẻ tươi vui thanh bình lại hắt sáng lên: "thân mật", "bờ xanh", "bãi vàng". Cảnh vật quả lung linh và phản ánh một cuộc sống đầm ấm lạ thường. Có nhà phê bình nói rằng, có lẽ dìm mình trong cảnh sầu vũ trụ, thi sĩ chợt rùng mình và nhớ ra cuộc sống thanh bình êm ả còn ở đâu đó trong tâm tưởng và thốt thiên hai câu thơ này bật ra tự nhiên. Đáp: Cả bài thơ là một thể thống nhất hài hòa được gắn kết máu thịt trong hồn nhà thơ, không thể có một câu nào tuột khỏi tình cảnh được. Ở đây, người đọc phải đặc biệt chú ý đến chữ "không cầu". Cây cầu bình thường làm nhiệm vụ nối bờ nọ với bờ kia. Nhưng trong thơ ca nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung cây cầu tượng trưng cho ý chí, cho con đường lớn xuyên qua dòng đời để đến với chân lý, với tự đo, hạnh phúc. Như vậy phía bờ bên kia được hình tượng hóa thành xứ sở của ấm no và yên bình. "Không cầu" trên dòng sông cuộc đời mênh mông như thế, con người còn tự cảm thấy xa lạ, lạnh lùng cả đối với hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng "Không cầu gợi chút niềm thân mật", con người bị cắt đứt, bị chia lìa đối với chính cuộc sống an bình, một kiểu hạnh phúc thật dung dị và đơn sơ. Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng Cái "bờ xanh tiếp bãi vàng" yên ả, tuyệt diệu này được gợi nhịp và gắn bó với câu đầu của khổ thơ "hàng nối hàng". Trong dòng đời, nhũng cuộc đời cứ trôi nổi phiêu bạt, trong khi từng niềm vui, từng nguồn hạnh phúc vẫn chờ đợi họ ở tất cả mọi bến, mọi con nước, nhưng họ có lẽ không bao giờ được hưởng. Cuộc đời xô dạt họ đi không cho kịp dừng lại tận hưởng hay nếm thử một niềm vui, một niềm hạnh phúc nào đang trải ra trước mắt. Giữa bèo dạt "hàng nối hàng" với cảnh thanh bình "bờ xanh tiếp bãi vàng" nối nhau với "không một chuyến đò ngang", "không cầu", "không thân mật"....

<span class='text_page_counter'>(33)</span> Hỏi: Vâng, cái ranh giới ấy từng mong manh dễ vượt qua, nhưng những con người trong cuộc sống bấy giờ không sao tới được. Nhưng dường như để bồi nghĩa cho "bờ xanh tiếp bãi vàng" và đẩy nó lên thành biểu tượng thực sự, bài thơ đã được tiếp nối. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Đáp: Ở đây không hẳn thế, tuy mỗi người được tự quyền lựa chọn cách nghĩ và cảm nhận nhưng tôi nghĩ ở hai câu thơ này cái sầu vũ trụ và vũ trụ ca của Huy Cận được biểu hiện rõ nhất. Cảnh tượng "mây cao đùn núi bạc" ai cũng có thể tìm thấy trong buổi hoàng hôn khi những đám mây đang nuốt chửng mặt trời phía xa xa và ánh sáng khiến cho những đám mây ánh bạc lên lấp lánh. Hình ảnh "lớp lớp mây cao" đã được báo trước từ những hình ảnh bên trên bài thơ. "Buồn điệp điệp", "sầu trăm ngả"… chứng tỏ rằng nỗi sầu của thi sĩ đã dâng lên trùng trùng lớp lớp tràn ngập cả bầu trời. Dòng "tràng giang buồn lên" ấy đã dâng lên ngang trời và dội từng lớp, từng lớp sóng một. Nỗi sầu ấy được rọi sáng bởi ánh sáng chân lý của mặt trời và thấy rõ đây là nỗi sầu chân thật. Từng có câu "sầu đông càng lắc càng đầy". Quả vậy, cảnh huống ấy, thân phận ấy, thi sĩ khi ấy chỉ như một cánh chim cô đơn và thê lương. "Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa". Hầu như cho đến câu thơ này, một dấu hiệu của đời sống thực sự mới xuất hiện: con chim nhỏ. Nhưng cái mầm sống nhỏ nhoi ấy xuất hiện khi hoàng hôn đang tàn và nỗi sầu đã dậy khắp bầu trời. Nó biểu hiện cho khát vọng, cho sự vươn tới, cho niềm mơ ước và cho sự háo hức sống không nguôi. Cánh chim mơ ước bay lên và cố mang đi mọi ước mơ. Nhưng nỗi sầu đã dâng kín và chỉ một chớp cánh nhỏ nhoi thôi "bóng chiều sa" đã đổ xuống. Con chim không cất nổi nỗi sầu như sông như núi của thi sĩ. Cái bóng hoàng hôn để xuống từ "thuyền về", "đìu hiu", "cô liêu "lặng lẽ" thật nặng nề và cánh chim yếu ớt phải mang tất cả trên mình. Hình ảnh ấy mới buồn thường và tội nghiệp biết bao..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Đây là một câu thơ cô đọng và có tính tượng trưng rất cao. Hỏi: Khi đọc đến hai câu thơ cuối: Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Người đọc liên tưởng đến hai câu thơ của Thôi Hiệu (704-754), một nhà thơ Đường (Trung Quốc), trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu: Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu Tản Đà dịch là: Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai Thưa nhà thơ, trước khi viết bài Tràng giang nhà thơ đó đọc kỹ thơ Đường và cái hồn thơ Đường đã ngấm rất sâu vào tâm hồn nhà thơ? Đáp: Trước khi viết tập Lửa thiêng tôi có đọc thơ Đường, chủ yếu qua bản dịch của Tản Đà và Ngô Tất Tố, tuy nhiên không nhiều. Nhưng có lẽ tôi thấm lấy hồn thơ Đường qua một cách khác. Đó là vì khi đó tôi đã yêu tha thiết thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Bà Huyện Thanh Quan... hồn thơ Đường mà các nhà thơ đó ảnh hưởng đã truyền thấm qua tôi. Bài thơ này (Tràng giang) in lần đầu tiên ở báo Ngày Nay năm 1940. Ngô Tất Tố đọc xong liền gặp và nói với Lưu Trọng Lư rằng "Huy Cận là ai mà làm thơ hay thế, hồn thơ Đường mà hay hơn thơ Đường" (nguyên văn). Lưu Trọng Lư liền đến nhà trọ của tôi và báo cái tin đó rồi kéo tôi đi chiêu đãi một bữa. Sau này tôi mới tìm đọc có hệ thống thơ Đường qua nhiều bản dịch khác nhau và tiếp nhận lấy cái tinh túy từ đó. Tất nhiên nền thơ nào cũng có mặt hạn chế của nó, kể cả thơ Đường. Cùng với ý thơ này của tôi, năm 1942 A-ra-gông (nhà thơ Pháp) đã viết câu thơ đại ý nói rằng: Sống trên đất nước mình mà như là.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> người khách lạ. Cái sầu vì mất quê hương ở nơi nào cũng giống nhau, và đau đớn khôn tả như nhau. Hỏi: Vâng, cái sự thiếu vắng quê hương trong hai câu thơ sâu xa: Làng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Mang tính âm u cổ kính của thơ Đường, lại sống trong cái tinh tế đầy màu sắc của ngôn ngữ tiếng Việt, đã khiến nó trở thành một trong những câu thơ hay nhất của phong trào Thơ Mới. Đáp: Trước khi nói về hai câu thơ tôi xin nhắc lại một lần nữa. Thôi Hiệu phải cần đến "khói sóng" để gợi lên nỗi buồn về xứ sở. Đó cũng là một nỗi buồn đẹp, sang trọng, nhưng Huy Cận không cần có "khói" cũng làm cho nhớ nhà, như vậy là Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu. Và nỗi sầu của Huy Cận không cần gì gợi nhớ mà tự nó tuôn trào ra. Hơn nữa nỗi khắc khoải quê nhà đã được dồn nén từ ngay những dòng thơ đầu khi hoàng hôn đổ xuống, lòng mỗi người tự nhiên luôn hướng về nơi nghỉ ngơi yên ổn của mình, nơi có những người thân quây quần bên mâm cơm chiều chờ đợi mình. Dù là người vô tình nhất thì vẫn cảm thấy được tình cảm đó. Lòng quê dợn dợn vời con nước Chữ "dợn dợn" bản thân nó đã chứa đựng mỗi nghĩa "vời vời" nó lột tả lạnh lẽo, u ẩn không nơi bám víu. Văn hóa làng quê Việt Nam luôn gắn bó với một dòng sông, những mái nhà tranh lấp loáng, cây đa bến nước, chợ bên sông... tất cả gắn liền với "con nước". Nhưng "con nước" bấy giờ đã mênh mông xa lạ tách khỏi những gì gần gũi. Con người bị bứt ra khỏi những gì thân thuộc. Con người bị bứt ra khỏi nền văn hóa của mình, chơ vơ, cô độc. Con người đứng trên tâm cảnh ấy, không cần chờ đợi sương lam chiều dâng lên trên sông để báo hiệu thực sự một ngày kết thúc, cũng cảm thấy tha thiết nhớ nhà. Tôi cho chữ "hoàng hôn là hợp khung cảnh khác dù không có gì gợi.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> đến quê hương. Bởi vì quê hương không chỉ là làng quê thân thương nào đó, mà nó còn là cội nguồn đời sống tinh thần. Tức là nỗi khắc khoải quê hương có mặt ở khắp nơi và luôn luôn dày vò tâm hồn thi sĩ. Hỏi: Bài thơ tuy mang phong vị cổ điển, nhưng một vài hình ảnh đã được đưa vào một cách rất táo bạo làm thay đổi cả đường nét bài thơ như "củi một cành khô", "lơ thơ cồn nhỏ"... khiến cho bài thơ hiện đại ngay cả trong tinh thần. Nỗi khắc khoải vì quê hương thời nào cũng được các thi sĩ ở khắp trái đất đề cập tới. Nhưng với Tràng giang nỗi khắc khoải ấy không chỉ nung nấu tâm can thi sĩ, mà dường như từng sự vật, từng cỏ cây con nước, đến những vật vô tri đều phảng phất vẻ u hoài nhớ thương về một quê hương. Ở đây cháy lên một thứ ánh sáng âm thầm bền bỉ luôn hướng mỗi vật về cội nguồn nơi chúng sinh ra. Nó dường như báo hiệu một thứ tinh thần mới chuẩn bị thổi tới. Đáp: Trong những năm cuối của thập kỷ ba mươi, khi các cao trào cách mạng dâng cao, tự thân mỗi người Việt Nam bấy giờ có nghĩa vụ tự cảm thấy niềm tin và sứ mệnh của mình. Tình yêu quê hương được ẩn giấu trong nỗi khắc khoải đó. Sau tập Lửa thiêng với bài thơ Tràng giang tôi đã tham gia cách mạng (năm 1941). Tức là sự chuẩn bị cho sự kiện đó đã được thể hiện trong Lửa thiêng. Những thân phận, những cuộc đời ngôn ngữ, ý tưởng, mây, núi, buồn vui, trời cao, đất rộng, tất cả những hình ảnh đó được hun đúc bởi một ngọn "lửa thiêng", ngọn lửa nhiệt huyết của một chàng trai yêu nước. Hỏi: Thưa nhà thơ, bây giờ đọc lại Lửa thiêng... Đáp: Tôi nói một lời, cái nhiệt huyết yêu nước ấy không bao giờ ngưng nghỉ, không bao giờ tắt và như thế ngọn "Lửa thiêng" không bao giờ tắt. Xin cảm ơn ông..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> Tác phẩm: CÁC VỊ LA HÁN CHÙA TÂY PHƯƠNG (THƠ) Tác giả: Nhà thơ HUY CẬN Nhà thơ HUY CẬN phân tích Chùa Tây Phương ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây là một công trình kiến trúc cổ nổi tiếng và là một trung tâm phật giáo trong vùng, được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII. Trong chùa còn lưu giữ rất nhiều tượng cổ quý giá, trong đó có nhóm 18 pho lượng gỗ La Hán đặt ở hành lang chùa. Ngoài giá trị tâm linh, những pho tượng này là những tác phẩm độc đáo vào bậc nhất của điêu khắc cổ điển Việt Nam. Bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương được rút từ tập thơ Bài thơ cuộc đời (1963). Hỏi: Thưa nhà thơ, thơ cách mạng, nhất là thơ ca viết vào những năm đầu thập kỷ sáu mươi, chủ yếu thể hiện tinh thần phơi phới của một đất nước vừa viết lên trang sử hào hùng Điện Biên, đang hăng hái lao vào sản xuất xây dựng đất nước và chi viện cho miền Nam yêu thương còn đầy bóng giặc. Khi đó, nhân vật yêu thích của thơ ca là anh chiến sĩ giải phóng hay công nhân, xã viên hợp tác say mê lao động. Trong bối cảnh đó chất liệu để làm nên các vị La Hán chùa Tây Phương lại khác hẳắn. Nhà thơ còn nhớ bài thơ được hình thành như thế nào? Đáp: Bài thơ này cả ý tưởng lẫn đề tài không hề ngẫu hứng như bài thơ khác. Tôi đã "nặng lòng" với bài thơ này 20 năm, từ năm 1940 khi ý tưởng về nó bắt đầu manh nha cho đến khi được viết ra năm 1960. Suốt 20 năm tôi trằn trọc và nung nấu nó. Năm 1940, tập Lửa Thiêng xuất bản được ít lâu, một nhóm bạn rủ tôi di thăm chùa Tây Phương, nhóm gồm có Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ, Nguyễn Đỗ Cung. Khi đó tôi là một thanh liên nhưng lại rất thích đi thăm chùa chiền, nhà thờ... Dường như bấy giờ tôi nhận thức được rằng đó là những nét văn hóa lớn của dân tộc mà không kẻ giặc nào có thể.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> cướp đi. Việc đi thăm chùa chiền có ý nghĩa như cuộc hành hương về cội nguồn. Trước khi đến chùa Tây Phương tôi đã đi thăm một số chùa khác, nhưng khi đến đây tôi cảm động bởi kiến trúc độc đáo của chùa và đặc biệt là 18 pho tượng La Hán bằng gỗ. Mỗi pho tượng là một phong cách điêu khắc lạ lùng và khi nhóm lại với nhau tạo ra một khung cảnh thật ấn tượng. Hỏi: Nhưng ấn tượng ban đầu ấy dường như không đủ với nhà thơ, dù rằng ấn tượng đó hầu như bao giờ cũng làm cho thi sĩ xuất ngôn. Điêu gì đã khiến cho nhà thơ phải mang ấn tượng về các tượng La Hán suốt 20 năm trời? Đáp: Đi thăm chùa về tôi lập tức ghi ý tưởng vào sổ tay: (các vị La Hán chùa Tây Phương - Nỗi đau khổ của cha ông). Nhưng nếu chỉ dừng lại ở ý tưởng đó thôi thì tôi thấy không yên ổn lắm và bài thơ không thành là vì thế. Nỗi đau khổ ấy sẽ tìm thấy lối thoát ở đâu? Đấy là câu hỏi của tôi trong suốt 20 năm sau đó. Năm 1960, tôi đi học trường chính trị cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Cuối năm ấy có một số bạn bè Trung Quốc sang thăm. Tôi và một số người khác mời họ đi thăm chùa Tây Phương. Đấy là lần thứ hai tôi đến chùa, ấn tượng vẫn còn mới nguyên như hai mươi năm trước. Tôi viết một mạch bài thơ trong đêm 27-12-1960. Nếu chỉ viết về nỗi đau đời quằn quại của cha ông thì không đủ. Bởi lẽ cái đau ấy là cái đau tuyệt vọng không lối thoát, dù có đau đớn bao nhiêu cuộc sống vẫn không thể tươi sáng lên được. Nếu bài thơ dừng ở đấy thì thơ cũng sẽ thành tối tăm, tuyệt vọng. Nhiệm vụ của bài thơ là chỉ ra được nỗi đau tuyệt vọng ấy, đồng thời phải tìm ra được lối đi, phương pháp giải quyết cho nó. Cho nên khi tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp và xây dựng cuộc đời mới ở miền Bắc tôi mới làm nốt được phần sau bài thơ. Xã hội bấy giờ đã giúp tôi, chỉ rõ cho tôi rằng chỉ có cách mạng giải phóng dân tộc một là lối thoát cho những đau khổ của cha ông và của chính tôi nữa. Tôi nhập vào tâm sự của cha ông và tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm đau khổ. Cách mạng đến không chỉ giải thoát cho tôi, cho những người đang sống mà còn giải thoát cho các giá trị tinh thần của cha ông đang bị giày xéo..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Hỏi: Các vị La Hán chùa Tây Phương Tôi đến thăm về lòng vấn vương Há chẳng phải đây là xứ Phật Mà sao ai nấy mặt đau thương La Hán tên đầy đủ gọi là A La Hán, phiên âm tiếng Hán từ một gốc Sangkrit - Ngôn ngữ cổ của ấn Độ, thứ ngôn ngữ viết nên bản kinh phật mà tinh thần của nó hầu như chiếm trọn các nước Á Đông. Các La Hán là những người chăm lo tu tập, khổ luyện tinh thần, nhằm cắt đứt mọi ham muốn nơi cõi đời để đạt đến tinh thần tự do - Tức là Niết Bàn như Phật dạy. Sự cố gắng hành xác, sống khắc khổ của các vị được tạc thành tượng để làm gương cho người đời sau. Cái cố gắng của con người vượt lên chính bản thân mình thật đáng khâm phục. Nhưng ngay khổ thơ đâu, bài thơ đã dự báo một vẻ đau đớn, thất bại của họ. Tại sao nhà thơ lại bắt đầu bằng khổ thơ này? Đáp: Vì viết về chùa chiền, là nơi linh thiêng, mờ ảo, nên tôi chỉ còn cách vào đề thật giản dị: "Các vị La Hán chùa Tây Phương, tôi đến thăm về lòng vấn vương", để cho bớt cái vẻ huyền ảo đi. Nhưng những câu thơ này tả thực tâm trạng của tôi mà không cần sự trợ giúp của các thủ thuật khác. Xứ Phật, nơi trong ý nghĩa của kinh sách, cũng như trong tín ngưỡng của người dân chúng ta là một nơi yên bình, hạnh phúc vĩnh viễn, không có đau khổ, không có chết chóc, tất cả sống trong cực lạc. Nhưng khi nhìn những mặt tượng đau đớn khổ sở đó rõ ràng bất kỳ người nào cũng phải thốt lên: Há chẳng phải đây là xứ Phật Mà sao ai nấy mặt đau thương Xứ Phật xa vời, mơ hồ nào đó không ai biết nhưng đau khổ thì được thể hiện rõ ràng, minh bạch đường nét, hình khối hẳn hoi. Phải chăng có điều gì ẩn giấu dưới tất cả vẻ mặt ấy? Cái khiến cho các vị được hưởng phúc lại.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> phải mở ra tất cả những đau đớn tinh thần thế này? La Hán không giống như Bồ Tát cứu nhân độ thế, La Hán chỉ tự cứu lấy mình mà dường như vẫn không tự cứu được. Vì đâu có tất cả những nỗi đau khổ triền miên đó? Câu chuyện của cuộc sống, nỗi đau khổ của cuộc sống bắt nguồn từ đây. Hỏi: Đây vị xương trần chân với tay Có chi thiêu đốt tấm thân gầy Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt Tự bấy ngồi y cho đến nay Khổ thơ này miêu tả rõ hơn ấn tượng "vấn vương của thi sĩ". Cái nỗi đau khổ hành hạ da thịt "xương trần chân với tay" khiến người đọc liên tưởng đến tất cả những kiếp sống đọa đày. Trong một câu thơ nếu có hai từ độc lập đứng liền nhau và láy âm với nhau thì nghĩa của chúng cũng bồi đắp cho nhau. Ở câu thơ đầu khổ ta nhận được đâu đó giữa "xương trần chân với tay", khiến câu thơ như có vẻ lột tả hết được nỗi đau khỏ da thịt. Nhưng trong khổ thơ ý nghĩa của "tự bấy" là không rõ ràng? Đáp: "Tự bấy" không nên hiểu thô thiển theo ý nghĩa thời gian kể từ khi bức tượng được tạc nên. Trong tiếng việt, chữ "tự bấy" có một ý nghĩa rất hay, nó diễn tả ý nghĩa thuộc về các giá trị nền tảng. "Tự bấy ngồi y cho đến nay". Nỗi đau khổ của kiếp nhân sinh luôn luôn được thể hiện qua các thời đại. Nó như một ngọn lửa vô hình thiêu đốt con người. Nỗi đau khổ gì? Tất nhiên các khổ thơ tiếp theo sẽ giải thích cho độc giả. Những ấn tượng đầu tiên về những nỗi đau khổ của con người chính là ấn tượng về nỗi đau thân xác. Đã "thân gầy" còn thêm những con mắt hốc hác với dáng vẻ "trầm ngâm". Ở đây chữ "trầm ngâm" tưởng như không thích hợp, vì nếu người ta đau đớn về thân xác người ta thường la hét lên cho giảm bớt đi. Nhưng không, cái nỗi đau ấy con người chịu đựng đã lâu quá rồi, chịu đựng qua nhiều thời gian, từ muôn kiếp.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> trước cho đến khi tác giả bắt gặp. Cùng với thời gian nỗi đau khổ đã đào sâu và lặn chìm ấp ủ trong lòng mỗi người. Hỏi: Có vị mắt giương mày nhíu xệch Trán như nổi sóng biển luân hồi Môi cong chua chát tâm hồn héo Gân vặn bàn tay mặc máu sôi Ở khổ thơ tiếp theo nay, tác giả mô tả nỗi đau tinh thần. Dường như nỗi đau tinh thần này còn mạnh mẽ, nhức nhối hơn nỗi đau thể xác. Luân hồi xét theo ý nghĩa chung là con người sống hết cuộc sống này sẽ lại đậu thai vào cuộc sống khác, nhưng ở trong câu thơ chữ luân hồi được hiểu như sự dằn vặt, sự trở lại, lớp lớp không ngừng của đau khổ. Đáp: Ở đây các hình ảnh đều nhắc nhở đến nỗi đau khổ của tinh thần. Nỗi đau biểu hiện ở "mắt giương", "mày nhíu xệch", "môi cong chua chát". Bởi vì khuôn mặt là nơi biểu hiện đầy đủ nhất của tâm hồn con người. Không có riêng "trán như nổi sóng" đau khổ mà toàn bộ khuôn mặt là một biển đau khổ khôn nguôi. Đau khổ tuôn trong mạch máu và dày vò cơ thể, tất cả là một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Nhưng ngoài nỗi đau thể xác và tinh thần ra, còn một nỗi đau khổ mang hơi hướng của tinh thần Phật giáo. Ở khổ thơ thứ tư: Có vị chân tay co xếp lại Tròn xoe tựa thế chiếc thai non Đạo Phật quan niệm, ngay khi sự sống bắt đầu trong tiếng khóc chào đời, con người đã biết hết mọi nỗi đau thương của kiếp sống. Ở đây, trong ba khổ thơ tả thực những pho tượng La Hán cũng hàm ý tả thực lại các nỗi đau khổ của con người và cũng là nỗi đau khổ chung của xã hội bấy giờ. Với từng cá nhân con người, đau thương "thiêu đốt tấm thân gầy" họ là mang theo.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> "tâm hồn héo", phải sống trong cuộc sống "nghe chuyện buồn". Hai khổ thơ trên miêu tả nỗi đau riêng của từng con người cá nhân, nhưng chỉ cần một câu "cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn" ta lập tức hiểu ra đau thương đã trùm lên toàn bộ xã hội. Hỏi: Các vị ngồi đây trong lặng yên Mà nghe giông bão nổ trăm miền Như từ vực thẳm đời nhân loại Bóng tối đùn ra trận gió đen Chùa chiền luôn gắn liền với vẻ tịch mịch, yên tĩnh. Chỉ cần một chiếc lá rụng cũng làm vang động không gian. Giữa cái không gian yên tĩnh đó hình ảnh thơ "nổ trăm miền" là một sự đối lập. Sự đối lập này làm cho cả hai trạng thái cùng hiện lên rõ nét: Một bên là sự "lặng yên" hình thức và một bên là giông bão của nỗi đau thương thực chất. Hỏi: Điều đó được tượng trưng bằng hai câu thơ tiếp theo: Như từ vực thẳm đời nhân loại Bóng tối đùn ra trận gió đen Bóng tối trong văn học luôn có nghĩa là đau đớn, tối tăm, vật vã là những gì đối lập với ánh sáng vui tươi, hạnh phúc. Ngay nơi tịch liêu, yên tĩnh như chùa chiền, nơi cuối cùng để con người bấy giờ hướng tới tìm hạnh phúc thì "giông bão" đau khổ cũng đã nổ ra. Con người tuyệt vọng, mất phương hướng và nhìn thấy "vực thẳm" của đời sống. Nỗi đau khổ của từng cá nhân, từng kiếp sống đã hòa chung vào nỗi đau khổ của "nhân loại". Cái "đời nhân loại" này được khái quát và cụ thể hơn ở khổ thơ tiếp theo: Cuộc họp lạ lùng trong vật vã Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> Nếu mỗi pho tượng là một vẻ mặt con người với bao đớn đau của phận người thì cuộc họp mặt của các La Hán chính là cuộc họp "trong vật vã" của muôn số phận, muôn thương đau. Mới hay đau thương đã thành bản chất, đã chìm ngập cả xã hội. Điều đó thật khủng khiếp. Bởi vậy nhu cầu giải phóng xã hội là một nhu cầu lớn lao và đã chất chứa từ nhiều thế hệ trước. Và cuộc cách mạng của chúng ta thực sự có ý nghĩa nhân văn khi giải phóng được gánh nặng tinh thần của con người. Hỏi: Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau Quay theo tám hướng hỏi trời sâu Mật câu hỏi lớn không lời đáp Cho đến bây giờ mặt vẫn chau Trong cuộc họp mặt lạ lùng của những nỗi đau thương hiện thân trong các pho tượng, phải chăng mỗi một trầm luân ấy cũng đã từng bối rối, dằn vặt để tìm cho mình một con đường? Câu thơ khắc tạc những nét thật ấn tượng. "Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau". Khao khát ghê ghớm, nhưng trớ trêu thay mọi sự tìm đường đều lâm vào bế tắc, tuyệt vọng. "Câu hỏi lớn" đã không có lời đáp. Đáp: Câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời là một câu hỏi lớn mà chưa từng có ai trả lời rõ ràng được "Một câu hỏi lớn không lời đáp". Chế Lan Viên đặc biệt thích câu thơ này và nhà thơ nhiều lần nhắc đến nó. "Cúi", "nghiêng", "ngoảnh sau", là những động từ dựng lên nỗi khắc khoải khi quay tám hướng mười phương để tìm ra lời đáp số mệnh của mình. Quả con người đang bị một thúc bách ghê gớm. Nhưng câu hỏi đó, cái ý nghĩa mà con người trăn trở từ ngàn đời thật là một điều khó khăn mà dường như phải mất rất nhiều thời gian người ta cũng chỉ hiểu lờ mờ chút ít. "Một câu hỏi lớn. Không lời đáp". Chúng ta phải chú ý đến hình thức câu thơ này. Dấu chấm câu đặt giữa dòng thơ là một điều đặc biệt. "Một câu hỏi lớn"... dấu chấm dừng câu ở đây tạo cho.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> người đọc cảm giác có đoạn dừng suy ngẫm để nhận ra ngay câu trả lời cho nó là "không lời đáp". Tuy nhiên sự không bình thường ở dòng thơ này phải tương ứng với dòng thơ trên. Ở dòng thơ trên tác giả dùng 3 thanh trắc liên tiếp ở giữa câu: "quay theo tám hướng hỏi trời sâu". Nếu không nhằm một mục đích nào đó thì việc dùng 3 âm trắc này rất có vẻ "nghịch tai". Vậy mục đích của tác giả ở đây là gì? Là nhằm nêu bật được nỗi băn khoăn khắc khoải, sự cố gắng đến tuyệt vọng của con người trong khát vọng đi tìm ý nghĩa của cuộc đời. Hỏi: Chính câu hỏi "không lời đáp" ấy khiến cho bao nhiêu kiếp người dằn vặt "cho đến bây giờ mặt vẫn chau". Có thực trên đường tu đến Phật Trần gian tìm cởi áo trầm luân Các vị đau theo lòng chúng nhân Ở đây có một câu hỏi của tác giả cho chính tinh thần của Phật giáo. Có phải tu hành là con đường duy nhất để thoát khỏi nỗi đau khổ của đời sống không? Phải chăng không còn con đường nào khác? Tại sao khi đã tìm con đường tự cứu chuộc mình rồi các La Hán vấn còn đau theo nỗi đau nhân thế? Đáp: Ngay đầu khổ thơ, hai chữ "có thực" đã tỏ rõ thái độ nghi ngờ đối với con đường tu hành rồi. Theo tinh thần Phật giáo, hình hài buồn thảm, nét mặt mang những nét bi thương kia chỉ ở trong quá trình tự tranh đấu để trút bỏ mọi dục vọng để vươn tới sự thanh thản, yên tĩnh vĩnh hằng. Trạng thái đau khổ là trạng thái cuối cùng mà người tu tập phải trải qua. Và trần gian chỉ là nơi tôi luyện, thanh lọc, là nơi người ta sống tạm trước khi tới được Niết Bàn. Đối lập Niết Bàn, cuộc đời tục lụy chỉ là bể khổ và người ta sống trong đó, bị đọa đày như một định mệnh. Tôi không chia sẻ quan điểm này, vì với con người họ chỉ được sống một lần nên đời sống phải là tất cả, và ở đó người ta có đầy đủ khả năng để tìm thấy hạnh phúc. Nhưng bởi vì khi từng cá nhân.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> còn tách biệt với xã hội, với cộng đồng, các cá nhân không tìm đến với nhau để hướng đến con đường giải phóng chung thì mỗi người tất phải chịu một bi kịch. Điều này có lẽ là quan trọng nhất cho "câu hỏi lớn ở trên. "Bấy nhiêu quằn quại run lần chót" không phải là một câu hỏi mà là lời than thở. Những đời sống riêng rẽ sẽ mãi còn chìm ngập trong mênh mông bể khổ, sẽ lặp đi lặp lại theo "sóng biển luân hồi". Chỉ đến chừng nào xã hội được giải phóng thì tự những cá nhân sẽ tìm thấy hạnh phúc, sẽ sống cõi Niết Bàn ngay trong nhân quần thân ái của mình. Hỏi: Nào đâu bác thợ cả xưa đâu Sống lại cho tôi hỏi một câu Bác tạc bấy nhiêu hình khổ hạnh Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau Tới khổ thơ này, mạch ngầm của bài thơ đã thay đổi hẳn, thi sĩ không còn có vẻ "bàng quan" mô tả nỗi đau khổ của từng kiếp sống nữa, những bức tượng thực làm chất liệu cho bài thơ bị mờ đi. Tâm sự của thi sĩ bắt đầu bùng nổ. Thi sĩ tự vấn hỏi mình, tự vấn hỏi ý nghĩa và giá trị của nghệ thuật: Phải chăng nghệ thuật chỉ miêu tả cuộc sống một cách thờ ơ? Phải chăng nghệ thuật chỉ nhằm minh họa cho một số tư tưởng nào đó, chỉ là những "chuyện Phật kể cho nhau"? Đáp: Đúng! Nghệ thuật không phải miêu tả cuộc sống như vậy. Để trả lời cho những câu hỏi đó và cũng là để hiểu tâm sự của chính tác giả, bạn đọc cần nhận thấy một sự dứt khoát trong ý tưởng ở khổ thơ này. Trong câu thứ tư ở các âm trắc "chuyện Phật kể" nhấn mạnh một lần nữa với dấu hỏi ở cuối câu. Người nghệ sĩ khi tạc nhũng "hình khổ hạnh" ấy hẳn phải thấu hiểu cái đau chung của mọi người. Bởi nếu chỉ biết đau nỗi đau riêng mình thì không thể tạc được nhiều trạng thái đau khổ như thế..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> "Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu?", người đã nhìn thấy "bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời" đang quằn quại và đau đớn trong cơn "gió bão" của đời sống, của kiếp người. Từ hình hài của những bức tượng, hình ảnh cha ông, hình ảnh những thế hệ trước hiện dần lên trong tâm hồn thi sĩ bằng xương máu. Nghệ thuật có khả năng khơi gợi cảm thông, làm cho người ta thấu hiểu nhau là vì thế. Hỏi: Như vậy người "thợ cả" xưa đã cảm nhận được nỗi đau khổ của cộng đồng, đã chia sẽ được nỗi đắng cay của người khác. Những cảm nhận, chia sẽ được, tạo nên được các tác phẩm nghệ thuật để lưu danh nỗi niềm ông cha với hậu thế, nhưng cho dù: Nung nấu tâm can, vò võ trán thì Đau đời có cứu được đời đâu Trong câu này, một lần nữa thủ pháp nhấn mạnh vào ba âm trắc giữa câu lại được sử dụng: "Có cứu được" như một lời cảnh tỉnh đối với nghệ thuật. Chúng ta có thể liên hệ tới hoàn cảnh xã hội cuối thế kỷ 18 đầu thế ký 19. Ví dụ một thiên tài như Nguyện Du cũng không thể chỉ ra con đường để giải thoát cho nỗi đau khổ của nhân quần lúc bấy giờ. Đáp: Đó chính là điều mà tôi dằn vặt suốt 20 năm trời, thời gian ấp ủ bài thơ này. Để chỉ ra ý nghĩa cuộc sống hiện tại cũng cần phải có nỗi đau nhân thế. Nhưng chỉ chỉ ra thôi thì chưa đủ, mà còn phải tìm được lối đi cho những nỗi đau khổ ấy. Hàng thế kỷ con người bị những gánh nặng tinh thần và cuộc sống là sự "dậm chân một chỗ". Không một chút hạnh phúc nào soi rọi tới. Bao nhiêu kiếp sống lầm than "sờ soạng", "tìm lối ra" mà vẫn bị chìm đắm, vây bủa trong màu đen của cuộc dời: Có phải thế mà trên tượng Phật Nửa như tìm khói, nửa sương tà.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> Không nên hiểu rằng ở đây sương khói phủ mờ tượng Phật mà chính là phủ mờ tâm hồn nghệ sĩ - người tạc tượng. Không thể có cách nào để giải thoát nỗi buồn, nghệ sĩ đành gửi gắm nó trên những đường nét chạm khắc. Như vậy cả nghệ thuật cũng cần phải được giải phóng mới có thể vươn tới những giá trị mới mẻ, mới thực sự có ích cho cuộc đời. Hỏi: Tức là 20 năm trăn trở vì hình ảnh của Các vị La Hán chùa Tây Phương cũng chính là 20 năm chiêm nghiệm về con đường giải phóng của nghệ thuật. Nếu như trong nhiều thế kỷ trước, nghệ thuật bị "nửa như khói ám, nửa sương tà" thì nay sương khói mờ mịt ấy đã được xua đi "xua bóng hoàng hôn, tản khói sương, nghệ thuật đã tìm ra con đường tươi sáng. Hai ý thơ đối nhau này nhằm để làm nổi bật, để khẳng định giá trị của đời sống mới, của ánh sáng mới cho nghệ thuật... Đáp: Khi tôi viết bài thơ này, cuộc kháng chiến chống Pháp Oanh liệt của dân tộc ta vừa kết thúc, miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng và phục hưng đất nước. Một khí thế háo hức và một tương lai rạng rỡ mở ra trước mắt mỗi người. Cái ấn tượng đau đớn, khốn khổ, sờ soạng, quằn quại, vò võ của những bức tượng là cái ấn tượng đầu tiên khi tôi lên thăm chùa Tây Phương. Nó là ấn tượng đầu tiên và đồng thời cũng là của câu hỏi đằng đẵng theo tôi 20 năm trời. Sau 20 năm tôi trở lại thì "Hôm nay xã hội đã lên đường", một cuộc sống tuổi trẻ đã bắt đầu, tương lai được rộng mở, câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời được giải đáp và tôi có cảm giác như "mặt tượng đương tươi lại". Tâm sự của nhà thơ lúc ấy "đồng thanh tương ứng" với nhịp sống hân hoan của cuộc đời. Những bước đi vấp ngã, những bi kịch, bế tắc trên con đường đi tìm sự giải phóng và nỗi đau đời của cha ông trong quá khứ được đền đáp. Nên tôi viết: Cha ông yêu mến thời xưa cũ Trần trụi đau thương bỗng hóa gần.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> Những bước mất đi trong thớ gỗ Về đây tươi vạn dặm đường xuân Hai câu kết là một sự liên tưởng thật độc đáo và giàu hình tượng nghệ thuật. Nó được báo hiệu trước từ khi tác giả cảm nhận thấy "mặt tượng đương tươi lại", "những bước mất đi", những hạnh phúc đơn sơ mà con người xưa kia chưa được hưởng, những niềm vui của kiếp sống mà cha ông chưa nhận thấy được sống lại và "về đây, tươi vạn dặm đường xuân". Hỏi: Cuối cùng, nhà thơ có một lời nào cho các độc giả? Đáp: Tôi chỉ có ý nghĩ thế này: Chúng ta nên nghĩ đến các thế hệ trước, nghĩ đến những nỗi đau khổ của cha ông và bằng cách ấy ta càng mến yêu hơn cuộc sống của chúng ta hiện nay. Xin cám ơn nhà thơ!. Tác phẩm: VIỆT BẮC (THƠ) Tác giả: Nhà thơ TỐ HỮU Nhà thơ TỐ HỮU phân tích Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 5-10-1920 ở làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tác phẩm chính: Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và Hoa (1977), Một tiếng đờn (1992). Hiện ông đang sống ở Hà Nội. Tố Hữu tham gia cách mạng rất sớm, trong phong trào Mặt trận dân chủ (1936-1939), khi còn là học sinh trường Quốc học Huế. Cũng thời kỳ này ông bắt đầu làm thơ. Con đường thơ ca của ông gần như đồng thời với con đường hoạt động cách mạng. Mỗi tập thơ của ông phản ánh một thời kỳ cách.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> mạng Việt Nam. Ông được coi là giọng thơ trữ tình chính trị lớn nhất trong văn học hiện đại Việt Nam. Cái đẹp trong quan niệm của ông phải là cái hữu ích, phù hợp với lý tưởng và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp của Đảng. Thơ ca của ông là tiếng hát ngợi ca cách mạng, ngợi ca đất nước, ngợi ca Bác Hồ không ngưng nghỉ. Trong mấy mươi năm, thơ ông có tác dụng to lớn trong việc động viên, cổ vũ các tầng lớp nhân dân tranh đấu giành độc lập cho dân tộc và xây dựng đất nước. Bài thơ "Việt Bắc" được rút ra từ tập "Việt Bắc tập thơ thứ 2 của Tố Hữu sau "Từ ấy". "Việt Bắc" được sáng tác trong khoảng thời gian từ 1946 đến 1954, phản ánh hiện thực cuộc sống kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Ở tập thơ này, cái tôi trữ tình của tác giả đã hòa nhập, cất tiếng cùng cái tôi của nhân dân, của quần chúng cách mạng đang từng ngày góp công sức, tính mạng cho cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. "Việt Bắc vừa giản dị, thấm nhuần nghệ thuật của thơ ca dân gian, đồng thời cũng thấm đẫm chất anh hùng ca của thời đại. Sau chiến thắng oanh liệt Điện Biên Phủ, hòa bình được lập lại trên miền Bắc. Một trang sử mới xán lạn mở ra cho nhân dân. Cuộc sống trở lại tươi trẻ, ngọt ngào. Chính phủ chuyển từ căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Việt Bắc với những cánh rừng đại ngàn, với núi rừng hùng vĩ đã là cái nôi, là điểm tựa cho cách mạng. Khi về Hà Nội, nhà thơ Tố Hữu đã lưu luyến viết bài thơ Việt Bắc, một bài thơ dài theo thể lục bát. Việt Bắc được đánh giá là một trong những bài thơ lớn và tiêu biểu cho sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Hơn nữa đây cũng là bài thơ tiêu biểu cho cả một nền văn học cách mạng. Nhiều nhà phê bình đã phân tích kỹ càng bài thơ này, cũng như rất nhiều thế hệ học sinh đã dược học bài thơ này. Không kể đến tư tưởng nó trình bày, mà chỉ nhắc đến vẻ ngọt ngào quyến rũ của thể thơ lục bát được viết nhuần nhuyễn cũng đủ làm xao xuyến tâm hồn người đọc rồi. Hỏi: Thưa nhà thơ, bài thơ ngay từ đầu đã đề cập đến vẻ quyến luyến chia ly làm cảm động lòng người, hơn nữa những cảnh vật của rừng núi Việt Bắc.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> hiện lên thật lung linh. Hẳn nhà thơ phải say đắm với cảnh vật con người ở đây lắm. Đáp: Nên chú ý cho rằng, bài thơ này là bài thơ của một người sống trong một thực tiễn cách mạng không phải đi ngắm cảnh như khách du lịch. Bản chất của tôi là một người cách mạng nên mọi tình cảm, mọi tâm tình trong thơ của tôi là tình cảm tâm tình của một người cách mạng. Không phải là tâm tình cá nhân, không phải "cái tôi cá nhân" mà các nhà thơ hằng tôn thờ. Cái tôi cá nhân của tôi là cái tôi hòa vào cái tôi chung của cách mạng, của nhân dân. Đất nước trở thành máu thịt của tôi và tôi một phần nào đó cũng trở thành máu thịt của đất nước. Tôi rất thích hai câu thơ Chế Lan Viên: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn Tôi hoạt động ở Việt Bắc mười mấy năm, sống cùng đồng bào các dân tộc ít người, chia sẻ nhau từng cơn sốt rừng, từng sự thiếu thốn, từng sự hiểm nguy luôn rình rập. Khi về Hà Nội, tôi có cảm giác như mình để lại một phần đời ở Việt Bắc. Đó là lý do giản dị khiến tôi viết bài Việt Bắc. Hỏi: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình và mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn "Mình" và "ta" là cách xưng hô thân mật của người Việt không chỉ trong tình cảm trai gái mà nó còn được dùng trong tình huynh đệ kết nghĩa keo sơn. Hơn nữa trong ca dao, tục ngữ, nghĩa là trong tâm thức văn hóa của người Việt, cách gọi này được dùng rất nhiều. Khổ thơ mở đầu đầy những từ êm dịu, gợi đến tình cảm nồng thắm dịu dàng. Nó vẽ lên cảnh chia lìa của một mối tình cảm ruột thịt, gắn bó bền vững. Nó như tiếng thì thầm của con suối.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> khi phải từ biệt cánh rừng, những ngọn núi để vào sông lớn. Mười lăm năm, tính từ thời kỳ kháng Nhật với phong trào Việt Minh xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh miền núi Việt Bắc đến năm 1945. Nhưng ở trong câu thơ đầy chất trữ tình này, thời gian không tính chính xác như thế, nó có ý nghĩa biểu thị cho một mối tình gắn bó khăng khít dài lâu... Đáp: "Mình" và "ta" thông thường, cũng như trong ca dao, tục ngữ, được dùng chỉ hai ngôi. Mà hai ngôi ấy gắn bó với nhau bằng mối tình cảm tha thiết. Nhưng tôi có đọc một số bài phân tích của các nhà phê bình cũng như các thầy cô giáo theo họ khổ thơ này y như một chuyến chia ly giữa một chàng trai dưới xuôi và một cô gái dân tộc, hay khá hơn, thì cũng là sự chia ly của "cái tôi thi sĩ" với cảnh vật, núi rừng, con người Việt Bắc. Đó là cách phân tích mà họ dựa theo cách của ca dao, tục ngữ hay của đời sống bình thường. Nhưng bài thơ này có một cuộc sống độc lập riêng. "Mình" và "ta", "ta" và "mình" ở đây không phải dùng cho ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai, không phải một từ mà chỉ khách thể, một từ chỉ chủ thể mà cả hai đều chỉ chủ thể. Tôi nhắc lại "mình" và "ta" ở đây đều chỉ chủ thể. Tức là "mình" ấy "ta" ấy là một phần của đời sống thi sĩ đã trải qua bao nhiêu năm ở Việt Bắc. Cái phần đời này "trò chuyện" quyến luyến với phần đời kia. Cho nên cuộc chia tay không phải diễn ra bình thường mà nó diễn ra trong máu thịt, trong tâm hồn nhà thơ. Sự chia ly bản thân mình là một sự chia ly khó khăn nhất và tha thiết nhất, đắm đuối nhất. Phải hiểu được cách dùng "mình" và "ta" này mới có thể hiểu được bài thơ. Hỏi: Vâng "mình và "ta" ấy đã hòa vào cảnh vật, hòa vào tình cảnh. Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi Hai câu thơ lục bát tuyệt đẹp này đã làm rung động bao thế hệ độc giả, học sinh, sinh viên. Nó hay không phải vì cấu trúc độc đáo hay có những tư.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> tưởng to tát, nó hay bởi cái cảm giác "tha thiết", "bâng khuâng", "bồn chồn" mà lòng ai cũng có. Chỉ hai câu thơ lục bát mà thể hiện cả ba trạng thái tình cảm sâu thẳm, "bâng khuâng" như một nỗi hụt hẫng, một niềm vui vừa rời bỏ, rồi "bồn chồn" không yên được tấc lòng. Hai câu thơ này đã vẽ lên cảnh chia li thật da diết như thể phải bứt đi một khối tình trong tấc lòng đau đáu. Nhưng chữ "áo chàm" ở câu dưới có phải là một hình ảnh hoán dụ, dùng để nói đến đồng bào Việt Bắc? Hỏi: Hiểu như thế cũng được, nhưng hiểu thế đơn sơ và lệ thuộc quá, cách đó không phải là cách để hiểu thơ ca. Tuy đồng bào ta mặc áo chàm nhiều và có thể mặc để đưa tiễn cán bộ cách mạng, nhưng "áo chàm" ở đây mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Màu chàm nâu trong tâm thức của người Việt là một màu đơn sơ, chân thực, không kiểu cách lòe loẹt. Nó biểu hiện sự chân thành đến giản dị. Hơn nữa, ở đây cả khách thể lẫn chủ thể đều hòa chung là một nên "áo chàm" là biểu tượng cho tấc lòng chung của mọi ngươi. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay Cái tình "tha thiết", "bâng khuâng", "bồn chồn" thì có lời nào tả cho hết được. Tình cảm càng thắm đượm, càng nồng nàn thì ngôn từ càng bất lực. Những người anh em ruột thịt khi gặp nhau hay xa nhau lâu ngày còn có hành động nào hơn lời nói là nắm tay nhau, là ôm chầm lấy nhau. Cái ngôn ngữ của bàn tay nóng ấm gắn liền với trái tim run rẩy xúc động hơn mọi lời nói khác, nhất là trong cảnh chia ly với "chính mình" này. Cho nên "biết nói gì" cho thỏa chứ không phải là "không biết nói gì". Hỏi: Đúng là có những tình huống ngôn từ không thể nào thể hiện được hết tình cảm con người. Nhưng cảm giác về nỗi chia ly đã bật lên như một nỗi day dứt: Mình đi có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Hỏi là "có nhớ" nhưng thực đã biết rằng người đi đã nặng nhớ thương với những gì gửi lại. Quên làm sao ngày tháng gian nan, những ngày "mưa nguồn suối lũ", những ngày "miếng cơm chấm muối" với "mối thù nặng vai", những ngày chia ngọt sẻ bụi, siết bao tình nghĩa. Một phần "mình" đã gắn bó cùng với núi rừng. Giờ đây phút rời xa, tưởng cả núi rừng thiên nhiên cũng ngẩn ngơ thương nhớ. Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già... Đáp: Ở đây cần chú ý đến hai câu: Mình về rừng núi nhớ ai Và: Mình về còn nhớ núi non Cái nỗi nhớ như tiếng gọi ở trong thung lũng. Một lời vang lên là có tiếng vọng lại tha thiết hơn, ấm áp hơn. Thực ra người đọc sẽ không cảm thấy cuộc phân ly nữa mà chỉ thấy một nỗi nhớ lớn lên, bền bỉ và thắt chặt mọi người trong một ký ức chung đẹp đẽ. Những mái nhà nghèo nàn, những ngọn lau xám "hắt hiu" trước gió, những bữa ăn đạm bạc... nhưng tấm lòng của người dân trong đó đối với cán bộ, đối với cách mạng thật là chung thủy, thật là "đậm đà lòng son". "Hắt hiu lau xám" được đối với "đậm đà lòng son" trong một câu thơ càng làm nổi rõ ý nghĩa của nhau. Hoàn cảnh càng khó khăn lòng dân với cách mạng càng keo sơn. Bây giờ thì thật khó tưởng tượng nổi lòng dân ta khi ấy. Gia cảnh khó khăn, lương thực thiếu thốn, giặc Tây uy hiếp liên tục nhưng ai ai cũng một lòng một dạ theo Việt Minh, theo kháng chiến. Tấm lòng ấy quả bền vững như núi rừng Việt Bắc. Hỏi: Mình về mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Trong câu sáu, từ "mình" xuất hiện ba lần trong một ý nghĩa thật đặc biệt. Ở đây rõ ràng cả ba chữ "mình" đều chỉ chủ thể. Làm sao có thể "mình" không thể nhớ "mình" được, cho nên câu thơ như một lời thủ thỉ nồng nàn chứ không phải là một câu hỏi. Hơn nữa, hai địa danh Tân Trào, Hồng Thái là nơi Quốc dân Đại hội (8-1945) thành lập ủy ban dân tộc giải phóng và phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hai địa danh ấy có giá trị lịch sử to lớn và tức thì được đồng nghĩa với một chữ "mình". Các địa danh đó cũng là chủ thế. Mà sự chia lìa của chính chủ thể là không thể có được. Vậy đó chỉ là sự xa cách về mặt không gian, thời gian, về địa lý chứ hoàn toàn không có một sự xa cách nào trong tâm hồn. Đáp: Câu thơ đó sẽ một lần nữa được nhắc lại ở đoạn sau, khẳng định sự không thể chia cắt của chủ thể. "Ta" với "mình", "mình" với "ta", cái sự phân đôi từ này chỉ là sự phân đôi của nỗi nhớ, một về Hà Nội một ở Việt Bắc. Còn sự chung thủy sắt son như nhất thì không gì có thể lay chuyển: Mình đi mình lại nhớ mình và câu trên: Mình đi mình có nhớ mình Câu thơ được lặp lại gần hết chỉ thay từ "có" bằng từ "lại" như một điểm nhấn có ý nghĩa. Cái ý nghĩa đậm đà đó là: Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu “Nước nguồn chảy ra" trong dân gian Việt Nam được ví như công lao, tình yêu vô bờ của người mẹ. Tình yêu ấy không bao giờ cạn cho dù vật đổi sao dời. Ở đây tình cảm cũng chan chứa, cũng dồi dào như tình yêu của người mẹ. "Bao nhiêu nước" thì bấy nhiêu" nghĩa tình. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Nghĩa này như nghĩa mẹ, tình này như tình cha. Đây không phải lời khẳng định hay chứng tỏ tình cảm, bởi vì lòng người này đã sống trong lòng người kia rồi thì cần gì phải phô bày nữa. Đó là một lời buột thốt lên từ đáy lòng..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> Hỏi: Cái tình nghĩa "nước nguồn" đã rõ ràng. Bây giờ bài thơ đi vào những chi tiết thực hơn, sống động hơn. Những năm tháng gian nan và vui tươi dần được hiện lên: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương Nỗi nhớ về người yêu là nỗi nhớ da diết nhất, nồng nàn nhất trong mỗi con người. Và cái cường độ của "nỗi nhớ người yêu" được mang ra so sánh với nỗi nhớ trăng, núi, nắng chiều, nương rẫy, bản làng, bếp lửa... Tất cả cuộc sống, cảnh vật thật giản dị từng ngày, từng giờ đã thấm đẫm vào tâm hồn nhà thơ và làm nên ký ức và một miền quê Việt Bắc. Đúng như câu thơ Chê Lan Viên: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn Trong cuộc sống, có những lúc ta thấy mọi thứ, mọi vật ở quanh ta, quen thuộc với ta quá ư bình thường, ta không có lúc nào tự hỏi: vậy nó có ý nghĩa gì? Chỉ khi nào tất cả những cái đó trở thành kỷ niệm thì trong ký ức nó trở nên lung linh, lấp lánh và luôn dễ gây xúc động. Một vùng đất như Việt Bắc cũng thế, khi chia lìa rồi, chợt thấy cảnh vật con người ở đó sao thân thiết, quyến luyến đến thế. Đáp: Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi Có sống cùng đồng bào dân tộc trong những ngày kháng chiến gian lao mới hiểu hết hai câu thơ này. Có những ngày lũ làng đổ về cuồn cuộn, những đêm mưa rừng xối cả, rồi gạo trôi, rồi sắn bị cuốn, rồi địch phục kích sau lưng. Ở trong hoàn cảnh đó nếu không có một tình đồng bào máu thịt thì không thể giúp đỡ cho nhau vượt qua được. Những ngày bị cơn sốt rừng hành hạ, được.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> cưu mang về bản rồi được các mế, các chị hái lá rừng đun nước kề tận miệng cho uống mới thấm thía hết giá trị to lớn của tình người và tình quân dân gắn bó keo sơn. Khi anh sống ở đó rồi anh ra đi anh có cảm giác nhớ "rừng nứa bờ tre", nhớ cả những vật vô tri tầm thường nhất mà mình vô tình bắt gặp. Nỗi nhớ đó bắt nguồn từ tình con người với nhau, và tình người cũng lan sang cảnh vật. Thực chất chữ "đây", "đó" đều cùng chỉ một địa điểm. Bởi vì nếu khác thì phải nói là "ta đây", "mình đó chứ không dùng "mình đây", "ta đó". Hỏi: Cảnh vật không hề đổi dù người có tạm xa. Nhớ cảnh, nhìn cảnh nhớ đến người. Quả như người xưa có nói "trông cảnh mà nghĩ đến người. Nếp sống kháng chiến gian khổ nhưng thân mật hiện ra thật mộc mạc và chân chất. Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẽ nửa chăn sui đắp cùng Những hình ảnh "củ sắn", "bát cơm... quá ư mộc mạc, nhưng lại đượm một tình người lớn lao. Chính vì thế sự mộc mạc của các hình ảnh thơ đã tôn thêm tính chân thực của câu thơ. Hai câu thơ tả cảnh sinh hoạt, không phải là sẽ chia cái gì lớn lao, tính mạng hay xương máu, sự sống hay cái chết, chỉ là sự sẽ chia những nhu cầu tối thiểu của đời sống, nhưng vô cùng cảm động. Cái giản dị, cái ngỡ như bình thường ấy lại làm nên một tình cảm yêu thương bất tận, làm nên sức sống của tình đồng bào, đồng chí... Đáp: Hình ảnh ấy chưa phải là mộc mạc nhất đâu. Bài thơ còn được tiếp nối bởi một mạch thơ giản dị như thể chính đời sống chảy nguyên vẹn vào thơ. Một người mẹ "nắng cháy lưng" và địu con ở đằng sau, trèo núi, vượt đèo để chỉ "bẻ từng bắp ngô". Cuộc sống hiện lên như vốn có. Nếu anh thờ ơ, bàng quan thì anh chả thấy gì là thơ, là đời ở đó cả. Nhưng anh có một chút lưu luyến, một chút gắn bó xem, lập tức anh sẽ tìm thấy ở đó một ngọn lửa lung.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> linh bền bỉ của sự sống. Từ những hình ảnh khắc họa chân thực cuộc sống ngày thường của bản nhỏ, mạch thơ mới bắt sang những hoạt động ngày xưa của cái tôi tác giả. Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo Trong tiếng ca vang núi đèo ấy có tiếng mõ trâu, lạc ngựa tìm về bản tận rừng sâu và có tiếng đều đều của suối xa, của nhịp chày đêm không ngủ. Cái tiếng ca vang trong gian nan đó toát lên từ chính cuộc sống giản dị, lặng lẽ nơi bản nhỏ. Bản thân cuộc sống đã là một bài ca bất tận và không thể có gian nan, khổ ải nào ngăn cản được sự trong trẻo, tươi vui của nó. Hỏi: Khi phân tích bài thơ Việt Bắc, các sách hướng dẫn văn học đặc biệt chú trọng đến đoạn thơ. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trung rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Với những hình ảnh độc đáo "hoa chuối đỏ tươi", "nắng ánh", "dao gài thắt lưng" hay "mơ nở trắng rừng", "ve kêu rừng phách đổ vàng... Có người bình luận về câu thơ "ve kêu rừng phách đổ vàng" như sau: khi ve kêu cả khu rừng như xốn xang, tràn ngập âm thanh, nhịp phách của rừng khi trầm khi bổng....

<span class='text_page_counter'>(58)</span> Sở dĩ người ta chú ý đến đoạn thơ này cũng dễ hiểu, một đoạn thơ tràn ngập màu sắc, âm thanh, hình ảnh. Tất cả đều diễn tả một cuộc sống tươi đẹp, tưng bừng, chan hòa và ân tình. Ý kiến của ông thế nào? Đáp: Phách là một loại cây ở rừng Việt Bắc. Nó rất phổ biến và khi mùa thu đến thì lá ngả vàng làm cả khu rừng vàng rực lên. Câu thơ của tôi chỉ miêu tả một hình ảnh giản dị như thế chứ không phải có ý tả nhạc rừng hay tiếng rừng gì cả. Còn ngọn hoa chuối, nhìn ở đồng bằng thì không có cảm giác gì nhưng khi nhìn nó ở miền núi, nhất là giữa đám lau lách, hay đám cỏ hoa thì nó có một giá trị đặc biệt. Bởi vì nó cho cảm giác có một bông hoa có thực chứ không mong manh và chóng tàn như các loại hoa cỏ khác. Ở đây không phải là cảnh vật nở bừng hoa, mà tác giả muốn tả một cảnh đẹp để làm nổi bật con người trong đó. Con người trong đó là con người lao động bình dị: những người đi phát rẫy làm nương có "ánh dao cài thắt lưng", những ngươi đan lát "chuốt từng sợi giang", cô em gái "hái măng" và tiếng hát ân tình thủy chung. Cứ mỗi một câu sáu tả cảnh tả hoa thì lại xen vào một câu tám tả người, cho người đọc cảm giác nếu không có những con người ấy, không có cuộc sống yên bình lao động ấy thì không thể cảm thấy cảnh vật kia là đẹp đẽ dường vậy. Vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của cảnh vật hòa quyện với nhau, tôn lên lẫn nhau. Đó là sự gắn bó không rời của con người với mảnh đất quê hương. Trong nỗi nhớ của thi sĩ, cuộc sống Việt Bắc, con người Việt Bắc hiện lên như thế, giản dị, tưng bừng đâu cũng có cảnh đẹp, đâu cũng có con người ân tình. Hỏi: Nhưng không chi có sự sẽ chia, ân tình giữa người với người rừng núi Việt Bắc cũng được miêu tả trong một tình nghĩa cảm động. Trong cuộc chiến đấu lâu dài chống lại giặc Pháp, con người và thiên nhiên vẫn sát cánh bên nhau. Mỗi gốc cây, ngọn núi, con suối... dường như đều góp mặt tạo nên một trận địa rộng lớn. Hiểu theo một nghĩa nào đó, thiên nhiên, cảnh vật Việt Bắc đã được đồng nghĩa với tấm lòng nhân dân:.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù. Đáp: Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta là cuộc kháng chiến trường kỳ. Nếu chỉ dựa vào sức người thì khó có thể chiến thắng nổi. Nên nhân dân đã tiến hành một cách đánh rất hay: chiến tranh du kích, dựa vào địa hình, đánh tiêu hao dần lực lượng của địch. Việt Bắc ngày ấy một mặt là căn cứ địa vững vàng của ta, rừng che giấu cán bộ, bộ đội ta khiến địch không phát hiện được, mặt khác rừng núi cũng tạo thành một thiên la địa võng mà hễ quân địch đặt chân vào là lạc lối. "Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù" là vậy. Và vì đâu mà ta có lợi thế ấy? Vì rừng núi là của ta, ta có rừng núi là có sức mạnh của cả quê hương. Quê hương bao giờ cũng ân nghĩa, chở che những người con đang chiến đấu bảo vệ đất đai, sông núi. Ý nghĩa của câu thơ là ở chỗ đó. Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng. Hai câu thơ tiếp cũng nói lên sức mạnh của quê hương. Ở đây có sự đối lập giữa "mênh mông bốn mặt" và "một lòng" nhằm nhấn mạnh vào sự "đồng lòng" trong kháng chiến. Cái lũy sắt dày hay "bốn mặt sương mù" không nên chỉ hiểu theo nghĩa đen, nó không chỉ là hình tượng của thiên nhiên, nó còn được hiểu như là trận địa của lòng dân, của cả đất trời sông núi Việt Bắc nói chung. Cùng với con người, thiên nhiên Việt Bắc đã dự phần vào cuộc kháng chiến, góp công vào những chiến thắng sau này. Ý tưởng rừng núi cũng như con người, rừng núi là biểu hiện vững bền của lòng dân là ý tưởng của đoạn thơ này. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> Bài thơ như một ghi chép về cuộc kháng chiến chống Pháp, trong đó ghi lại sinh động từ những ngày đầu gian khổ cho đến giai đoạn tiến công và giành chiến thắng. Khi phản ánh lại khí thế tiến công mạnh mẽ của toàn quân toàn dân ta, trở nên dồn dập, hình ảnh thì sống động, hào hứng. Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay Những địa danh chiến thắng được nhắc đến một cách hân hoan: Phủ Thông, Đèo Giàng, Sông Lô, phố Ràng, Cao Lạng v.v... Tất cả đều toát lên chất anh hùng ca mạnh mẽ, tự hào... Đáp: Khó có thể diễn tả hết khí thế hào hùng của quân và dân ta thuở ấy. Hàng ngàn hàng vạn người ra trận, từng đoàn bộ đội dân công nối nhau như sóng cuộn, đi rung chuyển cả núi rừng, đêm đốt đuốc sáng bừng. Cho nên thể hiện hình ảnh đoàn quân "điệp điệp trùng trùng", đi "rầm rập như là đất rung" là không có gì cường điệu. Một đoạn thơ dùng hàng loạt điệp từ, từ láy, gợi nên những hình ảnh, âm thanh ấn tượng, khiến cho người đọc cảm thấy sự hối hả, luân chuyển không ngừng của những đoàn quân ra mặt trận. Nhịp thơ 2/2. Những đường / Việt Bắc / của ta Đêm đêm / rầm rập / như là / đất rung Quân đi / điệp điệp / trùng trùng Như nhịp bước hành quân, mạnh mẽ, oai hùng làm sao! Trong toàn bộ đoạn thơ, mỗi hình ảnh mỗi từ ngữ đều nhằm làm nổi bật tính chất anh hùng.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> của quân đội ta. Anh hùng, kiêu hãnh, đạp bằng gian nguy để tiến lên phía trước. Cái khí phách ấy được dồn nén và bật ra trong một câu thơ rất hay: Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay Cái phí phách này chỉ tìm thấy trong một vài anh hùng thuở xưa nhưng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, những anh hùng như thế có rất nhiều, từng đoàn quân anh hùng, cả một dân tộc anh hùng. Thời đại của cuộc chiến tranh chính nghĩa tạo nên cái anh hùng trong đời sống và trong nghệ thuật. Trong Việt Bắc, khác với giai điệu tình nghĩa mượt mà ban đầu, giờ đây bài thơ đã chuyển mạch cảm hứng, nó trở nên mạnh mẽ, dứt khoát để có thể chuyển tải được khí phách anh hùng và tinh thần ngợi ca đối với khí thế ra trận của cả dân tộc. Hỏi: Với khí thế như vậy thì chiến thắng phải là tất yếu. Đoạn tiếp của bài thơ là khúc khải hoàn chiến thắng. Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng Một đoạn thơ chỉ toàn là các từ chỉ địa danh. Đó cũng là một sự độc đáo. Những địa danh gắn với những chiến công oai hùng làm nức lòng mọi người. Từ khắp các miền xa xôi của Tổ quốc, nhưng đều có chung một niềm vui. Từ "vui" xuất hiện trong tất cả các dòng thơ có ý nghĩa gắn kết các địa danh lại trong một tinh thần chung, đó là chiến thắng chung, là niềm vui chung của cả dân tộc. Đáp: Phải sống ở thời kỳ đó mới hiểu hết giá trị của một tin Chiến thắng. Từ 1953 đến 1954 ta đánh Pháp trên khắp các chiến trường. Những gian khổ, hi sinh của nhân dân được đền bù xứng đáng. Khắp mọi miền của Tổ quốc, tin.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> chiến thắng bay về Việt Bắc, từ miền Nam, Tây Nguyên, Hòa Bình..., làm nức lòng đồng bào chiến sĩ. Khi ấy, chỉ cần nhắc đến một địa danh chiến thắng nào đấy thôi, người ta đã hân hoan nghĩ đến ngày nước ta sạch bóng quân thù, dân ta được tự do chung vui xây dựng cuộc đời mới. Nỗi đau đồng cảm, niềm vui thì dễ lây lan. Một tin chiến thắng đã là hết sức vui, chiến thắng dồn dập thì niềm vui hẳn lên đến cao độ. Cho nên sự xuất hiện từ "vui" trong tất cả các dòng thơ là nhằm để thể hiện một sự cộng hưởng của niềm vui - một niềm vui dào dạt, mạnh mẽ và lâu bền. Hỏi: Cảm hứng đến với nhà thơ là khi kháng chiến thắng lợi phải chia tay căn cứ địa Việt Bắc để về xuôi, vì vậy hình ảnh của Việt Bắc, tình cảm ân tình thuỷ chung của người đi với Việt Bắc vẫn là nội dung chủ đạo. Trong phần kết bài thơ, nhà thơ một lần nữa khắng định ý nghĩa của Việt Bắc - quê hương cách mạng - trong chặng đường gian khổ để giành lấy tự do độc lập của dân tộc... Đáp: Đúng vậy, Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là nơi người Việt Nam hướng tới, tin tưởng vào chiến thắng vào ngày mai. Từ đây trong những ngày đen tối trước tháng 8-1945 hay trong đằng đẵng 9 năm kháng Pháp, cụ Hồ và Trung ương Đảng đã vạch đường cho cách mạng, đã ban lệnh tổng khởi nghĩa, đã chỉ đạo các chiến dịch. Từ ý nghĩa đó mà tôi viết: Ở đâu u ám quân thù Trông về Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền Việt Bắc là trái tim cách mạng của cả nước, Việt Bắc gắn liền với hình ảnh Bác Hồ kính yêu. Người như ngọn đèn soi cho tất cả các số phận đau đớn, số phận mỗi cá nhân và số phận của cả dân tộc, tìm ra con đường đi đến với tự do. Những năm Bác Hồ sống ở rừng Việt Bắc, từ khắp mọi nơi.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> trong cả nước, nhân dân đã một lòng một dạ hướng về Người, đã vì chân lý Người vạch ra mà bền bỉ tranh đấu để giải phóng cho mình, cho quê hương đất nước. Người là linh hồn của Việt Bắc. Khổ thơ cuối có ý nghĩa tổng kết lại tình cảm của người ra đi đối với Việt Bắc: "Mười lăm năm ấy, ai quên" và nhấn mạnh giá trị của quê hương cách mạng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Bài thơ được viết theo thể lục bát, một thể thơ uyển chuyển có khả năng lột tả được những tình cảm dịu dàng thắm thiết. Nó hoàn toàn tương ứng với nội dung tình cảm cần diễn đạt của người ra đi. Bài thơ có hai nhân vật trữ tình: mình và ta, nhưng cả mình và ta đều là cách biểu hiện của chủ thể tác giả. Tác giả khi ấy, năm 1954, chia tay Việt Bắc như chia tay một phần đời sống của mình: một đời sống gian khổ nhưng vui tươi ân nghĩa, sâu sắc và da diết, tràn đầy ấn tượng và hạnh phúc. Chính vì thế không khỏi lưu luyến, bồi hồi nhớ lại tất cả. Cũng như nhiều người khác, Việt Bắc đã trở thành quê hương tinh thần của chính tôi, của tôi và mọi người. Cho nên nỗi niềm riêng của tôi trong Việt Bắc đã thành nỗi niềm, tình cảm chung của cán bộ, chiến sĩ, của nhân dân. Xin cảm ơn nhà thơ!. Tác phẩm: KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU (THƠ) Tác giả: Nhà thơ TỐ HỮU Nhà thơ TỐ HỮU phân tích Kính gửi cụ Nguyễn Du được trích từ tập Gió rộng. Đây là tập thơ tập hợp chủ yếu những bài thơ lấy cảm hứng từ công cuộc xây dụng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc sau khi chiến thắng thực dân Pháp. "Gió lộng" tràn đầy tinh thần lãng mạn cách mạng. Tư thế của con người trong gió lộng là tư thế con người đứng ở đỉnh cao của thời đại và bay lên cùng lịch sử. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, tác giả của tác phẩm bất hủ Truyện Kiều – tác phẩm được coi là tinh hoa tâm hồn người Việt, là mẫu mực của thi ca Việt Nam. Tất cả các thi sĩ sau này đều đọc trong Truyện Kiều phong cách phân tích tâm lí, tình cảm con người. Đó có lẽ là dòng suối tinh thần lớn nhất trong di sản tinh thần của chúng ta. Bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du đã được nhà thơ viết trong hoàn cảnh nào? Đáp: Năm 1965, cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ đã lan rộng ra các tỉnh miền Trung. Sự đánh phá dữ dội của giặc Mỹ khiến cho quân và dân ta gặp vô vàn khó khăn và thiếu thốn. Năm đó tôi có một chuyến công tác vào miền Trung. Một buổi tối trong chuyến đi ấy tôi nghỉ lại ở Nghi xuân, quê hương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Cũng vào năm đó, năm 1965 toàn dân ta cùng với thế giới long trọng kỷ niệm ngày sinh của nhà thơ. Trong đêm không ngủ, tôi suy ngẫm về Truyện Kiều, về thân phận của nàng Kiều, về Từ Hải, về Ưng Khuyển, Sở Khanh, về sự tráo trở của chúng và suy ngẫm về chính thân phận của Nguyễn Du. Những câu thơ tuyệt diệu trong Truyện kiều dần sáng lên trong trí nhớ của tôi, đó là câu thơ đã nằm trong ký ức của tôi từ thủa ấu thơ. Thơ lục bát là một loại thơ đặc biệt; chỉ cần nhớ vài câu đầu và ý nghĩa của bài thơ là có thể thuộc lòng toàn bài và nhớ trong một thời gian rất lâu. Trong đêm thanh vắng ngay trên đất Nghi Xuân, mảnh đất đã in dấu hình bóng của thi sĩ, những câu Kiều vang lên có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là trong khoảng thời gian mà khắp nơi kỷ niệm 200 năm ngày sinh của người. Nhạc điệu của nhịp thơ lục bát bắt đầu dâng lên trong lòng tôi cùng với những suy tưởng về nàng Kiều, về số phận Nguyễn Du, về các giá trị lịch sử, về con đường của thời đại mới. Tất cả những điều đó đã thôi thúc tôi viết bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du. Tôi viết ngay trong đêm, viết xong thì đã có tiếng gà gáy sáng. Hỏi: Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều..

<span class='text_page_counter'>(65)</span> Mở đầu bài thơ là hai câu thơ thật giản dị. Nó miêu tả chân thực cái lý do mà bài thơ này xuất hiện với thời gian, không gian rõ ràng. Nhan đề bài thơ là Kính gửi cụ Nguyễn Du, tức là một lời giãi bày, một lời tâm sự với chính Nguyễn Du. Cho nên để đọc được bài thơ phải hiểu rõ giá trị nhân bản trong Truyện Kiều. Những giá trị đó sẽ là tiên đề cho bài thơ? Đáp: Tất nhiên, nhắc đến Nguyễn Du chính là nhắc đến Truyện Kiều. Truyện Kiều là tác phẩm ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam đến nỗi những bà cụ già không biết chữ cũng thuộc để hát ru con cháu. Những nhân vật trong Truyện Kiều đã thành danh từ chung để gọi các loại người điển hình trong nhân gian. Là người Việt Nam không thể không biết Nguyễn Du, không thuộc một vài câu Kiều. Cho nên khác với các bài thơ tưởng niệm khác là phải thâu tóm gần như được các tư tưởng của người được tưởng niệm và chỉ dừng lại ở đó thôi, bài Kính gửi cụ Nguyễn Du không hẳn là lời tưởng niệm, nó là lời tâm sự của một tấm lòng đối với một tấm lòng. Ở đây tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh vào số phận của Nguyễn Du, số phận của một trong những nhà thơ ưu tú nhất của dân tộc. Nguyễn Du biết đau cái đau của nhân quần, biết khổ cái khổ của nhân quần, nhưng bi kịch thay, nhà thơ chỉ có khả năng chỉ ra được cái nỗi đau ấy, cái nỗi khổ ấy mà không thể chỉ ra một con đường tươi sáng để giải phóng con người. Nhà thơ có tấm lòng đau xót cho những kiếp chúng sinh nhưng không có phương hướng chính trị rõ ràng. Tôi yêu ông và thương ông. Hơn nữa, tôi đang sống trong những nguồn gió cách mạng tưng bừng. Tôi nhìn rõ thân phận của ông qua Truyện Kiều, và đặc biệt là thân phận ông hiện rõ qua lịch sử xã hội thời bấy giờ. Hỏi: Nhớ Nguyễn Du là thương thân Kiều. Khổ thơ tiếp theo đã tái hiện thân phận nàng Kiều: Hỡi lòng tê tái thương yêu Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> Ngổn ngang bên nghĩa bên tình Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao? Tài sắc như Kiều lẽ ra phải có cuộc sống rất hạnh phúc vậy mà đời Kiều lại chìm nổi lênh đênh, phải bán mình chuộc cha, bị lừa lọc, bị đánh đập, rơi vào lầu xanh, hai lần tự vẫn ở sông Tiền Đường... Nỗi đọa đày của thân phận Kiều đã gợi trong trái tim thi sĩ nỗi cảm thông chia sẻ, "tê tái" và "thương yêu". "Dòng trong đục" và "trời đêm" phải chăng là để chỉ xã hội thời Kiều? Và theo nhà thơ, xã hội thiếu nhân đạo thời đó là căn nguyên làm nên kiếp ba đào của nàng Kiều? Đáp: Xã hội có một tác động to lớn đến số phận con người. Thời đại của Kiều, khi không có lẽ công bằng, khi những thằng bán tơ ngang nhiên vu oan giá họa cho người lương thiện, bọn sai nha tự do hành hạ người khác thì việc Kiều bị đẩy vào đoạn trường là không tránh khỏi. Mở đầu đoạn trường của Kiều là nàng phải bán mình chuộc cha. Hành động hiếu thảo làm sáng ngời đạo lý người Việt, nhưng không mang lại sự thanh thản cho tâm hồn Kiều. Suốt đời Kiều "ngổn ngang bên nghĩa bên tình" bởi nỗi duyên tình không trọn với Kim Trọng. Song nỗi lòng "ngổn ngang" không chỉ cho tình và hiếu, nó còn vì nhiều lẽ đau thương của đời người. Giữa một xã hội thiếu nhân tình, thiếu tự do, con người không được một lối thoát, thì Kiều chỉ là "cánh bèo lênh đênh", ngơ ngác giữa trời đêm không biết chốn nào để nương tựa, con đường nào để đi tới... Bốn câu thơ trên đúng là nỗi xót xa, đau đớn, vừa là niềm thương yêu không nguôi dành cho Kiều - một kiếp hồng nhan trong một xã hội đen tối, bế tắc. Hỏi: Hai câu thơ tiếp theo gợi cho người đọc nhớ đến chuyện tình của Kiều và Từ Hải và cái bi kịch cho một ảo tưởng tự do. Nhưng phải chăng nhà thơ không có một ngụ ý gì cho tác giả Truyện Kiều? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> Thực ra ở đây tôi chỉ mượn thân phận Thúy Kiều để chỉ ra một điều khác, đó là thân phận Nguyễn Du trong thời đại mà giá trị trung quân bị đánh đổ, một con đường nhân bản cho con người bế tắc. Tôi nhắc lại, tôi vừa yêu Nguyễn Du, vừa thương Nguyễn Du. Tôi không hiểu sao một nhà thơ có tâm hồn rộng lớn, có lòng thương xót bao la thấu hiểu con người sâu sắc đến thế lại không nhìn thấy ánh sáng của thời đại mình. Vào thời ấy, ngọn cờ giải phóng - chính là ngọn cờ của cuộc khởi nghĩa nông dân mà Quang Trung Nguyễn Huệ đã phất lên, chính là con đường giải phóng cho nhân dân. Cho nên trạng thái "ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào" không phải là trạng thái của Thúy Kiều khi gặp anh hùng Từ Hải mà chính là tình cảm Nguyễn Du trước cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Nguyễn Du không nhận ra tính chất tiến bộ của cuộc khởi nghĩa đó. Và tôi muốn y nguyên một câu trong Truyện Kiều để dựng lại nỗi lòng Nguyễn Du: Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng Sự "vương tơ lòng" ở đây là tình cảm nuối tiếc của Nguyễn Du đối với triều Lê. Có lẽ Nguyễn Du có nhìn thấy một Nguyễn Huệ hào hùng trong cuộc chiến chống xâm lăng nhưng không nhận ra cái ánh sáng tỏa lên từ phong trào quần chúng. Nguyễn Du thương đời nhưng thực sự không hiểu về các xu hướng tiến bộ trong thời đại lúc bấy giờ. Chính vì thế thân phận Nguyễn Du cũng "lênh đênh", thi sĩ cũng "ngẩn ngơ" như là Thúy Kiều vậy. Tôi hiểu bi kịch của Nguyễn Du và muốn chia sẻ điều đó. Hỏi: Có lẽ sinh thời Nguyễn Du cũng hiểu rõ bi kịch của mình, bi kịch của một con người yêu thương da diết, khát vọng tìm được con đường giải phóng cho mình và cho mọi người, nhưng lại chối từ một con đường tranh đấu trong thực tế. Hiểu và vô cùng đau đớn, nên hơn ai hết Nguyễn Du rất muốn được chia sẻ. Khát vọng sẽ chia ghê gớm vượt qua thời gian. Trong bài Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du viết: Bất tri tam bách dư niên hậu.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? (Không biết ba trăm năm lẻ nữa Thiên hạ ai người khóc Tố Như?) Đáp: Nguyễn Du là người có trái tim thương yêu bao la đối với nhân quần, là người thấu hiểu sâu sắc thân phận con người. Thơ của ông đã làm động chạm đến cõi sâu xa của tâm linh người Việt. Nhưng trong cuộc đời, cũng như trong thơ, con đường giải thoát nỗi đau khổ cho con người của ông hoàn toàn mờ mịt. Vì vậy cho đến cuối đời, ông vẫn canh cánh bên lòng một nỗi đau đớn, đau vì không biết bằng cách nào bớt đi những gánh nặng trên phận người và vì khát vọng một mối sẻ chia. Nhân tình nhắm mắt chưa xong Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như? Hai câu thơ này lấy từ ý thơ Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí. Hỏi rằng ai là người "khóc cùng Tố Như" nhưng thực chất đây đã là một tiếng khóc cùng, một lời thấu hiểu, cảm thông. Đồng cảm với Kiều, đồng cảm với Nguyễn Du, nhà thơ đã rung động với "tiếng đàn lòng" của người xưa. "Mai sau dù có bao giờ"... Câu thơ trong Truyện Kiều lặp lại vừa đầy ngậm ngùi vừa đầy thương yêu. Dấu ba chấm (...) như một khoảng lặng của thời gian, là cái khoảng từ Nguyễn Du đến cái đêm của nhà thơ có mặt để lắng nghe tiền bối trên chính quê hương ông. Bài thơ được tiếp tục: Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay Chính nỗi đồng cảm giữa hai nhà thơ ở hai thời đại đã làm khoảng thời gian kia hầu như không còn ý nghĩa nữa. Thi ca có sức mạnh kéo con người lại gần nhau trong những nỗi niềm chung, dù cho họ ở những thời đại khác nhau, hay những dân tộc khác nhau là như thế. Hỏi: Vậy tại sao:.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> Tiếng đàn xưa đứt ngang dây Hai trăm năm lại càng say lòng người? Đáp: Đây là tiếng đàn được gợi lên từ Truyện Kiều, của chính Thúy Kiều. Đó là tiếng đàn "như khóc như than", tiếng đàn "mười dây nhỏ máu năm đầu ngón tay". Và đó cũng là tiếng đàn của Nguyễn Du. Thương xót cho những kiếp tài tình như Kiều, nhưng ông đã không tìm được cho nhân vật cũng như cho chính mình một con đường giải phóng. Nói tiếng đàn "đứt ngang dây" là vì vậy. Nhưng tấm lòng ông, tài năng của ông thì đến muôn đời sau còn làm người ta cảm động. Trải bao gió dập sóng dồi Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha Tấm lòng đó, niềm yêu thương trân trọng con người đó, không chỉ dừng lại ở một thời, nó còn hướng vọng đến mai sau, và hai trăm năm giờ đây vẫn còn thổn thức, nhiều người vẫn tìm thấy nỗi niềm mình, số phận mình trong tinh thần Nguyễn Du. Hỏi: Tứ những suy ngẫm về Nguyễn Du, về Thúy Kiều, mạch thơ bắt đầu chuyển cảm xúc về thời hiện tại: Ngẫm xem qua kiếp phong trần Đời vui nay đã nửa phần vui đây Năm 1965, miền Bắc giải phóng đang đi lên xây dựng cuộc sống mới. Hầu hết thơ ca thời đó đều viết về thời đại mới với một cách nhìn rộng mử, lạc quan, cảm hứng ngợi ca là chỉ đạo. Đó là thời của "Gió lộng" (ý của chính ông) của "Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng" (Chế Lan Viên). Vậy tại sao trong bài thơ này "đời vui" lại chỉ có "nửa phần vui đây"? Đáp: Ngẫm xem qua kiếp phong trần.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> Đời vui nay đã nửa phần vui đây Từ đây, mạch thơ bắt dầu chuyển hướng, cuộc đời mà tác giả đang sống bắt dầu tham dự trực tiếp vào bài thơ. Hai trăm năm sau cuộc đời đã đổi khác, con người được tự do, sống trong một xã hội công bằng. Đó là "đời vui". Nhưng niềm vui ấy không được trọn vẹn. Thứ nhất, vì trong cảm xúc ngậm ngùi về số phận Nguyễn Du, thân phận nàng Kiều, nghĩ đến những gì mình được hưởng ngày hôm nay, bỗng nhớ tiếc cho những người tài hoa xưa sinh ra không gặp thời. Thứ hai, đây cũng là ý chính của bài thơ, dù miền Bắc đã giành được tự do song một nửa nước là miền Nam vẫn còn đầy bóng giặc thù. Song còn bao nỗi chua cay Gớm quân Ưng Khuyển, ghê bầy Sở Khanh Cũng loài hổ báo, ruồi xanh Cũng phường gian ác hôi tanh hại người. Ở miền Nam, nhân dân còn đau khổ bởi bạo tàn tội ác, bao số phận còn lầm than, bao giờ mới hết đổ máu. Ở đây, tác giả đã tìm được mối liên tưởng nơi những nhân vật điển hình cho cái xấu trong truyện kiều. Khổ thơ trên là một lời tâm sự, giãi bày về cuộc sống hiện tại Thời đại nào, dù tiến bộ đến đâu cũng tồn tại "những nỗi chua cay", song khác với thời Nguyễn Du, thời của chúng ta, những đau khổ đã có con đường để giải thoát chứ không bế tắc mờ mịt như trước. Hỏi: Ông Phạm Quỳnh có lần đã nói rằng "Truyện Kiều còn thì tiếng Việt còn, tiếng Việt còn thì nước ta còn". Đấy là một cách để khẳng định sự bất tử của Nguyễn Du, của Truyện Kiều trong di sản văn hóa dân tộc. Và quả thực, Truyện Kiều đã có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống tinh thần người Việt. Ý kiến của ông thế nào? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> Giống như nhiều nhà thơ khác, tôi chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nguyễn Du. Tuy nhiên do sự phát triển của từng thời đại và hoàn cảnh xã hội, thơ Nguyễn Du sử dụng quá nhiều từ Hán - Việt, còn tôi chú trọng dùng từ thuần Việt hơn. Truyện Kiều quả là một nguồn suối vô tận cho tâm hồn người Việt. Trong đời sống bình thường của nhân dân, Truyện Kiều đã thành một nhu cầu tinh thần, người ta đọc Kiều và bình Kiều ở khắp nơi. Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày Không phải ngôn ngữ Truyện Kiều làm "động đất trời" như từng có người bình mà chính tình cảm, nỗi yêu thương da diết, thấu hiểu sâu sắc đến con người đã làm cho "đất trời" phải cảm động. Những tình cảm ấy ở trong thời đại nào, với một dân tộc nào, đất nước nào đi nữa đều sẽ tỏa sáng rạng rỡ. "Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du", tôi không muốn nói đến một khoảng thời gian cụ thể. Nghìn năm trong tiếng Việt cũng đồng nghĩa với thiên thu, với vô tận. Và hiểu "nghìn năm" theo nghĩa đó là hợp lý với "ngàn thu" - "non nước" ở câu trên. Nhưng sao lại: Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày? Với người Việt, lời ru ngọt ngào tha thiết của người mẹ có một ý nghĩa rất lớn trong sự hình thành tâm hồn, nếu không nói nó là căn gốc, nền tảng vững bền để làm nên tâm hồn Việt Nam, Truyện Kiều từ rất lâu cũng có giá trị như thế, nó là tinh hoa tinh thần, là một phần sâu kín của người Việt. Vậy thì cùng với những giá trị khác, Truyện Kiều đã góp phần trong sự tồn tại sống động một vóc dáng nước Việt. Hỏi: Hỡi người xưa của ta nay.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> Khúc vui xin được so dây cùng người "Khúc vui" ấy là khúc đàn tiếp nối tiếng đàn "đứt ngang dây" ngày xưa của người nghệ sĩ. Nhưng "người xưa của ta nay" thì nhiều bạn đọc lấy làm thắc mắc... Đáp: "Hỡi người xưa của ta nay" là một cách dùng chữ rất hay. "Người xưa" tất nhiên là chỉ Nguyễn Du. Ở đây có sự đồng hiện. Chừng như người nghệ sĩ của 200 năm về trước hôm nay cũng có mặt trong cuộc sống mới. Nhưng không phải để dạo bản đàn đau thương như thuở trước. Bản đàn hôm nay đã là một bản đàn vui. Tôi thành thực muốn bày tỏ nỗi hân hoan của tôi trước cuộc sống mới, một cuộc sống đem lại hạnh phúc ấm no cho mỗi người dân Việt Nam. Nếu Nguyễn Du hiện về trong thời đại tôi, tôi chỉ xin cùng với ông so một "khúc vui" ngợi ca cuộc sống. Hỏi: Hai câu thơ cuối Sông Lam nước chảy bên cồn Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân Vẻ như không ăn nhập với mạch cảm hứng của bài thơ này. Ông có thể lý giải điều này? Đáp: Tôi thức trọn đêm để viết bài thơ này. Dừng bút khoảng chừng 4 giờ sáng. Lúc đó tiếng trống gọi thanh niên lên đường nhập ngũ rộn vang khắp làng xóm. Âm thanh ấy dội vào hồn tôi, có cái gì rộn rã hân hoan. Sáng sớm nay sẽ có nhiều trai làng nhập ngũ, họ sẽ ra chiến trường để đem lại niềm vui trọn vẹn cho dân tộc, nhân dân mình. Tiếng trống thôi thúc giục giã lòng tôi. Và tôi kết thúc bài thơ một cách tự nhiên. Nhưng nói là không ăn nhập trong mạch xúc cảm của bài thơ thì không đúng. Khúc nhạc vui trong lòng tôi tìm được biểu hiện nơi tiếng trống gọi quân. Cái lý tưởng, cái lối thoát vui sướng.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> bản nhạc hân hoan tôi muốn "so dây" cùng Nguyễn Du nằm trong ý nghĩa của tiếng trống gọi lên đường này. Xin cảm ơn nhà thơ!. Tác phẩm: BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG (THƠ) TáC giả: Nhà thơ HOÀNG CẦM Nhà thơ HOÀNG CẦM phân tích Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tăng Việt, sinh ngày 22-2 năm 1922 tại Lạc Thổ, Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh ra và lớn lên trong một cái nôi văn hóa Bắc Ninh, trong sự ngọt ngào của các làn điệu dân ca quan họ, những lễ hội tưng bừng và truyền thống tranh Đông Hồ rực rỡ. Ông tham gia thanh niên cứu quốc năm 1944 và viết nhiều vở kịch thơ để diễn cho nhân dân và bộ đội xem. Những vở kịch thơ Kiều Loan (1942), Hận Nam quan (1944), Lên đường (1950) được diễn rất nhiều lần và rất nổi tiếng đương thời. Về thơ ca, ông có các tập: Quê hương (1955), Tiếng hát Quan họ (Trường ca, 1956); Men đá vàng (truyện thơ 1989); Mưa Thuận Thành (1991). Kịch thơ của ông mang đậm lối diễn xướng của văn hóa dân gian và ông cũng chính là một trong những tác giả viết nhiều kịch thơ nhất trong văn học hiện đại Việt Nam. Thơ ông cũng thấm đậm văn hóa Kinh Bắc. Người đọc nhớ đến ông nhiều nhất qua những bài thơ như Lá diêu bông, Cỗ bài tam cúc,… Ngọn lửa tươi sáng và tha thiết của những lời ca quan họ luôn phảng phất làm nên không khí thơ Hoàng Cầm. Hiện ông đang sống ở Hà Nội. "Bên kia sông Đuống" là một trong những bài thơ tiêu biểu của Hoàng Cầm..

<span class='text_page_counter'>(74)</span> Bên kia sông Đuống được rút ra từ tập Quê hương, là một trong những bài thơ tiêu biểu của Hoàng Cầm. Sông Đuống là con sông đào nối sông Hồng và sông Thái Bình, còn có tên là sông Thiện Đức. Sông Đuống chia tỉnh Bắc Ninh ra làm hai phần. Huyện Thuận Thành giáp với Gia Lâm ở nam phần tỉnh Bắc Ninh. Hỏi: Quê hương là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi con người Viết về quê hương, các nhà thơ thường miêu tả tình cảm của mình mà ít khi làm nổi bật được chính vẻ đẹp của quê hương đó. Bài thơ Bên kia sông Đuống là một trong những bài thơ hiếm hoi làm nổi bật được vẻ đẹp của làng quê Việt Nam với những lớp văn hóa đặc sắc. Ông đã viết Bên kia sông Đuống như thế nào? Đáp: Viết về quê hương, điều cốt yếu phải làm hiện rõ nét cái hồn của vùng quê đó. Như vậy đòi hỏi phải có cảm xúc mạnh, trí tưởng tượng sâu rộng, sức liên tưởng dồi dào qua các sự vật tình cảnh có thực, đồng thời phải thấu hiểu lịch sử và nhân vật lịch sử của một vùng đất. Từ nhỏ tôi đã theo mẹ di lễ chùa, dự hội chùa Phật Tích, Chùa Dâu, Bút Tháp, Tiên Sơn, Long Khánh... và đến những phường hát Quan họ mà mẹ tôi là thành viên. Những đêm hát ấy thấm đẫm vào hồn tôi từ hồi đó. Lớn lên, tôi vào bộ đội năm 1947 và có viết một số bài thơ kháng chiến. Đầu năm 1948, tôi và một số anh em lập đội văn công, đóng ở chiến khu 12 thuộc làng Thượng huyện Phú Bình, giáp Thái Nguyên. Một buổi chiều Tư lệnh trưởng chiến khu 12 (gồm Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh và Lạng Sơn) gọi tôi lên và nói: "Tối nay có mấy người ở làng Đông Hồ lên báo cáo về tình hình chiến sự ở vùng này. Anh sang nghe vì đó là quê anh. Tôi hồi hộp và mong mỏi cả buổi chiều. Trước đó tôi nghe tin đồn rằng làng tôi đã bị giặc Pháp từ Hà Nội đánh lên, chiếm lấy. Ở đó tôi còn mẹ già, vợ và ba đứa con thơ. Chín giờ tối một người liên lạc đưa tôi đến Bộ tư lệnh. Vương Văn Trà là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Sông Đuống, lính toàn người địa phương, vừa cầm súng vừa đi cày. Vương Văn Trà là người làng.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> tôi nên mỗi lời nói của anh khiến tôi đau nhói nơi ngực trái. Bọn giặc chiếm được làng nào là lập hội tề ngay ở làng ấy và đốt đình chùa, phá chợ, cướp bóc của cải, đàn áp dân lành. Làng mạc tan tác, bố mẹ vợ con bị ly tán. Chính gia đình tôi cũng bị tan tác không biết di đâu, sống chết ra sao. Báo cáo quá nửa đêm mới hết. Tôi như ngồi trên cả đống than, đống lửa. Trở lại tòa soạn báo Quân Việt Bắc do Nguyên Hồng làm Tổng biên tập đóng trong một nhà dân, mọi người đã ngủ say, hơi lành lạnh của buổi đêm đã quá khuya. Ngổn ngang trong lòng. Tôi ngồi đốt thuốc lào nhưng không có ý định viết gì vì nỗi lo lắng về gia đình, vợ con tràn ngập trong tim. Khoảng 2 giờ sáng tiếng gà gáy vang lên, ngọn đèn dầu bập bùng. Tôi như tỉnh như mê, tình cảm trào ra bên ngoài, vội vơ lấy bút giấy và như có tiếng ai đó đọc dịu dàng văng vẳng bên tai: Em ơi, buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cắt tráng phẳng lì Cứ thế tình cảm trào ra ngòi bút. Tôi viết một mạch đến bốn giờ sáng. Tôi đánh thức Nguyên Hồng dậy và đọc cho Nguyên Hồng nghe. Mới nghe đến câu thứ năm với giọng đọc thiết tha, nức nở của tới, Nguyên Hồng bật khóc và cứ thế thổn thức cho đến khi tôi đọc hết bài thơ dài. Bài thơ nhanh chóng được phổ biến khắp nơi. Bây giờ nhớ lại cảm giác khi Nguyên Hồng nức nở khóc, tôi biết, tôi đã làm được một chút gì đó cho quê hương yêu dấu của tôi. Hỏi: Khi đó giặc Pháp đã chiếm nam phần Bắc Ninh. "Bên kia" là quê hương, là mảnh đất thân yêu đang bị quân giặc giày xéo. Sông Đuống là ranh giới giữa tự do và nô lệ, giữa hòa bình và khói súng, giữa tiếng ca tự do vui sướng và tiếng gào thét của trẻ nhỏ, cha mẹ già. Có lẽ từ ý tưởng này mà nhà thơ đã đột nhiên tìm thấy tứ thơ "Bên kia sông Đuống", một tứ thơ lộ rõ tính độc đáo và hiện đại. Nhưng ngay vào đầu bài thơ, người đọc thắc mắc về.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> một nhân vật "Em". Người em đó là ai và có ý nghĩa gì trong bài thơ này? Phải chăng "Em" ở đây là tượng trưng cho "tâm hồn" đau đáu quê hương của nhà thơ, một tâm hồn tự do không nguôi nhớ thương làng mạc, đất đai, cha mẹ vợ con? Đáp: Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Những câu thơ đầu tiên như thể có ai đọc cho tôi chép, chúng như thể những lời an ủi dịu dàng đối với tâm hồn đau khổ của tôi. "Em" ở đây tượng trưng cho nỗi khắc khoải của tâm hồn thi sĩ. Câu mở đầu là một lời an ủi nên các từ toàn là âm bằng dịu dàng. Tâm hồn thi sĩ vượt qua khoảng cách của không gian và thời gian để tìm về làng xóm quê hương. Tâm hồn ấy muốn dằn vặt, muốn đau nỗi đau chung của quê hương. Chỉ cần bằng hai câu thơ mở đầu đó thôi bài thơ lập tức được chuyển về đúng khung cảnh của quê hương và qua đó có thể trực tiếp nói lên tất cả nỗi đau đớn đang giày vò mảnh đất ấy mà không cần phải dùng đến "nỗi nhớ", "nỗi ly biệt", "nỗi xa cách" nữa. Như vậy chính tâm hồn thi sĩ đã trở về đúng nơi nguồn cội của mình. Ở mảnh đất yêu dấu ấy, bằng ký ức thơ ấu bằng nỗi nhớ thương lo lắng khôn nguôi cho gia đình hòa trộn với ấn tượng từ lời kể của Vương Văn Trà, tâm hồn thi sĩ mường tượng ra tất cả, từng khuôn mặt từng dáng cười, từng bờ cỏ, bụi cây. Hỏi: Hình ảnh hiện lên đầu tiên thật thân thuộc, thật thơ mộng và yên bình. Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ. Con sông Đuống ngày xưa, ngày còn thanh bình chảy êm ả, chan hòa, mượt mà giữa hai bờ. Nhưng giờ đây khi một bờ là vùng giặc chiếm thì cả con sông như chảy "nghiêng nghiêng" đau đớn. Cũng có thể hiểu sông khao khát nghiêng về phía bờ tự do. Theo tác giả, hình ảnh thơ này được hiểu như thế nào? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> Để hiểu câu thơ này trước hết phải hiểu được từ "nghiêng nghiêng". Nếu chỉ dùng một chữ "nghiêng" thôi thì dòng sông được thể hiện trong trạng thái tĩnh. Còn khi dùng chảy "nghiêng nghiêng" tôi muốn nói lên một sông Đuống trăn trở, vật vã, thao thức trong tâm hồn nhà thơ. sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ "Lấp lánh", "nghiêng nghiêng" rõ ràng là hai từ cùng thể hiện sự xao động khôn nguôi của dòng sông. Thi sĩ không phải còn ở bên bờ tự do ngóng về bờ bên kia nữa. Thi sĩ đã và đang ngụp lặn và vật vã trong chính dòng sông hồn mình. Và tâm hồn ấy chảy chạm vào: Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Nhưng lập tức khung cảnh đẹp đẽ ấy của bờ bãi được đối lập với một nỗi đau xót đến "rụng bàn tay". Trong mười câu thơ đầu, tuy ranh giới cảm xúc của "Sông Đuống - Tâm hồn" chưa rõ ràng nhưng trong những cảnh quen thuộc thanh bình của bờ bãi, thi sĩ đã gửi gắm vào đó một cảm giác xót xa. Đó là một thủ pháp lạ lẫm, pha trộn những kỷ niệm ngọt ngào lẫn những nỗi đau hiện tại để báo trước những cảm giác đau thương tiếp theo. Hỏi: Dường như để cho nỗi đau xót được nhấn mạnh hơn, nhà thơ tiếp tục dựng lên hình ảnh quê hương trong bốn câu tiếp theo. Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> Ở đây bản sắc dân tộc hay nói đúng hơn là bản sắc quê hương thi sĩ hiện ra rõ nét với truyền thống tranh Đông Hồ. Nhưng nếu như chọn hình ảnh khác, ví dụ một buổi chiều yên ả, một cổng làng, mái đình, cây đa thì ý nghĩa của quê hương sẽ được "nới rộng" và "phổ cập" hơn, phù hợp với nhiều làng quê của Bắc Bộ? Đáp: Tôi không nghĩ như vậy. Mỗi làng quê đều có một nét văn hóa riêng biệt cùng góp vào nền văn hóa đa dạng của dân tộc Việt. Điều cốt yếu là nét riêng biệt ấy phải thật độc đáo và thật nhân bản. Tranh Đông Hồ là tinh thần của quê hương tôi đồng thời cũng là một phần tinh thần không thể thiếu được của văn hóa dân tộc. Riêng trong bài thơ những câu thơ này có ý nghĩa khơi nguồn cảm hứng dẫn đến những câu thơ tuyệt đẹp phía sau. Khi Giặc kéo đến ngùn ngùn lửa hung tàn thì tất cả mọi thứ đều tan hoang, "ruộng ta khô", "nhà ta cháy". Tất cả chia lìa, hoảng loạn. Hình ảnh những con chó dại điên cuồng "lê sắc máu" đồng nghĩa với sự tàn bạo của kẻ thù. Nhà cửa mất, ruộng hoang, không nơi trú ẩn, không nguồn lương thực, các nhu cầu thiết yếu của con người không được đáp ứng. Cảnh tan hoang ấy không chỉ ở trong kiếp sống bình thường của một người dân mà nó còn làm đau đớn cả đời sống văn hóa tinh thần. Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu. "Mẹ con đàn lợn" và "đám cưới chuột" trong tranh Đông Hồ thể hiện sự phồn thịnh dồi dào, sung mãn của đời sống, nó toát lên niềm hoan hỉ, vui vẻ, hóm hỉnh... Nhưng tất cả những cái đó đều mất đi "từ ngày khủng khiếp". Chỉ cần qua hai hình ảnh ẩn dụ này thôi, đã đủ thấy sự tan hoang của đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân dướ gót giày quân thù. Điệp khúc "Bây.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> giờ... ở đâu" sẽ được lặp đi lặp lại suốt bài thơ, tạo nên một nhịp khắc khoải đau đớn. Hỏi: Núi Thiên Thai, chùa Bút Tháp là những địa danh lịch sử văn hóa tiêu biểu ở Bác Bộ - cái nôi văn hóa nước Việt. Cả đoạn thơ "Ai về bên kia sôong Đuống... chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu" vẽ nên một cảnh trầm buồn. Những hội hè, những tình cảm của con cháu cũng không còn được thể hiện với niềm cung kính nữa. Giặc Pháp đã phá tan tất cả. Tấm áo the gửi về cũng không còn biết "may áo cho ai" trong cảnh loạn ly... Đáp: Ai từng ở nông thôn mới có thể hiểu tiếng "chuông chùa văng vẳng" là gì. Khi hoàng hôn đổ xuống, tiếng chuông chùa cất lên, chim chóc loài vật đều tìm một nơi trú ngụ mong nghỉ ngơi qua đêm. Nhưng nhà cửa tan hoang, giặc càn khắp nơi, ở bên kia sông Đuống dân chúng biết trở về đâu trong cảnh hoàng hôn buồn bã ấy? Có một nhà phê bình nói rằng, ngoài giá trị nghệ thuật, bài thơ còn giữ lại những nét văn hóa vô giá mà thời gian dần dần làm mất đi. Để hiểu thấu đáo bài thơ này phải hiểu được văn hóa làng quê Kinh Bắc xưa "Nay người ở đdâu" được nhắc lại và láy thêm nghĩa ở "Bây giờ đi đâu về đâu". Đó là những kiếp người thương tâm, những nàng thôn nữ, những cụ già bạc đầu, những em bé nhỏ nghèo hèn. Tại sao lại các em bé nhỏ nghèo hèn? Vì các em "sột soạt quần nâu". Nhà nghèo mỗi năm hay hai năm mới được mua một cái quần để dùng, lâu năm người ta nhuộm đi nhuộm lại thật nhiều lần khiến quần dày lên, cứng lại, khi bước đi phát ra tiếng sột soạt. Đó là một nét sinh hoạt rất riêng biệt của người Kinh Bắc. Sau khi những "gương mặt" người quê lướt qua nhanh, bài thơ bắt đầu nhấn vào từng "mẫu văn hóa" một, "những cụ già", "những em", "những nàng môi cắn chỉ răng đen", "dệt sợi", "bán lụa" có nụ cười ngây ngất, dịu dàng tỏa vào mùa thu, cái khí sắc rạng rỡ của con người. Nhưng rồi cái khí sắc của đời sống ấy "bây giờ đi đâu về đầu". Người xưa có câu nói "Đàn ông tạo luật pháp, đàn bà tạo phong tục". Điều đó thật đúng. Muốn nhìn, muốn tìm hiểu một vùng văn.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> hóa nào chỉ cần đánh giá được đời sống của những người đàn bà, nhất là những thiếu nữ - tuổi mà bản năng phát triển đang mạnh mẽ nhất. Các thiếu nữ tạo nên khí sắc đời sống, tạo nên những buổi hát quan họ mà giờ đây biết "đi đâu về đâu". Hơn nữa trong các thôn nữ còn có một hình bóng yêu thương của thi sĩ, một hình bóng mà chàng trai thi sĩ muốn gửi về tấm the đen. Hỏi: Đối với con người Á Đông, quê hương đồng nghĩa với người mẹ và người mẹ là biểu hiện cao nhất của quê hương. Bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào khi nhắc đến tình yêu quê hương cũng có bóng dáng người mẹ. Nỗi đau khổ của người mẹ là nỗi đau khổ lớn nhất, xót xa nhất của quê hương. Trong bài thơ hình ảnh một người mẹ nghèo "còm cõi, gánh hàng có dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng đối lập với "lũ quỷ mắt xanh trừng trợn" hùng hổ, tàn bạo, lao vào cướp phá "phiên chợ nghèo". Từ đây nỗi cơ cực, chua cay của người mẹ càng được làm nổi bật. Và cái dáng "còm cõi" được phụ thêm bởi cảnh hiu hắt của phiên chợ nghèo. Tại sao tác giả lại chọn hình ảnh người mẹ trong dáng điệu "gánh hàng rong" mà không chọn một hình ảnh khác ấm áp hơn? Đáp: Có thể có nhiều dáng vẻ và tình cảnh khác để diễn tả nỗi đau thương của người mẹ, nhưng tôi chọn hình ảnh người mẹ còm cõi và gánh hàng rong là có ngụ ý riêng. Tôi muốn đẩy nỗi đau đớn đến tận cùng. Trong bài thơ, người mẹ không chỉ nghèo mà còn héo hắt cô đơn. Mẹ "già nua còm cõi" mà vẫn phải khó nhọc cực khổ. Gánh hàng lặn lội từ tinh mơ, nhưng nào có gì, chỉ dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng, vài thếp giấy đầm hoen sương sớm". Không gì thê lương bằng. Nhưng rồi trong nỗi buồn bã của phiên chợ nghèo, cơ hội nhỏ nhoi mà mẹ tận lực mỗi ngày mới kiếm được miếng cơm cũng không có nữa, lũ "quỷ mắt xanh" đã giày xéo phiên chợ, làm nát tan thêm cuộc đời mẹ. Còn gì chờ đợi mẹ, những cụ già hay ăn trầu ư, những đứa trẻ thích kẹo bột ư, không, chợ đã tan hoang, chỉ còn:.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> Lá đa lác đác trước lều Vài ba vết máu loang chiều mùa đông Cho nên dù còm cõi, dù là chiều mùa đông hoang vắng, giá lạnh, mẹ vẫn phải "quẩy gánh hàng rong" và tiếp tục bước đi. Dáng mẹ nhỏ nhoi, tóc bạc trong chiều lạnh đường trơn, thật vô vọng, thê lương. Hỏi: Quả là thê lương. Con đường "bờ tre hun hút" và chỉ "có con cò trắng bay vùn vụt". Con cò trong văn hóa dân gian mang nhiều ý nghĩa, nhưng ở đây nó là sự cô đơn, côi cút vất vả cực nhọc. "Hun hút" đi với "vùn vụt" đều thể hiện sự vô vọng, sự không biết đi đâu về đâu... Đáp: Tất cả sự cực nhọc, côi cút, tất cả nỗi đau khổ xót xa của quê hương được nén lại trong hai câu thơ lục bát tiếp theo: Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ Đây là một câu thơ lục bát độc đáo. Chỉ trong mười bốn từ thôi thông tin được dồn nén căng thẳng, ứ tràn. Nó hàm chứa đến năm cụm chủ vị mà lại liên kết nhau thật chặt. "Lòng đói", "Dạ sầu" đường trơn" "mưa lạnh "Mái đầu bạc phơ". Trước hết hãy xét hình thức của câu thơ. Thông thường trong câu lục bát từ cuối của câu sáu vần với từ thứ sáu của câu tám, cho nên từ thứ sáu này nhiều khi chỉ là một hư từ hay là một từ chả có liên quan ý nghĩa với từ cuối kia mà chỉ cần có vần là được. Nhưng từ cuối câu sáu "sầu" vần với từ thứ sáu câu tám "đầu" lại có liên quan mật thiết với nhau về ý tưởng, ý nghĩa, do vậy ý nghĩa toàn bộ câu thơ được nâng lên. Nỗi khốn cùng của người mẹ ở đây thật khủng khiếp. Cho nên hai câu thơ này không chỉ nói lên được nỗi đau khổ của quê hương mà còn là lời tố cáo mạnh mẽ nhất sự tàn bạo của quân thù. Không phải ngẫu nhiên, câu thơ này, hình ảnh này, đúc kết lần cuối tội ác man rợ của quân thù sau một loạt lời kết án phía trên, cũng từ đây bài thơ sẽ mang một nhịp chảy khác, một giọng điệu khác. Nằm ở khoảng.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> giữa bài thơ, hai câu lục bát là một nhịp gấp khúc, vừa chia đôi bài thơ tạo sự chuyển mạch phong phú, vừa như một đứt đoạn diễn tả nỗi đau bị chia lìa, bị giày xéo. Hỏi: "Bên kia Sông Đuống" khi lũ giặc kéo qua nhà cửa tan hoang, cộng đồng bị tàn phá, gia đình ly tán, những thân phận người không biết đi đâu về đâu. Nhưng "bên kia sông Đuống" trong đổ nát thương đau vẫn còn đàn em nhỏ. Đềm líu díu chui gầm giường tránh đạn Lấy mẹt quây tròn Tưởng làm tổ ấm Tội nghiệp và cảm động. Các em là mầm sống của quê hương. Như hiện thân của con người bám trụ cùng đất đai, yêu thương gìn giữ, thắp lên từ đất đai bị tàn phá khát vọng mãnh liệt về sự sống. Bên kia sông Đuống có người mẹ nghèo bền bỉ bất khuất đêm đêm lắng nghe những âm thanh của sự sống, hé liếp cửa chờ đàn con trở về giải phóng quê hương... Đáp: Thời gian trong đoạn thơ này là thời gian đêm. Đêm thường chất chứa nhiều hiểm nguy nhưng đêm cũng là thời khắc nuôi dưỡng sự sống. Với người mẹ, khi "Đêm buông xuống, dòng sông Đuống" là mẹ bắt đầu chờ đợi, chờ những đứa con cách mạng từ bên phía tự do. Và khi các con trở về khuôn mặt mẹ "bừng lên như dựng trăng". Bạn hãy hình dung khi đã quá nửa đêm rồi, bầu trời không có trăng đột nhiên ánh sáng hiện ra đột ngột soi tỏ mọi lối đi lại trong làng. Đó là dựng trăng, sự im lặng thanh khiết, trong sáng của ánh trăng cũng là tình cảm thầm kín lan tỏa trên gương mặt mẹ. Với mẹ những đứa con cách mạng đã làm thành nỗi nhớ da diết, thành nỗi ước mong, thành mềm tin cháy bỏng. Không phải cho bản thân mẹ mà cho quê hương. Trong vòng tay tình nghĩa của giây phút gặp mặt: Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> Những chuyện muôn đời không nói năng Tại sao lại thầm kể? Những chuyện muôn đời là chuyện gì? Tại sao lại không nói năng? Ở đây cần phải hiểu đó không phải là những chuyện không nói được thành lời, mà chính là những câu chuyện, những nỗi niềm kia ai ai cũng thấu hiểu tự đáy lòng. Chuyện muôn đời ấy là tình yêu quê hương, gia đình, là sự căm thù quân xâm lược, là khát khao xây dựng cuộc sống yên bình... Tất cả đã ở trong trái tim. Cho nên với hai câu thơ này, nên hiểu nó là sự im lặng, im lặng ngậm ngùi, xót xa, im lặng sẻ chia và hi vọng. Hỏi: Vâng, hình dáng mẹ cũng là hình bóng quê hương đang "thầm kể" về tất cả những nỗi yêu thương, đau xót cho những đứa con của mình, về một địa danh thân thuộc, về một ngọn gió, về mái lều tranh... lời "thầm kể" của quê hương ấy như lời thúc giục lớn dần và những đứa con ấy đã "bắt đầu xuất kích" trong buổi ban mai rạng rỡ khiến cho "trại giặc" phải "run trong xương". Đáp: Nhịp thơ từ đây bắt dầu tan dần, dồn dập dần, câu thơ ngắn gọn như thể hiện khí thế của cả một đoàn quân. Quê hương tưởng chừng đã tơi bời nhưng đã bất khuất vùng lên và tất cả đều khiến "giặc mất hồn", ở đây không phải máu me, không phải súng ống khiến giặc "ăn không ngon, ngủ không yên" "quay cuồng như xéo trên đống lửa" mà chính sự sống yêu thương, một cánh đồng "lúa chín vàng hoe" với "bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân" đã khiến giặc khiếp vía. Cái mảnh đất chúng tưởng đã giầy xéo được, đã khuất phục được không ngờ vẫn hiện lên đẹp đẽ, bền bỉ và căng tràn sự sống như thế. Cái sức mạnh bền bỉ tiềm tàng trong xứ sở này đã tiếp sức cho những đứa con của mình đánh tan giặc. Ở đây ý nghĩa sâu xa là tình yêu quê hương đã gắn kết những đứa con với xứ sở của mình bằng một vẻ đẹp thiêng liêng, dẻo dai và không thể chia lìa. Và dòng sông Đuống chảy "nghiêng nghiêng" trong cuộc chiến trường kỳ ấy sẽ cuốn đi tất cả những gì chia cắt, cuốn đi:.

<span class='text_page_counter'>(84)</span> Bao nhiêu đồn giặc tơi bời Bao nhiêu nước mắt Bao nhiêu mồ hôi Bao nhiêu bóng tối Bởi "nắng sắp lên rồi, chân trời đã tỏ". Khi ấy con sông Đuống sẽ không còn vật vã, trằn trọc, lo âu nữa. Nó sẽ chảy chan hòa dưới ánh ban mai rạng rỡ, giữa đôi bờ xanh ngút ngàn. Con người sẽ được ôm lấy mẹ, ôm lấy quê hương yêu dấu bằng đôi bàn tay nhỏ bé và ấm áp của mình. Cái ánh sáng bất tử của làng quê Việt Nam một lần nữa lại được khẳng định trong bài thơ này. Nó bền bỉ và chói lọi. Nó được lưu giữ trong đất đai, trong tiếng trẻ thơ, trong ánh nhìn thiếu nữ và truyền từ đời này sang đời khác. Hỏi: Và trong cái không khí náo nức mà bài thơ hướng tới đó con người sẽ hồi sinh và tham dự vào cuộc sống trên quê hương như tham dự vào một ngày hội bất tận: Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trẩy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lồng xuân sanh. Đáp: Mùa xuân sẽ đến với muôn lòng người. Tôi viết Bên Kia sông Đuống để khẳng định niềm tin ấy. Nhưng tôi có một lời nhắn gửi, ai muốn hiểu thấu đáo bài thơ này thì cần phải hiểu được bản sắc văn hóa người Việt. Đó là chất liệu đồng thời cũng chính là ngọn đuốc cho bài thơ Bên kia sông Đuống. Xin cảm ơn nhà thơ!.

<span class='text_page_counter'>(85)</span> Tác phẩm: VỢ CHỒNG A PHỦ (TRUYỆN NGẮN) Tác giả: Nhà văn TÔ HOÀI Nhà văn TÔ HOÀI phân tích Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27-9-1920 tại làng Nghĩa Đô, ngoại thành Hà Nội. Ông viết văn từ trước Cách mạng tháng Tám, nổi tiếng với Dế mèn phiêu lưu ký. Năm 1943 ông gia nhập tổ chức văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm báo ở Việt Bắc. Sau này ông tham gia nhiều công tác nhiều năm liền làm phó tổng thư ký hội nhà văn Việt Nam. Hiện nay đang sống ở Hà Nội. Tô Hoài là nhà văn cho ra đời liên tục và đã cho ra đời trên 150 đầu sách. Tác phẩm của ông đa dạng về đề tài và thể loại ngoài viết tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện thiếu nhi, bút ký, ông còn viết kịch cho thiếu nhi, kịch bản phim. Tác phẩm chính: Dế mèn phiêu lưu ký (1941); Nhà nghèo (1944); Truyện Tây Bắc (1953); Mười năm (1957); Miền Tây (1967); Người ven thành (1972); Tự truyện (1978); Cát bụi trần ai (1922) Chiều chiều (1999)... Sáng tác của Tô Hoài chứa đựng sự phong phú về đời sống phong tục, đặc biệt là những nếp sống văn hóa của những vùng quê ngoại thành Hà Nội. Ông có lối kể chuyện sinh động, hóm hỉnh, giọng văn phóng khoáng, mới mẻ và không bị các đặc trưng của thể loại gò bó. Ông tìm kiếm nghệ thuật ở những cuộc đời, những số phận bình thường và cố gắng tìm thấy sự sống muôn đời ẩn trong đó. Tác phẩm thành công vang dội nhất của ông là tập truyện đồng thoại Dế mèn phiêu lưu ký trong đó ông gửi gắm ước vọng về một thế giới đại đồng, bốn biển là nhà và mọi vật đều là anh em, không có cái xấu cái ác tồn tại trên thế gian. Truyện "Vợ trồng A Phủ" được rút ra từ tập "Truyện Tây bắc" và là truyện ngắn xuất sắc nhất của tập sách này. Truyện có hai phần: phần đầu kể chuyện Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; phần sau là thời kỳ của Phiềng Sa, hai.

<span class='text_page_counter'>(86)</span> người gặp cách mạng và trở thành du kích. Nhưng chương trình văn lớp 12 chỉ trích dạy phần đầu của tác phẩm. Hỏi: Thưa nhà văn, những năm đầu thập niên năm mươi, cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đã có những thay đổi về chiến lược. Tinh thần và sức mạnh bất khuất của cả nước được nuôi dưỡng và phát triển trong những cánh rừng đại ngàn Tây Bắc. Sống với những ngọn thác dữ dội, những núi đá hùng vĩ, những vạt rừng âm u là các dân tộc thiểu số anh em. Đời sống sinh hoạt của họ khác nhau nhưng tinh thần kháng Pháp thì là một. Nhưng dường như đời sống của người Mèo (H-mông) đã để lại ấn tượng sâu rộng trong ông? Đáp: Năm 1952, khi các hoạt động kháng Pháp tăng mạnh trên chiến trường, quân ta đã dần đuổi quân Pháp khỏi sơn La, Lai Châu, tôi là phóng viên của báo Cứu quốc, báo Đại Đoàn Kết bây giờ, được cử đi viết về những căn cứ cách mạng và đời sống ở vùng mới giải phóng. Tây Bắc với những cánh rừng bạt ngàn là nơi sinh sống chủ yếu của người Mường, Thái, Mèo.. và một số dân tộc nhỏ khác. Trong các dân tộc anh em, người Mèo thường sinh sống ở những vùng núi cao nhất và xa nhất. Đấy cũng là những nơi có căn cứ cách mạng sớm nhất. Người Mèo chống Pháp với tinh thần bất khuất và kiên cường kỳ lạ. Tôi chọn đi viết về đời sống dân tộc Mèo là vì vậy. Tôi đi từ núi này sang núi khác, từ vùng Mèo Nghĩa Lộ đến Lai Châu trong 5 tháng trời. Đường đi rất khó khăn, hiểm trở thiếu thốn đủ thứ cộng với khí lạnh ở vùng Tây Bắc, nhưng may mắn là đến bản nào cũng gặp cán bộ cách mạng. Từ 1950 - 1951, tôi và Nam Cao đã từng đi viết và sống với đồng bào miền núi. Khó nhất là sự cách biệt ngôn ngữ, phải có chung tiếng nói mới có thể hiểu được nhau. Ngươi Mèo có ngôn ngữ riêng, tuy nhiên vốn từ vựng của họ ít, nên tôi không mấy khó khăn khi học tiếng của họ. Chỉ cần vài chục từ là có thể giao tiếp được. Tuy vậy vì ở vùng núi cao Và Xa nên đời Sống của họ trăm bề thiếu thốn. Hạt muối quý hoá vàng. Có nơi 5 - 6 tháng không ăn tí.

<span class='text_page_counter'>(87)</span> muối nào. Khi bản có việc thì thịt bò, ngựa đều phải ăn nhạt. Tôi sống trong sự thiếu tốn của người Mèo 5 tháng, đi sâu tìm hiểu đời sống, sinh hoạt của họ, viết được một số truyện ngắn, trong đó có Vợ chồng A Phủ. Thực ra trong ngôn ngữ Mèo không có chữ Phủ, chỉ có chữ Phử thôi. Hỏi: Đời sống văn hóa của người Mèo giờ đây vẫn mới lạ và bí ẩn đối với chúng ta. Họ có những truyền thống văn hóa độc đáo. Nhưng trong Vợ chồng A Phủ, thân phận người đàn bà thật không khác gì con trâu con ngựa. Điều đó có thật hay chỉ là một cốt truyện hư cấu của tác giả? Đáp: Câu chuyện vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa tôi gặp một cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp Tết truyền thống của họ, tức khoảng tháng 11 âm lịch, trước Tết Nguyên đán của ta một tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn Tết từ bản này sang bản khác. Ăn Tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh, cuộc đời chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ chạy chốn đi nơi khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết của tôi về đời sống của người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ dần. Và tôi bắt tay vào viết. Hỏi: Nhân vật chính của truyện là cô Mị. Mở đầu truyện, Mị đã xuất hiện như một ấn tượng buồn, khi "quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước", "bao giờ cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Cô ấy không phải là con gái Pá Tra, vì con gái Pá Tra không bao giờ biết khổ để buồn. Nhưng chỉ cần một câu trả lời: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý Pa Tra là người ta đã hiểu ra nỗi buồn ấy là đương nhiên. Tại sao vậy? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(88)</span> Trên danh nghĩa Mị là vợ A Sử là con dâu của Pá Tra. Là dâu nhà giàu ắt phải sung sướng, nhưng đó chỉ là cái lý thông thường của người Kinh ta. Với các cô gái Mèo, làm dâu nhà giàu là cả một nỗi kinh hoàng. Mị là con dâu gạt nợ của nhà Pá Tra, món nợ đâu từ thời kiếp nào, từ ngày cha mẹ Mị lấy nhau, ngày Mị chưa chào đời. Mị phải đem thân mình phục dịch, làm trâu ngựa cho nhà Pá Tra vì những việc không do Mị làm, những món nợ không vay bởi Mị. Đó là do những hủ tục của người Mèo, và bọn thống lý đã lợi dụng những hủ tục đó để bóc lột dân chúng. Vậy thân phận Mị, nỗi khổ của Mị không thể là trường hợp cá biệt. Hỏi: Tình tiết Mị bị bắt mang đi gây nhiều thắc mắc, Mị bị bắt vì bước ra ngoài sau khi "quơ tay lên" gặp "ngón tay đeo nhẫn" của người yêu. Có một bạn đọc đã từng viết trên báo chí, tại sao sau đó, trong suốt cuộc đời Mị, không bao giờ cô gặp lại người yêu nữa? Anh ta biến đi đâu? Đáp: Tôi có đọc bài báo đó và tiện đây tôi xin trả lời. Trước hết để hiểu được tình tiết này phải hiểu được phong tục của người Mèo. Dù sống ở trên cao và còn nhiều hủ tục, nhưng trai gái thì được tự do tìm hiểu, yêu đương nhau. Chữ "người yêu" là chữ của người Kinh tôi dùng để chỉ một người bạn trai nào đó hay đánh bao với nhau. Mị có tình cảm với anh ta nhưng không phải mặn mà, không thể nói là hứa hẹn... Vậy nên sau này trong đêm tình mùa xuân, bồi hồi nghe tiếng sáo gọi bạn yêu, thì cũng không phải Mị nhớ lại người có "ngón tay đeo nhẫn" ngày xưa. Hỏi: Đau khổ vì bị bắt làm dâu nhà thống lý Pá Tra, có lúc Mị đã không chịu chấp nhận, Mị đã tìm đến cái chết. Nhưng thương cha, Mị "đành ném nắm lá ngón xuống đất" để trở lại nhà Pá Tra. Nhưng rồi từng ngày Mị dường như đã quen được với khổ nhục, Mị cảm thấy mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, thậm chí không bằng cả con trâu con ngựa, vì con trâu con ngựa.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> còn có lúc nghỉ, đứng gãi chân, đứng nhai cỏ mà Mị thì không. Cách đối xử của nhà Pá Tra khiến Mị ngự trị bởi ý nghĩ ấy. Vậy là hoàn cảnh đã thực sự chôn vùi Mị khiến cô không còn nhớ đến "con người tự do" của mình trước kia... Đáp: Không phải là Mị không bao giờ nhớ đến "con người tự do" của mình nữa, mà cái chính là không có một tác nhân nào gợi cho Mị nhớ đến điều đó. Đời sống tủi nhục, mỏi mòn đã hủy hoại Mị, cô ngày càng bị thu hẹp lại trong cái xó buồn bã, nhẫn nhịn: "Mỗi ngày Mị càng không nói, lầm lũi như con rùa nuôi trong xó nhà". Mị là con rùa, là tù nhân. Ở buồng nơi Mị nằm chỉ có một chiếc cửa sổ nhỏ "lỗ vuông vuông bằng bàn tay". Trong căn buồng đó, Mị được chốc lát một mình, vậy cô có thể suy nghĩ, có thể nhớ lại quá khứ lắm chứ. Nhưng không, cái cửa sổ đó quá bé, và lúc nào nhìn ra Mị chỉ có thể thấy "trăng trắng, không biết là sương hay nắng". Đấy là cái mờ mịt của tâm hồn, của số kiếp Mị. Chỉ có chết đi Mị mới thôi nhìn thấy cái mờ mịt ở nơi cái lỗ vuông kia. Như vậy rõ ràng đời sống tủi nhục và tăm tối đã lấn át và che giấu đi con người của Mị, con người trẻ trung, ham yêu, ham sống ngày trước, đến nỗi Mị cũng không nhận ra. Mị là cô gái có cá tính, nhưng thời gian và khổ hạnh ở nhà Pá Tra đã làm cá tính ấy không phải bị mài mòn mà bị nhận chìm hẳn. Đó là sự tha hóa, vào thời Mị, là sự tha hóa do xã hội. Hỏi: Vâng Mị đã hoàn toàn là một cái bóng. Tưởng chừng cái bóng mãi mãi dật dờ, quên hết yêu thương, thù hận. Nhưng không trong đêm mùa xuân, Mị được hồi sinh. Khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vô cùng lộng lẫy. Mị sống lại những âm thanh náo nức, Mị "thiết tha, bồi hồi nghe tiếng sáo gọi bạn tình. Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu.

<span class='text_page_counter'>(90)</span> Đáp: Khi viết đoạn này tôi thích lắm, tôi muốn nhấn mạnh và mô tả tâm hồn Mị. Cô gái vì nợ của cha mẹ bị bắt về trình ma nhà Pá Tra, bị đày đọa cả thể xác lẫn tâm hồn, giờ đây trong đêm mùa xuân, nghe tiếng sáo từ xa vọng lại, không khí rạo rực niềm vui tràn khắp bản làng, dưới tác động của rượu, Mị thấy lòng thiết tha bồi hồi, được "sống về ngày trước". Cuộc sống trâu ngựa ở nhà thống lý Pá Tra không còn đáng sợ với Mị nữa. Mị trở lại là thiếu nữ ngày xưa "uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo" và "có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo". Ký ức tưởng như vùi lấp chợt bừng sáng khiến Mị "thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng". Toàn bộ sức sống, toàn bộ cảm xúc thanh xuân bấy lâu bị vùi lấp bỗng trỗi dậy và Mị biết Mị còn trẻ, trẻ lắm. Mị muốn đi chơi. Nhưng tại sao Mị không đi chơi luôn mà lại "từ từ bước vào buồng"? Sự trở lại chậm chạp với cái lỗ vuông "mờ mờ, trăng trắng" giúp Mị bất ngờ liên hệ quá khứ với hiện tại. Mị hiểu rõ rằng "A Sử và Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau". Đấy là hiện thực, chưa bao giờ Mị cảm đến tận cùng nỗi đau đớn và đọa đày của số phận mình như thế. Mà giờ đây, Mị vẫn phải là vợ A Sử, là con dâu nhà Pá tra, vậy thì niềm vui nho nhỏ, khát vọng thoáng chốc mang đầy "tính ngươi ấy không thể cứu vớt được Mị khỏi số phận của cô... Mị lại nghĩ đến nắm lá ngón. Nhưng tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường, tiếng sáo mê hoặc, dẫn dụ Mị. Mị không còn biết gì khác nữa. Tinh thần Mị đã thăng hoa đến một cõi khác, thoát hẳn đời sống cô, con người cô, và cô mặc kệ A Sử như không nhìn thấy A Sử... Hỏi: Cả khi bị A Sử trói đứng vào cột, Mị vẫn "như không biết mình bị trói" trong đầu vẫn văng vẳng tiếng sáo gọi đến những cuộc chơi... Đáp: A Sử trói Mị nhưng chỉ trói được thể xác Mị, khi đó lòng Mị còn nồng nàn hơi rượu, hơi men của ký ức. Tiếng sáo kia quá tha thiết, quá mạnh mẽ, nó dìu hồn Mị bay lên trên hoàn cảnh, nó là biểu tượng của niềm khát khao.

<span class='text_page_counter'>(91)</span> sống, khát khao yêu, ở đây còn là lòng khao khát tự do nữa. Mị nương theo tiếng sáo, theo những cuộc vui, và bài ca rất đẹp từ ngày xưa quấn quýt: Em không yêu Quả pao rơi rồi Em yêu người nào... Tiếng sáo, lời ca ấy là tiếng thổn thức của tâm hồn Mị. Mị "yêu người nào", Mị "bắt quả pao nào"... Tiếng thổn thức cứ láy đi láy lại, trong phút chốc Mị quên mất mình bị trói, "Mị vùng bước đi". Nhưng ngay khi ấy, sự đau đớn thể xác liền kéo Mị ra khỏi cơn mê, nhắc nhở Mị nhớ đúng thân phận đau đớn của mình. Tiếng sáo biến mất, tình yêu ấy, khát vọng rực rỡ ấy bỗng chốc lại bị vùi lấp, Mị "chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách", và âm thầm trong vòng dây trói, "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Hỏi: Nhưng dường như Mị còn mơ hồ chờ đợi một điều gì đó. Đêm đã khuya, giờ này là giờ con gái chờ bạn yêu đến phá vách nhà để đi chơi. Có lẽ Mị mong một phép lạ… Đáp: Mị không nghĩ đến điều đó. Tâm trạng Mị lúc bấy giờ là "lúc mê, lúc tỉnh". Suốt đêm "lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng làn tha thiết nhớ. Mị chập chờn giữa hiện tại và quá khứ, cho đến khi bàng hoàng tỉnh, ý thức về thân phận trở lại một cách cụ thể, Mị nhớ lại câu chuyện kể về người đàn bà chết trói trong nhà Pá Tra. Người đàn bà ấy là Mị, hay Mị là điển hình của rất nhiều kiếp đàn bà làm dâu nhà giàu. Mị sẽ chết, chết đứng, chết trói như người đàn bà kia. Nghĩ thế Mị sợ quá và "cựa quậy xem mình còn sống hay chết". Sự sống chết ở đây khác hẳn sự sống chết ở đoạn trên, nó là cái sống - chết có tính bản năng. Nhưng cả lần này, cái khát vọng sống ở cấp độ bản năng này cũng bị chôn vùi. Cho nên khi người chị dâu đến cởi trói, không phải Mị đổ xuống, ngã xuống mà là "ngã sụp xuống". Từ đó Mị trở lại là cô Mị "cúi mặt, mặt buồn rượi rượi"..

<span class='text_page_counter'>(92)</span> Tóm lại, Mị, nhân vật của tôi là điển hình của con người bị tước đoạt hết quyền làm con người, bị dìm xuống kiếp ngựa trâu. Nhưng những thoáng chốc trỗi lên làm người sẽ là tiền đề cho những phản ứng của Mị về sau, mà bởi nó số phận cô đã thay đổi. Hỏi: Nhân vật chính thứ hai của tác phẩm là A Phủ. A Phủ được miêu tả như một chàng Mèo tiêu biểu: "biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất thạo, dũng cảm và ngang tàn, từ nhỏ đã không cam chịu sống ở vùng thấp cùng người Thái, dám đánh A Sử và khi nhà Pá Tra đánh thì "chỉ im như cái tượng đá". Dù bị bắt trình ma nhà Pá Tra, nhưng A Phủ lại quanh năm "một thân một mình bôn ba dong ruỗi ngoài gò ngoài rừng". Vậy sao A Phủ cũng chịu làm trâu ngựa cho nhà thống lý? Sao A Phủ không trốn đi? Đáp: Để giải thích điều này phải hiểu tập tục của người Mèo. Cũng như Mị, A Phủ đã bị "trình ma" nhà Pá Tra, vậy A Phủ đã hoàn toàn bị lệ thuộc vào nhà Pá Tra. Nếu A Phủ trốn anh cũng sẽ không tìm được đường sinh sống trong các bản ngươi Mèo. Hơn nữa, dù bị nô lệ song do tính chất công việc đời sống của A Phủ có phần phóng khoáng hơn. A Phủ và Mị, dù thân phận giống nhau, song mức độ tủi cực có khác nhau. Vậy hoàn cảnh ấy chưa có một cái gì bức xúc xô đẩy A Phủ trốn đi cả, nếu không có chuyện để mất bò... Hỏi: Cả Mị và A Phủ đều bị trói. Mị bị A Sử trói không cho đi chơi. A Phủ bị Pá Tra trói vì mất con bò. Hai tình huống này có tương đồng ở điểm nào không? Đáp: Như trên đã nói, Mị và A Phủ ở trong nhà Pá Tra, giống nhau về thân phận nhưng đồng thời giữa số phận họ cũng có những điểm khác nhau. Song khi A Phủ bị trói vào cọc, thì anh đã đến cái điểm nút như Mị vào đêm mùa xuân trước kia: trước mắt là cái chết, cái chết cầm chắc, không thể tránh.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> được. Như Mị, A Phủ không muốn chết, đến đêm anh "cúi xuống, nhay đứt hai vòng mây" nhưng đó chỉ là sự cố gắng vô ích, vì sáng mai ra cổ anh lại thêm thòng lọng, dường như càng chặt hơn, càng tàn bạo hơn. A Phủ cũng như Mị, không có khả năng tự cứu mình. Phải có một ai đó giúp họ. Nhưng là ai thì họ hoàn toàn không biết. Hỏi: Người đó là Mị. Nhưng liên tiếp mấy đêm liền, đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp ngồi hơ lửa, nhìn sang thấy mắt A Phủ trừng trừng, Mị vẫn thản nhiên, "nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Nghĩa là lòng Mị đã hoàn toàn câm lặng, Mị không còn chỗ để nhói thương cho một người khốn khổ giống Mị. Vậy mà vào một đêm như thế, Mị đã cảm động... Đáp: Quả vậy. Đời sống trong nhà Pá Tra không có chỗ cho lòng thương và lương tri. Mỏi mòn, tủi nhục, bị chà đạp tận cùng cả về thể xác lẫn tinh thần. Mị đã thành một con rùa, một con trâu, con ngựa. Lòng Mị đã chai lì, vô cảm. Từ lâu, từ sau đêm mùa xuân kia, ngay chính bản thân mình Mị cũng không xót thương nữa huống chi với người khác, vì nếu có tự xót thương hẳn Mị đã thêm một lần nghĩ đến nắm lá ngón. Mị đã bị đè bẹp trong ý nghĩ mình là trâu, là ngựa nhà Pá Tra, đến nỗi không còn thấy dằn vặt, khổ sở. Mị mặc nhiên tồn tại, một cách chai lì, xơ cứng trong tủi nhục, buồn bã, như gương mặt "buồn rượi rượi" là định mệnh vậy. Cho nên, trong những đêm dài dậy hơ lửa, nhìn thấy A Phủ lòng Mị vẫn dửng dưng, lạnh lùng. Mị không cần ai, không cần gì, Mị "chỉ biết còn ở với ngọn lửa". Hỏi: Vậy tại sao Mị lại cứu A Phủ? Đáp: Tôi muốn nói đến phần vô thức trong mỗi con người, Mị đã lạnh lùng vô cảm với người khác, cụ thể ở đây là với A Phủ. Nhưng dường như trong sâu thẳm, "trong vô thức Mị, điều này chính Mị cũng không thể hiểu được, vẫn.

<span class='text_page_counter'>(94)</span> mong manh một ước vọng, cái ước vọng được chút hơi ấm sưởi nóng cuộc đời lạnh lẽo của mình. Hằng đêm Mị trở dậy hơ lửa là vì thế. Ngọn lửa là hình ảnh có tính chất tượng trưng, nó ở trong sự vô cùng của cuộc đời Mị, dù rất mơ hồ nhưng nó níu kéo không để sự vô vọng lùa đi đến tuyệt cùng. Mị đã không xúc động trước tình cảnh của A Phủ. Nhưng vào một đêm... Mị hé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ vừa mở, "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Bấy giờ, sau mấy ngày bị trói, nhịn đói, nhịn khát và thương tâm nhất là sự dửng dưng của đồng loại, A Phủ đã đứng bên bờ cái chết, đã hoàn toàn tuyệt vọng. A Phủ đã đứng dưới trời lạnh lẽo, trong đêm thẳm sâu, bên kia là một người đàn bà và bếp lửa. Tôi không miêu tả tâm trạng A Phủ vào thời khắc đó nhưng bạn đọc có thể hình dung, A Phủ cô độc và yếu đuối nhường nào. Không còn là chàng A Phủ nhanh nhẹn, dũng cảm khi trước, bây giờ A Phủ sắp chết... Và chính dòng nước mắt "lấp lánh" kia đã chạm được vào đáy sâu chút tình người bị chôn vùi nơi Mị, nó làm Mị nhớ lại nỗi tuyệt vọng của mình ngày cô bị A Sử trói "nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được". Ký ức nhắc Mị nhớ đến thân phận mình. Cùng với nó, lần này là sự trỗi dậy ý thức về kẻ thù. Lần đầu tiên Mị hiểu một cách cặn kẽ "chúng nó thật độc ác". Mị đã xót thương, xót thương mình và xót thương người". Hỏi: Con người Mị lại hồi sinh. Mị cắt dây trói cho A Phủ. Nhưng khi hành động như thế trong Mị chưa xuất hiện ý định chạy trốn cùng A Phru. Vậy phải chăng Mị giải thoát cho A Phủ một cách vô thức... Đáp: Ở đây phải chú ý đến từng chi tiết nhỏ. Không phải Mị hành động một cách vô thức, trái lại Mị hiểu rất rõ việc mình làm. Khi bếp lửa tắt, Mị không thổi lửa, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình rồi Mị tưởng tượng ra cảnh A Phủ trốn đi, Mị đứng thay vào chỗ đó Mị sẽ chết ở chỗ đó. Trong đầu Mị không phải là hình ảnh A Phủ mà là hình ảnh của chính Mị. Cắt dây trói.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> cho A Phủ là Mị giải thoát (hay là mong giải thoát) cho chính tâm hồn mình. Khi cắt dây trói xong Mị mới hốt hoảng, ấy là lúc cuộc sống thực tại ập đến. Mị thì thào "Đi ngay..." Đó là mệnh lệnh đối với A Phủ đồng thời là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình. Hỏi: Tức là nguyên do dẫn đến hành động chạy trốn của Mị là nỗi sợ hãi? Đáp: Lúc đó nếu suy nghĩ kỹ Mị sẽ sợ nhiều thứ: chạy trốn, Cuộc Sống của Mị ra sao, con "ma" nhà Pá Tra có buông tha Mị,... Nhưng cận kề nhất là cái chết, chắc chắn là chết, nếu Mị ở lại. Đồng thời cái hình ảnh của A Phủ "quật sức vùng lên" tác động mạnh vào Mị. Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi cũng vụt chạy ra. "Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi". Nghĩa là phía trước mọi cái vẫn tối tăm và bất định lắm, nhưng đó là sự bất định chưa rõ, còn cụ thể ngay giờ đây là cái chết. Trong tình huống đó cả A Phủ và Mị không thể có con đường nào khác là chạy đi. Và từ đó cuộc sống của người này liên quan đến người kia. Mị đuổi kịp A Phủ, nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt "Cho tôi đi với, ở đây thì chết mất". Và A Phủ hiểu, người đàn bà này vừa cứu sống mình. A Phủ đỡ Mị, nói "Đi với tôi". Không thể khác, từ đây số phận hai người sẽ phải gắn chặt với nhau. Hỏi: Thưa ông, sách văn học lớp 12 chỉ trích giảng phần đầu truyện Vợ chồng A Phủ. Ông nghĩ gì về điều này? Nếu tác phẩm dừng ở đây thì đã đủ lột tả hết tính cách của các nhân vật Mị và A Phủ? Người đọc có lĩnh hội được ý tưởng của truyện? Đáp: Tôi tự thấy phần đầu truyện là phần rất hay, ở đó nhân vật có nhiều biến cố, cả về cuộc đời lẫn tâm lý. Các nhân vật được soi rọi ở nhiều khía cạnh, nhiều hoàn cảnh khác nhau, ý thức về cá nhân tuôn lên mạnh mẽ. Còn.

<span class='text_page_counter'>(96)</span> phần sau, chuyện hai vợ chồng A Phủ về khu du kích, họ chỉ có một mục đích là đánh Pháp. Cuộc sống của họ có hạnh phúc, nhưng giản đơn hơn. Tôi có xem vài bài giảng về tác phẩm này, nhưng có lẽ các thầy giáo đã quá chăm chú đến nội dung tố cáo xã hội và giải phóng phụ nữ. Theo tôi giảng tác phẩm này là phải chú trọng đặc biệt đến nhân vật Mị, số phận của cô và sự hồi sinh mãnh liệt của con người cô. Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý giá. Hơn nữa tôi phải nói thật, dù có hiểu văn hóa dân tộc Mèo đến mấy tôi vẫn chỉ là một người của dân tộc khác viết về người Mèo cho nên tôi không có tham vọng đi sâu vào văn hóa Mèo. Ý tưởng của tôi ở đây là khả năng hồi sinh nơi con người, mà để làm điều đó, nhiều khi con người cần phải được trợ lực, được giúp đỡ bởi ai đó... Xin cảm ơn nhà văn!. Tác phẩm: MÙA LẠC (TRUYỆN NGẮN) Tác giả: Nhà văn NGUYỄN KHẢI Nhà văn NGUYỄN KHẢI phân tích Nguyễn Khải sinh ngày 3-12-1930 tại Hà Nội, quê cha ở Nam Định. Tác phẩm chính: Xung đột (tiểu thuyết 1959-1962), Mùa lạc (truyện ngắn, t960), Tầm nhìn xa (1963); Chủ tịch huyện (1972); Họ đã sống và chiến đấu (1966); Đường trong mây (1970); Ra đảo(1970); Chiến sĩ (1973), Tháng ba ở Tây Nguyên (1976); Cách mạng (kịch 1976); Cha và con và...(1979); Gặp gỡ cuối năm (1982); Thời gian của người (1985); Điều tra về một cái chết (1986)... Hiện ông đang sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Khải tham gia cách mạng ở thị xã Hưng Yên. Sau đó gia nhập quân đội và công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông là nhà văn quan tâm sâu sắc đến các vấn đề xã hội. Những tác phẩm của ông viết về công cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc những năm sáu mươi gây được dư luận đương thời. Chính ông cũng tự nhìn nhận rằng một trong những thành công của ông là chỉ ra được chất lãng mạn trong những con.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> người chiến thắng. Những con người đó sau khi đánh đuổi kẻ thù giành lại đất nước, hăm hở bắt tay vào kiến thiết đất nước. Họ vẫn giữ được tình đồng chí, tình huynh đệ trong lao động và mơ ước cùng nhau tạo nên một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chất lãng mạn ấy hầu như đã làm con người quên đi những vất vả lo toan. Ông phân tích nhân vật như một yếu tố không thể thiếu được trong sự thay đổi của cuộc sống mà nhân vật tham dự vào. Chính trong những mối quan hệ ràng buộc này mà con người khẳng định ý chí và cái tôi riêng biệt của mình. Những năm bảy mươi, Nguyễn Khải đi vào chiến trường và viết nên những tác phẩm đậm chất sử thi, ca ngợi phẩm chất anh dũng của con người Việt Nam trong chiến đấu. Mùa lạc là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông thời kỳ đầu. Hỏi: Thưa nhà văn, sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, hòa bình được lập lại trên miền Bắc, đất nước ta bước vào một thời kỳ mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Đây là giai đoạn mở đầu cho công cuộc cải cách xã hội, củng cố xây dựng cơ sở vật chất, tinh thần. Nông trường Điện Biên là một trong rất nhiều các nông trường được thành lập vào giai đoạn này. Đời sống ở nông trường Điện Biên có mọi ý tưởng để so sánh: xưa là bãi chiến trường ác liệt, nay phủ đầy màu xanh, xưa chống giặc, nay xây dựng đất nước... Những con người trong đời sống hiện tại hôm nay rất khó có thể hình dung về không khí lao động ngày ấy, hình ảnh của những con người lao động ấy... Đáp: Thế hệ ngày nay khó lòng có thể hiểu tường tận ý nghĩa của cuộc sống trong những năm tháng ấy. Nông trường Điện Biên là mảnh đất độc đáo, với chiến tranh và hòa bình, quá khứ đau thương và tương lai sáng tươi, người chết và người sống, vinh quang và mất mát... Nhưng chỉ sau vài năm đất đã được phủ đầy một màu xanh mỡ màng. Người ta khó có thể tưởng tượng ra.

<span class='text_page_counter'>(98)</span> đó từng là một bãi chiến trường ác liệt nếu thỉnh thoảng không gặp một xác xe tăng, một hố bom lớn. Tôi lên Điện Biên là để viết về cuộc sống mới, con người mới. Chuyện yêu đương, chuyện gia đình vợ con, nghề nghiệp là chuyện hàng ngày của bất kỳ con người nào. Chỉ có những người có niềm tin mãnh liệt vào một lý tưởng xã hội mới thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn đó. Công nhân nông trường là các cô gái từ miền xuôi lên. Họ có ước nguyện tới miền đất này để tạo lập một cuộc sống mới tốt hơn, đẹp hơn cuộc sống trước đây. Tuy nhiên trong số họ cũng có nhiều người mơ mộng, lãng mạn, tình nguyện lên Điện Biên để sống với những chiến thắng, sống với những anh hùng vừa qua khói lửa. Những người như thế sẽ mau chóng thất vọng vì cuộc sống thực tế khác xa với phim ảnh. Những người gắn bó với nông trường nhất là những người lính đã trực tiếp cầm súng, thồ gạo trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Hòa bình lập lại họ tiếp tục ăn gạo hẩm, mắm khô, không đủ rau xanh... để xây dựng nông trường, để tiếp tục lao động cực nhọc, gỡ dây thép gai, tháo mìn, phạt cây, phát cỏ, lấp hố bom, mở đất canh tác. Tất cả những con người đó tạo nên một cuộc sống đầy sinh động và rộng mở. Ý tưởng ban đầu của mỗi cá nhân là xây dựng nên một "cộng đồng nông trường" tốt đẹp. Tuy nhiên trong số họ cũng có một vài người sống lang thang, trôi dạt khắp nơi và chỉ đi lên nông trường khi không còn lối thoát nào tốt hơn. Tôi muốn tìm hiểu, phân tích những con người này, những mâu thuẫn tâm lý này khi họ đụng chạm vào cuộc sống tập thể, một cuộc sống tập thể mà trong đó mọi người không hề có chung ký ức. Hỏi: Những con người như thế hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng rất khó khăn. Họ có những vỏ bọc "cái tôi" vô cùng lớn, một chút kiêu ngạo, một chút ích kỷ, một chút tủi phận, hờn đời. Ông đã gặp được một mẩu nhân vật có thật ở nông trường Điện Biên? Đáp: Tôi lên nông trường và xuống thẳng một đội sản xuất, trồng lạc. Trong số mười lăm nữ công nhân chưa chồng, có một cô có cá tính nổi bật. Chị ta.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> đã ngoài ba mươi. Chồng chết, con chết mới tìm lên đây. Chị tên Xuân, vóc dáng sồ sề, mặt thô, chân tay thô, cười nói cũng thô, một phụ nữ từng trải, phiêu bạt, bất cần trong cách ăn mặc, trong ứng xử. Chị tỏ ra là "tôi chỉ là thế, tôi chả cần lấy lòng ai cả, thích thì tôi ở, dở thì tôi đi". Nhưng mọi người trong tổ lại rất thích chị, hay đùa chị, gán ghép chị với những chàng trai trẻ. Mọi người cười, chị cũng cười hồn nhiên, không giận ai bao giờ cả. Chị tính tình như đàn ông, phóng khoáng, rộng lượng. Cách làm ăn của chị thì không ai theo kịp. Chị nhổ lác nhanh nhất, tuốt lạc nhanh nhất. Anh em bộ đội phải dùng bao tay để nhổ lạc, còn chị chỉ cần đôi tay trần cũng lôi được khóm lạc lên trọn vẹn, gọn gàng. Chị xấu xí nhưng lại dễ gần. Chị vừa làm, vừa hát xẩm, hát chèo, hát trống quân, nói ví... Bao nhiêu phương ngôn, ca dao, tục ngữ chị nhớ hết. Chị còn viết bích báo bằng thơ lục bát. Thơ nôm na được nhiều người thuộc... Hỏi: Phải chăng chị Xuân - con người thực ngoài đời ấy đã hóa thân thành cô Đào trong Mùa lạc? Đáp: Tôi ở đó một thời gian ngắn. Ban đầu tôi có ác cảm với chị bởi hình thức bên ngoài, bởi cách ứng xử bỗ bã, nhưng dần dần trở nên thân hơn với chị. Chị quả là không thể thiếu đối với đội sản xuất. Chị là mẫu người mà bất kỳ nhóm người nho nhỏ nào cũng cần có. Chị đi làm luôn về sau cùng, dậy lại máy móc, rào lại vườn rau của nông trường. Người khác có gia đình nên đã về trước để lo toan cho tổ ấm nhỏ bé của họ. Chị chơ vơ một mình. Đội sản xuất có hai lối đi, một lối qua khu gia đình, một lối vòng. Vào buổi chiều khu nhà tập thể rất ồn ào, bố mẹ gọi con, tiếng bát đũa, tiếng cãi vã... Chị luôn đi đường vòng. Chị rảo bước như chạy, âm thanh của đời sống gia đình làm chị thèm muốn. Tôi bất chợt nhìn thấy dáng tất tả của chị vào mỗi buổi đi làm về như thế. Chị Xuân đã hóa thành cô Đào từ giây phút đó. Suốt thời gian ngồi viết không lúc nào tôi tự hỏi là nhân vật này (cô Đào) là mới hay cũ, là thuộc dòng văn học hôm qua hay hôm nay. Chỉ biết chị Xuân là người đàn bà có số.

<span class='text_page_counter'>(100)</span> phận như nhiều người đàn bà khác tôi đã gặp. Cuộc đời đổi khác, mở ra nhiều hướng đi. Mỗi người có quyền nhìn xa hơn, mong ước nhiều hơn cảnh ngộ của mình, có quyền chọn lựa, có quyền bắt đầu một cái gì đó khác trước, để hy vọng vào tương lai. Hỏi: Bây giờ xin được đề cập trực tiếp đến tác phẩm Mùa lạc. Trong khung cảnh những người công nhân hăng hái làm việc, mồ hôi đầm đìa, hình ảnh Đào và Huân bên cạnh máy tuốt lạc nổi bật lên. Đào thì "Hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, gò má cao đầy tàn hương, hàm răng khểnh của người luôn ưa cười cợt", còn Huân "thanh niên chưa tròn hăm lăm tuổi rất khoẻ và đẹp trai". Hình ảnh Đào được nhấn mạnh thêm bởi một loạt từ miêu tả hình dáng thô, thiếu hòa hợp, đầu nhọn, chân ngắn, bàn tay có đốt to. Bên cạnh hình ảnh trẻ trung, xinh tươi, tràn đầy sức sống của Huân, tác giả muốn tạo cho người đọc cảm giác khó coi về Đào? Đáp: Thoạt nhìn Đào, người khác sẽ có cảm giác khó chịu như khi tôi gặp chị Xuân. Chị không những thô về con người mà ngay cả cách làm việc cũng khác hẳn cung cách của người phụ nữ. Nó thật hoạt bát và sinh động "Hai bàn tay có những ngón rất to vẫn thoăn thoắt quơ ra phía sau nắm từng bó lạc và bằng một cử chỉ rất nhanh, chị uốn hai cổ tay siết những rễ cây đầy củ lạc già lên vòng trục". Tôi muốn báo trước trong một hình dáng khó coi thế, tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt và nó sẽ trào ra trong giây phút quyết định của cuộc đời. Hình ảnh Huân bên cạnh Đào không phải để làm nổi bật hình thức của Đào. Cặp hình ảnh song song đó có một dụng ý rõ rệt. Tôi muốn sự đối lập hình thức càng cao thì sự "kết đôi" hai tâm hồn ấy càng có giá trị. Bởi vì sự trẻ trung, tươi mới của Huân chính là báo trước sự trẻ trung, tươi mới của tâm hồn Đào sau này. Một tâm hồn trải qua bao thử thách, bao nỗi đau khổ, cuối cùng vẫn tìm được sự hòa hợp với những tâm hồn khác. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(101)</span> Tuy nhiên trước khi tìm thấy sự hòa hợp ấy tác giả cũng đã hé lộ cho thấy tâm hồn Đào rất dễ bị tổn thương. Trong giờ giải lao, mọi người gán chị với người này, người kia, đùa chị là vẫn còn ở tuổi thanh niên. "Đấy là câu đùa cửa miệng của nhiều người đối với Đào nhưng lần nào nghe câu nói ấy chị cũng buồn tủi như chợt biết lần đầu về mình". Đáp: Trước khi kể về quá khứ buồn bã của Đào, tôi muốn hé lộ ra tính cách của Đào. Dù có bầm dập, lấm lem tới đâu đi nữa trong con người đó vẫn tồn tại một phần tâm hồn trong sáng, non nớt. Nhất là với những người đàn bà, họ dễ bị tổn thương nếu bị va chạm vào phần yếu mềm đó. Với Đào, chị dễ bị tổn thương là do quá khứ của chị. Nhu cầu được sống, được yêu thương và yêu thương người khác, quan tâm đến người khác là nhu cầu không thể thiếu đối với con người. Đào cũng có những nhu cầu ấy. Đào tủi thân vì dù người ta không ghét chị nhưng luôn trêu chọc chị. Trong đội sản xuất chỉ có Huân là người có tình cảm trìu mến thực sự, thông cảm thực sự với chị. "Cặp mắt hơi nâu rất đẹp của anh lim dim nhìn Đào trìu mến". Đào nhận thấy điều đó. Chị vui sướng. "Đôi gò má cao của chị ửng đỏ, đôi môi định mún lại nhưng không chặt. Vừa vui sướng vừa như cưỡng lại sự vui sướng ấy. Chị thở rất mạnh, với lấy một cây lạc bứt từng củ một". Tâm hồn Đào tuy dễ bị tổn thương nhưng chỉ cần một cử chỉ nhỏ, chân thành của người ngoài là đủ vỗ về, an ủi chị. Hỏi: Chị hiểu con mắt trìu mến của Huân nhưng tại sao chị còn đến trước mặt Huân ngân nga "Huê thơm bán một đồng mười. Huê tàn nhị rữa bán đôi lạng vàng. Giá đôi lạng vàng vị tất đã bán đâu anh Huân ạ". Trong sách hướng dẫn học văn, câu này được hiểu là "Sự khẳng định ý thức về bản thân, về cái quyền được hưởng cuộc sống gia đình hạnh phúc như mọi người phụ nữ khác". Ông nghĩ gì về lời bình này? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(102)</span> Phân tích và cảm nhận tác phẩm văn học thế nào là quyền của mỗi người đọc, không thể áp đặt hay ép buộc một cách hiểu duy nhất. Trong mạch truyện như vậy, khi Đào nhận ra tâm hồn của Huân thành thực chân thành với mình, Đào mới cảm động. Đào có thể than thở, có thể dốc bầu tâm sự với Huân. Khi Đào ngân nga "Huê thơm bán một đồng mươi. Huê tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng" thực chất Đào chỉ muốn nói cho Huân nghe dù chị nói to trước bao nhiêu người. Chị tìm thấy sự cảm thông ở Huân và sẵn sàng thổ lộ tình cảm của mình. Sau lời thở than, tủi thân ấy, nụ cười "trắng bóng đầy khích lệ của Huân lại khiến chị dẹp quá khứ sang một bên. Chị trở lại là một nữ công nhân nông trường tin vào cuộc sống, tin vào đời sống yên ổn mà có thể chị sẽ được hưởng sau này. Hỏi: Đào từng có một cuộc sống gia đình, "lấy chồng từ năm 17 tuổi nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều lần bỏ đi Nam" rồi con chết, chồng chết. Gia đình tan hoang, không nhà cửa, không quê hương, từ đó chị "Đòn gánh trên vai, tới đâu là nhà, ngã đâu là giường", ngày mưa ngày nắng, tất tả ngược xuôi, Đào sống không một chút tương lai, không có gì gắn bó, thậm chí "muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống". Dù vậy cuộc sống của chị không phải là đã bị đẩy vào hoàn cảnh bi thảm nhất, hoàn cảnh đói khát, bệnh tật, mong manh giữa sống và chết. Đào vẫn có thể buôn thúng bán mẹt sống qua ngày... Đáp: Đó là một trạng thái tâm lý phức tạp của một lớp người trước giải phóng (hiện nay đâu đó vẫn còn mẫu người đó). Đào lăn lóc, lang thang khắp nơi, không phải vì Đào muốn sống cuộc sống giang hồ mà vì chị không còn con, không còn gia đình để bấu víu vào. Đây không phải sự nương tựa về mặt vật chất mà là một sự nương tựa về tinh thần. Chị mất gia đình, mất cái mà chị có thể vì nó mà phải vất vả. Những nhu cầu tình cảm không được đáp ứng. Chị sống như không phải là sống nữa, chỉ đơn thuần là tồn tại. Điều này khiến Đào không chịu nổi. Tình cảm ứ lại trong tâm hồn làm chị đau khổ. Đào không còn ai để chia sẻ (tất nhiên đây là ý nghĩa thiển cận của Đào). Đào.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> sống lạc lõng, trơ lỳ. Đào lầm lì, lặng lẽ và trơ tráo với tất cả mọi người. Đào cô độc, cô độc hai lần, một lần với cuộc sống, một lần với chính mình. Hỏi: Hoàn cảnh đã tạo nên kiểu sống của Đào khiến chị sống táo bạo và liều lĩnh, ghen tỵ với mọi người và hờn giận cho thân mình. Đào không thể tìm thấy cách đối xử khác đối với mọi người? Đáp: Đào đã biết đến thiên chức của người đàn bà, niềm vui của người đàn bà. Nhưng mất chồng con, Đào mất tất cả niềm vui đó. Ngần ấy đã đủ làm người ta khô cằn. Hơn nữa Đào là thân gái phải lang thang phiêu bạt kiếm ăn, tất phải trở nên táo bạo và liều lĩnh. Nếu không thì liệu chị có thể yên nổi! Nhu cầu yêu thương dần bị bản năng sống chèn ép đi, khiến cuộc sống bên ngoài càng thêm trơ lỳ. Nhưng thực ra trong sâu thẳm nó không mất đi, nó bị dồn nén vào một góc nào đó của tâm hồn Đào. Nó ấp ủ, âm ỉ, nhức nhối cho đến khi có cơ hội bùng vỡ ra. Ấy là lúc "ngày ốm đau, nằm nhờ người quen, bưng bát cơm nóng nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ trước đây cũng có một gia đình, có một đứa con sớm lo việc sớm, tối lo việc tốt. Những giây phút ấy Đào rất dễ đi đến những quyết định làm thay đổi cuộc sống của mình. Ý nghĩ chợt lóe lên rồi lại tắt ngấm. "Muốn về quê sống lại ở quê hương nhưng nào còn ai". Ý nghĩ "không còn ai" để mình lo lắng, yêu thương bám chặt lấy Đào, đẩy Đào vào cuộc sống vô phương hướng. Hỏi: Trong cuộc sống không phương hướng đó Đào tìm lên nông trường Điện Biên. Rõ ràng Đào không biết gì về nông trường, không biết mình sẽ làm gì, sống thế nào. Đáp: Có mục đích chứ, nhưng mục đích của Đào chỉ xuất phát từ tâm lý "con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời.

<span class='text_page_counter'>(104)</span> đã qua". Đào lên nông trường với tâm lý chán nản, mệt mỏi. Đơn thuần là chị không chịu đựng thêm được nữa sự nhàm chán mà cuộc sống lăn lóc khắp nơi đem lại. Đào dứt bỏ quá khứ, dứt bỏ cuộc sống lang thang và sẵn sàng dấn thân vào một nơi mà "Những ngày sắp tới ra sao chị không cần rõ, đại khái cũng chẳng hơn gì trước mấy, có thể gặp nhiều đau khổ hơn". Thái độ bất cần trong sự lựa chọn lên nông trường này là điều cần phải nhấn mạnh, chẳng hạn một người như Đào không may mắn tìm đúng đến nông trường mà rơi vào một hoàn cảnh sống khác tệ hơn thì không biết cuộc đời chị còn khốn khổ thế nào. Điều này chứng tỏ giá trị của đời sống ở nông trường Điện Biên. Đó là một cuộc sống cộng đồng, nó có những quy định và nguyên tắc nhất định khiến cho người nọ liên quan, quan tâm đến người kia. Hơn nữa, ở đây người ta lao động chung, quyền lợi hưởng chung, vì một mục đích xây dựng xã hội nên con người có tình cảm thực sự chân thành với nhau. Đào là một cá nhân cô độc, mất phương hướng, lạc lõng tìm đến môi trường cuộc sống đó. Cuộc đời Đào không phải bị gò ép thay đổi mà nó thay đổi tự nhiên, chậm chạp bởi cuộc sống mới. Ngay cả việc mọi người trêu chọc Đào cũng là một cách thể hiện sự quan tâm. Từ đó Đào bắt đầu hồi sinh. Hỏi: Đào bắt đầu hồi sinh như thế nào? Đáp: Con người không thể sống đơn độc, một đoạn đời của Đào đã chứng minh điều ấy. Cuộc sống cộng đồng cần thiết tới mức người ta không thể ý thức hết được. Chỉ khi người ta bị ném ra khỏi cộng đồng, ném ra giữa cái hoang vắng, chỉ còn mình đối diện với mình, khi ấy người ta mới hiểu ra được giá trị lớn lao của nó. Ở đây các cá tính được bổ sung cho nhau, các nhu cầu tình cảm được đáp ứng. Đào lên nông trường Điện Biên, môi trường lạ chị biết thêm những cái tên mới, khuôn mặt mới, công việc mới... Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(105)</span> Hình ảnh Huân luôn xuất hiện trong suốt đoạn văn nói về cuộc sống của Đào ở nông trường. Hai người thường bị gán ghép, dù Huân đã có người yêu. Đào đứng máy cùng Huân và "nhìn đôi cánh tay cuồn cuộn những thớ thịt cháy nắng đỏ rực của Huân thoang thoáng bên cạnh, chị lại bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hy vọng vào cuộc đời mình chưa phải đã tắt hẳn". Phải chăng trong truyện Huân chỉ là một hình ảnh để khơi gợi cho những ý nghĩ, mơ ước của Đào? Đáp: Điều đó chỉ đúng khi giới thiệu nhân vật Đào. Trong truyện Huân là một nhân vật có đời sống thực, riêng tư. Tôi cần phải nhắc lại rằng: Những năm cuối thập kỷ năm mươi, khi cuộc chiến tranh chống Pháp kết thúc miền Bắc hăng hái lao vào xây dựng cuộc sống mới với tất cả khí thế hừng hực của người chiến thắng, Huân đại diện cho lớp người đặc biệt. Họ lãng mạn, chỉ biết sống theo khát vọng của mình một cách chân thành nhất. Họ muốn làm điều gì đó tốt đẹp hơn, cao cả hơn tuy họ chưa đủ các yếu tố thực tế để tiến đến điều đó. Họ khao khát xây dựng một cái gì đó khác hẳn đời sống ngày xưa, một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, một cuộc sống mà con người có thể chan hòa và thương yêu nhau. Huân là mẫu người như vậy. Cho nên Đào đã cảm thấy nơi Huân có một điều gì đó giúp Đào tin tưởng vào cuộc sống mai này. Sự hiện diện liên tục của một lý tưởng lãng mạn bên cạnh cuộc đời héo úa của Đào khiến cho cuộc sống của chị dần thấm lấy cái lý tưởng đó. Đó là mặt tích cực của đời sống cộng đồng. Khi xưa Đào tiếp xúc với mọi hạng người tốt xấu lẫn lộn nên chị phải sống dè chừng, khép kín. Ở nông trường, Đào tiếp xúc với những người lao động vì một mục đích chung, không phải lo lắng, cảnh giác, không phải mưu mẹo, giành giật. Hỏi: Đào tự cảm thấy cái vỏ bọc cá nhân, sự nghi ngờ đố kị vỡ ra từng mảnh một. Đào trở lại đời sống thực thời tươi trẻ. Tâm hồn Đào háo hức với mọi điều. Đào làm thơ hát hò, cười đùa, quyến luyến với mọi người. Có lẽ Đào ngạc nhiên với chính sự thay đổi của mình?.

<span class='text_page_counter'>(106)</span> Đáp: Nhiều người hỏi rằng khi để nhân vật Đào làm thơ, thuộc nhiều ca dao tục ngữ thế, thì tác giả có ép buộc nhân vật quá không. Tôi không để ý tới điều đó. Nhân vật tự nhiên tạo ra tính cách và hành động của mình nếu như được đặt vào một mạch truyện phù hợp. Đào mang sẵn một tâm hồn đa cảm, nhuần nhị của người phụ nữ Việt Nam. Hơn nữa Đào lăn lộn khắp nơi, buôn đông, bán tây, đi khắp các miền, văn hóa dân gian, cái tốt cái xấu cứ ngấm dần vào chị. Chị trở thành con người nanh nọc. Ở nông trường, Đào phải tìm những điều tốt trong mình để sống với người khác. Đào trở nên hoạt bát hẳn, tất cả những nét văn hóa dân gian được chị thể hiện ra rất sinh động. Đào mang lại không khí vui vẻ cho cộng đồng và cộng đồng đáp lại chị bằng tình cảm trìu mến. Đào hồi sinh: "Một cái gì chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn những ngày qua cứ lấp lóe ở phía trước. Có thể đấy là cuộc đời còn lại của chị chăng? Chị đã cảm nhận được bằng trái tim mình tất cả sự tốt đẹp của cuộc sống mới. Hỏi: Đào tự cảm thấy cuộc sống mới đang tới gần nhưng khi nhận được lá thư thì chị lại bàng hoàng. "Ông già trung đội trưởng phụ trách lô gạch ở nông trường mới gặp chị vài bận đã dám ngỏ lời táo bạo. Mới đọc được mươi dòng chị đã giận dữ tưởng như có thể xé vụn từng mảnh được". Phải chăng chị còn nghi ngờ tình cảm của người khác? Hay chị hình dung cuộc sống mình khác hơn là lời ướm hỏi của một "ông già trung đội trưởng"? Đáp: Đào không phải là người nhiều ảo tưởng về bản thân. Chị hiểu mình là ai và xứng đáng với điều gì. Tâm lý của Đào khi đó rất phức tạp. Chị chưa thực sự tin vào tình cảm của người kia. Người khác quý mến chị, cảm thông với chị, cùng làm việc nặng nhọc với chị, chị có thể hiểu được. Còn ai đó muốn chị, cùng sống một đời sống vợ chồng thì chị không.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> dám ngờ tới. Con người chị, hoàn cảnh xưa của chị không cho chị tin vào điều ấy. Hỏi: Nhưng tại sao diễn biến tâm lý tiếp theo của Đào lại hoàn toàn khác. Chị lại cảm thấy ngây ngất, yêu thương. Phải chăng Đào đã chịu nhiều cực nhọc, nhiều đau khổ rồi nên sẵn sàng chấp nhận một sự phiêu lưu mới như cách chị chọn lên nông trường? Đáp: Đúng. Diễn biến tiếp không còn là sự nghi ngờ, tự ái như khi mới đọc thư mà là một cảm giác khác. Khi gấp lá thư lại thì cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra, như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kỳ lạ dạt dào không thể nén lại nổi khiến người chị ngất ngây. Nhưng chị là một người đàn bà với tất cả tính cách của nó dù cuộc sống có vùi dập thế nào chăng nữa, cuộc sống vợ chồng đối với người đàn bà có tầm quan trọng đặc biệt. Cho nên, dù có một đời chồng rồi, Đào vẫn không thể không xao xuyến khi nhận được một lá thư như vậy. Ban đầu chưa dám tin, nhưng lá thư như một chiếc chìa khóa mở thẳng vào nơi sâu kín nhất của tâm hồn Đào, "những dòng, những chữ từ bức thư xa lạ cứ như tiếng nhạc ngân vang mãi trong lòng chị". Cái xao xuyến lúc đó không liên quan gì đến sự thành thật hay không của tình cảm trong lá thư mà là cái xao xuyến của riêng Đào. Lá thư đã mở tới "Những kẽ ngách sâu kín nhất, thức tỉnh nỗi khao khát yêu thương chị đã cố vùi nén trong bao nhiêu năm. Sau phút xao xuyến chị mới bắt đầu cân nhắc đến nội dung và ý nghĩa của bức thư. Vậy bức thư chỉ có một mục đích là giúp người đọc thấu hiểu tận cùng con người Đào. Hỏi: Nếu để Huân và Đào đến với nhau thì ý nghĩa của truyện có thay đổi không? Liệu trong lòng Đào có lúc nào mơ tưởng đến điều ấy? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> Điều đó không thể xảy ra cả trong tác phẩm lẫn ngoài cuộc đời. Đào hiểu Huân hơn tất cả mọi người, hơn cả Duệ người yêu của Huân. Nhưng Đào là một người "biết mình, biết người". Đào từng trải, đã có gia đình, có con, nhan sắc phai tàn. Huân trẻ trung, lãng mạn. Đào hiểu và đôi khi một tình cảm khác giới nhen lên, Đào cũng dập tắt ngay. Huân thì chắc chắn không chú ý đến Đào. Sự lúng túng của Huân trong đêm Đào đến hỏi về bức thư tỏ rõ điều đó. Nhưng cuộc sống nói chung không thể thiếu mẫu người như Đào và Huân. Họ là hai mẫu người đặc biệt và cần thiết. Hỏi: Đào hiểu rằng chị không thể yêu Huân. Như vậy nhân vật Duệ ở đây có cần thiết không, vì dù trêu chọc nhưng ai cũng hiếu rõ mối quan hệ của Huân và Đào? Đáp: Nếu Duệ chỉ làm rõ quan hệ giữa Huân và Đào thì nhân vật này quả không cần thiết. Tự cuộc sống đã phân biệt được rồi. Duệ xuất hiện với hai lý do: thứ nhất, có tình yêu của Duệ nhân vật Huân sẽ không trở nên lãng mạn quá mức, nhân vật sẽ thực hơn, gần gũi hơn và tránh được câu hỏi, Huân chưa yêu ai thì nên thương Đào cho trót. Thứ hai lý do này quan trọng hơn: Duệ trẻ trung chưa từng trải, nên chưa đánh giá hết giá trị tình cảm của người khác dành cho mình. Duệ tính toán thiệt hơn phần vì không hiểu cuộc đời phần vì được nuông chiều. Hình ảnh Duệ tương phản với hình ảnh Đào, một người qua khổ đau mới thấy giá trị của đời sống. Hơn nữa, Duệ còn có nhiều cơ hội lựa chọn, còn Đào thì mỗi ngày mỗi mất đi những cơ hội hiếm hoi. Cho nên sự "làm nũng" cuộc đời của Duệ sẽ báo trước hành động kiên quyết của Đào sau này. Hỏi: Chúng ta đang nhắc đến hành động của Đào khi mang lá thư ra khỏi Huân. Đào xuất hiện đột ngột trong khi Huân đang lẳng lơ lãng mạn cùng tiếng sáo. Cảnh thơ mộng đó rất hợp với cảnh tâm tình của đôi lứa yêu nhau..

<span class='text_page_counter'>(109)</span> Đoạn văn đẹp đẽ nhưng có vẻ như một sự "mạo hiểm" tình cảm mà người đọc cảm giác sẽ xảy ra ngay ở trang kế tiếp. Tại sao Đào lại chọn cái "thời gian nguy hiểm" như thế để nói chuyện với Huân? Đáp: Chúng ta phải xét đến trạng thái tâm lý của Đào trước khi quyết định nói chuyện với Huân. Cuộc nói chuyện diễn ra có vẻ như Đào muốn hỏi ý kiến Huân, nhưng thực chất là Đào đã quyết định rồi. Đào chỉ muốn chia sẻ với Huân niềm vui sướng của mình. Lá thư đối với Đào là một điều gì lớn lao quá sức. Đào tự quyết định và đồng ý với lá thư đó, có nghĩa là Đào đã nắm lấy một mềm vui vô cùng lớn. Đào biết rằng buổi tối ấy rất dễ có người nghi ngờ nhưng chị không nén được, chị phải mang ra chia sẻ với ai đó. Ngay chính Huân người thân nhất của chị cũng tỏ ra nghi ngại vì sự sốt sắng tâm sự của chị. Điều này càng chứng tỏ niềm hạnh phúc chị cảm thấy qua bức thư đó là quá lớn. "Em xem ra anh ấy cũng là người thành thật, còn con anh ấy thì mình quý nó tất nó phải quý mình". Rõ ràng không chỉ chị đã quyết định trước mà còn hoạch định cả cuộc sống gia đình trong tương lai. Hỏi: Như thế Đào đã coi nông trường như quê hương mình? Đáp: Nhận lấy đời sống, nhận lấy hạnh phúc của mình, Đào đã biến nông trường Điện Biên thành quê hương thực sự. Cuộc lên nông trường của Đào thành một cuộc hành hương. "Ai cũng muốn có một quê hương. Em nghĩ mãi rồi anh ạ. Em định không về dưới xuôi nữa. Em sẽ ở mãi đây". Nông Trường mọc lên từ chiến trường khói lửa xưa trở thành một biểu tượng tinh thần vào số phận của Đào. "Hạnh phúc mà chị đã mất từ bảy tám năm nay ai ngờ chị lại tìm thấy ở một nơi mà chiến tranh đã xảy ra ác liệt nhất". Sự hồi sinh của Đào cũng là sự hồi sinh của đất, những hố bom sâu đã phủ đầy cây xanh" sự sống nảy sinh từ trong cái chết. Hạnh phúc hiện hình từ sự hy sinh. Thiên.

<span class='text_page_counter'>(110)</span> nhiên chiến thắng tất cả. Sức sống muôn đời chiến thắng tất cả. Cuộc đời không có sự cùng đường, không có sự kết thúc mà chỉ có những khúc quặt, những nấc thang. Thiên nhiên đã trao cho con người một sức mạnh tiềm ẩn để vượt qua những khúc quặt, chỉ cần con người tìm ra lối. Con đường của Đào chính là cuộc sống cộng đồng, cuộc sống lao động và sống vì người khác. Hỏi: Đào hồi sinh hoàn toàn, hiểu cuộc đời là hiểu vị trí của mình trong cuộc đời. Đào không còn cảm thấy tủi thân khi người ta đùa nữa. Phải chăng yếu tố cộng đồng đã vượt trội và quyết định toàn bộ về con người Đào? Đáp: Yếu tố cộng đồng xã hội và yếu tố cá nhân luôn luôn cân bằng và hài hòa nhau. Yếu tố này vượt trội thì sẽ đè bẹp yếu tố kia. Nông trường đóng một vai trò quan trọng trong đời Đào, nhưng nó chỉ trở thành quê hương của Đào khi Đào hiểu nó và tha thiết với nó. Số phận của Đào tương hợp với số phận của nông trường, mỗi màu xanh nhú lên là một tình cảm mới của Đào trỗi dậy. Đào không còn tủi thân khi tiếng trêu chọc vang lên. "Giống tính cô Đào. Phải như mọi khi Đào đã bật lên tìm một câu thật cay chua để đáp lại, nhưng hôm nay chị sẵn sàng tha thứ cho mọi câu đùa tinh nghịch khác". Đất hồi sinh. Đào hồi sinh. Sách hướng dẫn học văn có viết: "Truyện Mùa lạc khẳng định rằng sự thay đổi số phận những người như Đào chỉ có thể diễn ra trong môi trường tốt đẹp lành mạnh, giàu tính nhân ái. Như vậy vấn đề là ở chỗ phải thay đổi hoàn cảnh và làm cho hoàn cảnh trở nên nhân đạo hơn, có tình người hơn" (hướng dẫn giải đề thi môn văn). Hỏi: Hoàn cảnh tốt chưa đủ để cải hóa một con người. Nếu chỉ cần hoàn cảnh không thì cá nhân con người không có ý nghĩa gì sao? Đáp: Cuộc sống cá nhân là tiền đề cho cuộc sống cộng đồng..

<span class='text_page_counter'>(111)</span> Cá nhân phải mạnh mẽ, phải có ý chí. Nếu Đào mờ nhạt, buông xuôi chỉ tìm kiếm sự yên ổn cho bản thân thì có lẽ Đào không bao giờ có vẻ hoạt bát tươi tắn thế. Và nếu không có vẻ hoạt bát, tươi tắn đó Đào cũng không thể hòa nhập được với mọi người, không bao giờ người phụ trách lò gạch để ý đến Đào. Vậy sống trong cộng đồng chị vẫn sẽ âm thầm mòn mỏi. Hỏi: Chân dung đầy đủ của nhân vật Đào được rút lại là gì? Đáp: Đào không phải là người mơ mộng. Đào là típ người hái vừa đủ hoa quả của cuộc đời. Kiểu người như Đào không có nhiều trong xã hội. Đào có thể nghi ngờ đời sống khi đời sống gây đau khổ cho chị, nhưng chỉ cần vài dấu hiệu chân thành là Đào sẵn sàng từ bỏ nghi ngờ, ngần ngại để lao vào đền đáp những ngọt ngào người khác dành cho chị. Đào không an phận, cũng không mơ ước xa vời. Đào chỉ nhận những gì mình xứng đáng được nhận. Hỏi: Nhân vật Đào khẳng định ý tưởng gì của nhà văn? Đáp: Con người chỉ cần tin rằng mình sẽ có những gì mình xứng đáng thì bằng sự lao động kiên trì họ sẽ vượt qua mọi thử thách. Với họ, bất hạnh, khổ đau, cô độc... tất thảy sẽ tan biến đi và một ngày mai tươi sáng, hạnh phúc sẽ đến. Xin cảm ơn nhà văn!. Tác phẩm: ĐẤT NƯỚC (TRÍCH TRƯỜNG CA) Tác giả: Nhà thơ NGUYỄN KHOA ĐIỀM Nhà thơ NGUYỄN KHOA ĐIỀM phân tích.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15-4-1943 tại Huế. Năm 1964 sau khi tốt nghiệp trường đại học Sư phạm Hà Nội, ông lại trở về hoạt động cách mạng ở Huế. Tác phẩm chính của ông là tập thơ: "Đất ngoại ô" (1972) và tập trường ca "Mặt đường khát vọng" (1974). Tư tưởng chính trong toàn bộ thơ ca Nguyễn Khoa Điềm là một ý tưởng bất biến: "Đất nước của nhân dân". Chính vì tư tưởng chủ đạo này mà thơ ca ông luôn luôn phản ánh những tâm tư, tình cảm, khát vọng của nhân dân. Ký ức của lịch sử, ký ức của nhân dân. Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hóa dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đậm vào từng từ. Những hình ảnh bình thường của cuộc sống hiện thực, thường nhật được đặt cạnh những hình tượng thần thoại, truyền thuyết khiến cho tác phẩm vừa mang vẻ gần gũi lại vừa có không khí thiêng liêng của một nền văn hóa ngàn năm. "Đất nước" là phần trích gần trọn vẹn chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Hỏi: Trường ca Mặt đường khát vọng viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam: nhận rõ bộ mặt kẻ thù, hướng về nhân dân, về đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy đấu tranh hòa nhịp trong cuộc chiến đấu của toàn dân tộc để giành lấy độc lập tự do. Nghĩa là có rất nhiều ý tưởng được trình bày trong tác phẩm: Nhưng thể hiện nó được hình thức trường ca (nguyên nghĩa là một bài thơ dài) không phải dễ. Một bài thơ ngắn có thể đến trong một cảm hứng bất chợt, còn trường ca là một hành trình lâu dài, có ý thức, có sự chuẩn bị kỹ về chất lượng và cấu trúc, đồng thời cảm xúc phải liền mạch, nguyên vẹn. Thưa ông, ông có thể cho biết trường ca Mặt đường khát vọng được viết trong hoàn cảnh nào? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> Đầu 1971, phong trào học sinh sinh vlên trong các đô thị miền Nam đang rất sôi nổi. Tinh thần yêu nước cháy bùng ở khắp nơi. Tôi công tác trong thành ủy Huế. Ở trên rừng phụ trách phong trào học sinh, sinh viên Huế. Đột nhiên có giấy mời của cơ quan văn nghệ khu Trị - Thiên đi dự trại sáng tác. Tôi, anh Nguyễn Quang Hà, anh Nguyễn Đắc Xuân... đi mất 3 ngày lên phía tây Huế, vượt A Lưới sang đất Lào dự trại. Tôi không chuẩn bị gì trước, nhưng trại mở những một tháng, không lẽ lại không viết gì. Tôi quyết định phải viết một cái gì dài hơn. Lúc đó nhiều nhà thơ đã viết trường ca, ở miền Nam trường ca Bài ca chim Chơ rao của anh Thu Bồn đang rất nổi tiếng và được thanh niên đô thị thuộc rất nhiều. Tôi lựa chọn viết trường ca, cấu tứ theo từng mảng, như thế rồi dễ triển khai cảm xúc vừa dễ sử dụng chất liệu. Thời ấy, là sinh viên từ miền Bắc vào, tôi rất thích nhạc giao hưởng, đặc biệt là kết cấu giao hưởng, nó nhiều giọng điệu, có đoạn đằm thắm nhẹ nhàng suy tư, có đoạn cao trào gay gắt sôi nổi. Tôi nghĩ tôi sẽ viết một bản giao hưởng bằng ngôn ngữ. Thế là tôi bắt tay vào viết. Trong các chương, chương cuối cùng có tựa đề Mùa thu tựu trường - tôi thích nhất. Đó là chương được viết theo thể thơ 5 chữ, giai điệu êm dịu, hình ảnh đẹp nói về những người tuổi trẻ sau khi đấu tranh giành thắng lợi trở lại mái trường. Nhưng khi bản thảo tập hợp lại nhiều anh em góp ý rằng phần này mềm yếu quá nên tôi thay bằng chương khác. Về sau chương này bị thất lạc do bom đạn nên tôi rất tiếc. Hỏi: Chương Đất nước có ý nghĩa như thế nào trong toàn bộ trường ca Mặt đường khát vọng? Và khi tách riêng ra liệu nó có khả năng đứng độc lập như một văn bản trọn vẹn? Đáp: Như tôi đã nói Mặt đường khát vọng được kết cấu theo từng mảng, mảng này khơi gợi, dẫn dắt cho mảng kia, tạo thành một chỉnh thể tác phẩm trong một trường cảm xúc, nhưng từng mảng lại đi sâu vào một vấn đề, một ý tưởng do đó nó cũng có tính trọn vẹn riêng. Chương V là một chương lớn. Nhà trường phổ thông chọn chương này để giảng dạy tôi nghĩ là hợp lý. Tôi.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> viết chương này trong những ngày mưa triền miên sau Tết. Đó là thời kỳ máy bay Mỹ đánh phá dữ dội. B52 dội liên tục, làm cho mọi thứ tối tăm mù mịt. Chúng tôi ngồi trong hầm và viết, cảm xúc được cộng hưởng bởi tiếng bom nổ, bởi khói bom và miền rừng. Có khi viết xong một trận bom làm cho bản thảo bay tung tóe, lượm lại trang còn trang mất, lại ngồi viết tiếp. Tôi viết rất nhanh, như cảm xúc đã dồn tụ một cách mãnh liệt giờ chỉ chờ tuôn chảy ra thôi. Tôi viết về những điều giản dị của chính tôi, về tuổi trẻ và các bạn bè đang tranh đấu ở trong thành phố. Nên nhân vật của tôi là anh và em. Đó là lời đằm thắm của một người con trai nói với một người con gái. Chúng tôi mỗi người có một số phận khác nhau nhưng đều gắn kết trong số phận chung là số phận Đất nước. Đất nước với các nhà thơ là của những huyền thoại của những anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân. Hỏi: Đất nước vừa là một khái niệm có tính tinh thần vừa là một hiện hữu rất cụ thể, rất rõ ràng. Ý niệm đất nước là một ngọn lửa thiêng liêng mà mỗi thế hệ sống trong đất nước đều phải cố sức bảo vệ và gìn giữ để truyền lại cho đời sau. Nhưng các thế hệ sau không phải tiếp nhận ngọn lửa ấy một cách thụ động mà phải bồi đắp để hình ảnh đất nước ngày càng trở nên trọn vẹn, đẹp đẽ hơn. Với từng cá nhân, phải chăng ý niệm đất nước được hình thành cùng với sự hình thành của tâm hồn? Đáp: Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên "khi ta lớn lên đất nước đã có rồi". Đất nước vừa là một ý niệm thiêng liêng vừa là một hiện hữu, cụ thể, rõ ràng, thân thuộc. Tôi cố gắng thể hiện một hình ảnh đất nước giản dị gần gũi nhất. Đó là cách để đi vào lòng người, đồng thời đó là cách tôi đi con đường của riêng tôi không lặp lại người khác, vì trước tôi cũng như bấy giờ có rất nhiều người đã viết rất hay về đất nước. Cho nên tôi chọn chất liệu từ đời sống dân gian, một đời sống mà tất.

<span class='text_page_counter'>(115)</span> cả mọi người Việt Nam đều có. Tôi được thấm đẫm qua môi trường gia đình, qua thế giới tinh thần và cả vật chất mà người đó sống. Đứa trẻ cảm nhận đất nước qua lời ru của mẹ, câu chuyện kể của bà: Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay kể Đất nước bắt đầu với miếng trầu cau bây giờ bà ăn Đất nước gắn bó trong những vật thân thuộc "cái kèo cái cột thành tên" trong hạt gạo ăn hàng ngày "một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng"... ông bà, cha mẹ, những thế hệ đi trước sẽ truyền ý niệm về đất nước cho con trẻ, rồi đứa trẻ lớn lên, trong những tình cảm ban đầu về gia đình, chòm xóm, về cánh đồng, lũy tre...thì tình yêu về đất nước sẽ cùng hình thành với sự hình thành của tâm hồn người ta lớn lên, ý niệm đất nước sẽ có thêm những nét nghĩa mới. Hỏi: Đúng là cùng với năm tháng, khi người ta lớn lên, ý niệm về đất nước sẽ trở nên phong phú và sâu sắc hơn. Nhưng luôn luôn đất nước là gần gũi thân thuộc, ở tuổi trưởng thành: Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất là nơi ta hò hẹn Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Sự bẻ đôi từ đất nước thành hai yếu tố đất và nước ở đây có dụng ý gì? Đáp: Thực ra "đất nước" là một từ được ghép từ hai yếu tố chỉ vật chất là đất và nước, là hai yếu tố khởi nguyên của thế giới, để tạo thành một khái niệm chỉ giang sơn tổ quốc. Đất nước gắn bó máu thịt với mỗi người. Đất và nước cụ thể. Đất là nơi anh đến trường.

<span class='text_page_counter'>(116)</span> Nước là nơi em tắm Đất là nơi: con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc. Nước là nơi: con cá ngư ông móng nước biển khơi… Ở đâu trên đất nước cũng gắn với những chuyện kể, những truyền thuyết, những câu ca đã đi vào thế giới tinh thần của con người. Trong anh và em đều có đất nước, trong mọi thời khắc của cuộc đời chúng ta đều sống với đất nước, cùng đất nước: Khi ta yêu nhau "Đất nước là nơi ta hò hẹn". Chỉ cần người con trai cầm tay người con gái và nghĩ về những đứa con đẹp đẽ, về cuộc sống tương lai hạnh phúc thì đất nước đã chờ đợi ở phía đó rồi. Đất và nước cụ thể, rõ ràng nhưng đồng thời khăng khít và thực chất là không thể tách rời. Đất nước cái hiện hữu trở thành giá trị tinh thần mà trong đời sống tâm hồn của mỗi người nó lấp lánh rất nhiều ý nghĩa. Hỏi: Đất là nơi chim về Nước là nơi rồng ở Lạc Long Quân và âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Truyền thuyết bọc trăm trứng thì bất cứ người Việt Nam nào cũng biết, và từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ ngàn năm nay, đều cố gắng khẳng định: người Việt Nam là anh em ruột thịt trong cùng một cái nôi đất nước. Đất là mẹ, nước là cha, âu Cơ lên rừng, Lạc Long Quân xuống bể, để mở mang và xây dựng đất nước, để đất nước luôn luôn là nơi dân mình đoàn tụ. Trong nhiều thế kỷ, cha ông ta mang gươm đi mở đất về phương Nam thì tấm lòng vẫn đau đáu về nơi cội nguồn của dân tộc, như câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ. Từ độ mang gươm đi mở cõi Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

<span class='text_page_counter'>(117)</span> Mở mang và đoàn tụ, đó là hai khía cạnh của dân tộc Việt, nhờ vậy mà sự sống của người Việt mãi mãi không tắt. Phải chăng đấy là ý tưởng của ông trong bài thơ. Đáp: Truyền thuyết Tiên - rồng, Âu Cơ - Lạc Long Quân là truyền thuyết về cội nguồn của người Việt. Trong truyền thuyết này cũng như trong lịch sử phát triển về sau, mở mang và đoàn tụ đã làm nên nét đẹp đặc trưng của dân tộc Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Mỗi người dân Việt bằng máu xương mồ hôi công sức của mình đã chiến đấu và lao động để mở mang và hoàn thiện đất nước, để truyền cho con cháu một đất nước trọn vẹn. Đến chúng tôi cũng vậy, cả anh và em đã thừa hưởng của cha ông một đất nước tươi đẹp, rộng lớn và sâu thẳm trong truyền thống nhưng chúng ta đều phải làm một cái gì để bồi đắp và phong phú thêm giá trị đất nước. Thành ra đất nước không phải những gì được thừa hưởng, có thể nhìn thấy được đất nước còn ở trong chiều sâu tâm linh được truyền nối xuyên suốt qua nhiều thế hệ: Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại... Phần tâm linh đó đã nối kết tất cả nhân dân về một cội nguồn, trong sự thiêng liêng thành kính về một ngày giỗ tổ. Người dân Việt trong nhu cầu sinh sống và mở mang bờ cõi đã dần dần tiến về những phương xa so với nơi được coi là cội nguồn, gốc gác dân tộc, nhưng rồi đoàn tụ vẫn là nhu cầu thiêng liêng là bởi vì nó tất cả những con dân nước Việt dù thăng trầm đến đâu cuối cùng vẫn tìm về ngôi nhà chung..

<span class='text_page_counter'>(118)</span> Hàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ Vậy thì mọi sự chia cắt chỉ là nhất thời, những người Việt thế nào rồi cũng đoàn tụ, sẽ tìm được tiếng nói chung, và đó cũng chính là mục đích của cuộc chiến đấu mà chúng tôi đang hòa mình vào. Mẫu hình đầu tiên của đất nước là Lạc Long Quân và âu Cơ hôm nay được hiện lên "trong anh em Hỏi: Trong anh và em hôm nay Đều có một phần đất nước Khi hai đứa cầm tay Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn Đất nước có trong đời sống riêng tư của con người, khi anh cầm tay em. Tình yêu trai gái làm cho ý nghĩa đất nước thêm sâu xa, "hài hòa nồng thắm". Nhưng ý nghĩa đất nước đó chỉ vững bền, đất nước vẹn tròn, to lớn khi chúng ta tìm đến với mọi người, chan hòa trong tình bằng hữu, nghĩa đồng bào. Cả hai chiều kích, riêng và chung đều có trong trái tim mỗi người tạo ra một không gian đất nước vừa quen thuộc, ấm áp, vừa đằm thắm thiêng liêng. Đã đành con người sống trong đất nước, cùng đất nước nhưng tại sao lại có thể "mang đất nước đi xa"? Đáp: Đó chỉ là một cách nói, một thủ pháp đặc biệt của thơ ca. Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày thơ mộng.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> Tháng ngày mơ mộng là tương lai ngời sáng mà thế hệ chúng tôi đã mang trong tim. Trong ước mơ của chúng tôi hồi đó cuộc sống sau này của đất nước sẽ rạng rỡ tươi sáng và tràn trề hạnh phúc. Chúng tôi đã tranh đấu để giành lấy hòa bình cho đất nước, con cái chúng tôi sẽ nối tiếp làm cho đất nước giàu đẹp hơn. Thế hệ sau sẽ biến khát vọng của thế hệ trước thành hiện thực, và cứ như thế đất nước mình ngày càng vươn tới những tầm cao mới. Hỏi: Mỗi một con người được sinh ra đời, lớn lên rồi sẽ chết đi. Đó là qui luật. Trong cõi sống vô cùng thì cá nhân mỗi người thật là quá nhỏ nhoi, và khi chết đi thực họ sẽ không để lại một dấu vết gì nếu không hóa thân cho một cái gì đó vĩnh hằng. Với mỗi người dân Việt, sở dĩ một kiếp sống của họ sẽ là không vô tăm tích nếu họ: Hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời... Như vậy sự tồn tại của mỗi cá nhân sẽ ở trong sự trường tồn của đất nước. Những từ phải dùng ở đầu các dòng thơ, có phải là nhằm nhấn mạnh vào trách nhiệm đối với đất nước của thế hệ thanh niên thời chống Mỹ? Đáp: Em ơi đất nước là máu xương của mình. Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời Xét cho cùng, tình cảm với quê hương đất nước là một phần rất thiêng liêng trong tâm hồn người Việt. Với thế hệ chúng tôi những người xuống đường hay lên rừng tranh đấu, đất nước chính là máu xương của mình. Nhiều anh em bạn bè tôi đã hy sinh để cho trọn vẹn một "dáng hình xứ sở". Những từ đất nước, tổ quốc vào thời tôi nghe rất thiêng liêng. Chúng tôi theo.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> tiếng gọi non sông đã lên đường đi cứu nước. Và trong cuộc chiến đấu khốc liệt, một mất một còn và có thể còn dài lâu để đổi lấy hòa bình, mỗi một người chỉ mơ ước được đem sức lực xương máu của mình để làm một cái gì có ích, đóng góp vào sự nghiệp chung. Tôi cũng vậy luôn thường trực ý nghĩ mình viết cái gì, mỗi một từ ngữ hình ảnh giản dị bình thường nhất thì cũng phải có lợi cho cuộc chiến đấu. Khi tôi viết: Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở thì đó hoàn toàn không phải là sự lên gân, đó là sự chân thành hoàn toàn tự nguyện. Hỏi: Lịch sử đất nước đã ghi nhận nhiều sự "hóa thân cho dáng hình xứ sở". Nhiều gương dựng nước, giữ nước đã trở thành truyền thuyết, nhiều cảnh vật đã thăng hoa thành huyền thoại tạo nên một trường văn hóa đặc sắc cho dân tộc Việt: những đá vọng phu như sự hóa thân của người vợ nhớ chồng, những hòn trống mái hiện thân của cặp vợ chồng yêu nhau, những ao đầm là dấu tích ngựa sắt thánh gióng... Sự pha trộn giữa các yếu tố vật chất với các giá trị văn hóa tinh thần đã khiến cho những câu thơ giản dị mang một vẻ lấp lánh. Những yếu tố địa lý, thiên nhiên đã thấm đậm một đời sống tinh thần. Vậy ý tưởng của ông ở đây là gì? Đáp: Đoạn thơ này lấy cảm hứng từ những núi vọng phu, những hòn trống mái, những ao đầm ở đồng bằng Bắc bộ đến cửa biển Cửu Long ở Nam bộ… những yếu tố vật chất - địa lý thắm đẫm một cái nhìn huyền thoại, đầy màu sắc lãng mạng. Thực ra phú cho các sự vật, các thắng cảnh một đời sống tinh thần, nói cách khác là khoác cho nó một lớp hiền tích, là điều thường gặp trong đời sống văn hóa dân gian. Chính điều này đã làm cho các giá trị vật chất trở nên đẹp đẽ, sinh động có sức hấp dẫn quyến rũ đặc biệt. Đi vào ca dao dân ca này những câu chuyện kể, các huyền thoại đã góp phần nuôi.

<span class='text_page_counter'>(121)</span> dưỡng tình yêu đất nước nơi các thế hệ người Việt Nam. Nhưng làm nên sự trường cửu, làm nên vẻ đẹp của đất nước, không phải chỉ có các bậc anh hùng cái thế, đó còn là những con người vô danh bình dị trong nhiều thời đại, như người vợ nhớ chồng, như những học trò nghèo và những con cóc, con gà nhỏ bé cho đến gió ngựa thánh gióng, chín mươi voi chầu trên đất tổ, mỗi người mỗi vật đi ra trong lịch sử, mỗi không gian thời gian đều để lại một chút gì đó cho đất nước. Cái bình thường đã hóa thân làm nên sự bất tử của giang sơn tổ quốc là như thế. Hỏi: Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy. Những cuộc đời đã hóa núi sông ta... Đoạn thơ này tiếp tục triển khai ý tưởng đất nước của nhân dân nhưng cụ thể hơn. Những yếu tố huyền thoại đã được lược bỏ. Dân tộc Việt Nam đã trải qua 4000 năm lịch sử. Trong 4000 năm đó, nhiều thế hệ nhân dân đã góp phần tạo dựng nên một đất nước trọn vẹn trong cả nghĩa vật chất lẫn tinh thần. Mỗi người một cách, người này bằng trái tim, người kia bằng khối óc, họ đều đã hóa thân cho dáng hình xứ sở. Tất cả công sức khát vọng của cha ông được thổi vào trong tinh thần văn hóa, họ truyền lại cho con cháu, cứ như thế mà đạo lý, lối sống người Việt được mãi mãi trường tồn. Và các thế hệ sau khi thừa hưởng đất nước, thừa hưởng di sản văn hóa phải luôn luôn hiểu rằng trong từng tấc đất xứ sở trong từng câu ca mái đình đâu đâu cũng từng in dấu cha ông... Đáp: Trong chương Đất nước cũng như trong toàn bộ trường ca Mặt đường khát vọng, ngôn ngữ ca dao tục ngữ, ngôn ngữ của đời sống dân gian được sử dụng rất nhiều. Vậy phân tích tác phẩm này không có nghĩa là phải tìm ra những câu thơ hay hoặc những chữ nghĩa độc đáo; tác phẩm phải được cảm.

<span class='text_page_counter'>(122)</span> nhận trong trường cảm xúc, trong những suy tư ngẫm nghĩ. Ở đoạn thơ này tôi muốn nhấn mạnh đất nước chính là thành quả của lao động, của chiến đấu, của mồ hôi nước mắt và khát vọng của nhiều thế hệ nhân dân trong nhiều ngàn năm. Mỗi người một chút gì đó, tất cả nhân dân đã cùng làm nên non sông gấm vóc hôm nay. Nhưng ở đây tôi cũng muốn nhắc nhở tới một nước Việt Nam thống nhất không bị chia cắt. Sự thống nhất ấy không phải chỉ mới đâu đây mà đã có từ ngàn xưa, từ thủa vua Hùng dựng nước. Ở nơi nào, ở vùng nào dù là vùng người kinh hay vùng dân tộc ít người, ở đâu mang đời sống Việt, văn hóa Việt thì ở đó thuộc về đất nước, về dân tộc Việt Nam. Ánh sáng văn hóa người Việt đã chảy thiêng liêng trên các cổ thư, trong cung cách lao động trên cánh đồng, trong cả trò chơi của con trẻ. Muôn ngàn đời cha ông đã đổ mồ hôi và máu để có một đất nước vẹn toàn, vậy không có cớ gì để chia cắt đất nước. Và để giành lấy đất nước vẹn nguyên và hình dáng được thừa hưởng, thế hệ trẻ chỉ có một con đường là đứng lên để tranh đấu. Đó là con đường của chúng tôi. Hỏi: Với mỗi một con người khi được sinh ra thì không có nghĩa là đời sống tinh thần của họ bắt đầu từ đó. Ở trong máu, trong những gì họ thừa hưởng của ông bà, cha mẹ, trong giáo dục và sự tiếp nhận của họ đối với thế giới, đã kết tụ cả lịch sử dân tộc và tri thức nhân loại. Theo một cách khác, nhiều thế hệ được nối tiếp liên tục trong lịch sử, vào một thời điểm nào đó sự được thể hiện nên một cá nhân. Bởi vậy khi tiếp nhận đất nước thì cả anh và em: Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm đất nước Nhìn để thấy "năm tháng nào cũng người người lớp lớp" những con gái con trai cần cù làm lụng và khi có giặc thì đứng lên đánh giặc. Không phải ai cũng sử sách ghi danh, hằng bao người bình dị vô danh, nhưng chính họ "đã làm ra đất nước". Ý nghĩa cảm động thiêng liêng của đất nước chính là ở đó... Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(123)</span> Đúng như vậy, mỗi con người sinh ra và lớn lên trong một đất nước, luôn luôn trong tinh thần họ đã chứa đựng những giá trị của đất nước, của dân tộc mà họ đại diện. Là người Việt Nam chúng ta tự hào về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước mình. Đó là một lịch sử với những chiến công lẫy lừng khai thiên phá địa và chống giặc ngoại xâm. Nhưng làm nên những chiến công đó lại là "người người lớp lớp" nhân dân, những người con trai con gái bình thường: Con gái con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Từ xưa đến nay, mỗi khi đất nước lâm nguy những người con trai bỏ lại ruộng vườn lên đường cứu nước. Nhiều người áo vải chân lấm tay bùn đã xông pha đạn lửa làm nên sự nghiệp anh hùng. Gánh gia đình vườn ruộng trao sang vai người con gái. Họ bằng tình thương yêu và lòng nhẫn nại đã làm nên một hậu phương vững chãi "nuôi cái cùng con" và nuôi quân. Đó là cái gốc giữ nước. Nhưng không dừng ở đấy, tinh thần vì nước thắm đẫm trong máu đào, bất kể trai gái nên "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". Lịch sử dân tộc đã lưu danh nhiều nữ anh hùng xả thân cứu nước, như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh hay công chúa An Tư… Lưu danh sử sách chỉ một vài, còn lớp lớp người khác, đã lao động trên ruộng đồng, đã ra trận, đã …Sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra đất nước.

<span class='text_page_counter'>(124)</span> Giản dị, bình thường nhưng thật vĩ đại. Nhân dân bằng những cuộc đời lặng thầm, vô danh đã kiến tạo nên giá trị vĩ đại và trường cửu, đó là đất nước. Hỏi: Lịch sử dựng nước của nhân dân được tái hiện một cách bình dị, cảm động. Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói Họ gánh tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Bằng cách "truyền và giữ" như thế, người Việt đã bảo tồn từ đời này sang đời khác phong tục tập quán, lối sống của mình. Như vậy là từ xưa, ngay trong hành động sống, trong nhu cầu duy trì nòi giống... nhân dân ta đã ý thức được về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, theo như cách nói ngày nay... Đáp: Như đã nói, ý tưởng xuyên suốt của tôi trong chương này là thể hiện một đất nước của nhân dân, do đó từ ngữ, hình ảnh, chất liệu thơ được sử dụng đều nhằm làm rõ ý tưởng này. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, thơ ca phải nhằm động viên mọi người chiến đấu, viết về đất nước cũng phải làm sao để mọi người thấy rằng đất nước là giản dị như thế, rằng xa xưa cha ông mình từng bằng sự giản dị mà làm nên đất nước vẹn toàn, đẹp đẽ. Vậy góp đời sống mình vào đời sống đất nước không có gì là ghê gớm và ai ai cũng làm được. Tái hiện lịch sử lao động, tôi cũng chọn lựa những hình ảnh thật gần gũi, thân thuộc. Những cái gần gũi thân thuộc này làm sống dậy những phong tục tập quán của một đất nước nông nghiệp..

<span class='text_page_counter'>(125)</span> Từ nhiều triệu năm về trước, trong buổi sơ khai của con người, lửa là một cứu tinh, là nhân tố đưa loài người vượt hẳn đến một giá trị khác tách xa loài vật. Khi phát hiện ra cây lúa nước, với người Á Đông, lửa và lúa là những thức tối cần thiết cho sự sống. Bởi vậy gìn giữ ngọn lửa và giống lúa chính là gìn giữ sự sống còn của cộng đồng. Ngỡ đơn giản, nhưng trong lịch sử nó phản ánh cuộc chiến đấu sinh tồn giữa con người và thiên nhiên. Nhưng khi "truyền giọng điệu mình cho con tập nói", "gánh tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân" thì đó chính là khát vọng về duy trì bản sắc dân tộc. Cha ông ta với một tinh thần dân tộc cao cả đã làm được điều đó và truyền lại cho chúng ta truyền thống văn hóa như hôm nay. Hỏi: Vâng nhiều nghìn năm cha ông ta không chỉ chiến đấu với thiên nhiên mà còn phải liên tục chống chọi với nạn ngoại xâm để bảo toàn sự sống và gương mặt dân tộc, có khi với chính những tư tưởng phản dân tộc trong nội bộ. Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại Nhưng khi đất nước yên bình, chính những con người đã cầm vũ khí đứng lên đó lại lặng lẽ quay về với cái cày cái cuốc… Đáp: Nhân dân trong thời đại nào cũng vậy, lao động, chiến đấu, sống và chết giản dị, vô dung. Đánh xong giặc trở về ngôi làng lại cần cù lam lũ với cái cày con trâu. Nhưng sự vĩ đại của nhân dân chính là ở đó. Để đất nước này là đất nước nhân dân Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại Nhân dân làm ra đất nước. Đất nước thuộc về nhân dân. Từ đời này qua đời khác không chỉ lao động chiến đấu, nhân dân còn gìn giữ linh hồn.

<span class='text_page_counter'>(126)</span> dân tộc như ngọn lửa thắp lên từ thời khai quốc vẫn cháy sáng trong mỗi nếp nhà. Linh hồn dân tộc ở trong nếp sống, trong phong tục tập quán, trong những giá trị tinh thần phong phú của văn hóa dân gian. Và như đã nói ở trên, mỗi người Việt sinh ra qua lời ru của mẹ, câu chuyện của bà... dần dần thấm lấy tinh thần dân tộc. Cứ như thế đời này qua đời khác, nước Việt được trường tồn. Hỏi: Ôi những dòng sông bắt nguồn từ đâu Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi Phần cuối của chương Đất nước rất chú trọng đến hình tượng dòng sông. Trên đất nước ta, dường như mỗi một vùng quê đều có một con sông chảy qua. Sông chảy trên đất đai xứ sở như là lẽ tự nhiên, nhưng trong cái nhìn văn hóa, nó luôn mang lấy tập tục lối sống của cư dân hai bên bờ, từ đó hình thành nên những "dòng chảy văn hóa" đậm đà bản sắc. Khi nhấn mạnh hình tượng dòng sông, liệu ông có ý đồ gì? Đáp: Nhìn trong nghĩa vật chất, những dòng sông là một đặc điểm địa lý riêng của nước ta. Nước Việt có rất nhiều sông. Mỗi con sông chảy qua một vùng châu thổ bao giờ cũng kiến tạo nên cùng với nó một bản sắc văn hóa góp phần làm đa dạng thêm văn hóa nước Việt. Điều này rất dễ hiểu, vì khi làm nông nghiệp, số phận nhân dân đã gắn chặt với số phận dòng sông. Vậy thì văn hóa ắt phải mang gương mặt dòng sông. Ca dao dân ca của ta mang hình ảnh sông rất đậm. Sông đi vào tâm hồn nhân dân, là biểu tượng của nước Việt, như là trống đồng. Hơn nữa từ lâu, dòng sông trong ý thức nhân dân còn mang ý nghĩa của sự sống, của tình thương yêu, của khát vọng. Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi là cách diễn đạt hình tượng của thơ ca. Dân tộc chúng ta có một sức sống đặc biệt. Tất cả các tập tục, lối.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> sống khác khi du nhập vào Việt Nam đều được Việt hóa. Cùng với sự đa dạng của các dòng chảy văn hóa trên một đất nước, nó làm cho nền văn hóa của ta trở nên vô cùng phong phú, nhiều hình thái, nó vừa ổn định vừa biến thiên, là "trăm màu trên trăm dáng sông xuôi". Mỗi người Việt yêu nước đều có bổn phận, trách nhiệm giữ gìn sự phong phú, giàu có đó của văn hóa dân tộc. Thơ tôi viết trong hoàn cảnh chiến tranh, cũng để nhằm đánh thức bổn phận đó trong thanh niên đô thị miền Nam. Xin cảm ơn nhà thơ!. Tác phẩm: ĐẤT NƯỚC (THƠ) Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH THI Nhà văn NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH phân tích Nhà văn Nguyễn Đình Chính, con trai của nhà thơ Nguyễn Đình Thi, là một nhà tiểu thuyết chuyên nghiệp. Ông đã xuất bản nhiều tác phẩm viết về sự thay đổi tâm lý và tình cảm phức tạp của con người hiện đại. Trong số đó, nổi bật nhất là tiểu thuyết Đêm Thánh Nhân với những trang văn phân tích tâm lý tuyệt vời cùng với những luận đề xã hội sâu sắc. Khi còn sống, nhà thơ Nguyễn Đình Thi coi con trai như một người bạn văn, một trong những người hiểu mình nhất. Mỗi khi viết được một bài thơ mới, nhà thơ Nguyễn Đình Thi lại mặc com lê cà vạt thật đẹp rồi gọi con đến để đọc thơ. Hơn ai hết, nhà văn Nguyễn Đình Chính là một trong những người hiểu về thơ của cha mình - nhà thơ Nguyễn Đình Thi, sâu sắc nhất, kỹ càng nhất. Hỏi: Bài thơ Đất nước được Nguyễn Đình Thi viết lại dựa trên cơ sở của hai bài thơ khác của chính ông sáng tác từ những năm 1948 -1955. Thông thường, các nhà thơ thường hoàn tất một tác phẩm của mình trong một khoảng thời gian liên tục. Vậy sự kết hợp giữa hai bài thơ hai cảm xúc khác nhau thành một bài thơ có khiến tác phẩm bị mất cân đối, không đồng nhất cảm xúc không?.

<span class='text_page_counter'>(128)</span> Đáp: Trước khi tìm hiểu vấn đề ấy chúng ta phải hiểu rằng thơ của Nguyễn Đình Thi ảnh hưởng sâu sắc từ thơ lãng mạn Pháp. Hơn nữa, ông là một trong số ít, thậm chí rất ít các nhà thơ, nhà văn Việt Nam thời đó có một vốn kiến thức triết học phương Tây khá vững chắc. Điều này khiến cho tư duy của ông mạch lạc hơn, cảm xúc được thanh tẩy kỹ hơn, hình ảnh được chọn lọc cẩn trọng hơn. Sự kết hợp giữa hai bài thơ nhỏ để trở thành một bài thơ lớn Đất nước là một công việc hết sức bình thường. Nhiều nhà thơ sau bao nhiêu năm, bỗng nhiên mang những bài thơ dở dang của mình thời trẻ ra viết lại và đã tạo ra những bài thơ tuyệt hay. Khi đó, cảm xúc dang dở thời trẻ được hòa trộn với những chiêm nghiệm của thời gian khiến cho ý tưởng bài thơ được thăng hoa. Hơn nữa, là một người am hiểu triết học và thơ ca, Nguyễn Đình Thi đã nhìn thấy ở hai bài thơ nhỏ có một trường cảm xúc, ý tưởng rất hòa hợp với nhau, nếu kết hợp chúng lại sẽ tạo ra những hiệu ứng nghệ thuật mạnh hơn. Kết quả cuối cùng thì chúng ta đã thấy bài thơ Đất nước là một trong những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Đình Thi và của dòng văn học cách mạng trong giai đoạn đó. Hỏi: Bài thơ đầy chất lãng mạn nhưng chan chứa vẻ đẹp của Hà Nội. Tại sao giữa những năm tháng ác liệt ấy, tâm hồn nhà thơ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp ấy? Đáp: Bài thơ biểu hiện cho tình cảm nói chung của lớp trí thức trẻ đi theo cách mạng. Họ có sự lãng mạn, nhưng sự lãng mạn đó không bay bướm, mơ mộng hão huyền mà nó luôn hướng đến một hiện thực tươi sáng của dân tộc. Hình ảnh trong bài thơ Đất nước đều rất đẹp, trong suốt và cái cảm hứng anh hùng ca tràn ngập bài thơ. Hỏi: Sáng mát trong như sáng năm xưa.

<span class='text_page_counter'>(129)</span> Gió thổi mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ lại những ngày thu đã qua Những câu thơ mở đầu vô cùng giản dị. Nó giống như một lời kể chuyện, một lời tâm sự chứ không dùng đến các phép so sánh, ẩn dụ của thơ ca. Cảm xúc thanh bình và quen thuộc của mùa thu với hương cốm chỉ là một cái "cớ" để nhà thơ "nhớ lại những ngày thu đã qua". Tại sao tác giả lại dùng những lời thơ mộc mạc như vậy? Đáp: Đúng là những câu thơ đó rất đỗi mộc mạc. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, cái vẻ thanh bình đơn sơ tưởng như rất bình thường của mùa thu ấy con người Việt Nam cũng không thể có được khi đất nước còn bóng giặc ngoại xâm. Trải qua muôn ngàn gian khổ, đổ bao máu xương, dân tộc ta mới giành lại được một mùa thu thanh bình "mát trong" và đầy "hương cốm mới" như vậy. Câu thơ giản dị lại càng làm tăng cái ý nghĩa của sự thanh bình bình thường ấy. Hơn nữa, ở đây còn có dụng ý của tác giả. Nguyễn Đình Thi là một triết gia nên ông biết "chuẩn bị cảm xúc" cho người đọc trước khi vào chủ đề chính của bài thơ: Đó chính là những mùa thu cách mạng trước đó. Sự bình dị ở đoạn đầu tiên sẽ càng làm tăng sức biểu cảm của những hình ảnh tiếp theo. Hỏi: Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Đã có biết bao thế hệ độc giả lặng người đi vì cảm xúc tinh tế của tác giả trong hai câu thơ này. Vềmặt ngữ nghĩa, những hình ảnh trên không chứa đựng vẻ đẹp của Hà Nội. Vậy tại sao, khi đọc hai câu thơ đó, chúng ta vẫn cảm thấy một vẻ đẹp đắm sâu của Hà Nội? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(130)</span> Phải yêu Hà Nội, hiểu Hà Nội như thế nào thì người ta mới có thể cảm nhận được cái "chớm lạnh" cái "xao xác hơi may" giữa thành phố này. Cảm xúc của tác giả rất tinh tế đã cảm được vẻ đẹp dường như rất mơ hồ của mùa thu Hà Nội. Không khí của những buổi "chớm lạnh" ấy, yên ắng, trong lành, phảng phất những mơ hồ, dường như sự sâu kín của tâm hồn con người khe khẽ hiển lộ trong làn sương rất mỏng, mỏng như thể không có vậy. Có lần tác giả đã nói về hai câu thơ này như vậy. Nhưng chúng ta phải lưu ý thêm rằng: chủ thể trữ tình khi đó đang phải ra đi, rời khỏi thành phố thân thuộc. Hỏi: Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy Hai câu thơ này tạo nên một điểm nhấn tuyệt đẹp cho khổ thơ. Câu thơ thứ hai "sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" được sáng tác rất "kỹ". Trong câu thơ này, vị trí lôgic của từng từ, của hình ảnh đã được đảo lộn tạo ra một ấn tượng rất đặc biệt. Nếu viết theo lôgic thông thường, với ngần ấy hình ảnh thì không thế dồn ép vào được trong một câu thơ với bấy nhiều từ ngắn ngủi ấy. Sự "ra đi đầu không ngoảnh lại" này có ý nghĩa gì? Đáp: Trong thơ ca Việt nam hiện đại tôi thấy có hai sự "ra đi" đều rất ấn tượng nhưng hoàn toàn trái ngược nhau về nội dung. Sự ra đi thứ nhất nằm trong Tống biệt hành của Thâm Tâm. Sự ra đi thứ hai chính là "người ra đi đầu không ngoảnh lại". Chủ thể trữ tình phải rời xa thành phố thân thuộc đầy vẻ đẹp. Tại sao khi phải rời đi, anh ta lại không "ngoảnh lại" nhìn lần cuối. Anh ta không luyến tiếc cái vẻ đẹp "nắng lá rơi đầy" tuyệt vời kia chăng? Câu thơ này minh chứng cho khả năng phân tích tâm lý vô cùng sâu sắc của tác giả. Xét về tâm lý con người, người ta sẽ quay đầu lại luyến tiếc, buồn bã khi phải rời bỏ mãi mãi một vật hay một nơi, một con người thân thiết đối với mình. Nhưng khi con người đó tin rằng sự ra đi đó chỉ là nhất thời, thậm chí anh ta còn dự cảm được ngày trở về rất gần nên anh ta thấy hoàn toàn "không cần.

<span class='text_page_counter'>(131)</span> thiết" phải "ngoảnh lại. Đó là tâm lý hết sức tự nhiên của con người. Trong câu thơ này, lớp trí thức trẻ đã có một niềm tin mãnh liệt vào ngày toàn thắng. Hơn nữa, ngày đó chắc chắn sẽ đến rất nhanh và họ sẽ có cơ hội để trở về thành phố yêu đấu. Sự ra đi "đầu không ngoảnh lại" không chứa đựng sự cô đơn như sự ra đi của Tống biệt hành mà nó chứa chan niềm tin vào một ngày mai tươi sáng. Chỉ trong một hình ảnh ấy, Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một niềm tin thật mãnh liệt. Hỏi: Niềm tin đó quả đã được chứng minh bằng hiện thực cách mạng sống động. Hòa bình trở lại và những người con lại trở về với thành phố tuyệt vời của mình. Ngay trong khổ thơ tiếp theo, tác giả đã trình bày hiện thực ấy qua những câu thơ reo vang Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Phải chăng hình ảnh "rừng tre" ở đây biểu hiện cho con người Viết Nam? Đáp: Đúng vậy. Hình ảnh cây tre thường không gắn với núi đồi. Thế nhưng khi viết như vậy, tác giả muốn thể hiện cái tự do, cái mênh mông bát ngát của lòng người Việt Nam. Hơn nữa, cái "phấp phới" ấy lại gợi cho người đọc đến những "ngọn cờ" nữa. Câu thơ đầu là một câu thơ bình thường. Nhưng chúng ta cần phải chú ý đến câu thơ "Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi". Tính từ "vui" được chèn vào giữa hai động từ khiến cho cụm từ "tôi đứng vui nghe" cho người đọc cảm thấy được trong mọi hành động của chủ thể đều tràn ngập niềm vui sướng. Đây là một phong cách rất đặc biệt của Nguyễn Đình Thi và trong thơ Việt Nam hiện đại, nhũng câu thơ có cấu trúc như vậy rất hiếm gặp. Trời thu thay áo mới.

<span class='text_page_counter'>(132)</span> Trong biếc nói cười thiết tha Hai câu thơ tiếp theo khẳng định một cách tuyệt đối về niềm tin mãnh liệt đã trở thành hiện thực rõ ràng. Cuộc sống đã thay đổi hoàn toàn như "trời thu thay áo mới" vậy. Không chỉ mùa thu "trong biếc" mà chính là cái hiện thực ấy, cái cuộc sống mới ấy thật đẹp, thật trong suốt. Và con người trong cuộc sống đó đã tự do "nói cười thiết tha". Hỏi: Bài thơ đang lung linh trong những hình ảnh rất đẹp của mùa thu "thay áo mới" bỗng nhiên thay đổi nhịp điệu êm dịu bằng những điệp khúc dữ dội: Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm ngát Những ngã đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nhịp thơ cuồn cuộn, mãnh liệt khác hẳn với sự tinh tế ở những khổ đầu. Sự thay đổi nhịp điệu này có ý nghĩa gì trong tác phẩm? Đáp: Cái vẻ đẹp bao la bát ngát ấy, như hư như thực ấy dường như vượt khỏi tầm tay của con người. Chúng ta phải cho nó một "chủ sở hữu" để nó thực hơn, đời hơn. Từ "những" liên tục được lặp lại ở mỗi đầu câu thơ vừa làm cho khổ thơ khoẻ khoắn, vừa có tính khái quát bao gộp lại rất cao. Tác giả khẳng định rõ ràng rằng "tất cả vẻ đẹp ấy" là của chúng ta. Một sự khẳng định rõ ràng và có chủ ý. Sự khẳng định "của chúng ta" ấy không chỉ bắt đầu từ những cuộc chiến tranh giữ nước thời hiện đại mà nó còn trải dài trong suốt lịch sử của dân tộc: Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất.

<span class='text_page_counter'>(133)</span> Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về Truyền thống ấy, ánh sáng lịch sử ấy tạo thành một chuỗi dài liên tục, liên tục, minh chứng cho sự trường tồn, sự độc lập của dân tộc Việt. Trong mỗi tâm hồn con người hiện đại, sự bất khuất, can trường của dân tộc luôn tỏa sáng, luôn "rì rầm" nhắc nhở con người ấy phải sống xứng đáng với tổ quốc của mình. Hỏi: Sau những câu thơ minh định giá trị tự tôn của dân tộc, ở khổ thơ tiếp theo, tác giả đã khiến cho người đọc phải đối mặt với hai dòng hình ảnh mãnh liệt nhưng hoàn toàn trái ngược nhau: Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu Sự đối lập các hình ảnh khác biệt về cảm xúc này có ý nghĩa gì? Đáp: Những hình ảnh "chảy máu", "đâm nát" của lòng căm thù được tiếp nối liền với hai tính từ rất mãnh liệt của tình yêu là "nung nấu" và "bồn chồn" có thể gây ra sự ngạc nhiên cho độc giả. Nhưng thực ra ở đây các hình ảnh thơ "gọi" nhau rất hợp lý. Vì lòng căm thù giặc, vì nghĩa vụ thiêng liêng giải phóng những cánh đồng quê hương bị giặc giày xéo mà những người lính đã lên đường, để lại những mối tình chờ đợi mình ở quê hương. Ở đây, người lính đã rất "ý thức" được nghĩa vụ của mình dù trên suốt đường hành quân đôi "mắt người yêu" vẫn sáng trong tim họ. Nhưng ở đây tác giả không chỉ đề cập đến tình yêu đôi lứa thông thương mà "mắt người yêu" ấy tượng trưng cho tất cả những gì yêu quý nhất ở phía hậu phương. Đây là điểm mấu chốt mà chúng ta cần phải lưu ý vì thông thường, người đọc chỉ hiểu rằng "mắt người.

<span class='text_page_counter'>(134)</span> yêu" là mắt một người con gái. người yêu ấy chính là quê hương đã bị giặc pháp giày xéo. Hỏi: Từ những năm đau thương chiến đấu Đã ngời lên tiếng thét căm hờn Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Đã bật lên những tiếng căm hờn Khác với các bài thơ khác, khác với các nhà thơ khác, Nguyễn Đình Thi có cách sáng tạo một bài thơ hết sức đặc biệt. Cảm xúc trong bài thơ không chạy theo "một nhịp thống nhất" mà liên tục biến đổi trong từng khổ thơ một. Trong thơ hiện đại, thể thơ sáu câu xuất hiện rất ít. Nhưng nó có một đặc điểm hết sức đặc biệt là: thể thơ bảy chữ khiến tác giả thiên về biểu lộ cảm xúc cá nhân, thể thơ năm chữ thì cảm xúc khá "mỏng" thiên về nhịp điệu của bài thơ, thể thơ sáu chữ thường được các tác giả dùng khi muốn khẳng định rõ ràng một ý tưởng nào đó. Trong bài thơ này, Nguyễn Đình Thi dùng tới hai khổ thơ sáu chữ và đều đạt được hiệu quả rất cao. Khổ thứ nhất (khổ thứ hai là khổ kết): Bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta Thằng giặc Tây, thằng chúa đất Đứa đè cổ, đứa lột da Đáp: Điều đó chính xác. Sau khi dùng thể thơ sáu chữ khẳng định tội ác của quân thù, tác giả lập tức "trả lại dũng khí" cho người đọc qua một khổ thơ rất đẹp với những hình ảnh tượng trưng đặc biệt, rất hiếm khi xuất hiện trong thơ ca hiện đại: Xiềng xích chúng bay không khóa được.

<span class='text_page_counter'>(135)</span> Trời đầy chim và đất đầy hoa Súng đạn chúng bay không bắn được Lòng dân ta yêu nước thương nhà... Cái vẻ đẹp thanh bình "đầy chim" và "đầy hoa" của xứ sở thiêng liêng này có một sức sống mãnh liệt không gì có thể ngăn cản. Cái sức sống mãnh liệt của tự nhiên ấy được liên tưởng đến "lòng dân" cùng với tình yêu quê hương đất nước.. "Xiềng xích", "súng đạn" đen tối ấy không những "không khoá được", "không bắn được" mà còn làm nền cho vẻ đẹp của xứ sở. Người ta cảm thấy sự mãnh liệt, sự tự do của dân tộc vươn lên khỏi mọi áp bức, mọi sự đe dọa của quân thù. Chim vẫn hót những bài ca của chim, hoa vẫn nở với làn hương của hoa, và con người vẫn yêu quê hương đất nước bằng tình yêu của chính trái tim mình. Hỏi: Khói nhà máy cuộn trong sương núi Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng Hai hình ảnh "sóng đôi" rất có ý nghĩa, một hình ảnh xây dựng đất nước, một hình ảnh bảo vệ đất nước được tác giả thế hiện trong hai câu thơ trên. Như trên đã nói, cái "cảm hứng đất nước" của tác giả quá bao quát, quá bề bộn... ông có cho rằng tác giả đã hơi "tham" khi đã dồn nén quá nhiều cảm xúc khác nhau vào một bài thơ không? Đáp: Tôi nghĩ là không. Đúng là cảm xúc của tác giả có bề bộn thật nhưng nếu chúng ta đặt mình vào giai đoạn lịch sử ấy chúng ta mới có thể hiểu hết sự "bề bộn" và "quá nhiều cảm xúc" ấy của bài thơ. Thời điểm đó, miền Bắc vừa giải phóng, đất nước có hai nhiệm vụ lớn là đánh đuổi kẻ thù ở miền Nam và xây dựng đời sống mới ở miền Bắc... Lúc đó, có bao nhiêu việc phải làm cho một đời sống còn non trẻ... Người nghệ sĩ cũng nằm trong hơi thở lớn ấy của xã hội và một bài thơ có "cảm hứng đất nước" thì không thể không biểu hiện cái hơi thở bề bộn ấy. Nhưng cái cảm xúc quan trọng mà tác giả.

<span class='text_page_counter'>(136)</span> muốn chúng ta cảm nhận được là cái vẻ đẹp quê hương, vẻ đẹp của những "người áo vải" chỉ bằng "tình yêu quê hương" là có thể "đứng lên thành những anh hùng" Ôi đất nước những người áo vải Đã đứng lên thành những anh hùng "Tình yêu quê hương" chính là phép mầu để biến những người "áo vải" thành "những anh hùng", biến cái vẻ đẹp mờ ảo của thiên nhiên thành vẻ đẹp thực của cuộc sống con người, biến những đau thương thành những bản hùng ca bất tận. Hỏi: Cái phép mầu ấy đã khiến cho những người con áo vải không ngại gian khổ, không ngại hy sinh để giành lại độc lập tự do cho dân tộc: Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội Mỗi bước đi mỗi bước hy sinh Ngoài cái phép mầu nói trên ra, điều gì đó thôi thúc họ ra chiến trường dù họ biết "mỗi bước đi mỗi bước hy sinh"? Đáp: Vẫn là cái phép mầu "tình yêu quê hương" đó thôi. Nhưng nó biểu hiện ở một trạng thái khác. Tình yêu ấy không thụ động, không chung chung mà luôn sống động, luôn cụ thể thành những công việc thực sự. Họ sẵn sàng hy sinh vì họ tin rằng sự hy sinh của mình chắc chắn sẽ góp phần mang lại cuộc sống mới cho quê hương, cho dân tộc: Trán cháy rực nghĩ trời đất mới Lòng ta bát ngát ánh bình minh "Cháy rực", "bát ngát", "trời đất mới", "bình minh"... đấy là những hình ảnh kỳ diệu mà quê hương của họ phải đến và sẽ đến. Nơi ấy có tự do, có niềm vui, có những cánh đồng bát ngát, những dòng sông nặng phù sa, nơi.

<span class='text_page_counter'>(137)</span> con người tự do yêu thương và sống bên nhau... Tất cả khát vọng ấy đã nung đốt con tim của những người lính. Và trong trái tim đơn sơ của mình, người lính cũng tự hiểu được rằng, nếu cần phải hy sinh cho những điều ấy, họ sẽ ngay lập tức hiến dâng đời sống của mình cho tổ quốc. Hỏi: Khổ thơ kết tác giả trở lại với thể thơ sáu chữ rắn chắc và mạnh mẽ. Nó giống như một bản tổng kết, một lời "tuyên bố" của xứ sở này: Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa Đã có không biết bao nhiêu bài phê bình, phân tích về bốn câu thơ này. Khổ thơ kết hợp cả chiều cao của ý chí, chiều sâu của tình yêu, chiều rộng của sự đoàn kết, chiều dài của lịch sử, và những âm thanh dữ dội chuyển từ trạng thái căm hờn, chiến đấu cho đến bản hòa ca chiến thắng... Một khổ thơ đầy âm thanh dữ dội, đầy các động từ mạnh dựng nên một Việt Nam sáng lòa. Đáp: Hình ảnh "Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa" giống như một viên ngọc quý tỏa sáng và liên kết lại toàn bộ cảm xúc của bài thơ. Khổ thơ đúng là tràn ngập các âm thanh dữ dội, chứa đựng quá nhiều các động từ mạnh, hơn một nửa là các âm trắc… khiến cho khổ thơ như một lời tuyên hố đanh thép, rõ ràng... Nhưng trong sự đanh thép đó người đọc vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của từ ngữ qua hình ảnh Việt Nam "rũ bùn đứng dậy sáng lòa". Đất nước, giống như một con người, đã thẳng tiến đến chân lý cao đẹp nhất của mình. Con người - đất nước ấy, đã truyền sức mạnh và ý chí cho triệu triệu đứa con áo vải của mình. Xin chân thành cảm ơn nhà văn!.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> Tác phẩm: SÓNG (THƠ) Tác giả: Nhà thơ XUÂN QUỲNH Nhà thơ NGUYỄN QUANG THIỀU phân tích Nhà thơ Xuân Quỳnh sinh năm 1942 tại Hà Đông, Hà Tây. Xuân Quỳnh là một diễn viên múa của đoàn văn công. Sự cuồng nhiệt của điệu múa, sự tinh tế của nét mặt, sự mênh mông của sàn diễn đã in rất rõ nét trong những bài thơ của Xuân Quỳnh. Bà in nhiều thơ bao gồm các tập Tơ tằm-chồi biếc (in chung), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió lào cát trắng (1974) Lời ru trên mặt đất (1978) Tự hát (1984) Sân ga chiều em đi (1984) Hoa cỏ may (1989)... Là một nhà thơ nữ nhưng cảm xúc của Xuân Quỳnh không bị lạc vào cái tủn mủn thường nhật mà luôn hướng tới những khát vọng sống bao la, mãnh liệt. Là một nhà thơ nổi tiếng của thế hệ nhà thơ, trưởng thành sau năm 1975, Nguyễn Quang Thiều (sinh năm 1957, Ứng Hòa, Hà Tây) đã tạo ra những cảm nhận mới về cuộc sống hiện đại qua những tập thơ của mình. Thơ ông thường dùng những hình ảnh ấn tượng, những động từ mạnh để dựng lên một cuộc sống hiện đại bề bộn đầy bất trắc, lo âu nhưng cũng chứa đựng những vẻ đẹp mới. Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Quang Thiều bao gồm: Sự mất ngủ của lửa (1993), Nhịp điệu châu thổ mới (1998)… Hỏi: Đa số chúng ta đã không thể xác định được vị trí và giá trị thực sự của bài thơ Sóng trong dòng văn học cách mạng. Xuân Quỳnh viết bài thơ này năm 1967, khi chiến tranh vẫn còn rất khốc liệt. Những tác phẩm văn học đều mang cảm hứng anh hùng ca. Các nghệ sĩ dẹp bỏ những cảm xúc cá nhân, riêng tư của mình để hòa vào dàn đồng ca của nền nghệ thuật cách mạng, liệu bài thơ này có được coi là một tác phẩm thuộc dòng văn học kháng chiến dù nó được viết vào thời điểm ấy? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(139)</span> Sự xuất hiện bài thơ này trong thời điểm ấy phải được coi như một phép lạ của nghệ thuật. Trong khi các bài thơ khác vọng vang âm hưởng anh hùng ca thì bài thơ này lại biểu hiện một giai điệu tình yêu dịu ngọt nhất... Do xuất hiện vào đúng thời điểm ấy nên tác phẩm biểu hiện cho một chiều kích khác của cuộc sống mới. Và tôi thấy rằng không lời ngợi ca nào hơn dành cho cuộc sống mới khi người nghệ sĩ ca ngợi chính tình yêu, chính khao khát từ chính cuộc sống ấy. Bom đạn, khó khăn không làm cho con người run sợ, không làm cho con người khô cứng đi... Tất cả những điều đó đều vô nghĩa trước tình yêu. Có lẽ đó là lý do tại sao tác phẩm này (ngoài giá trị nghệ thuật) vẫn được nhắc đến hết sức trân trọng khi chúng ta tìm hiểu thơ ca giai đoạn đó. Hỏi: Trong tâm thức truyền thống Việt, "dòng sông" chứ không phải "biển cả", mới gắn liền với những khát khao, những khó khăn, ước vọng của con người. Xuân Quỳnh lớn lên ở Hà Tây, một vùng đất khá xa biển. Tại sao hình ảnh biển cả lại có thể xuất hiện trong cảm xúc của Xuân Quỳnh? Đáp: Đúng là cảm xúc về biển khơi xuất hiện rất ít trong tâm hồn Việt dù chúng ta có cả một biển Đông mênh mông. Dường như chúng ta bị "ngợp" trước cái mênh mông, cái không thể đoán định được của biển khơi nên đã tự "thu mình" lại. Hình ảnh biển khơi có lẽ xuất hiện trong tâm hồn Xuân Quỳnh khi tác giả cảm nhận được sự "không giới hạn" sự "tự do" và sự "không nắm bắt được" của tình yêu... Để biểu hiện một tình yêu tuyệt đích như thế, tác giả chắc chắn không thể "vùng vẫy" trong những hình ảnh giới hạn được mà phải vươn ra những không gian chơi vơi của biển cả. Hỏi: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ.

<span class='text_page_counter'>(140)</span> Tác giả bắt đầu bài thơ với hai cặp tính từ kép, mỗi cặp chứa đựng hai tính từ trái nghĩa nhau "dữ dội" với "dịu êm", "ồn ào" với "lặng lẽ"... Đó có phải là những tính chất của tình yêu? Đáp: Không phải. Tình yêu chỉ tồn tại khi có sự tương tác, sự kết hợp của hai phía. Trong hai câu thơ này, tác giả muốn miêu tả cái cảm giác bồn chồn, mơ hồ của nỗi khao khát tình yêu... Có lẽ do giới hạn của câu thơ nên tác giả mới chỉ dùng đến hai cặp tính từ kép như vậy... Nếu được viết hết những cảm nhận của mình, có lẽ tác giả sẽ phải dùng gần hết các tính từ "xao xuyến" nhất của tiếng Việt mới có thể miêu tả đủ tính chất của nỗi khắc khoải tình yêu ấy. Tuy nhiên, chỉ bằng hai cặp tính từ kép ấy, người đọc cũng có thể cảm nhận được sự khao khát, sự giày vò, mong mỏi tình yêu Hỏi: Trong bản in trong sách giáo khoa lớp 12, "chủ thể" của cảm xúc được in là "sông" chứ không phải là "sóng" như một số bản in khác. Theo ông, hình ảnh "sông" hay "sóng" ở đây mới thực sự hợp lý? Sông (sóng) không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Đáp: Theo tôi, hình ảnh con "sóng" là hợp lý nhất với bài thơ. Thứ nhất, bài thơ có cảm hứng và có tên là "sóng", thứ hai, trong cả bài thơ, hình ảnh "dòng sông" không hề còn thấy xuất hiện nữa (điều này trái với nghệ thuật thơ ca vì các tác giả phải khai thác, phải liên kết hình ảnh chủ đạo xuyên suốt bài thơ). Điều thứ ba là về nhịp điệu thơ. Sự nhấn mạnh "Sóng không hiểu nổi mình" nên "Sóng tìm ra tận bể" rõ ràng ấn tượng và có hiệu quả hơn nhiều. Từ ba lý do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng bản thảo đầu tiên của Xuân Quỳnh chắc chắn là con "sóng" chứ không phải dòng "sông". Trong hai câu thơ này, con sóng khao khát với những cảm xúc "trái ngược" trên đã "không hiểu nổi mình". Tình yêu có nhiều lối đi hết sức bí mật và kỳ diệu. Sự "không hiểu nổi.

<span class='text_page_counter'>(141)</span> mình" cũng là một dấu hiệu đặc biệt và rõ ràng khi tình yêu bắt đầu chế ngự con tim mình. Hỏi: Tình yêu ấy, không chỉ đến với cá nhân đơn lẻ, mà đó là tình yêu đôi lứa của tự nhiên, đã xuất hiện từ rất lâu, rất lâu trong cuộc sống của con người. Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Tại sao sự bồi hồi, sự mơ hồ, sự không rõ ràng của tình yêu vẫn cứ tồn tại mãi mãi đối với con người? Đáp: Tình yêu không để lại bất kỳ kinh nghiệm nào. Không ai có thể bảo người khác là nên yêu thế này, không nên yêu thế kia. Tình yêu là một món quà chung nhưng chỉ trao bí mật cho từng cặp tình nhân một. Những bí mật ấy mãnh liệt và có vẻ hoang đường đến mức mà cặp tình nhân ấy có kể lại cũng không ai tin. Thậm chí người ta còn nhìn những người tình say đắm như những người không bình thường. Con sóng tình yêu ấy "ngày xưa và ngày sau" vẫn mãi mãi "không hiểu nổi mình như thế. Con người chỉ cảm nhận được: Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ Hỏi: Tình yêu bắt nguồn từ đâu, khi nào và tại sao lại như thế. Đó là những câu hỏi mãi mãi không có lời đáp cụ thể. Thế nhưng trong khổ thơ tiếp theo, Xuân Quỳnh đã "liều lĩnh" đặt lại các câu hỏi ấy. Theo ông, bài thơ có cần thiết có khổ thơ ấy không khi tất thẩy chúng ta đều biết là tình yêu là không thể nắm bắt được? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(142)</span> Trước muôn trùng sóng vỗ Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? Như tôi đã nói, không có kinh nghiệm nào hết trong tình yêu. Dù đọc cả trăm ngàn cuốn sách nói về tình yêu, nhưng khi bắt đầu yêu, con người lại phải chập chững học đi những bước đi đầu tiên, bập bẹ tập nói lời yêu đầu tiên. Thế cho nên khổ thơ này có thể không mới, không độc đáo, nhưng không bao giờ cũ cả... Trong cuộc khải hoàn ngây ngất của tình yêu ấy "em nghĩ" về chúng ta, về biển lớn - cuộc đời và tự hỏi tại sao lại có thể xuất hiện tình yêu ở đó được? Đấy rất có thể là câu hỏi đã giày vò tâm hồn nhà thơ. Tại sao trong cuộc sống vất vả nhọc nhằn, gian khó ấy, tại sao giữa những con người rất đỗi đơn sơ bình thường ấy lại có thể có được tình yêu? Đấy là một sự ngạc nhiên lớn, không, quá lớn... Chính vì sự ngạc nhiên ấy đã làm xuất hiện các câu hỏi như trên. Hỏi: Tình yêu gắn liền với sự lãng mạn, lung linh nên khi tình yêu xuất hiện giữa cuộc đời gian khó thì quả là một phép lạ. Thế nhưng tác giả bắt đầu giải thích phép lạ ấy khá ngộ nghĩnh: Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu Ông có thấy rằng hai câu thơ này khá đơn giản và thậm chí có thể làm người đọc buồn cười không? Đáp: Không hề có sự buồn cười ở đây. Đúng là cách giải thích đó có vẻ như khá "ngô nghê" thế nhưng nó lại rất đúng với mạch tình cảm trong bài thơ. Như tôi đã nói, con người phải tập bập bẹ những lời yêu đầu tiên mà. Nhưng.

<span class='text_page_counter'>(143)</span> cái điều hay nhất và lôgíc nhất là với sự "giải thích" rất hợp lý ấy câu hỏi lại không thể đi được đến cùng lời đáp: Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau Tình yêu là thế. Mọi câu hỏi về nó sẽ mãi mãi không có câu trả lời. Chỉ có niềm khao khát mãnh liệt chế ngự tất cả chúng ta. Hai khổ thơ này tác giả miêu tả rất chuẩn xác nhũng bước chập chững đầu tiên trong tình yêu ấy. Hỏi: Con người có thể không thể giải thích chính xác được và những cảm xúc do tình yêu mang lại nhưng chúng ta có thể cảm nhận được nó. Tại sao hình ảnh con sóng lại xuất hiện tràn ngập trong những câu thơ tiếp theo: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lúc này cảm xúc của bài thơ đã được đánh dấu bằng giai đoạn "ta yêu nhau" rồi. Những con sóng tình yêu ở khắp mọi nơi, "dưới lòng sâu", "trên mặt nước" làm cho con người choáng ngợp trong niềm hạnh phúc vô biên. Trong mọi lúc mọi nơi, tình yêu tràn vào tất cả từng cử chỉ, từng hành động, từng suy nghĩ, từng mơ ước của con người.. Hỏi: Một số nhà phê bình đã đồng nhất hình ảnh "nhớ bờ" với "nhớ anh. Hình ảnh "bờ" có phải tượng trưng cho hình ảnh của người yêu? Đáp: Tôi cũng đọc nhiều những ý kiến tương tự như thế về hình ảnh "bờ". Tuy nhiên ở đây có sự nhầm lẫn khá lớn. Những con sóng "nhớ bờ" đến mức "ngày đêm không ngủ được" lại biểu biện một điều khác. Những con song -.

<span class='text_page_counter'>(144)</span> nỗi khao khát tình yêu luôn luôn muốn vươn xa, muốn chạm đến "bờ tận cùng" của "bể lớn tình yêu". Nhưng tình yêu luôn vô tận "không bờ bến" nên những con sóng cứ ngàn đời khắc khoải mãi. Đây mới là ý nghĩa lớn nhất của hình ảnh này. Chính vì nó mang ý nghĩa đó nên hai câu thơ này mới "gợi" đến hai câu thơ tiếp theo Lòng em nghĩ đến anh Cả trong mơ còn thức Những ý nghĩ, những khao khát về tình yêu không bao giờ kết thúc cả. Thậm chí chúng vẫn tiếp tục khao khát ngay cả khi đời sống tự nhiên bị giới hạn (bởi giấc ngủ). Điều đó tôn vinh sức mạnh mãnh liệt và vô tận của tình yêu. Hỏi: Cho đến hai câu thơ "Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức", bài thơ đầy chất lãng mạn, nhẹ nhàng.. Thế nhưng có một điều gì đó đã khiến cảm xúc của tác giả thay đổi hẳn trong khổ thơ tiếp theo? Điều gì đã khiến cho tình yêu đang thi vị bỗng nhiên tràn đầy sự tất tả, gian nan đến vậy? Đáp: Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh - một phương. Đúng là cảm xúc của tác giả đã đột ngột thay đổi. Trong bài thơ tác giả không cho chúng ta biết rõ ràng lý do của sự thay đổi ấy. Thế nhưng chúng ta phải hiểu rằng, với tình yêu thi vị và lãng mạn như vậy, thật khó khăn để đối mặt với những gì thường nhật thô vụng và khô khan. Cảm xúc của người đọc bị hẫng mạnh nếu như chúng ta hiểu ra sự tinh tế của tác giả trong khổ thơ này. Cái tình yêu lãng mạn ấy đã vuột khỏi tay con người. Có điều gì đó đã giãn cách con người với tình yêu thiêng liêng của mình. Con người dù "xuôi.

<span class='text_page_counter'>(145)</span> ngược" nơi nào cũng "ngoái nhìn" tình yêu của mình. Đây chính là chất bi kịch trong bài thơ tưởng như rất ngọt ngào và êm ả này. Hỏi: Điều gì đã ngăn cách con người với tình yêu? Đáp: Có quá nhiều thứ trong cuộc đời này khiến cho chúng ta tuột mất tình yêu. Đôi khi chỉ là một lý do rất đơn giản. Chúng ta ích kỷ, chúng ta tự bằng lòng với mình... đều khiến chúng ta có thể lãng quên tình yêu trong một phút giây nào đó. Và chỉ cần một phút giây định mệnh đó thôi, tình yêu sẽ giương đôi cánh vàng vụt bay mất. Hỏi: Trong khổ thơ bên trên, chúng ta đã phân tích rằng tình yêu là vô tận và không ai có thể đi đến tận cùng được tình yêu. Thế nhưng ở khổ thơ tiếp theo, tác giả lại thể hiện một điều ngược lại: Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở. Đáp: Chúng ta phải đặc biệt lưu ý đến sự biểu cảm của từ "chẳng". Nó là một từ được dùng khi con người không chắc chắn lắm về điều mình nghĩ, và hơn nữa, khi dùng từ đó, con người mang cho nó một mong ước trở thành điều giống như mình nghĩ.. Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở Cái "cách trở" ấy chính là cái cách trở "xuôi ngược" ở trên..

<span class='text_page_counter'>(146)</span> Tác giả nói với lòng mình rằng dù "cách trở" như vậy nhưng con sóng "sẽ tới bờ thôi". Đó là một câu cảm thán, một câu hi vọng chứ không phải một câu khẳng định. Bản thân tác giả rõ ràng không thể biết được tình yêu có trọn vẹn được hay không! Hỏi: cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Bài thơ đột ngột thay đổi các hình ảnh biểu hiện. Tại sao tác giả lại không dùng những hình ảnh biểu hiện trực tiếp cho tình yêu mà lại dùng những hình ảnh khác hẳn? Đáp: Điều này càng làm rõ ý nghĩ của câu thơ "Con nào chẳng tới bờ" ở khổ thơ trên. Tác giả "bất lực" không thể "giải thích" một cách rõ ràng, trực tiếp bằng các hình ảnh của tình yêu nên đã chọn cách so sánh, cách nói gián tiếp để giải thích. "Năm tháng" và "mây" vẫn trôi qua cuộc đời và biển cả. Thế nhưng ở đây có một điều rất hay là: Tất cả mọi vật đều có thể mang ra so sánh với nhau. Người ta có thể mang sự vật này ra so sánh với một sự vật khác để có thể đoán định được quy luật của chúng. Nhưng có một điều duy nhất là không thể so sánh và do đó không thể đoán định được. Đó chính là tình yêu. Tình yêu là một sự khác biệt, vượt lên tất cả những dự đoán của con người. Có thể nói, đến đoạn thơ này, tác giả đã "kiệt sức" khi nói về tình yêu, giống như con người nhỏ bé kiệt sức trong tình yêu bao la của mình. Sự kiệt sức này càng làm cho bài thơ trở nên thực hơn và lung linh hơn. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(147)</span> Đúng là cảm xúc của tác giả về tình yêu bao la đã "kiệt sức" ở đoạn thơ đó. Điều này được chứng minh bởi nỗi khát khao rất "thụ động" trong khổ thơ kết: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ Đáp: Đúng vậy. Nhưng điều đó càng làm cho bài thơ trở nên chân thực và sinh động vì nó gần gũi với các biểu hiện của đời sống. Con người "kiệt sức" trong tình yêu bao la của mình. Tình yêu ấy, đối với con người, mãi mãi sẽ không trọn vẹn. Không phải bản thân tình yêu ấy không trọn vẹn mà do con người bé nhỏ không "đủ sức lực", không đủ "can đảm", không đủ "mơ ước" và không đủ "kiên trì" để đi đến "tận cùng" tình yêu ấy. Sự khao khát được "tan ra" biểu hiện sự "bối rối" rất đáng yêu của con người. Tình yêu bất tử. Nhưng con người hữu hạn khao khát được góp một phần nhỏ bé vào sự "bất tử" ấy. "Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ". Bài thơ thực sự là một bản tình ca tuyệt đẹp không phải vì tầm vóc tư tưởng của mình mà vì sự chân thực đôi khi đến mức "chập chững" trong cảm xúc của mình. Hỏi: Hiện nay, trong đời sống thơ ca hiện đại, có rất nhiều các nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ nữ, viết rất nhiều về tình cảm lứa đôi. Tuy nhiên đa số các bài thơ mới chỉ dừng ở mức dung tục hóa cái tình yêu thiêng liêng đó. Theo ông, tác phẩm Sóng có thể giúp những nhà thơ trẻ điều gì? Đáp: Như tôi đã nói, thơ ca cũng như tình yêu vậy, không có kinh nghiệm nào hết. Mỗi người phải bập bẹ, phải chập chững, phải trải qua nỗi đau của chính mình mới có thể sáng tác được. Cái khao khát được trở thành những.

<span class='text_page_counter'>(148)</span> con sóng tình yêu "ngàn năm còn vỗ" có thể không thực hiện được. Nhưng bài thơ Sóng này sẽ còn đẹp mãi trong tiếng Việt cho dù có bao nhiêu áng thơ tình được viết ra đi nữa. Bài thơ có được vị trí ấy là vì một điều đơn giản nhất: Cảm xúc vô cùng chân thực. Đó là lý do đầu tiên và cũng là mục đích cuối cùng mà một tác phẩm nghệ thuật hướng đến. Xin chân thành cảm ơn nhà thơ!. Tác phẩm: TIẾNG HÁT CON TÀU (THƠ) Tác giả: Nhà thơ CHẾ LAN VIÊN Nhà thơ NGUYỄN QUANG THIỀU phân tích Nhà thơ Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị, nhưng lớn lên ở Bình Định. Chế Lan Viên là một trong những gương mặt chói lọi của phong trào Thơ Mới 1930 - 1945. Giữa những cảnh mộng trong thi ca lúc đó, tiếng gào rú rùng mình của Điêu Tàn đã khiến các nhà thơ giật mình trở lại với thực tại. Trong cái thực tại điêu tàn đó, niềm hi vọng của con người sục sôi đòi tìm một xã hội mới, một chân trời mới để nẩy nở. Sau Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên hồ hởi với cuộc sống mới bằng những tác phẩm; ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường, Chim báo bão... ông được mệnh danh là nhà thơ - triết gia vì những bài thơ của ông có tính triết lý rất cao. Cảm xúc trong thơ ông được lý trí thanh lọc và trình bày thành những hình tượng thơ ấn tượng. Bài thơ Tiếng hát con tàu là một bài thơ chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, chính tác giả cũng gửi gắm nhiều tư tưởng cá nhân mình. Mặc dù có hình thức thể hiện đơn giản nhưng đây là một bài thơ rất khó đọc. Hình tượng thơ ca biến đổi rất nhanh. Đó cũng chính là một đặc điểm đặc biệt trong thơ Chế Lan Viên. Hỏi: Cách mạng tháng Tám thành công đã đem lại nguồn cảm hứng mới cho hầu hết các nhà thơ mới thời kỳ 1930-1945. Họ từ bỏ cái cá nhân sầu.

<span class='text_page_counter'>(149)</span> não, bi lụy và bế tắc để bước đến một xã hội mới tràn ngập niềm vui lao động. Trong xã hội mới ấy, họ đã tìm được những điều mà họ không tìm thấy khi luẩn quẩn trong cái cảm hứng cá nhân lãng mạn của mình. Giai đoạn này xuất hiện những bài thơ ấn tượng về sự "chuyển biến" cảm xúc đó của các nhà thơ. Với Xuân Diệu thì đó là bài Ngói mới, với Huy Cận là bài Đoàn thuyền đánh cá, còn phải chăng đối với Chế Lan Viên chính là bài thơ Tiếng hát con tàu? Đáp: Tôi cũng có chung quan điểm như vậy. Chế Lan Viên trước cách mạng là một "ông hoàng" của những thành quách điêu tàn, của những bóng ma vật vờ vô định, của những giá trị đã đổ nát, của những vũ trụ hoang tàn... Là một trong số ít các nhà thơ có tính triết lý rất cao trong thơ ca của mình, hơn ai hết, Chế Lan Viên đã chỉ rõ sự biến đổi cảm xúc của mình, từ đau thương, bế tắc sang rộn ràng sinh động trong tập thơ "ánh sáng và phù sa". Ngay cái tên tập thơ cũng nói đến sự thay đổi đó. Và bài thơ Tiếng hát con tàu là một trong những bài thơ ấn tượng nhất của tập thơ đó. Hỏi: Trong thơ ca hiện đại, rất ít có tác phẩm mang một lời đề từ, thậm chí đề từ bằng cả một khổ thơ bốn câu như trong tác phẩm Tiếng hát con tàu... Điều này có giá trị gì đối với bài thơ? Đáp: Tây Bắc ư có gì riêng Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta Tây Bắc chứ còn đâu Thông thường, lời đề từ trong thơ hiện đại có thể không ăn nhập với tư tưởng của bài thơ mà nó chỉ thể hiện cái ý tâm tư riêng của tác giả. (Khác với thơ xưa nếu có đề từ thì thường vay mượn, trích dẫn một câu thơ, một câu.

<span class='text_page_counter'>(150)</span> nói nổi tiếng nào đó của các bậc tiền nhân). Thế nhưng ở đây, Chế Lan Viên ngay lập tức cho thấy, đến cái đề từ cá nhân tác giả cũng sẵn sàng hy sinh để vì cái chung. Điều này nó cũng có sự ảnh hưởng của đời sống xã hội bấy giờ. Khi đó miền Bắc vừa giành lại tự do, toàn dân lao vào công cuộc xây dựng xã hội. Những người dân miền xuôi lên miền Tây Bắc xây dựng kinh tế miền núi. Tất cả đều sẵn sàng lên đường. Nhưng cũng có một vài sự nghi ngại, rụt rè về một tương lai thành công. Chế Lan Viên, qua đề từ của mình, đã chứng minh sự chắc chắn thành công của tương lai đồng thời cũng tạo ra "trường cảm xúc" thuần nhất để phát triển bài thơ. "Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát/ Tâm hồn ta Tây Bắc chứ còn đâu". Tây Bắc không còn ở xa nữa mà ở ngay chính trong tâm hồn chúng ta. Hỏi: Chế Lan Viên bắt đầu bài thơ bằng hai khúc thơ đối thoại với những người còn rụt rừ, e ngại, còn không tìm thấy nguồn cảm hứng "bốn bể lên tiếng hát". Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng Bạn bè xa anh giữ trời Hà Nội Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi Ngoài cửa ô? Tàu đói những vầng trăng. Tại sao lại có hình ảnh "tàu đói những vầng trăng" ở đây? Đáp: Rõ ràng là lúc đó còn một số văn nghệ sĩ vẫn còn do dự, ngại hòa mình vào cái hiện thực xã hội mới đang sống động tươi ròng ấy. Anh "không đi Tây Bắc" tức là không tham gia vào chuyến tàu tổ quốc, thì chỉ mãi mãi bị "giam hãm" trong tháp ngà cá nhân lạnh lẽo của chính mình. Hiện thực cuộc sống không phải ở những căn phòng khép kín. Hiện thực cuộc sống, vẻ đẹp cuộc sống đang "rú gọi" ở bên ngoài xã hội. Con tàu - tâm hồn khao khát vẻ đẹp mới và nó luôn "đói" những vầng trăng. Ý tưởng của khổ thơ này nhanh chóng được làm rõ trong khổ thơ kế tiếp:.

<span class='text_page_counter'>(151)</span> Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi? Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia. Khổ thơ là một lời khẳng định rõ ràng cho những ai còn chần chừ không bước lên con tàu đất nước. Hỏi: Nhịp thơ bắt đầu biến đổi rất nhanh. Dường như Chế Lan Viên chỉ cần dành vài lời cho những kẻ "không bước lên tàu". Hiện thực đất nước- hiện thực Tây Bắc còn quá bộn bề, quá sống động để nhà thơ phải miêu tả. Những câu thơ đơn sơ, nhưng hùng tráng tạo dựng một Tây Bắc anh hung. Trên Tây Bắc! ôi mười năm Tây Bắc Xứ thiêng liêng rừng núi đá anh hùng Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân. Đáp: Chế Lan Viên là nhà thơ sáng tạo ra những hình tượng thơ ca rất độc đáo và giàu ý nghĩa. Đa phần, những hình tượng thơ ca của các nhà thơ khác đơn thuần chỉ là sáng tạo cá nhân hoàn toàn, do đó nó không thực lắm. Chế Lan Viên đã tìm thấy ở những quy luật tự nhiên được những chất liệu để sáng tạo hình ảnh thơ ca của mình. Khi đọc hai câu thơ "Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất/ Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân" người đọc đầu tiên liên tưởng ngay đến cái công việc bình thường, tự nhiên của người nông dân trên cánh đồng. Thế nhưng lao động ấy đã được nhà thơ "lấy lại" và khái quát hóa thành hình tượng những người con "gieo giống", "máu" và "tâm hồn" của mình xuống quê hương, xứ sở. Những hạt giống ấy đã cho những mùa chín "dạt dào" đầu xuân. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(152)</span> Cứ sau một khổ thơ đầy những hình ảnh tượng trưng, khổ thơ tiếp sau tác giả sẽ luận giải những hình tượng ấy bằng những ngôn từ giản dị và dễ hiểu hơn. Tây Bắc anh hùng ấy, "Mùa chín" ấy được cụ thể bằng khổ thơ: Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường Con đã đi nhưng con cần vượt nữa Cho con về gặp lại mẹ yêu thương Tại sao cứ sau mỗi một khổ thơ tượng trưng, tác giả lại tiếp tục bởi một khổ thơ giản dị như vậy? Đáp: Theo tôi, trình độ cảm nhận thơ ca của đa số nhân dân lúc đó còn chưa được sâu sắc. Những bài thơ do đó cũng cần phải dễ hiểu hơn để phục vụ những đòi hỏi của xã hội. Các nhà thơ đã rất cố gắng làm cho tác phẩm của mình trở nên dễ hiểu, giản dị. Những hình ảnh gần gũi nhất với nhân dân sẽ được sử dụng. Chế Lan Viên đã có một khổ thơ rất gần gũi nhưng cũng giàu hình tượng thơ ca: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Như cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa. Những phát hiện giản dị như "nai về suối cũ", "cỏ đón giêng hai".. hay "đói lòng gặp sữa" thực sự là một cố gắng tuyệt vời của Chế Lan Viên, một nhà thơ xưa trong Điêu Tàn chỉ quen với những hình tượng thơ ca hùng vĩ, xa lạ... Tất cả những hình ảnh đó để chỉ cái mối gắn bó "hữu cơ" giữa quân với dân, giữa những người nghệ sĩ với cuộc sống mới của đồng bào. Hỏi: Những hình ảnh ấy quả thật rất giàu sức biểu cảm..

<span class='text_page_counter'>(153)</span> Nhưng ở ba khổ thơ kế tiếp, giọng thơ có vẻ như rơi vào sự "dễ dãi", điều rất hiếm gặp trong thơ của Chế Lan Viên. Phải chăng dụng ý làm cho nhân dân "dự hiểu", "dễ nhớ" đã khiến cho những câu thơ trở nên "quá đà" như vậy? Con nhớ anh con, người anh du kích Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con Con nhớ em con, thằng em liên lạc Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư. Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc Nhớ con đau, mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi. Đáp: Đúng là đối với một nhà thơ triết lý như Chế Lan Viên thì ba khổ thơ trên dường như không "hợp" lắm với phong cách của ông. Không còn những hình tượng thơ nữa. Thay vào đó là những lời kể, những nỗi nhớ về tình gắn bó keo sơn giữa quân và dân. Những câu thơ quả thật rất giản dị và đó cũng là phong cách thường gặp của đa số các bài thơ kháng chiến lúc bấy giờ.... Thế nhưng, theo tôi, với một người am tường các quy luật của thi ca như Chế Lan Viên thì ông không thể không biết được sự đơn giản của đoạn thơ đó. Với tài hoa của mình, chắc chắn Chế Lan Viên có thể tạo ra nhiều hình tượng "lộng lẫy hơn" với cùng tình cảm, nỗi nhớ thể hiện trong khổ thơ này. Thế tại sao ông không viết khác đi. Rõ ràng sự đơn giản ở đây là có chủ định. Bởi vì.

<span class='text_page_counter'>(154)</span> tất cả sự đơn sơ ấy, sự mộc mạc ấy sẽ được nâng lên thành biểu tượng trong khổ thơ kế tiếp tuyệt hay, và có lẽ là hay nhất của bài thơ. Hỏi: Nhớ bản sương giăng đèo mây phủ Nơi nào qua lòng chẳng thấy yêu thương Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn! Đã có không biết bao nhiêu bài bình luận về khổ thơ này và đều nhất trí với nhau rằng đây chính là một trong những khổ thơ "tuyệt diệu" nhất của Chế Lan Viên và cũng là của dòng văn học cách mạng giai đoạn đó có được. Điều gì đó khiến "đất ở... đã hóa tâm hồn"? Đáp: Chúng ta trở lại ba khổ thơ trên. Sự mộc mạc, đơn sơ của các câu thơ thể hiện rõ ràng, đầy đủ và chân thật nhất cái cuộc sống quân và dân cùng gắn bó sẻ chia. Cái cuộc sống đầy gian lao nhưng cũng đầy tình người ấy hiện lên mộc mạc và giản dị như bản thân nó vốn thế. Thế nhưng sự giản dị ấy, tình quân dân keo sơn ấy đã tạo nên những giá trị tinh thần của cuộc sống mới. Những giá trị tinh thần đó kết hợp với văn hóa dân tộc để cùng tạo nên tâm hồn của con người hiện đại. Những tinh thần ấy đã được gieo trồng "thấm đất" đã "dạt dào" những "chín trái đầu xuân", đã trải qua bom đạn, đã sáng lên "mười năm qua như ngọn lửa" và đã mười năm Tây Bắc để tạo nên nền tảng tâm hồn bất cứ con người nào trải qua những năm tháng hào hùng ấy. Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn "Khi ta ở", "Khi ta đi" được ngắt nhịp bằng dấu phẩy như một sự nhấn mạnh, một sự khẳng định rõ ràng không phân vân về sự "đất ở... đã hóa tâm.

<span class='text_page_counter'>(155)</span> hồn". Chỉ cần một sự "chuyển hóa" ấy, những câu thơ về nỗi nhớ, về "đất ở" mộc mạc, đơn sơ lập tức trở nên lung linh. Hỏi: Trong sự háo hức, sôi động của toàn xã hội, trong tình yêu chung ấy, những tình cảm cá nhân thường bị "đặt" sang một bên. Trong các tác phẩm văn học thời kỳ đó, rất ít khi tìm thấy một tác phẩm đi sâu vào miêu tả tình cảm cá nhân. Nhưng ở đây, một lần nữa Chế Lan Viên cho thấy cái tài "biến hóa" của ông trong thơ ca như thế nào. Giữa tình yêu chung ấy, Chế Lan Viên vẫn biểu hiện được tình cảm cá nhân mình qua những câu thơ rất hay: Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương Đáp: Câu thơ "Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng" đã từng là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận. Tuy nhiên, chúng ta phải nhấn mạnh lại rằng đối với Chế Lan Viên, một thi sĩ ưa triết lý trong thơ ca thì không bao giờ có một hình ảnh so sánh cho đẹp, cho hợp vần. Bao giờ sự so sánh trong thơ ông cũng mang một ẩn ý nào đấy. Loài cây cánh kiến được dùng làm hương liệu, kỹ nghệ hóa chất... tức là nó được dùng để "điểm xuyến" cho một điều gì khác. Đó là mấu chốt của vấn đề. tình yêu của cá nhân điểm xuyến vào tình yêu chung của toàn xã hội. Cái quan hệ giữa tình yêu cá nhân và tình yêu chung ấy là một quan hệ miên viễn, giống như các quy luật tự nhiên vậy: "đông về" thì "nhớ rét", "xuân đến" thì "chim rừng lông trở biếc". Ba câu thơ đầu của khổ thơ này có ý nghĩa như vậy. Câu thơ thứ tư đúc kết lại ý nghĩa vì sao Tây Bắc trở thành "tâm hồn", trở thành "quê hương" đối với mỗi người Việt Nam, khi đó "Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương". Tình yêu ấy chính là tình yêu đất nước, tình yêu "nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương", "nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất"...và cũng là nơi tình cảm riêng tư bùng nở:.

<span class='text_page_counter'>(156)</span> Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương Hỏi: Tác giả đã dùng từ rất kỹ trong hình ánh bữa xôi "tỏa nhớ mùi hương". Người đọc có cảm giác cái mùi xôi ấy vẫn còn nồng đến tận hôm nay. Trở lại với tứ chính của bài thơ, tiếng "còi tàu" của tâm hồn lại ngân lên giục dã những người còn chần chừ chưa hòa vào hiện thực mới của đất nước: Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi Tình em đang mong tình mẹ đang chờ Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga. Đáp: Mỗi "mái ngói đỏ" ấy chính là một "sân ga" mà tâm hồn người nghệ sĩ khao khát được đến, được thấy, được lắng nghe và được hòa vào cuộc sống mới. Dấu hiệu "ngói đỏ" rõ ràng là dấu hiệu của cuộc đời mới, của sự thay đổi, của ấm no và yên ổn. Không chỉ "đất nước" gọi, không chỉ "lòng ta" gọi, không chỉ "tình em" mong, không chỉ "tình mẹ" chờ... mà tất thẩy mọi điều, mọi cảm xúc thiêng liêng, thân thuộc của xứ sở này đang gào gọi tất cả những đứa con và từng đứa con một bước vào xây dựng cuộc sống mới. Hỏi: Tiếng "tàu tâm hồn" gào gọi ấy, hầu như đã tạo ra sự sống động, sự náo nức của xã hội. Mỗi người, từ trí thức cho đến người dân bình thường nhất đều nhận thấy sứ mệnh của riêng mình. Đó là điều tác giả muốn đề cập đến trong khổ thơ tiếp theo: Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng.

<span class='text_page_counter'>(157)</span> Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao Đáp: Đúng vậy. Hình ảnh "Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào" là một hình ảnh vô cùng đặc biệt và giàu ý nghĩa. Nó thể hiện lòng dân lúc bấy giờ đã thống nhất, tinh thần đã bùng sáng, toàn bộ ý chí, tâm hồn đã hướng trọn về công cuộc xây dựng một cuộc đời mới. Khổ thơ tạo ra không khí náo nhiệt, sôi động, và cái cảm giác phồn vinh tràn ngập khắp nơi. Cuộc đời mới đã cho người dân được tự do lao động trên mảnh đất của cha ông mình. Và tiếng "rì rào" của những cánh đồng bội thu chính là tiếng "rì rào" bất tuyệt trong niềm hạnh phúc mới của nhân dân. Đáp: Tiếng hát con tàu là một bài thơ dài, đoạn đầu là cảm xúc trăn trở, giục giã lên đường, đoạn giữa là những ký ức về Tây Bắc trong những năm kháng chiến với những câu thơ tuyệt đẹp xen lẫn những câu thơ miêu tả mộc mạc, đoạn cuối là khúc hát vang dội, say mê, náo nức. Bố cục đó có ý nghĩa gì? Đáp: Ngay từ khúc thơ đề từ, tư tưởng của bài thơ đã hiển lộ. Những đoạn thơ tiếp theo giúp cho người đọc hiểu hơn cái tư tưởng đó. Bài thơ dài, nhiều hình ảnh dàn trải suốt các khổ thơ cho nên những khúc thơ cuối bao giờ cũng là "tiếng vọng vang dội" đúc kết lại giá trị của tất cả những hình ảnh đó: Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa Nay trở về ta lấy lại vàng ta.

<span class='text_page_counter'>(158)</span> Những hình ảnh, cảm xúc "máu đổ", "nhựa nóng", "mười năm", "mẹ của hồn thơ?", rồi sự tôi luyện qua gian nan kháng chiến mười năm "đau trong lửa" đã được thể hiện trong các khổ thơ trên. Tác giả muốn nhắc lại một lần nữa tất cả các giá trị ấy để có thể giúp người đọc "tổng hợp" được ý nghĩa và tình cảm của bài thơ. Hỏi: Khổ thơ cuối cùng không những kết lại hình ảnh "con tàu tâm hồn" mà một lần nữa đã khẳng định sự vượt trội và chiến thắng thực sự của dòng nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa, dòng nghệ thuật "vị nhân sinh". Điều đó có đúng không? Đáp: Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng? Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân Đúng là qua khổ thơ này, Chế Lan Viên đã khẳng định rõ ràng sự chiến thắng của dòng văn học hiện thực, dòng văn học lấy cảm hứng từ đời sống nhân dân và vì nhân dân. Hình ảnh "con tàu" đêm đêm "uống một vầng trăng" thật mạnh mẽ và độc đáo. Tác giả không dùng động từ "ngắm" nhẹ nhàng mà dùng một động từ rất mạnh "uống" để miêu tả cái khao khát nghệ thuật muôn đời của tâm hồn người nghệ sĩ. Nhưng thay vì cái triết lý "nghệ thuật vị nghệ thuật", tìm kiếm cảm xúc nghệ thuật ở trong thế giới riêng của mình, người nghệ sĩ đã tìm thấy điều ấy ở cuộc sống chung Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân Cái nguồn cảm hứng "mặt trăng - mặt hồng em" hiện lên không phải trong tâm hồn đơn côi, không phải trong thế giới ảo ảnh của cá nhân, mà nó được hiện lên trong "suối lớn mùa xuân". Đó là "dòng suối nhân dân", "mùa.

<span class='text_page_counter'>(159)</span> nhân dân", "mùa xuân nhân dân", "cảm xúc nhân dân", "sức mạnh nhân dân", và "vẻ đẹp nhân dân". Chế Lan Viên đã thực sự thay đổi hoàn toàn so với cảm xúc của ông trong Điêu Tàn Xin chân thành cảm ơn nhà thơ!. Tác phẩm: ĐÔI MẮT (Truyện Ngắn) Tác giả: Nhà văn NAM CAO (đã mất) Nhà thơ TRẦN QUANG HẢI phân tích. Rất nhiều nhà phê bình, nhà văn và độc giả đã cho rằng Nam Cao và Vũ Trọng Phụng là hai trong số ít các nhà văn ấn tượng nhất, tài năng nhất của nền văn học hiện đại. Dường như trong chúng ta, không ai không biết đến bi kịch của anh Chí Phèo, cũng như mối tình kỳ lạ của Chí Phèo - Thị Nở. Hai nhân vật này đã trở thành các nhân vật trong dân gian. Ngoài ra, với nhiều truyện ngắn đặc sắc, Nam Cao đã trở thành bậc thầy về viết truyện ngắn cho nhiều thế hệ nhà văn trẻ sau này. Truyện ngắn của Nam Cao súc tích, các nhân vật được miêu tả tính cách rất rõ ràng và các nhân vật ấy liên tục được tạo ra những hoàn cảnh đặc biệt để có thể biểu lộ "tuyệt đối" cá tính của mình. Truyện ngắn Đôi Mắt, mặc dù được nhà văn Tô Hoài coi như tuyên ngôn nghệ thuật củ"a các nhà văn thế hệ mình, chưa phải là truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao. Tuy nhiên tác phẩm này cũng cho thấy khả năng phân tích tâm lý nhân vật rất sâu sắc của Nam Cao. Nhà thơ Trần Quang Hải sinh năm 1961 ở Kim Sơn, Ninh Bình. Là một nhà thơ xuất hiện cuối những năm tám mươi của thế kỷ hai mươi, ông đã mang đến cho thơ ca hiện đại một vẻ đẹp trong suốt. Giáo sư Phạm Vĩnh Cư, người phụ trách trường viết văn Nguyễn Du, và cũng là thầy hướng dẫn của nhà thơ Trần Quang Hải, đã nhận định rằng "Trần Quang Hải là trường hợp thành công nhất trong suốt lịch sử đào tạo của trường viết văn". Qua tập thơ Non trưa, ông đã cho thấy tiếng Việt hiện đại có khả năng chứa đựng những tư tưởng sâu sắc và huyền bí như thế nào..

<span class='text_page_counter'>(160)</span> Hỏi: Truyện ngắn Đôi mắt được đánh giá là một trong những truyện ngắn đặc sắc không chỉ của riêng nhà văn Nam Cao mà còn đối với cả nền văn học cách mạng thời kỳ đầu tiên. Nhà văn Tô Hoài còn coi truyện ngắn này chính là một tuyên ngôn nghệ thuật cho cả thế hệ nhà văn thời đó... Tại sao tác phẩm này lại có tầm quan trọng đến vậy? Đáp: Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một thời kỳ lịch sử mới cho dân tộc. Ai cũng có thể cảm nhận được điều ấy, từ người dân cày bình thường cho đến tầng lớp trí thức. Cuốn theo dòng chảy của dân tộc, nhiều tổ thức đã nhận ra con đường đó và một lòng đi theo cách mạng. Điều này thể hiện rất rõ trong sự thay đổi cảm hứng của các nhà thơ mới như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận. Dòng thơ sầu thảm, bế tắc, tuyệt vọng đã được thay thế bằng tiếng ngợi ca hân hoan về cuộc sống mới mà cách mạng đã mang lại cho người dân. Nhưng trong giai đoạn đầu đầy khó khăn của cách mạng, vẫn có những trí thức không có niềm tin vào con đường lịch sử mà cách mạng mang lại. Họ do dự không biết nên chọn cách sống nào, họ lo lắng cho cuộc sống hiện tại của họ bị xáo trộn.. Cuối cùng, bằng sự ích kỷ và tăm tối của mình, họ đã "dửng dưng" với phong trào cách mạng của dân tộc. Tác phẩm này đã lột tả những mâu thuẫn trong tâm lý và những động cơ ích kỷ của một số người như vậy. Những điều đó được che đậy một cách tinh vi bằng vỏ bọc vì "hiểu thời thế" cho nên "không tham dự vào thời thế" của họ. Qua việc phân tích tâm lý và quan niệm của những người trí thức "không tham dự vào thời thế" như vậy, Nam Cao càng làm nổi bật giá trị của những người trí thức đi theo cách mạng ở thời kỳ đầu tiên. Hỏi: Ban đầu truyện ngắn này có một cái tên khác. Tác giả đã viết rằng "Mấy ngày nghỉ tết, tôi dùng để viết một truyện ngắn cho đỡ nhớ. truyện Tiên sư.

<span class='text_page_counter'>(161)</span> thằng Tào Tháo! Nhưng sau tôi đặt cho nó một cái tên giản dị và đứng đắn: Đôi mắt". Theo ông, tại sao tác giả lại đổi tên truyện ngắn và cái tên "Tiên sư thằng Tào Tháo" không đứng đắn ở điểm nào vì quả thực nếu giữ nguyên cái tên đầu tiên cũng có vẻ như rất hợp với tinh thần của tác phẩm? Đáp: Mặc dù là một nhân vật văn học (cũng là nhân vật là lịch sử) của Trung Quốc nhưng hình tượng gian hùng của Tào Tháo đã rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Nhân vật ấy bất chấp nhân nghĩa, bất chấp lợi ích của người khác, làm mọi cách, thậm chí phạm cả tội ác để đạt cho bằng được mục đích của mình. Nhân vật Hoàng trong tác phẩm phảng phất có một nét tính cách giống như thế. Hơn nữa, anh ta cũng rất mê hình tượng Tào Tháo. Cái tên truyện đầu tiên giống như lời chửi của đa số con người hiền lành, chất phác cho sự gian hùng của hình tượng. Nó cũng chính là lời khen "Tiên sư anh Tào Tháo" của Hoàng. Giữa lời chửi và lời khen chỉ khác nhau là "thằng" và "anh". Thế nhưng Nam Cao đã đúng khi đổi tên truyện ngắn này thành Đôi mắt. Thứ nhất, tiêu đề "Đôi mắt" có tầm khái quát rộng hơn nhiều, nó đề cập đến cả một lớp người giống như Hoàng. Lý do thứ hai có lẽ còn quan trọng hơn lý do thứ nhất. Nam Cao viết truyện ngắn này vào đầu năm 1948, khi đó cách mạng còn gặp rất nhiều khó khăn. Truyện ngắn này viết vừa để phê phán những trí thức do dự không đi theo cách mạng nhưng cũng là vừa để thuyết phục họ về con đường đúng đắn mà cách mạng chỉ ra. Chính vì vậy nếu để tên là "Tiên sư thằng Tào Tháo" thì chắc chắn những trí thức còn do dự như Hoàng sẽ bị "tự ái nặng nề" sẽ không đọc, và do đó nhiệm vụ tuyên truyền của tác phẩm sẽ không được hoàn thành. Đây chính là ý nghĩa lớn nhất của việc Nam Cao đổi tên tác phẩm này từ "Tiên sư thằng Tào Tháo" thành một cái tên nhẹ nhàng hơn là "Đôi mắt". Hỏi: Tác phẩm bắt đầu bằng những ấn tượng của người kể chuyện về sự dữ tợn của con chó "giống Đức hung hăng" trong nhà Hoàng. Tại sao hình.

<span class='text_page_counter'>(162)</span> ảnh con chó được phân tích kỹ lưỡng và được lặp đi lặp lại khá nhiều trong đoạn mở đầu. Điều này có ý nghĩa gì cho toàn bộ câu chuyện? Đáp: Chúng ta phải lưu ý rằng truyện ngắn viết đầu năm 1948, tức là chỉ cách nạn đói khủng khiếp đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng đồng bào ta có một hai năm... Ký ức về nạn đói ấy vẫn còn in đậm trong lòng mỗi người. Hơn nữa, chuyện về con chó lại được kể vào thời điểm chính giữa trung tâm nạn đói ấy. Điều đó khiến cho người đọc cảm thấy sự tàn nhẫn, lạnh lùng và vô cảm của nhân vật Hoàng ghê gớm như thế nào. Khi mà "xác người chết đói ngập đường phố" thì cái con chó, mà lại lạ một con chó "ngoại" ấy "chưa phải nhịn bữa nào vì Hoàng vẫn có thể "tìm nổi mỗi ngày vài lạng thịt bò để nó ăn". Hình ảnh quá tương phản, một bên con người không có một hột gạo, một củ sắn, thậm chí một lá rau xanh để ăn nên đã phải chết đói thì một con chó vẫn no nê với những thức ăn thượng hạng như "thịt bò". Chỉ qua vài dòng kể chuyện như vậy, Nam Cao đã xác định tính cách nhân vật Hoàng rất tài tình. Hỏi: Sự sung túc, thừa mứa của cải của Hoàng quả rất tương phản so với cuộc sống đói kém, lầm than của đa số người dân lúc bấy giờ. Người ta hiểu ngay rằng Hoàng đã "sẵn sàng" nuôi một con chó như thế trong nhà chứ không dùng số lương thực, số của cải dư thừa của mình để cứu tế cho những người chết đói. Chỉ trong một vài lời kể về con chó, tính cách của nhân vật đã bộc lộ rất nhiều. Thế nhưng tại sao Nam Cao vẫn còn tiếp tục để nhân vật Hoàng vừa "là một nhà văn, nhưng đồng thời cũng là một tay chợ đen rất tài tình"? Đáp: Câu văn đó tuy ngắn ngủi nhưng đã bao quát toàn bộ ý tưởng của tác phẩm. Là nhà văn, Hoàng rõ ràng là một trí thức biết phân biệt cái thiện, cái nhân nghĩa với cái ác. Thế nhưng dù biết phân biệt như vậy, Hoàng vẫn dửng dưng nhìn người chết đói đầy đường phố mà không cứu trợ. Nhưng cái sự.

<span class='text_page_counter'>(163)</span> dư thừa mà Hoàng có được không phải do nghề văn mà có. Nhiều nhà văn, tài năng hơn Hoàng, có nhiều bản thảo hơn Hoàng nhưng vẫn lâm vào cảnh túng quẫn vì "bản thảo chẳng biết bán cho ai". Sự dư thừa do xuất phát từ nghề "chợ đen" của Hoàng. Tức là từ sự làm ăn không đàng hoàng chính đáng mà có được của cải sung túc đó. Câu văn này đã bóc trần vẻ dửng dưng, lánh đời của nhân vật Hoàng trong đoạn sau. Hoàng làm sao đi theo cách mạng được khi cuộc sống cũ (tức là cuộc sống dưới ách đô hộ của thực dân Pháp) vẫn còn mang lại cuộc sống no đủ cho Hoàng. Mặc dù, tôi nhắc lại, cái lao động "chợ đen" ấy là loại lao động không đàng hoàng, không được những xã hội chân chính chấp nhận. Chính Hoàng cũng hiểu rằng nếu cứ tiếp tục lao động kiểu "chợ đen" thì cuộc sống mới, cái cuộc sống mà cách mạng mang lại sẽ không có chỗ cho những người như Hoàng. Câu văn đó đã rọi suốt tận đáy sâu tâm lý của nhân vật này. Hỏi: Tình huống con chó không chết vì đói mà "nó chết có lẽ vì chén phải thịt người ươn hay là hít phải nhiều xú khí. Thảm hại thay cho nó!" như một lời lên án đanh thép vào sự vô đạo, vô nhân của nhân vật Hoàng. Tại sao Nam Cao không chấm dứt hình tượng con chó ở đây mà lại tiếp tục tạo ra hình tượng một con chó khác ở nơi tản cư của gia đình Hoàng? Đáp: Có lẽ tác giả muốn người đọc giữ nguyên cảm giác về hình ảnh tàn nhẫn của con chó "giống Đức hung hăng" khi tiếp cận trực tiếp với nhân vật. Hơn nữa, chúng ta phải lưu ý chi tiết này. Gia đình Hoàng đã phải rời bỏ thành phố để đến sống ở vùng tản cư, nơi mà cách mạng đang từng bước tạo ra cuộc sống mới. Thế nhưng dù tìm được sự an toàn trong cuộc sống mới này, tính cách của Hoàng vẫn không thay đổi. Sự ích kỷ và tàn nhẫn vẫn tiếp tục được thể hiện qua hình ảnh con chó... Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(164)</span> "Cái gì? Cái gì? Hừm!" Tiếng trầm trầm nhưng lại có vẻ nạt nộ của anh Hoàng hỏi nó". Rõ ràng là nhân vật Hoàng đã hiện ra khá kiểu cách và không thật. Nam Cao đã chú thích đâu đó bằng một dòng giải thích rằng: bao giờ nói với con, anh Hoàng cũng có cái giọng dậm dọa buồn cười ấy. Phải chăng anh ta sống trong một cuộc sống giả tạo? Đáp: Sự giả tạo ấy chúng ta sẽ bàn đến sau vì đó chính là cái vỏ, chính là những lý lẽ mà Hoàng "dửng dưng với thời cuộc". Nam Cao tạo cho người đọc cảm nhận một con người kiểu cách, khó coi và có vẻ như quá tự mãn về cuộc sống của mình. "Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khí to béo quá, vừa bước vừa bơi cánh tai kềnh kệch ra hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá"... Những từ láy "khệnh khạng", "kềnh kệch", "tủn ngủn" đã vẽ nên chân dung của Hoàng. Cộng với cái ấn tượng tàn nhẫn ban đầu, người đọc lại càng cảm thấy ở nhân vật Hoàng một cái gì hết sức khó chịu, hết sức phản cảm. Cả con người ấy toát lên sự no đủ, sự thừa mứa vật chất nhưng lại tàn nhẫn và ti tiện về tinh thần. Đó chính là cái cảm giác mà độc giả cảm nhận được. Hỏi: Trong cái dáng điệu ục ịch, kệch cỡm đó, Nam Cao lại còn tiếp tục miêu tả tính cách nhân vật này sâu hơn nữa. Khi gặp lại người quen cũ người kể chuyện, Hoàng đã "đứng lại bên trong cổng, một bàn tay múp míp hơi chìa về phía tôi, đầu hơi ngửa về đằng sau, miệng hé mở, bộ điệu như một người ngạc nhiên hay mừng rỡ quá". Phải chăng sự giả dối, không chân thành của Hoàng đã thể hiện rõ trong đoạn văn này? Đáp: Thông thường, để tương ứng với cảm xúc "ngạc nhiên hay mừng rỡ quá" khi gặp một người quen, một người thân, người ta phải có những hành động thân mật. Nhưng ở đây chúng ta phải chú ý đến chi tiết Hoàng "đứng lại bên trong cổng" để đón khách, mặc dù người khách ấy có vẻ như gây cho.

<span class='text_page_counter'>(165)</span> anh ta cái cảm xúc đột ngột như đã nói ở trên. Sự giả dối, không chân thành thể hiện rõ nhất ở chi tiết này. Hoàng đã giả điệu bộ "sững người ra một lúc" rồi "anh mới lâm li kêu lên" những tiếng kêu "ối giời ơi! Anh! Quý hóa quá!" cũng giả dối như thế. Sự giả dối và không chân thành này càng được khẳng định khi người khách – người kể chuyện khẳng định rằng trước đây Hoàng rất lạnh nhạt với mình. Biểu hiện của Hoàng trong việc đón khách là những biểu hiện thường thấy ở những người giả dối, kiểu cách. Hỏi: Người đọc, qua lời người kể chuyện, nhận thấy Hoàng là một mẫu người rất ích kỷ, tàn nhẫn, giả dối và vô nhân nữa. Như vậy trong đoạn này có một điều khó hiểu. Tại sao Nam Cao lại khiến cho người đọc có một cảm giác thật "khủng khiếp" đối với nhân vật Hoàng trước khi đọc vào câu chuyện chính? Đáp: Đoạn sau của câu chuyện sẽ làm sáng tỏ điều ấy. Trong đoạn sau, nhân vật Hoàng, bằng những lý lẽ của mình, đôi khi có vẻ như hợp lý, đã nhận xét về cuộc sống của nhân dân, con đường của cách mạng... Nam Cao muốn chuẩn bị cho người đọc biết rằng tất cả những lý lẽ ấy đều giả dối, đều xuất phát từ sự ích kỷ, tàn nhẫn của cá nhân Hoàng chứ không có một chút sự thật nào hết.. Có lẽ tác giả hiểu rằng trí tuệ của người đọc khi đó còn chưa cao, chưa sâu sắc nên ông đã "phơi trần" triệt để những cái xấu của nhân vật Hoàng trước khi để cho nhân vật ấy nói quan điểm của mình. Hỏi: Hồi đó, cuộc sống trong những năm đầu cách mạng còn rất khó khăn. Hơn nữa, ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, những hủ tục cũ vẫn còn, chưa thay đổi được. Những câu chuyện về cách cư xử, về đời sống ở vùng tản cư đôi lúc cũng có những chuyện không hay... Tại sao Hoàng đã dùng ngay.

<span class='text_page_counter'>(166)</span> những câu chuyện buồn ấy để kể, để than thở giống như một người rất có đạo đức rất có tình người? Đáp: Như tôi đã phân tích, nhân vật Hoàng có cách hóa trang để trở thành người "có đạo đức" rất giỏi. Anh lên án chuyện em trai bắt chị dâu ra "một cái lều ngoài vườn mà đẻ" rồi chuyện anh em xích mích với nhau.... Những chuyện đó đúng là những chuyện buồn. Do đó, khi anh ta tỏ ra "phẫn nộ" với những chuyện đó, anh ta muốn chứng tỏ mình là người nhân nghĩa. Nhưng do điều đó chỉ là giả dối nên tính cách anh ta lập tức lộ ra ở câu sau ngay như một kẻ hợm hĩnh: "Có tiền, thằng nào chẳng ăn chơi? Có mấy người cứ còm cọm làm như trâu, ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, ở thì chui rúc thế nào cho xong thôi". Cái bản chất con buôn hợm tiền và khinh miệt những người lao động đơn sơ khắc hiện rõ trong câu văn này. Hỏi: Mặc dù người vợ có phụ họa theo chồng, nhưng rõ ràng chị ta chỉ là một cái cớ để cho tình tiết câu chuyện trôi chảy thôi. Nhân vật Hoàng, sau một giọng "đạo đức" ngắn ngủi đã trở lại con mắt lạnh lùng của mình? Tại sao anh ta không nhận thấy một sự cố gắng, một cái tốt nào ở cuộc sống nơi tản cư? Đáp: Đó chính là cái tứ truyện nằm trong "Đôi mắt". Đôi mắt anh ta tàn nhẫn, ích kỷ, giả dối thì anh ta nhìn cái gì cũng sẽ trở thành tàn nhẫn, ích kỷ và giả dối. Trong thời chiến tranh, sự cảnh giác cao độ là điều tất yếu, và là điều tích cực, điều tốt ở mỗi người dân. Thế nhưng qua con mắt của Hoàng thì sự cảnh giác ấy lại trở thành sự soi mói, sự thóc mách.. "Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh gầy anh béo thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên trái"... Các triết gia nói rất đúng rằng, để nhìn thấy được cái tốt của người khác thì mình phải tốt trước đã. Hoàng đã nhìn cuộc.

<span class='text_page_counter'>(167)</span> sống từ "đôi mắt" của cá nhân mình và do đó anh ta không thể cảm nhận được cuộc sống mới. Hỏi: Với tư cách là nhà văn, đáng ra Hoàng phải cảm nhận được cuộc sống ấm nóng qua những dáng vẻ đơn sơ của người dân. Nhưng không, Hoàng chỉ có một cảm giác khinh bỉ, thương hại và "bây giờ gần họ, tôi quả là thấy không chịu được. Không chịu được!".. Nói chung tất cả cuộc sống xung quanh hiện ra dưới "đôi mắt" của Hoàng đều rối loạn, đều là một màu xám. Tại sao Hoàng không nhằm vào sự thiếu thốn vật chất của người dân để chê bai mà lại nhằm vào việc họ đọc chữ quốc ngữ rất khó khăn? Đáp: Tâm lý nhân vật Hoàng ở đoạn này khá phức tạp. Anh ta là nhà văn cho nên Hoàng hiểu chỉ có những giá trị tinh thần mạnh mẽ mới khiến con người có thể tự hào. Hơn nữa, Hoàng thừa hiểu, cái thứ của cải mà anh ta làm ra là thứ của cải từ một kiểu lao động bất chính. Hoàng hiểu rõ điều đó lắm chứ. Cho nên trong đoạn văn này, Hoàng lấy ví dụ nhiều về sự đọc chữ quốc ngữ của những người dân, những người đang hăm hở xây dựng cuộc sống mới." Họ đánh vần xong một cái giấy ít nhất phải mất mười lăm phút, thế mà động thấy ai đi qua là hỏi giấy. Anh đi, hỏi. Anh về, hỏi... Hình như họ cho cái việc hỏi giấy là thú lắm". Rồi đoạn "viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Mở miệng là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân, phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với cả tân dân chủ nữa mới khổ thiên hạ chứ". Tuy nhiên, trong sự chế giễu, sự đắc thắng này của Hoàng, chúng ta thấy rõ sự "bao biện" cho cái việc mà anh ta "dửng dưng với thời cuộc". Những người đang xây cuộc sống mới mới chỉ biết "viết chữ quốc ngữ sai vần". Vậy mà trong khi đó anh ta đã là một nhà văn, vậy anh ta cần gì phải tham dự vào cuộc sống ấy. Đó chính là cái lý lẽ sâu kín anh ta muốn biện minh cho sự ích kỷ, sự vô nhân của mình. Nam Cao đã lột tả độc đáo, rõ ràng sự biện minh rất tinh vi này của nhân vật..

<span class='text_page_counter'>(168)</span> Hỏi: Đúng là với tâm hồn như vậy, Hoàng đã không thể lắng nghe được bài hát kỳ diệu của cuộc sống mới đang dần hình thành trong những tiếng bập bẹ dù "sai vần" nhưng rất chân thực ấy... Nhưng tại sao ở đoạn tiếp theo, Nam Cao lại tiếp tục để nhân vật của mình "giễu nhại" con đường tươi sáng mà mọi người đang một lòng đi theo như vậy? Đáp: Không phải Hoàng không thừa nhận cái lý tưởng xã hội ấy. Hoàng thừa nhận một cuộc sống mới, một cuộc sống đổi thay tốt đẹp hơn cuộc sống cũ. Nhưng Hoàng, trong lập luận rất tinh vi của mình, tỏ ra không thừa nhận những con người bình thường, những con người lam lũ một nắng hai sương trên cánh đồng lại có thể xây dựng được cuộc sống mới đó. Đấy chính là cái lý lẽ để Hoàng vin vào rồi "biện minh" cho sự "dửng dưng" của mình. Ông cứ đi lối này, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi một quãng lại rẽ về tay trái, qua một cánh đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng lại đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa thì đến chợ". Người thanh niên đã chỉ đường cho Hoàng như thế. Hoàng thuật lại vừa hài hước, châm biếm vừa muốn làm bật lên sự rối loạn, luẩn quẩn của những người mà anh ta "không muốn đứng cùng đội ngũ". Thế nhưng đoạn văn này lại cho chúng ta một ý nghĩa rất hay. Nếu như Hoàng giống như người thanh niên tần tảo ấy, giống như những người xung quanh, thuộc về cuộc sống mới thì sự chỉ đường kia thật rõ ràng. Cây đa ấy, cánh đồng ấy, con đường ấy "đã có sẵn" trong những con người thuộc về cuộc sống đó. Nhưng trong Hoàng thì không có. Anh tự tách khỏi cuộc sống mới ấy và do đó anh không thể đi theo lời chỉ dẫn được. Đoạn văn này mặc dù nhuốm vị hài hước nhưng tôi cho rằng giá trị tượng trưng của nó rất cao và ý nghĩa của nó đã làm rõ hơn tư tưởng của tác phẩm. Hỏi: Người kể chuyện đã nói ra những quan điểm của mình không phải với Hoàng mà với chính độc giả. "Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài "ba giai đoạn nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ.

<span class='text_page_counter'>(169)</span> vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo như một con vẹt biết nói kia, anh cũng chỉ nhìn thấy cái vẻ ngoài của nó, mà không nhìn thấy cái nguyên cớ thật đẹp đi bên trong". Đoạn tự sự của người kể chuyện có giá trị gì với tác phẩm? Đáp: Thực ra với những suy nghĩ, những quan điểm trên của người kể chuyện thì người đọc phải tự hiểu ra. Nhưng như tôi đã phân tích, tác phẩm này được sáng tác vào thời điểm trình độ của người đọc chưa cao, cho nên tác giả buộc phải diễn giải thành lời những ý tưởng ẩn bên trong tác phẩm. Để tranh luận với Hoàng, người kể chuyện đã đưa ra một sự thật, một chân lý hiển nhiên về lòng yêu nước của những người nông dân: người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng mà làm cách mạng hăng hái lắm". Những người nông dân hiền lành, chất phác, rụt rè, đơn sơ bỗng trở thành những hình tượng anh hùng trong cuộc chiến tranh cứu nước. Đó là sự thật mà không ai có thể phủ nhận trong thời điểm đó. Hỏi: Rõ ràng là Hoàng đã nhìn bằng một "đôi mắt" hoàn toàn khác cho nên với sự thật lịch sử hiển nhiên như vậy anh ta cũng phản ứng và chế giễu. Vì không phủ nhận được sự thật ấy nên anh ta đã tìm cách chế giễu những người làm nên sự thật ấy? Đáp: Đúng vậy. Sự thật ấy thì không thể phủ nhận. Điều đó càng minh chứng cho tính cách "gian giảo" của nhân vật Hoàng. Anh ta mang những sai sót tiểu tiết của cuộc sống thường nhật ra để hòng che đi cái sự thật lịch sử hiển nhiên đấy. Nhưng tất cả những cố gắng ấy đã không thể che đậy được một điều rằng Hoàng đã từ chối tham gia dạy bình dân học vụ, tức là từ chối việc góp sức xây dựng cuộc sống mới. Là một nhà văn, Hoàng cũng cảm thấy "xấu hổ" khi đang được hưởng cuộc sống an toàn do cuộc sống mới mang lại mặc dù anh ta chẳng đóng góp gì cho cuộc sống mới ấy. Để khỏi ngượng với.

<span class='text_page_counter'>(170)</span> người nói chuyện - cũng là người đang xây dựng cuộc sống mới ấy, Hoàng đã nêu ra đủ mọi cái cớ "hợp lý" để khẳng định sự "chối từ" của mình là có nguyên cớ. Hỏi: Công việc chính của một nhà văn là viết văn. Phải chăng chỉ "vì ngay đến một cái bàn viết cho ra hồn cũng không có nữa" mà Hoàng không viết văn nữa? Đáp: Sự thực là Hoàng đã "lánh xa" cuộc sống mới nên anh ta làm gì có cảm xúc, chất liệu mà viết văn. Anh ta càng chống chế về điều kiện làm việc thì càng làm rõ một điều rằng: anh ta hoàn toàn không thuộc về cuộc sống mới ấy. Hơn nữa, việc Hoàng không có cảm hứng viết văn lại chứng tỏ thêm một điều là mọi vẻ đẹp, mọi nguồn cảm hứng văn chương đều nằm trong cuộc sống mới ấy. Chân lý thật đơn giản: nếu anh không thuộc về cuộc sống mới thì anh không thể có được vẻ đẹp ấy, cảm hứng ấy. Hỏi: Đoạn trích trong sách Văn học lớp 12 không đòi hỏi học sinh cảm thụ và phân tích phần chữ in nhỏ. Câu chuyện tiếp tục với bữa cơm chiều, với những lời than thở về thói cờ bạc của những trí thức kiểu như Hoàng, rồi đến hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh... Phần trích giảng tiếp tục với buổi đọc truyện Tam Quốc diễn nghĩa. Tại sao Nam Cao lại để Hoàng chọn đoạn nhân vật Tào Tháo tìm cách thuyết phục Quan Công về làm tướng cho mình? Đáp: Hình tượng Quan Công trong Tam Quốc diễn nghĩa đối lập với hình tượng Tào Tháo. Quan Công kết nghĩa anh em với Lưu Bị và Trương Phi, là người có tài, có đức độ, chung thủy, trái ngược hẳn với sự gian hùng của Tào Tháo. Mỗi khi vợ đọc đến đoạn hay Hoàng lại vỗ đùi kêu: "Tài thật! Tài thật? Tài đến thế là cùng! Tiên sư anh Tào Tháo". Sự phụ họa nồng nhiệt (và tỏ ra nồng nhiệt cho khách thấy) của Hoàng đối với Tào Tháo là hành động cuối.

<span class='text_page_counter'>(171)</span> cùng "phơi bày" trọn vẹn cái tâm hồn lạnh lùng phản trắc và quay lưng lại với nhân dân của Hoàng. Nhân danh những lợi ích của mình, Hoàng và những người như Hoàng đã phủ nhận toàn bộ những cố gắng phi thường, những chiến công hiển hách của nhân dân. Tác phẩm đã khắc họa thành công tính cách và tâm lý của nhân vật Hoàng. Tri thức, tài năng của mỗi cá nhân chỉ có thể nở hoa, kết trái trong lòng dân tộc của cá nhân đó. Khi anh ta từ chối trở thành một phần của cuộc sống dân tộc đó, anh ta sẽ trở nên gian trá, tàn nhẫn và vô nhân. Đó chính là ý tưởng mạnh nhất của tác phẩm này. Xin chân thành cảm ơn nhà thơ!. Tác phẩm: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (BÚT KÝ) Tác giả: Nhà văn NGUYỄN TUÂN Nhà thơ NGUYỄN QUANG THIỀU phân tích Nhà văn Nguyễn Tuân sinh năm 1910, tại Hà Nội. Trong thập niên ba mươi của thế kỷ trước, dường như mọi danh vọng trên văn đàn đều dành cho các nhà thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên... Thế nhưng giữa sự "áp đảo" của các nhà thơ mới, Nguyễn Tuân vẫn gây tiếng vang lớn trên văn đàn với các tác phẩm Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua...Trong các tác phẩm Nguyên Tuân viết thời đó, truyện ngắn Chữ người tử tù gây ấn tượng mạnh với sự đề cao lòng bất khuất và sự tự tôn của tinh thần văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, sau này Nguyễn Tuân lại nổi tiếng với những bài tùy bút, ký sự. (Điều này khá đáng tiếc. Nếu như ông không chuyển cảm hứng và lao động của mình sang thể loại tùy bút thì nền văn học sẽ có thể có thêm những truyện ngắn đặc sắc như Chữ người tử tù). Tuy nhiên, theo một số nhà phê bình thì Nguyễn Tuân với giọng văn sắc sảo, kiến thức sâu rộng của mình đã đóng góp rất nhiều cho thể loại tùy bút, ký sự hiện đại. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(172)</span> Khác với các tác phẩm khác trong sách Giảng văn lớp 12, tác phẩm "Người lái đò sông Đà" là một bút ký, một tùy bút. Đây là thể loại văn học mới và còn rất "kén" người đọc cho nên học sinh rất khó khăn khi phải phân tích về tác phẩm này. Ông có cho rằng sự tiếp cận khó khăn ấy của học sinh đối với tùy bút Người lái đò Sông Đà có phải do đặc điểm thể loại? Đáp: Đúng là đối với học sinh trung học, thể loại tùy bút hay bút ký là một thể loại văn học rất khó tiếp cận vì các tác giả thường "cài" các ý tưởng xã hội, nhân văn rất kín đáo. Nhưng nếu tác phẩm là một thể thống nhất thì người đọc bình thường vẫn có thể cảm nhận được. Tuy nhiên, với tác phẩm này, học sinh dường như bị "đánh đố" và bị "làm cho hiểu lầm" ngay từ cái cái đầu đề người lái đò Sông Đà". Tùy bút có nhiều liên tưởng bất ngờ, nhiều dòng văn xuất chúng, đặc sắc nhưng nhìn tổng thể, theo ý kiến cá nhân tôi, là một "tạp văn" hơn là một tùy bút. Tác giả đã đưa quá nhiều những ý tưởng vào đây, có một số ý tưởng không "liên quan" gì hết với "Người lái đò Sông Đà" cả. Chính vì vậy khi học sinh phân tích mà cứ bám lấy hình ảnh người lái đò thì coi như đã bị "sai một nửa". Có lẽ tác phẩm này chỉ có thể hiểu trọn vẹn được khi chúng ta đọc nó trong không khí, tư tưởng và chủ định của cả tập tùy bút "Sông Đà" của Nguyễn Tuân. Hỏi: Trong hầu hết các đề thi về tác phẩm này, học sinh thường được yêu cầu là phân tích hình tượng người lái đò, chỉ ra và chứng minh những đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Vậy chúng ta chỉ giới hạn những phân tích của mình khi tiếp cận tác phẩm trong hai yêu cầu đó thôi. Tác phẩm này là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn. Đối với báo chí, "tư liệu thực tế" chính là nền tảng của toàn bộ bài báo, đối với văn học thì đó là cảm hứng để người nghệ sĩ tái tạo lại hiện thực ở mức độ cao hơn, nhân bản hơn, vậy còn đối với tùy bút thì "tư liệu thực tế" có ý nghĩa gì? Cụ thể là trong tùy bút Người lái đò Sông Đà? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(173)</span> Tùy bút, bút ký, tản văn... thực ra là một thể loại mới. Thông thường thì nhà báo cảm nhận được "độ sâu của tư liệu" thì nhà báo đó sẽ viết bút ký, hoặc nhà văn đã cảm nhận được "chất liệu" rồi nhưng vẫn chưa tìm được cách sáng tạo "nâng" cái chất liệu đó thành một đời sống sinh động hơn, nhà văn đó sẽ viết tùy bút hoặc tạp văn. Như vậy không cần phải trả lời nữa chúng ta cũng có thể xác định giá trị của những "tư liệu thực tế" đối với thể loại bút ký, tùy bút này. Trong Người lái đò Sông Đà (tôi nhắc lại rằng chúng ta đã tự giới hạn chỉ với hai vấn đề khi bàn về tác phẩm này), thực chất "tư liệu thực tế" không mang lại kết quả nhiều lắm cho tác giả Nguyễn Tuân, với cái trò chơi ngôn ngữ, đôi khi cầu kỳ quá mức, đôi khi lại đơn giản quá mức, đã mang những "kiến thức" mình ưa thích ra "tung hứng"... Tôi sẽ chứng minh điều này ở ngay phần tiếp theo. Hỏi: Sau khi trình bày mục đích đi thực tế của mình, Nguyễn Tuân đã bắt đầu viết bút ký với hình ảnh một ông lái đò Lai Châu nhưng cũng đã "Thôi làm đò cũng đã đôi chục năm nay". Tại sao tác giả lại miêu tả một người đã nghỉ không làm lái đò hai mươi năm rồi? Điều đó có ý nghĩa gì? Đáp: Trong văn học có nhiều cách để gây ấn tượng với người đọc. Nguyễn Tuân muốn trình bày một người lái đò "gắn bó máu thịt" với dòng sông Đà, để con người ấy có thể kể về sông Đà như "kể về lòng bàn tay mình" vậy. Cái ấn tượng "gắn bó" ấy được tác giả thể hiện rất độc đáo ở câu văn tiếp theo. Người lái đò đã nghỉ hai mươi năm không lái đò nữa nhưng công việc ấy, cuộc sống ấy đã ăn sâu vào đời sống, vào tâm hồn, vào cung cách của ông ta. "Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng...nhởn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù". Cái cuống lái ấy không hề "tưởng tượng" tí nào mà nó đã "nhập" vào "đời sống" của ông, trở thành một "điệu bộ" không thể thiếu được đối với suốt quãng đời còn lại của người lái đò. Sự gắn bó của người lái dò với nghề lái đò mật thiết đến mức,.

<span class='text_page_counter'>(174)</span> dù cái công việc "lái đò" thật đã ngưng nhưng cái hình thức của công việc ấy, cái tinh thần của công việc ấy vẫn tiếp tục "lái đò" trong đời sống của ông. Hỏi: Qua một đoạn văn ngắn, người đọc hiểu ngay đó là một người lái đò với tất có ý nghĩa "trọn vẹn" nhất của nghề "lái đò". Nhưng tại sao khi lái đò "ông chỉ muốn cắm thuyền ở chợ Bờ", nơi mà con sông Đà bắt đầu chảy êm ả? Thiết nghĩ, đối với người lái đò thì chỉ cần một con thuyền, mái chèo và một dòng nước là có thể tiến hành công việc của mình? Đáp: Mặc dù tác giả miêu tả sự gắn bó của ông lão với dòng sông, với nghề lái đò hết sức độc đáo như vậy nhưng nếu không có những điểm nhấn khác, rất có thể người đọc sẽ nhầm ông lão lái đò này với bất kỳ ông lão lái đò nào khác, trên những dòng sông khác. Nhưng đây là dòng sông Đà với người lái đò trên dòng sông hùng vĩ này. Thế cho nên, người lái đò có một đặc điểm rất độc đáo là khi nào đến đoạn sông "hết ghềnh hết thác" là ông cũng hết hứng thú với công việc ngay vì "chạy thuyền trên khúc sông không có thác, nó dễ dại tay, dại chân và buồn ngủ". Câu văn này có tính triết lý rất cao. Những khó khăn-ghềnh thác của cuộc sống càng làm cho con người lớn mạnh và chăm chỉ hơn. Sự êm ả, phẳng lặng đôi khi khiến con người ta nhụt ý chí và tự ru ngủ mình. Ông lái đò dường như luôn luôn đam mê đối mặt với những khó khăn, hiểm nguy. Đó là một tính cách mạnh mẽ và anh hùng. Cái tính cách mạnh mẽ ấy không phải ông (và hầu hết chúng ta) có được ngay khi lọt lòng mẹ. Tính cách ấy, ý chí ấy được hun đúc dần dần qua những khó khăn, vất vả của cuộc đời. Ông lái đò thể hiện sự hình thành "tính cách" của mình qua "trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở". Mặc dù là người rất tỉ mỉ khi dùng từ nhưng ở câu văn này, Nguyễn Tuân đã quá dễ dãi khi dùng hai từ "tất cả" đi gần liền nhau trong một câu văn mà không tạo thêm ấn tượng nào cả. Tuy nhiên, ở câu văn mô tả nghề lái đò tiếp sau, Nguyễn Tuân lại cho thấy khả năng dùng từ lão.

<span class='text_page_counter'>(175)</span> luyện của mình: "Làm cái nghề vận tải đường nước này thật là vất vả, người cứ dựng đứng lên mà luôn tay luôn chân luôn mắt luôn gân và luôn tim nữa". Công việc đòi hỏi toàn bộ sức lực toàn bộ ý chí, toàn bộ tình cảm mơ ước. Đó là đòi hỏi tất yếu không chỉ của nghề lái đò mà còn là sự đòi hỏi của bất kỳ công việc nào. Khi chúng ta làm bất cứ việc gì, để đạt được thành công, chúng ta cũng phải "luôn tay luôn chân luôn mắt luôn gân và luôn tim nữa". Hỏi: Trong cảnh hoang sơ của núi rừng ven sông lúc bấy giờ, sông Đà gầm réo với muôn ngàn ngọn thác lớn nhỏ, cuồn cuộn, hung dữ, cuốn phăng đi mọi thứ trên song. Những con thác "dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gần ghè suốt năm". Đọc câu văn người ta có cảm giác tầng lớp sóng mãnh liệt, liên hồi bất tận dội ào ạt. Phải chăng đoạn văn này thể hiện cái tài đặc biệt của Nguyễn Tuân? Đáp: Sự liên kết, tiếp nối các hình ảnh trong một chuỗi hành động liên tục, không dứt "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió" là một cách thể hiện rất hiếm khi gặp trong văn học hiện đại. Chuỗi liên kết như vậy tạo ra một sức nặng đặc biệt khiến người đọc có cảm giác như chính mình bị "xô" bị "đẩy" vào cái chuỗi hành động miên man ấy. Tuy nhiên, cái tài của Nguyễn Tuân thể hiện ở một điều khác. Ông miêu tả "Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", hay "Những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Tác giả đã dùng những hình ảnh dữ dội nhưng quen thuộc với độc giả để miêu tả cái dữ dội và hiểm nguy của thiên nhiên. Thực tế là sự hung dữ này cũng đã nhấn chìm bao nhiêu con thuyền rồi. Khi đọc đoạn văn ngắn này, hẳn một người lái đò "non tai" sẽ không còn đủ can đảm để mơ lái thuyền trên dòng sông ấy. Nhưng dòng sông cũng như cuộc sống vậy, nếu anh không đủ can đảm, không đủ sức mạnh, thác lũ sẽ nhấn chìm anh ngay. Hỏi:.

<span class='text_page_counter'>(176)</span> Tác phẩm đang miếu tả dòng sông Đà với những thác nước khốc liệt của mình thì tác giả đột nhiên kể đến chuyện về một anh bạn quay phim sông Đà. Theo ông, mẩu chuyện này có cần thiết không? Đáp: Không thừa. Sau khi đã miêu tả kỹ càng sự "gào rống" của những thác nước hung dữ, tác giả muốn có một cái nhìn "cận cảnh" hơn với những thác lũ ấy. Do đó nên mới có mẩu chuyện về anh quay phim. "Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn". Sau khi miêu tả tính cách của người lái đò cùng sự hiểm nguy của những con thác cuồng loạn, tác giả đưa ra ý tưởng của tác phẩm một cách trực tiếp, rõ ràng: "cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với với thiên nhiên" và chiến đấu khốc liệt như vậy là "để giành sự sống từ tay nó về tay mình" Hỏi: Tác phẩm tiếp tục với sự miêu tả cụ thể một chuyến "lái đò vượt thác". Sự hung dữ của thiên nhiên được miêu tả trực tiếp hơn, dữ dội hơn, và ấn tượng hơn". Tiếng nước réo gầm mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách ai, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo"... Dường như tác giả đã miêu tả cảnh tượng giống như một chiến trường khốc liệt vậy? Đáp: Đúng vậy. Đoạn văn này đầy những động từ mạnh và những âm thanh vang dội, gào thét. Tất cả giống như một bãi chiến trường kinh hoàng với hàng ngàn kẻ thù "trắng xóa" vây quanh con người. "Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá truông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Câu văn hỗn loạn thật sự. Những hình ảnh hoang dã pha trộn.

<span class='text_page_counter'>(177)</span> vào nhau trong một thứ hỗn hợp nước lửa kinh hoàng. Trong câu văn này, có lẽ chính tác giả cũng bị cái hỗn loạn, cái hoang dã của thiên nhiên làm cho mất phương hướng. Do đó chúng ta thực sự rất khó phân biệt được rõ ràng các thành phần của câu văn này. Có lẽ khi viết đến đoạn này, tác giả đã bị cảm xúc mãnh liệt cuốn đi mà vô tình quên "chăm chút" cho câu văn. Nhưng chính vì thế mà khiến chúng ta lại càng tin hơn vào niềm cảm xúc ấy. Hỏi: Sự hiểm nguy tăng lên khi những thác nước hoang dã mặc sức tung hoành cùng bao nhiêu bãi đá ngầm, vách đá lởm chởm. "Thấy bọt trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông.... mỗi lần có chiếc (thuyền) nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền". Những hình ảnh quả thực hết sức sinh động và dữ dội. Tại sao ở đoạn văn tiếp theo, đoạn văn hay nhất của tùy bút, tác giả lại liên tưởng đến "Thạch trận"? Đáp: Mặc dù có nhiều người thường tấm tắc khen sự so sánh, sự liên tưởng này là độc đáo, nhưng tôi cho rằng Nguyễn Tuân đã làm giảm bớt giá trị của tác phẩm khá nhiều khi có sự liên tưởng ấy. Trong văn hóa phương đông, Thạch trận nổi tiếng nhất, dữ dội nhất và huyền bí nhất là Thạch trận do Khổng Minh bày ra. Chắc chắn, sự huyền bí và quái lạ của trận thế này đã khiến Nguyễn Tuân rất thích thú và cho nó vào tác phẩm của mình. Tuy nhiên, với cái tứ Người lái đò sông Đà cùng những dòng văn dữ dội ở đoạn đầu của tác phẩm, Nguyễn Tuân lẽ ra đã có quá đủ điều kiện để mô tả một cuộc chiến đấu giữa con người và thiên nhiên thật ấn tượng mà không cần vay mượn hình ảnh từ nền văn học Trung Hoa. Hỏi: Đúng là khi liên tưởng đến Thạch trận và trận đồ như trong các sách văn học cổ Trung Hoa, tác phẩm đã phần nào không xứng đáng với cái cốt truyện, với cái tư liệu sống dữ dội mà tác giả thu nhận được... Tác giả miêu tả.

<span class='text_page_counter'>(178)</span> chiếc thuyền lọt vào giữa Thạch trận với hàng ngàn viên đá lởm chởm dường như luôn chuyển động cộng với tiếng thác nước gào thét tạo ra cho chúng ta một cảm giác con thuyền bị nguy khốn không có đường ra! Đáp: Đúng là có cảm giác ấy. Tác giả đã "đẩy" con thuyền vào tình trạng nguy nan nhất để làm bộc lộ tính cách về lòng quả cảm của người lái dò. "Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận đang phóng thẳng vào mình". Hình ảnh ông bình tĩnh, chắc chắn nổi bật lên trên sự hỗn loạn ấy dù: "Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời.... Sóng thác đã đánh đến miếng đòn độc hiểm nhất..." Con thuyền giữa phong ba, bão táp và đá ngầm nhưng vẫn vững vàng vì vẫn "nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái". Hỏi: Trong cuộc chiến gian nguy ấy con người đã "không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và thay đổi chiến thuật". Con người đã vượt qua những gian khổ đó bằng ý chí kiên cường của mình? Đáp: Ý chí kiên cường không thì chưa đủ. Con người phải có tri thức, có kinh nghiệm để thấu hiểu những khó khăn ấy. Đối với ông lái dò, ông đã quá "thuộc" những ghềnh thác trên dòng sông hiểm trở này. Điều đó tạo cho ông niềm tin vượt qua được những thử thách đấy... "nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy", rồi "Đứa (sóng) thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Sự điềm tĩnh, hành động dứt khoát mà ông lái đò vượt qua thế trận của thác nước và đá ngầm, chính là cái điềm tĩnh của một người có tri thức, có kinh nghiệm đứng trước khó khăn của cuộc đời. Để cho không có bất kỳ một khó khăn gian khổ nào của cuộc đời làm chúng ta kinh hãi, điều duy nhất là chúng ta phải có thật nhiều tri thức....

<span class='text_page_counter'>(179)</span> Hỏi: Đoạn văn đầy những động từ mạnh, những hình ảnh hỗn độn hệt như một trận chiến thực sự. Trong cuộc chiến với thiên nhiên hoang dã, hay cao hơn là cuộc chiến với chính số phận của mình, nếu chỉ run sợ trong một khắc giây, con người sẽ bị nhấn chìm ngay. Hình ảnh ông lái đò đã cho chúng ta thấy chúng ta có thể thắng, phải thắng và thắng như thế nào đối với những gian khó của số phận. Tác giả đã đúc kết lại hình ảnh người lái đò như thế nào sau cuộc chiến đấu kinh hoàng ấy? Đáp: Đối với người lái đò thì hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống của ông ta. Khi vượt qua gian nguy "Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá đầm xanh... Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua". Đối với người lái thuyền, vượt qua ngọn thác không phải là điều gì quá đặc biệt, không phải là chiến thắng bởi vì "khi chưa vượt thác ông đã "biết trước sẽ vượt qua nó an toàn". Đó chính là tính cách đặc biệt của người lái đò. Ông có được niềm tin ấy vì ông - người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà". Có thể Nguyễn Tuân còn có những ý tưởng khác gửi gắm trong câu văn này, nhưng cái ý nghĩa lớn nhất của nó đã hiển lộ ngay trong cách vượt thác của người lái đò. Hỏi: Hình ảnh người lái đò đã được "đóng lại" trong câu văn vừa rồi. Tác phẩm vẫn tiếp tục một đoạn rất dài nữa với những kỷ niệm, những cảm xúc lan man, cùng những hiểu biết của tác giả về dòng sông Đà.... Theo ông, qua đoạn trích mà chúng ta vừa phân tích, người đọc có thế cảm nhận được gì từ cách viết của Nguyễn Tuân? Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(180)</span> Trong đoạn văn chúng ta vừa phân tích, tác giả thực sự có lối viết phóng khoáng, tự do, sự liên tưởng rất mạnh mẽ. Hiếm có tác phẩm nào mà lại chứa đựng nhiều hình ảnh ấn tượng đến vậy. Ngôn ngữ hoạt bát, đôi lúc cầu kỳ, đôi lúc lại thô sơ nhưng rõ ràng là đoạn văn này thể hiện rất đúng phong cách của tác giả. Có những câu văn thăng hoa, tác giả dùng diệp từ, hay chuỗi hình ảnh liên kết rất độc đáo. Theo tôi, đoạn văn miêu tả hình ảnh người lái đò có giá trị biểu cảm hơn cả một truyện ngắn thực thụ. Tiếc là tác giả lại không viết truyện ngắn, một thể loại làm nên danh tiếng của mình mà lại "phung phí" chất liệu quý giá ấy vào một bài tùy bút lan man, chứa đựng quá nhiều những ý tưởng khác nữa. Xin chân thành cam ơn nhà thơ!. Tác phẩm: TÂY TIẾN (Thơ) Tác giả: Nhà thơ QUANG DŨNG Nhà thơ NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH phân tích Nhà thơ Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại Phượng Trì, Đan Phượng, Hà Tây. Quang Dũng viết khá ít, chủ yếu là truyện ngắn, ký sự. Nhưng với tập thơ Mây đầu ô xuất bản đúng vào năm (1986) đất nước bắt đầu có sự thay đổi mạnh mẽ, đã tạo dựng cho Quang Dũng một vị trí hết sức đặc biệt trong nền thơ ca hiện đại. Trong tập thơ đó, bài thơ Tây Tiến, được viết từ năm 1948, là tác phẩm nổi bật nhất. Bài thơ giống như một đám mây mùa hạ, đầy gió, đầy âm thanh, đầy ánh sáng. Những hình ảnh dữ dội, trần trụi, thô ráp nhưng lại dựng lên một đời sống hết sức kiêu hùng, thi vị của người lính. Đó chính là điều đặc biệt nhất trong nghệ thuật thơ ca của Quang Dũng. Hỏi: Trong nền văn học cách mạng, bài thơ Tây Tiến có một vị trí vô cùng đặc biệt. Thậm chí khi hỏi nếu chọn mười bài thơ đặc sắc nhất được viết trong những năm kháng chiến thì đó sẽ là những bài thơ nào, nhiều người đã.

<span class='text_page_counter'>(181)</span> dành cho Tây Tiến một vị trí trang trọng. Điều gì đã tạo nên sự độc đáo, khác biệt của tác phẩm này so với hầu như toàn bộ các tác phẩm của các nhà thơ khác được viết ra cùng thời? Đáp: Bài thơ Tây Tiến quả là có sức hút rất kỳ lạ đối với độc giả, những hình ảnh trần trụi, thô nháp tạo ra ấn tượng mạnh, cùng sự lãng mạn một cách kiêu hùng trong hình tượng các tử sĩ. Mà chúng ta nên nhớ rằng bài thơ được viết đúng vào năm 1948, khi mà hầu hết độc giả rất khó chấp nhận cảm hứng lãng mạn kiêu hùng này. Thế nhưng cùng với thời gian, bài thơ Tây Tiến ngày càng minh chứng được sức sống kỳ lạ của mình. Ngày nay, những nhà nghiên cứu lịch sử văn học luôn nhắc tới tác phẩm này trong bất cứ vấn đề gì về thi ca hiện đại. Nội dung, hình thức và cảm xúc thơ ca mãnh liệt của Tây Tiến có thể trở thành chủ đề của bất kỳ cuộc tranh luận nghệ thuật nào. Không những có giá trị nghệ thuật, Tây Tiến còn là một trong những tác phẩm nghệ thuật hiện đại hiếm hoi có thể biểu hiện chân thực nhất tính cách, cảm xúc của chính tác giả viết ra nó. Quang Dũng, với một chút lãng mạn thị dân, một chút kiêu hùng của xứ sở đã viết nên bài thơ này. Đây cũng là một yếu tố tạo nên cho tác phẩm sự hấp dẫn đặc biệt. Hỏi: Đúng là chúng ta có quá ít những tác phẩm chân thực, có thể lột tả đúng tính cách của người viết ra chúng. Trở lại với Tây Tiến, Quang Dũng đã bắt đầu bài thơ bằng một nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy hiện lên như một tiếng gọi, tiếng vọng của ký ức. Đoàn quân Tây Tiến ấy đã hiện lên như thế nào trong đoạn đầu của bài thơ? Đáp: Nhiều người cho rằng Quang Dũng khi nhớ đơn vị cũ nên viết bài thơ này. Điều đó cũng đúng nhưng không đủ và đó không phải là lý do chính khiến cho cảm xúc của Quang Dũng trào dâng. Tôi nghĩ rằng cái phong vị.

<span class='text_page_counter'>(182)</span> lãng mạn kiêu hùng mà Quang Dũng đã cảm nhận được mới chính là động lực cho tác giả viết bài thơ này. Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơn Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Câu đầu giống như một tiếng gọi, một tiếng "thở than" tâm sự. Nhưng chúng ta phải chú ý rằng "Sông Mã" cái địa danh mà đoàn quân đã chiến đấu ở đó được đặt lên đầu câu, do đó nó được nhấn mạnh chứng tỏ rằng cảm xúc của tác giả đã trở lại "bãi chiến trường" mà đoàn quân đã từng trải qua. Nếu nỗi nhớ đoàn quân thì "Tây Tiến" phải được đặt lên đầu câu. Đây là phép logic thông thường của ngôn ngữ. Câu thơ thứ hai đã làm sáng tỏ "nỗi nhớ ấy." Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi. Nỗi nhớ "ơi" đã "chơi vơi" trong những cánh rừng bạt ngàn, những ngọn núi sừng sững. Những hình ảnh, những kỷ niệm mênh mông, rộng lớn đến mức ngay cả nỗi nhớ cũng không thể đo hết tầm cao rộng của chúng cho nên nỗi nhớ phải "chơi vơi". Điều đó chứng tỏ có quá nhiều những gian nan mà đoàn quân đã phải trải qua. Hỏi: Trong khổ thơ đầu này, Quang Dũng đã sử dụng rất nhiều tên riêng như Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luồng, Mường Hịch, Mai Châu. Đây là một cách viết rất khó vì những tên riêng ấy thường làm cho bài thơ bị khô đi, nhịp điệu bài thơ bị đứt gãy. Điều gì khiến Quang Dũng vừa sử dụng được những tên riêng ấy lại vừa tạo ra nhịp điệu sống động của bài thơ? Đáp: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Không những sử dụng tên riêng, Quang Dũng còn để tên địa danh ngay ở đầu câu thơ như trong hai câu thơ trên. Điều đó khiến cho nỗi nhớ "chơi vơi" trở nên thực hơn. Hình ảnh "sương lấp đoàn quân mỏi", "hoa về trong đêm hơi" đầy chất lãng mạn và kiêu hùng. Đoàn quân ấy giống như "thiên binh" xuất hiện từ trong sương trắng để thực hiện những việc đạo nghĩa..

<span class='text_page_counter'>(183)</span> Hỏi: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Hun hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Khi phân tích những câu thơ này, đa số các nhà phê bình chỉ tìm thấy cái ý nghĩa gian lao, vất vả của đoàn quân Tây Tiến. Đoàn quân ấy đã trải qua những thử thách không chỉ từ kẻ thù mà còn từ thiên nhiên. Theo ông, ngoài ý nghĩa trên, những câu thơ này còn có thể chứa đựng ý tưởng gì khác? Đáp: Trong thơ của chúng ta nói riêng và thơ phương đông nói chung, cái chiều "ngang" của bài thơ rất rộng. Điều mà các nhà phê bình gọi là trục "hoành" trong bài thơ. Thế nhưng cái thiếu nhất của thơ phương đông chính là cái "trục tung" thẳng đứng ấy. Các bài thơ không có được sự sống động và có chiều kích không gian rộng lớn, mặc dù chỉ đơn thuần về hình thức thôi. Nhưng với "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống" tương ứng với "dốc thăm thẳm" và "cồn mây" đã tạo cho khổ thơ một chiều không gian mở rất là rộng lớn. Trong cái không gian mở đó, hình tượng "súng ngửi trời" nổi bật lên giống như "trục hoành" cắt ngang "trục tung" đó. Đoạn thơ này thể hiện kỹ năng thơ ca cực kỳ tinh tế của Quang Dũng. Chỉ bằng ba câu thơ này thôi, hình ảnh gian truân nhưng rất kiêu hùng của người chiến binh Tây Tiến được miêu tả trọn vẹn. Hỏi: Cảm hứng của bài thơ đang "tung hoành" như vậy bỗng nhiên Quang Dũng lại đột ngột hạ cái nhịp điệu thơ ào ạt ấy xuống thật nhanh Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Câu thơ dùng toàn âm bằng khiến cho cảm xúc của độc giả chùng hẳn xuống. Rõ ràng đây là một câu thơ có chú ý rất đặc biệt của tác giả. Theo.

<span class='text_page_counter'>(184)</span> ông, Quang Dũng đã gửi gắm điều gì qua sự biến đổi đột ngột nhịp thơ như vậy? Đáp: Câu thơ toàn âm bằng ấy, như một nốt nhạc trầm lắng. Người đọc có cảm giác bài thơ đang chuẩn bị có một điều gì đó, trọng đại, thiêng liêng. Và hình ảnh nối tiếp của bài thơ thật sự xúc động, thật sự mãnh liệt nhưng hoàn toàn bất ngờ đối với nội dung của những câu thơ trên Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Tôi nói không bất ngờ là vì "rõ ràng" người lính gục ngã ở đây không phải vì tiếng súng của kẻ thù mà là vì điều kiện sống vô cùng khắc nghiệt. Sự "dãi dầu" đã nói lên tất cả ý nghĩa đó. Người lính "gục lên súng mũ" chứng tỏ cái súng ấy, cái mũ chưa đội ấy cùng người lính không phải ở trong trạng thái đối mặt với kẻ thù trên chiến trường. Cái khắc nghiệt của thiên nhiên đã làm hao tổn sức lực của đoàn quân này. Hỏi: Vẻ hoang sơ, khốc liệt của thiên nhiên, của rừng núi được miêu tả rất rõ ràng trong hai câu thơ tiếp theo: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Tại sao Quang Dũng vẫn muốn miêu tả kỹ sự khốc liệt của thiên nhiên? Đáp: Chúng ta phải chú ý vào cách dùng từ của Quang Dũng. Hai từ láy "chiều chiều" và "đêm đêm" nói lên sự liên hoàn không ngừng nghỉ của những gian khổ đó. Đặc biệt khi chúng lại được dùng ở đầu mỗi câu thơ tạo cho chúng ta cái cảm giác những gian truân chồng chất lớp lớp không ngừng. Tiếng "gầm thét" dữ dội của những con thác hoang dã cũng hiểm nguy không kém tiếng cọp hoang rống lên trong rừng thẳm. Hai câu thơ chứa đầy những.

<span class='text_page_counter'>(185)</span> âm thanh dữ tợn náo động tâm hồn người đọc. Bằng cách này, Quang Dũng muốn đóng lại cái cảm xúc về sự gian truân của đoàn quân phải trải qua để bước sang một lớp cảm xúc mới, những loạt hình ảnh chứa đựng một trường ý nghĩa mới. Hỏi: Nhưng khổ thơ đầu vẫn chưa kết thúc ở hình ảnh dữ dội đó. Tại sao Quang Dũng lại kết khổ thơ đầy những âm thanh ghê gớm, đầy những hình ảnh hoang dã bằng hai câu thơ rất nhẹ nhàng và giản dị như vậy? Đáp: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Hai câu thơ thật đẹp, thật giản dị về cuộc sống thường nhật của người dân miền Tây Bắc. Theo tôi, Quang Dũng dùng hai câu thơ này để kết thúc khổ thơ thứ nhất là có ý muốn cho độc giả hiểu rằng, những gian truân chồng chồng chất chất như thế cũng không thể xua đi những ký ức đẹp đẽ lãng mạn trong tâm hồn chiến binh Tây Tiến. Hỏi: Hình tượng lãng mạn của những chiến binh Tây Tiến được thể hiện rất rõ trong những câu thơ tiếp theo. Tại sao trong hoàn cảnh chiến tranh, trong sự gian nan chồng chất, Quang Dũng lại tạo ra hội đuốc hoa với nhân vật trung tâm là những chiến binh như vậy? Điều này có đi ngược lại chủ đề chính của tác phẩm hay không? Đáp: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

<span class='text_page_counter'>(186)</span> Những câu thơ tràn đầy niềm nở và sự phóng túng, lãng mạn. Chúng ta phải lưu ý rằng ngày "hội đuốc hoa" của các chiến binh ấy có sự tham dự của nhân dân ở những vùng đoàn quân làm nhiệm vụ. Cái ngày hội giữa "quân" và "dân" ấy vẫn diễn ra thường xuyên cho dù chiến tranh có ác liệt đến đâu. Sự gắn bó "quân dân" đã tạo nên những niềm vui lớn thực sự. Trong niềm vui ấy, trong tiếng khèn dìu dặt, điệu vũ cuồng nhiệt của đồng bào miền Tây Bắc, tâm hồn những chiến binh phơi phới, chứa chan những cảm xúc thơ ca. Cảm xúc thơ ca chỉ đến với con người khi tâm hồn con người thư thái, tự do, không lo nghĩ, vướng bận điều gì. Giữa khung cảnh ấy, giữa cuộc sống "doanh trại" ấy, Quang Dũng vẫn thấy được cảm hứng thơ ca xuất hiện. Đó chính là lời ca ngợi tuyệt đẹp dành cho cuộc sống tinh thần của đoàn quân ấy. Vẻ đẹp ấy, niềm tin ấy của tâm hồn họ đã lan tỏa vào cuộc sống của người dân, lan tỏa vào cả những vất vả gian nan mà cuộc sống thường nhật đã tạo ra. Hỏi: Trái với cảnh thiên nhiên hoang da ở trên, bốn câu thơ tiếp theo, Quang Dũng đã miêu tả cái vẻ đẹp "phất phơ" của thiên nhiên Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Tại sao đang trong ngày "hội đuốc hoa" tác giả lại nhớ đến cái vẻ đẹp lụi tàn, thoáng chốc của những ngọn lau trắng phất phơ bên bờ suối? Đáp: Không phải tác giả nhớ đến những "hồn lau" sắp lụi tàn mà chính cái vẻ đẹp đề cập ở đoạn trên đã phả sức mạnh của mình vào những bờ lau. Với niềm vui ấy, với vẻ đẹp ấy thì sự hoang dại của thiên nhiên không còn gì là nguy hiểm nữa. Hình tượng "hồn lau nẻo bến bờ" rất đặc biệt. Chữ "nẻo" ở đây có giá trị biểu cảm rất lớn. người đi Chầu Mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ". Có nhà phê bình đã phân tích rằng hồn lau biểu hiện cho hồn tử sĩ. Tác giả đã hoài nhớ những đồng đội đã ngã xuống qua câu thơ.

<span class='text_page_counter'>(187)</span> này. Tuy nhiên, đó chỉ là một ý rất nhỏ. Tôi vẫn cho rằng Quang Dũng đã thấy những ngọn lau phất phơ thấm đượm niềm vui lãng mạn của các chiến binh. Điều này còn được khẳng định qua hai câu thơ tiếp theo; Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Đi thuyền độc mộc trên dòng nước lũ là một điều đặc biệt nguy hiểm. Cơn lũ cuồng nộ có thể nhấn chìm con thuyền mong manh, nhỏ nhoi bất cứ lúc nào. Thế nhưng trên con thuyền độc mộc ấy, cái "dáng người" đã bất chấp tất cả gian nguy, chế ngự tất cả, khiến cho "dòng lũ" ấy trở thành dòng "hoa đong đưa". Chính con người ấy, bằng niềm vui, niềm tin trong nghĩa vụ của mình, đã khiến cho cả dòng lũ thành dòng hoa và tất nhiên cả những "bờ lau" cũng cuốn theo vẻ đẹp đó. Hình ảnh con người hiện lên đã chế ngự thiên nhiên, biến thiên nhiên giận dữ thành những tràng "hoa đong đưa" vui vẻ. Hỏi: Khác với "hội đuốc hoa, với "hoa đong đưa", ơ khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đột ngột thay đổi cách biểu đạt cảm xúc. Nhưng hình ảnh không còn có vẻ "hoa mỹ" nữa mà thật thô ráp, trần trụi và dữ dằn, một hình ảnh thơ như một khối đá trụi trần đập mạnh vào người đọc Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Tại sao tác giả lại miêu tả hình ảnh chiến binh Tây Tiến dữ dằn như vậy? Đáp: Quang Dũng là một nhà thơ lãng mạn theo đúng nghĩa của khái niệm này. Thế nhưng ông không thể không nhận ra một thực tế rằng cuộc chiến nào cũng vô cùng khắc nghiệt và gian khổ. Những người lính có tâm hồn mơ mộng nhưng tác giả không thể tiếp tục "tả" họ như những thư sinh được. Nếu làm vậy, nó sẽ thành những nét hí họa trong cái phông khắc nghiệt của chiến.

<span class='text_page_counter'>(188)</span> tranh. Quang Dũng đã trung thực với cảm xúc của mình. Những chiến binh đầu "không mọc tóc", trông "dữ oai hùm" thực sự gây ấn tượng quá mạnh với người đọc. Người chiến binh Tây Tiến, khi ở với đồng bào mình thì lãng mạn, thì mơ mộng... nhưng khi phải đối mặt với quân thù thì họ vụt trở nên mạnh mẽ và dữ dội. Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Ngay cả trong những khao khát riêng tư này, Quang Dũng cũng miêu tả các chiến binh rất mãnh liệt. Một số người thường phân tích rằng câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" là biểu hiện rõ nhất chất lãng mạn, tài tử của các chiến binh Tây Tiến. Nhưng diều đó không đúng. Cái "mắt trừng" ấy, cái "đêm mơ" ấy lại càng chứng tỏ nhiệm vụ của họ đang rất khốc liệt, rất hiểm nguy. "Mắt trừng gửi mộng" là một "hành động" dứt khoát và gấp gáp. Họ chỉ có rất ít thời gian dành cho những khao khát riêng tư vì kẻ thù vẫn còn trước mặt. Hỏi: Thông thường, khi đọc những bài thơ, những câu văn viết về cái chết, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người đọc cũng cảm thấy một mối thương cảm, bồi hồi. Nhưng trong bốn câu thơ tiếp theo, Quang Dũng đã không cho người đọc cái cảm giác thông thường ấy. Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Người đọc cảm nhận được một khúc kèn dữ dội, chói chang. Hình ảnh "áo bào thay chiếu" nó gợi cho người đọc liên tưởng rằng, dù đã chết nhưng những chiến binh ấy vẫn "tiếp tục" chiến đấu với quân thù. Đáp:.

<span class='text_page_counter'>(189)</span> Đoạn thơ này đúng là một đoạn thơ hiếm hoi viết về sự hi sinh, sự hi sinh thật dữ dội nhưng không tạo cho người đọc những cảm xúc thông thường khác. Điều đó là vì sao? Chính là vì những chiến binh kiêu hùng ấy đã hiểu rõ bổn phận và lý tưởng của mình. Một khi đã xác định rõ lý tưởng của mình thì việc hiến thân cho lý tưởng đó cũng là điều hết sức bình thường. Chính vậy mà những chiến binh trẻ trung ấy không hề "tiếc đời xanh". Ở đây tôi xin tất cả chúng ta một phút. Hãy im lặng. Hãy lắng nghe tiếng gầm thống thiết, bi hùng của sông Mã. Mỗi khi tôi đọc câu thơ "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" là cảm xúc của tôi lại tràn đầy. Những cái chết vinh quang độc "chiêu hồn" trong tiếng gầm vang dội và hùng vĩ của thiên nhiên. Tôi không đồng ý với cách chú giải của các nhà soạn sách giáo khoa khi giải thích câu thơ này có liên tưởng đến chuyện Kinh Kha hành thích Tần Thủy Hoàng xưa để chứng tỏ chất bi hùng của đoàn quân. Không phải vậy. Tiếng "gầm lên khúc độc hành" của thiên nhiên không có cảm giác thê lương, lạnh lẽo như dòng sông Dịch xưa kia. Thiên nhiên ở đây ấm áp, sôi sục tiễn đưa những người con vinh quang đã ngã xuống trong lòng đất mẹ. Hỏi: Sau tiếng gầm vang dội của thiên nhiên như vậy, bài thơ dường như đã có thể kết thúc tại đó khi ý tưởng, cảm xúc của tác giả đã được biểu hiện trọn vẹn. Ông có cho rằng bốn câu thơ cuối cùng có thực sự cần thiết với bài thơ không? Đáp: Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Đúng là sau khi đọc hết câu thơ "Sông Mã gầm lên khúc độc hành", người đọc đã có thể hiểu trọn vẹn ý tưởng, cảm xúc của nhà thơ. Thế nhưng một tác phẩm nghệ thuật không chỉ đòi hỏi sự trọn vẹn của ý tưởng, trọn vẹn.

<span class='text_page_counter'>(190)</span> của cảm xúc mà còn đòi hỏi sự trọn vẹn của hình thức thể hiện. Đó là lý do tại sao Quang Dũng viết thêm bốn câu thơ trên. Chúng ta nên nhớ rằng hai câu đầu "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi/ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi" dường như "tách khỏi" hẳn với phần còn lại của bài thơ. Chính vậy bốn câu thơ sau cùng được viết để "đóng lại" cái cảm xúc ban đầu. Hỏi: Cái cảm xúc ban đầu không phải là nỗi nhớ đoàn quân Tây Tiến sao? Đáp: Không. Như tôi đã nói "đối tượng trữ tình" của nỗi nhớ không hẳn là đoàn quân Tây Tiến mà là cuộc sống nơi đoàn quân ấy thực hiện lý tưởng của mình. Cái nỗi nhớ ấy không phải chỉ riêng "một mình" tác giả nhớ, mà là nỗi nhớ của "tất cả các chiến binh" trong đoàn quân ấy. "Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi". Cái khoảng cách của nỗi nhớ đã không còn nữa. Tất cả đã trở thành một trong đời sống tâm hồn của người chiến binh và của người dân miền Tây Bắc. Đó chính là ý nghĩa của tình quân dân. Xin chân thành cảm ơn nhà văn!. MỤC LỤC Lời nói đầu - Tác phẩm: VỢ NHẶT (truyện ngắn) - Tác phẩm: TRÀNG GIANG (thơ) - Tác phẩm: CÁC VỊ LA HÁN CHÙA TÂY PHƯƠNG (thơ) - Tác phẩm: VIỆT BẮC (thơ) - Tác phẩm: KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU (thơ) - Tác phẩm: BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG (thơ) - Tác phẩm: VỢ CHỒNG A PHỦ (truyện ngắn).

<span class='text_page_counter'>(191)</span> - Tác phẩm: MÙA LẠC (truyện ngắn) - Tác phẩm: ĐẤT NƯỚC (trích trường ca) - Tác phẩm: ĐẤT NƯỚC (thơ) - Tác phẩm: SÓNG (thơ) - Tác phẩm: TIẾNG HÁT CON TÀU (thơ) - Tác phẩm: ĐÔI MẮT (truyện ngắn) - Tác phẩm: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (bút ký) - Tác phẩm: TÂY TIẾN (thơ) ---//--VĂN LỚP 12 TÁC GIẢ NÓI VỀ TÁC PHẨM Nhiều tác giả Nhóm Ban Mai thực hiện HOAN NGHÊNH BẠN ĐỌC GÓP Ý PHÊ BÌNH NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 161B Lý Chính Thắng - Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: 9316211 - 8465595 - 8465596 - 9316289 Fax: 84.6.8437450 E-mail: Website: CHI NHÁNH NHÀ XUẤT BẢN TRẺ TẠI HÀ NỘI Số 20 ngõ 91 Nguyễn Chí Thanh – Quận Đống Đa - Hà Nội ĐT: (04) 7734544 - Fax: (04) 7734544 E-mail: Chịu trách nhiệm xuất bản: TS. QUÁCH THU NGUYỆT Biên tập: ÁNH TUYẾT Bìa: BÙI NAM.

<span class='text_page_counter'>(192)</span> Sửa bản in: HOÀNG MAI Kĩ thuật vi tính: XUÂN THẾ Khổ 14x20cm. Số 20-2006/CXB/310-272/ĐKKH/Tre. Quyết định xuất bản số: 60A/QĐ-Tre, ngày 16 tháng 01 năm 2006. In 2.000 cuốn, tại Xí nghiệp In Nguyễn Minh Hoàng. Địa chỉ: 100 Lê Đại Hành, P.7, Q.11, TP HCM. ĐT: 8555812. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01 năm 2006..

<span class='text_page_counter'>(193)</span>

×