Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tài liệu Những công tác cơ bản trong phòng thí nghiệm hóa học docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.72 KB, 12 trang )

Những công tác cơ bản trong phòng thí nghiệm hóa học.
Các công tác cơ bản trong PTN hóa học là cắt và uốn ống thủy tinh, chọn và khoan nút,
lắp và sử dụng các dụng cụ TN, hòa tan, lọc, kết tinh, pha chế dung dịch hóa chất, rửa
bình, lọ, đun nóng, bảo quản hóa chất, bảo hiểm trong PTN hóa học.
I. Cắt và uốn ống thủy tinh:
1. Chọn ống thủy tinh:
Ở PTN trường PT thường hay dùng loại ống thủy tinh có đường kính 4 - 6 mm và có bề
dầy 1 - 2 mm. Các loại ống thủy tinh sản xuất trong nước có thể đảm bảo được yêu cầu
này của PTN.
2. Cắt ống thủy tinh:
a. Loại ống thủy tinh có đường kính dưới 10 mm: Dùng dũa sắt có cạnh, giũa ngang chỗ
định cắt thành một vệt nông và bôi ngay nước lạnh vào vết cắt. Dùng hai tay nắm chặt
ống gần chỗ vết cắt, hai ngón tay cái đặt đối diện với nhau, cách nhau 2 cm, dứt ngang về
hai phía thì vệt cắt ở ống thủy tinh sẽ phẳng. Không nên bẻ gập ống thủy tinh thì vệt cắt
sẽ không thẳng. Sau khi cắt nên hơ nóng vệt cắt trên ngọn lửa đèn cồn để không còn cạnh
sắc.
b. Loại ống thủy tinh có đường kính từ 10 - 30 mm cũng dùng giũa có cạnh, giũa ngang
chỗ định cắt thành một vệt dài 3 - 4 mm, lập tức bôi ít nước lạnh vào vết giũa đó. Hơ
nóng đỏ một đầu đũa thủy tinh đã vuốt nhọn và đặt đầu đũa này vào gần vết cắt, ống sẽ
đứt hẳn ra.
3. Uốn ống thuỷ tinh:

Ở đây trình bầy kỹ thuật uốn ống thuỷ tinh trên đèn cồn, vì công việc uốn ống thuỷ tinh
ở các trường PT là rất cần thiết và thường chỉ được tiến hành với đèn cồn.
Ống thuỷ tinh cần được rửa sạch và để khô trước khi đem uốn. Khi uốn ống thuỷ tinh,
tay trái đỡ ống, tay phải cầm ống và dung ngón tay cái cùng với ngón tay trỏ xoay đều
ống trên chỗ nóng nhất của ngọn lửa đèn cồn. Cần hơ nóng đều một đoạn ống dài bằng
chiều dài của cung uốn, sau đó mới hơ nóng tập trung vào một chỗ. Khi uốn ống thuỷ
tinh nóng đỏ và mềm ra thì dung hai tay uốn nhẹ từ từ. Sau đó di chuyển ống thuỷ tinh đi
một chút và tập chung hơ nóng vào chỗ bên cạnh và tiếp tục uốn nhẹ. Từ lúc ống đã bắt
đầu bị uốn cong thì chỉ hơ nóng và xoay phía cong bên trong để ống khỏi có nếp gấp.


Không nên chỉ hơ nóng và uốn cong tại một điểm, làm như thế ống sẽ bị bẹp ở chỗ uốn
II. Chọn nút và khoan nút:
1. Chọn nút:

Thường dung các loại nút sau đây: nút cao su, nút bấc, nút thuỷ tinh. Tuỳ theo hoá chất
trong bình mà tìm nút cho thích hợp. Nút cao su không dung để đậy những lọ đựng dung
môi hữu cơ như benzene, hay Cl2 hoặc chất làm hỏng cao su như H2SO4 đặc, HNO3.
Không nên dung nút bấc, lie đậy các axit mà nên dung nút thuỷ tinh.
Ba cỡ nút cao su hay dung ở PTN có đường kính ở đầu nhỏ là 1,5 – 2 – 2,5 cm. Nút bấc
thường có nhiều lỗ nhỏ nên nút không được kín, vì vậy sau khi đậy nên dung paraffin
tráng lên mặt và xung quanh cho kín.
Việc chọn nút cho thích hợp với miệng bình, miệng ống cũng rất quan trọng, nhất là khi
làm TN có các chất khí. Nếu dung nút bấc thì chọn nút lớn hơn miệng lọ một chút , sau
đó dung dụng cụ ép cho nút nhỏ hơn. Nếu dung nút cau su hay lie thì phải chọn vừa
miệng bình.
2. Khoan nút:

Khi cần cắm ống dẫn khí, nhiệt kế… xuyên qua nút thì phải dung khoan để khoan nút.
Bộ khoan nút thường có từ 10 – 12 chiếc và một que thong. Phải chý ý giữ cho khoan nút
được tròn, không méo, sứt.
Khi khoan nút, bao giờ cùng dung khoan nhỏ hơn ống thuỷ tinh định lắp một ít, có như
vậy mới kín. Khi bắt đầu khoan, nhúng khoan vào nước hay xà phòng, tay phải cầm
khoan và cầm sát vào nút , tay trái giữ chặt nút. Đặt lưỡi khoan vào đầu to của nút ở đúng
chỗ muốn khoan, giữ cho trục khoan song song với trục nút. Xoay nhẹ khoan theo một
chiều nhất định. Khi lưỡi khoan bắt đầu in vào nút thì chuyển tay phải ra giữ đầu khoan
và khoan mạnh. Khi khoan gần xuyên qua nút thì kê nút lên mọt nút cũ đã hỏng hoặc một
tấm gỗ mềm rồi tiếp túc tục khoan, tuyệt đối không nên kê lên kim loại hay đá
3. Lắp ống và đậy nút:

Ống thuỷ tinh lắp vào nút cần phải hơi lớn hơn lỗ khoan một ít. Nếu lỗ khoan nhỏ quá

thì dung giũa tròn hay dùi đã được đốt nóng dùi ra. Trước khi lắp ống vào nút nên nhúng
ống vào nước cho dễ lắp. Để cho ống thuỷ tinh không bị gẫy và làm đứt tay, tay phải cầm
ống gần sát phía đầu ống lắp và nút và xoay ống cho vào nút dần dần. Tuyệt đối không
cầm ở chỗ uốn cong của ống.
Khi đậy nút vào miệng lọ, ống nghiệm, tay trái cũng cầm hẳn vào cổ lọ hay ống nghiệm
ở gần phía nút, không được tỳ đáy bình cầu vào bàn hay vật khác, dung tay phải xoay nút
vào dần dần cho đến khi nút ngập sâu vào miệng bình khoảng 1/3.
Khi thiếu nút cao su có thể đem cắt những ống cao su (Loại thành dầy, lỗ nhỏ) ra và
đem sửa lại (Mài hoặc gọt) thành nút. Chọn những ống thuỷ tinh thích hợp lắp vào, ta sẽ
được những nút cao su có ống dẫn khí xuyên qua rất tốt.
III. Lắp dụng cụ thí nghiệm:

Trước khi lắp dụng cụ TN cần phải phác hoạ sơ đồ dụng cụ, thống kê các bộ
phận cần thiết, chọn đủ các dụng cụ ấy rồi mới lắp. Cần lắp các bộ phận đơn giản trước.
Nếu có dung những hoá chất có tác dụng với cao su thì nên dung ống thuỷ tinh làm ống
dẫn, chỉ những chỗ nối mới lắp ống cao su. Đường kính bên trong của ống cao su phải
nhỏ hơn đường kính bên ngoài của ống thuỷ tinh. Không nên để ống thuỷ tinh dài uốn
cong nhiều khúc mà nên thay bằng những đoạn nối bằng ống cao su để tránh bị gấy ống
khi đang làm thí nghiệm. Đoạn ống cau su để nối đó không nên làm quá dài, nhất là khi
làm thí nghiệm với các chất ăn mòn ống cao su. Khi lắp dụng cụ cần chú ý hai yêu cầu
sau:
+ Thuận tiện cho thí nghiệm.
+ Hình thức bên ngoài gọn, đẹp, kích thước các bộ phận tương xứng với nhau.
Sau khi lắp xong cần thử lại xem dụng cụ đã kín chưa, nhất là dụng cụ dung trong TN có
chất khí tham gia. Có hai cách thử:
+ Dùng miện thổi vào và nhỏ nước lên chỗ nút để kiểm tra.
+ Nhúng đầu ống dẫn vào nước, dùng tay nắm chặt ống nghiệm hay bình cầu. Nếu dụng
cụ được lắp kín, thì do than nhiệt của bàn tay, không khí trong ống nghiệm hoặc bình cầu
nở ra sẽ đẩy nước và thoát ra ngoài thành những bọt khí.
IV. Hoà tan, lọc, kết tinh lại:

1. Hoà tan:

Khi hoà tan hai chất lỏng vào nhau cần luôn luôn lắp bình đựng để hai dung dịch đồng
nhất.
Khi hoà tan chất rắn vào chất lỏng, nếu chất rắn có tinh thể to, ta phải nghiền nhỏ thành
bột trước khi hoà tan. Dùng nước cất để hoà tan hoá chất chứ không dung nước máy,
nước giếng… Nếu không có nước cất thì bất đắc dĩ dung nước mưa hứng ở trên cao và ở
chỗ sạch. Nếu hoà tan trong cốc thuỷ tinh hay bình nón thì dung đũa thuỷ tinh để khuấy.
Đầu các đùa thuỷ tinh phải được bọc bằng nút cao su lồng vừa khít vào ống thuỷ tinh, đầu
ống cao su dài hơn đầu đũa khoảng 2 mm. Nếu hoà tan một lượng lớn chất tan trong bình
cầu thì phải lắc tròn, hoà tan trong ống nghiệm thì lắc ngang, không lắc dọc ống nghiệm.
Đa số các chất rắn khi đun nóng sẽ tan tốt hơn, vì vậy khi hoà tan có thể đun nóng.
2. Lọc:

Lọc là phương pháp tách những chất rắn không tan ra khỏi chất lỏng. Trong PTN
thường dung giấy lọc để lọc. Cũng có thể dung giấy bản loại tốt, bong, bong thuỷ tinh để
lọc.
a. Cách gấp giấy lọc:
Dưới đây là cách gấp giấy lọc đơn giản (không gấp thành nhiều nếp) dùng khi cần lấy
kết tủa ra và giữ kết tủa lâu. Lấy tờ giấy lọc hình vuông có cạnh bằng hai lần đường kình
phễu lọc. Gấp đôi rồi gấp tư tờ giấy, dung kéo cắt tờ giấy theo đường vòng cung thành
hình quạt, tách ba lớp giấy của hình quạt thành hình nón.
b. Cách lọc:
Trước hết đặt giấy lọc khô vào phễu và điều chỉnh cách gấp sao cho góc của nón phễu
giấy vừa bằng với góc của nón phễu thuỷ tinh để giấy lọc sát khít với phễu. Cần cắt giấy
lọc sao cho mép giấy lọc cao hơn mép phễu 5 – 10 mm. Để một ít nước cất vào tẩm ướt
giấy lọc rồi dung ngón tay cái đã rửa sạch đẩy cho giấy lọc ép sát vào phễu để đẩy hết
bong bong ra khỏi cuống phễu.
Đặt phễu lọc lên giá sắt, dung cốc sạch hứng dưới phễu sao cho cuống phễu chạm thành
cốc. Khi rót chất lỏng vào phễu lọc nên rót xuống theo một đùa thuỷ tinh.

Không đổ đầy chất lỏng đến tận mép giấy lọc, muốn lọc được nhanh nên để lắng trước,
không làm vẩn kết tủa và lọc phần trong trước.
3. Kết tinh lại:

Kết tinh lại là quá trình một chất rắn kết tinh được chuyển vào dung dịch bằng cách
dung một dung môi nào đó và sau khi làm lạnh dung dịch nó lại xuất hiện ở trạng thái
tinh thể nhưng tinh khiết hơn.
Trong PTN hoá học, người ta thường lời dụng quá trình kết tinh lại để tinh chế các
chất, để phân chia hỗn hợp các chất kết tinh lại để tinh chế, …
Quá trình kết tinh laị dựa vào tính chất vật lý của chất kết tinh là thay đổi độ tan trong
dung môi theo nhiệt độ.
Cách tiến hành: Cho chất cần kết tinh vào bình hình nón, cho dần nước hay dung môi
hữu cơ vào để được dung dịch hơi quá bão hoà. Đun nóng dung dịch nhưng chỉ đun đến
nhiệt độ sôi của dung môi để được dung dịch bão hoà nóng. Lọc nhanh dung dịch bão
hoà nóng, phải dung phễu lọc nóng để lọc. Ở dưới phễu, để chậu kết tinh. Các tinh thể sẽ
được tạo thành dần dần, muốn có tinh thể nhỏ, ta làm lạnh nhanh bằng cách đặt chậu kết
tinh vào chậu nước lạnh hoặc nước đá, đồng thời lắc mạnh. Nếu muốn có tinh thể lớn thì
để bình nguội từ từ và không đụng chạm vào bình.
V. Pha chế dung dịch:
Pha chế dung dịch là một trong những nhiệm vụ quan trọng của PTN hóa học
Khi pha chế dd cần tuân theo các nguyên tắc sau đây:
+ Bình, lọ để pha chế dd phải được rửa sạch và tráng nước cất trước khi pha.
+ Phải dùng H2O cất để pha dd, nếu không có thể dùng nước mưa sạch, tuy nhiên vẫn
không tinh khiết.
+ Trước khi pha dd cần tính toán lượng chất tan và lượng dung môi.
+ Nên pha dd kiềm đặc vào bình sứ.
+ Nếu có thể nên kiểm tra lại nồng độ dd bằng tỷ khối kế.
+ Sau khi pha dd, cần cho vào lọ thích hợp, đậy kĩ, dán nhãn để bảo quản.
Khi pha dd người ta thường dùng các loại ống đo, bình định mức, pipet có chia độ.
Bình định mức dùng để pha dd có nồng độ mol/l và nồng độ đương lượng. Vạch ở trên cổ

bình cầu hay pipet là để chỉ mức chất lỏng lấy vào bình cầu hay pipet. Khi quấy dd cần
dùng đũa thủy tinh có bọc cao su ở đầu để tránh vỡ ống đo hay bình.
Các dd thường được pha theo các loại nồng độ:
+ Nồng độ phần trăm.
+ Nồng độ mol/l.
+ Nồng độ đương lượng.
1. Pha chế dung dịch của chất rắn trong nước theo nồng độ phần trăm:
- Pha dung dịch của chất rắn không ngậm nước: Trước khi pha phải tính lượng chất tan
và lượng nước cần dùng là bao nhiêu. Thí dụ pha chế 250 gam dung dịch 10% của một
chất đã cho (chẳng hạn NaCl, BaCl2, CuSO4…). Ta tính 10% của 250 gam, đó là 25
gam. Như thế phải lấy 25 gam chất tan và 225 gam H2O (225 gam H2O chiếm một thể
tích là 225 ml, ở đây bỏ qua sự thay đổi tỷ khối của H2O theo nhiệt độ). Dùng cân sẽ lấy
được chất tan còn dùng ống đong sẽ lấy được 225 ml H2O.
- Pha dung dịch của chất rắn ngậm nước: Trước hết phải tính lượng muối ngậm nước rồi
suy ra lượng muối không ngậm H2O. Thí dụ pha 100 gam dung dịch CuSO4 10% từ
CuSO4.5H2O. Lượng CuSO4 trong 100 gam dung dịch đó là 10 gam, khối lượng mol
của CuSO4 là 160 gam, của CuSO4.5H2O là 250 gam. Lượng CuSO4.5H2O là x gam
được tính theo tỷ lệ 250/160 = x/10
> x = 250.10/160 = 15,6 gam
Như vậy phải cân lấy 15,6 gam CuSO4.5H2O và đong lấy 84,4 gam H2O đem hoà tan
vào nhau.
2. Pha dung dịch chất lỏng trong nước theo nồng độ phần trăm:
Phương pháp này thường dùng để pha dung dịch có nồng độ đã định từ một dung dịch
khác.
Thí dụ: Pha 250 gam dung dịch H2SO4 10% từ dung dịch H2SO4 đặc hơn.
Cần phải dùng tỷ khối kế để đo tỷ khối của dung dịch H2SO4 đặc hơn đem pha (rót
axit đặc vào ¾ ống đo rồi nhúng từ rừ tỉ khối kế vào). Giả sử đo được d = 1,8. Bảng tính
sẵn cho ta biết nồng độ của dung dịch axit đó là 92%. Nếu lọ axit đặc đã được giữ kín cần
thận và vì không có tỷ khối kế thì có thể sử dụng các con số về tỉ khối và nồng độ trên
các nhãn của lọ axit đó.

Muốn pha 250 gam dd H2SO4 10% thì phải lấy 25 gam axit nguyên chất 100%.
Nhưng ở đây chỉ có axit 92% nên phải lấy: 25.100/92 = 27,2 gam.
Lượng axit này bằng 27,2/1,824 = 14,9 ml. Dùng ống đo nhỏ lấy 14,9 ml H2SO4 92% đã
cho rót vào ống đo khác đã đong sãn 222,8 ml (250 – 27,2 = 222,8 g) H2O ta sẽ được
dung dịch cần dùng. Có thể kiểm tra lại bằng cách dùng tỉ khối kế đo khối lượng riêng
dung dịch 10% axit trên mới pha có tỉ khối gần 1,1
3. Pha dung dịch có nồng độ mol/l.
Thí dụ cần pha 250 ml dung dịch NaCl 0,1M. Khối lượng mol của NaCl là 58,5 gam.
Trong 1 lít dung dịch 0,1 M có 0,1 mol (5,85 gam) NaCl. Vậy trong 250 kml dung dịch
phải có 5,85/4 = 1,46 gam NaCl. Do đó cần lấy gần 1,5 gam NaCl vào ống đo sau đó
them H2O vào cho đủ 250 ml. Như thế ta được dung dịch cần pha chế. Muốn được chính
xác hơn thì pha chế vào bình định mức.
4. Pha dung dịch có nồng độ đương lượng N:
Thí dụ pha 100 ml dung dịch 0,1N muối BaCl2.2H2O. Muối BaCl2.2H2O có khối
lượng mol là 244 và đương lượng là 244/2 = 122. Dung dịch BaCl2 có nồng độ 0,1 N
nghĩa là trong 1 lít dung dịch có 12,2 gam BaCl2.2H2O. Vậy trong 100 ml dung dịch có
1,22 gam BaCl2.2H2O. Quá trình pha dung dịch được tiến hành như trên
5. Pha dung dịch có nồng độ đã định trước theo khối lượng riêng:
Cách pha dung dịch đơn giản hơn cả là dùng tỷ khối kế, rồi đối chiếu với bảng nồng độ
được tính sãn.
Rót dung dịch vào ống đo, nhúng tỉ khối kế vào đó. Nếu muốn có dung dịch axit loãng
hơn thì rót them H2O từ từ vaò (Nếu là H2SO4 thì phải rót axit vào H2O).
6. Pha loãng dung dịch:
Trong nhiều TN ở trường PT ta cần dung dịch có nồng độ loãng hơn dung dịch hiện có
trong PTN. Lúc đó ta phải pha loãng dung dịch. Sự pha loãng thường được biếu thị bằng
tỷ số 1 : 1, nghĩa là cứ 1 thể tích dung dịch ban đầu ta them vào 1 thể tích dung môi.
7. Pha chất chỉ thị và một số thuốc thử đặc biệt:
a. Dung dịch quỳ:
Quỳ tím là một chất hữu cơ có mầu được lấy từ một số loại rêu biển (địa y). Cũng
giống như một số chất mầu thực vật khác, mầu của nó biến đổi theo môi trường phản

ứng. Khoảng chuyển mầu là từ pH = 5 đến pH = 8, đỏ trong môi trường axit, xanh trong
môi trường kiềm.
Cách pha dung dịch quỳ: Hoà tan 1 gam bột quỳ vào 1 lít dung dịch etylic loãng (1
phần rượu + 4 phần nước). Cũng có thể hoà tan bột quỳ vào ngay nước cất nhưng nó tan
kém hơn và phải lọc kĩ hơn cho khỏi bị cặn.
Cách làm giấy quỳ: Trước hết biến đổi dung dịch đặc quỳ trung tính thành quỳ đỏ hay
quỳ xanh bằng cách them vào đó một lượng nhỏ axit (H2SO4 chẳng hạn) hay kiềm
(NaOH). Đổ dung dịch đó ra chậu thuỷ tinh có thành thấp. Nhúng các băng giấy lọc được
cắt sẵn kéo lướt qua dung dịch. Dùng cặp, kẹp các băng giấy đã nhuộm lên dây thép ở
trong phòng sao cho các băng giấy không chập vào nhau. Khi băng giấy khô, cắt thành
từng đoạn dài 6 – 8 cm. Cần giữ dấy quỳ trong bình thuỷ tinh có nút thật kín.
b. Dung dịch phenolphthalein:
Phenolphtalein là một chất mầu tổng hợp, nó biến đổi mầu theo môi trường phản ứng,
không có mầu trong môi trường axit và trung tính, có mầu hồng, chính xác là mầu đỏ tím
trong môi trường kiềm. Khoảng chuyển mầu của nó từ pH = 8,2 đến 10.
Cách pha: Lấy 1 gam phenolphthalein cho vào 1 lít rượu etylic khoảng 60% (600 ml
rượu + 400 ml nước)
c. Chất chỉ thị axit bazơ chế từ hoa dam bụt:
Nếu không có chất chỉ thị trên đây để thử môi trường axit bazo, ta có thể tự chế lấy
chất chỉ thị rất đơn giản và dễ dàng như sau: Lấy cánh hoa dâm bụt bổ vào trong lọ có
đựng cồn, càng nhiều cánh hoa thì chất chỉ thị càng đặc. Đậy nút kín. Dung dịch dần dần
có mầu tím và sau 2h thì có thể làm chất chỉ thị axit bazo.
Chất chỉ thị này ở trong môi trường axit có mầu hồng bền, trong môi trường trung tính
thì không có mầu hay mầu hồng tím, trong môi trường kiềm có mầu có mầu xanh nhưng
không bền vì nó nhanh chóng chuyển sang mầu vàng. Khoảng chuyển mầu của nó từ pH
= 7,5 đến pH = 9.
Cũng có thể làm dấy chỉ thị từ hoa dâm bụt bằng cách thấm ướt giấy lọc bằng dung
dịch loãng của hoa dâm bụt trong cồn hoặc lấy cánh hoa dâm bụt xát vào giấy lọc. Tính
chất của chất chỉ thị không thay đổi ở cả nhiệt độ cao (100 độ C) và được giữ khá bền
trong cồn.

d. Pha dung dịch hồ tinh bột:
Hồ tinh bột được dùng rộng rãi nhất để nhận ra I2 tự do. Muốn pha 150 – 200 ml hồ
tinh bột thì lấy 0,5 gam tinh bột đã nghiện thật nhỏ cho vào nước lạnh làm thành bột
loãng. Vừa khuấy đều vừa đổ bột loãng đấy vào 150 – 180 ml nước đun sôi ta sẽ được hồ
tịnh bột.
Cũng có thể làm theo cách khác: Hoà tan 0,5 gam tinh bột vào 100 ml nước cất đun
sôi, tiếp tục đun sôi them 5 phút nữa rồi để nguội. Có thể dùng nước cơm thay hồ tinh
bột.
e. Nước vôi:
Nước vôi dùng để nhận ra khí CO2 và là kiềm rẻ tiền nhất.
Cách pha: Hoà tan vôi tôi vào H2O. Vì độ tan của vôi tôi rất nhỏ nên phải pha như sau:
Cho một ít vôi tôi vào bình cầu, đổ them H2O cho đầy đến gần cổ bình để diện tích tiếp
xúc của chất lỏng với không khí là nhỏ nhất. Đậy nút kín và để lắng hỗn hợp trong vài h
trở lên, sau đó lọc lấy phần nước trong ta sẽ được nước vôi trong. Cần phải đậy nút thật
kín các bình đựng nước vôi, nếu không khi để lâu nó sẽ bị hỏng vì nước vôi tác dụng với
CO2 có trong không khí.
VI. Cân và cách sử dụng cân:
Trong PTN trường phổ thông thường hay sử dụng cân kĩ thuật (cân đĩa, cân quang…)
1. Cân đĩa (Cân Robecvan):
Phải đặt cân trên mặt bàn bằng phẳng. Khi không cân, kim chỉ thăng bằng phải ngang
nhau. Nếu không thăng bằng phải vặn lại hai ốc điều chỉnh ở hai đầu cán cân.
+ Quả cân: Cân đĩa thường có hộp đựng quả cân: 1 quả 100 gam, 1 quả 50 gam, 1 quả 20
gam, 2 quả 10 gam, 1 quả 5 gam, 2 quả 2 gam và một số quả cân dưới 1 gam là những
mảnh nhôm nhỏ hình vuông hay hình tam giác. Khi không dùng phải để quả cân ở trong
hộp ứng với ô tương ứng. Dùng kẹp lấy quả cân, không được dùng tay vì như thế cân sẽ
thiếu chính xác.
+ Cách cân: Tuyệt đối không để hoá chất trực tiếp lên đĩa cân. Hoá chất lỏng đựng vào
cốc hay các bình đựng khác có kích thước thích hợp. Khi cân hoá chất rắn lấy 2 tờ giấy
cùng khổ đặt lên 2 đĩa cân cho thăng bằng. Đổ hoá chất đó lên tờ giấy ở đĩa cân bên trái,
đĩa cân bên phải thì đặt quả cân. Khi cân chất lỏng độc, bốc khói, dễ bay hơi cần dùng

bình có nút.
Muốn biết khối lượng của 1 vật thì phải đặt vật đó lên đĩa cân bên trái, quả cân bên đĩa
phải. Còn nếu muốn cân 1 lượng hoá chất nhất định thì đặt quả cân có khối lượng cần
thiết lên đĩa bên trái, trên đĩa cân bên phải đặt bì và đổ hóa chất dần dần vào cho đến khi
cân thăng bằng.
Cần giữ cân sạch, không đổ hoá chất ra đĩa cân.
2. Cân quang:
Cân quang có trọng tải tới 200 gam. Nếu cân quá trọng tải tối đa cân sẽ dễ hỏng. Cân
quang có quả dọi để kiểm tra cân đã ở vị trí thăng bằng hay chưa. Nếu cân chưa thăng
bằng nghĩa là đầu quả dọi chưa khớp với đầu mũi nhọn ở dưới quả dọi, thì phải điều
chỉnh 3 ốc ở dưới bàn cân. Cân quang có 1 trục hãm để nâng bàn cân lên tránh cho cân
dao động vô ích. Hai đầu đòn cân có ốc điều chỉnh. Mỗi đĩa cân và quang cân ở bên trái
đều có đánh dấu, chú ý lắp cho đúng.
Cách dùng cân quang:
+ Trước khi đặt quả cân và vật cân lên đĩa cân hay khi lấy vật cân và quả cân ra phải hãm
cân.
+ Vật cân đặt lên đía trái, quả cân đặt lên đĩa phải.
+ Dùng cặp lấy quả cân, không được dùng tay cầm quả cân.
+ Không được để quả cân ngoài đĩa cân và hộp quả cân, giữ quả cân sạch để khỏi mất
chính xác.
+ Kiểm tra cân trước khi cân. Khi lấy quả cân bao giờ cũng lấy từ quả nặng hơn vật một
chút rồi lấy dần xuống những quả cân nhỏ hơn.
VII. Rửa bình, lọ:

Sau khi làm TN phải rửa sạch bình, lọ, ống nghiệm. Có 2 cách rửa:
+ Cách rửa cơ học: Cách rửa thong thường nhất là dùng nước lạnh hay nước nóng và chổi
rửa.
+ Cách rửa hoá học: Nhiều khi dùng chổi và rửa bằng nước lạnh không sạch nên phải
dùng hoá chất.
a. Trước tiên rửa bằng xà phòng.

b. Nếu còn vết kết tủa thì rủa bằng HCl đặc nguội hay đun nóng.
c. Nhiều khi phải dùng đến dung môi như benzene, ete, etxăng… hay hỗn hợp
sunfocromic. Dùng hoá chất gì để tẩy rửa là tuỳ thuộc vào hoá chất bẩn trong bình, lọ.
Cách làm hỗn hợp sunfocromic như sau: Hoà tan 1 phần khối lượng K2Cr2O7 với 2,5
phần khối lượng của H2O. Sau đó rót 1/3 thể tích H2SO4 đặc (d = 1,84) vào với 2/3 thể
tích muối K2Cr2O7 vừa pha xong, nếu hỗn hợp chưa tan thì phải đun nhẹ trong bát sứ.
Sauk hi rửa chai, lọ ta lại đổ lại hỗn hợp rửa vào bình chứa. Hốn hợp này dùng lại nhiều
lần cho đến khi biến đổi thành mầu xanh thì mới bỏ đi. Sau khi rửa sạch bình, lọ nên
tráng một lượt H2O rồi úp lên giá.
VIII. Quy tắc sử dụng các dụng cụ thuỷ tinh:
+ Khi đun nóng dụng cụ thuỉy tinh phải đun nóng từ từ và đều. Không được đun nóng
dụng cụ thuỷ tinh có thành dầy và dụng cụ thuỷ tinh có chia độ cũng như không được rót
nước nóng vào các dụng cụ đó.
+ Không được đựng các dung dịch kiềm đặc và axit đặc trong các dụng cụ thuỷ tinh
mỏng.
+ Những bộ phận nhám (khoá, nút) phải bôi vazolin trước khi dùng. Khi bảo quản phải
lót giấy, đánh số hay buộc dây đê tránh nhầm lẫn.
+ Phải để dụng cụ thuỷ tinh ở tủ, ngăn riêng, tránh va chạm mạnh.
IX. Đun nóng:
1. Dùng đèn cồn:
Khi đun nóng chú ý để đáy ống nghiệm (hoặc thành của vật muốn đun nóng) vào chỗ
nóng nhất của ngọn lửa đèn cồn, tức là vị trí 2/3 của ngọn lửa từ dưới lên. Không để đáy
ống nghiệm vào sát bấc đèn cồn vì như thế ống sẽ bị vỡ. Khi đun nóng cần lắc nhẹ ống
nghiệm và hướng miệng ống về phía không có người.
Khi dùng đèn cồn cần chú ý đến lượng cồn trong đèn, cách tram đèn và tắt đèn. Không
nên để cồn trong đèn cạn dần khô kiệt vì cồn còn quá ít sẽ tạo hốn hợp nổ với không khí.
Không nên rót cồn vào đèn quá đầy mà chỉ rót đến gần ngấn cổ. Tuyệt đối không được
châm đèn bằng cách lấy ngọn đèn cồn nọ châm vào ngọn đèn cồn kia, vì làm như thế cồn
đổ ra sẽ bốc cháy. Muốn tắt đèn thì dùng nắp đèn chụp vào ngọn đèn mà không được thổi
bằng miệng

2. Dùng đèn dầu hỏa:
Những nơi không mua được cồn thì có thể dùng bếp dầu hỏa 5 bấc hoặc đèn dầu hỏa có
thông phong dài trong khi thí nghiệm.
3. Dùng đèn khí:
Hiện nay nhiều địa phương đã dùng bếp ga, bình ga để đun nóng. Trong những năm tới
nhiều trường Sư phạm và trường Phổ thông sẽ dùng phổ biến đèn khí. Đèn khí Bunsen
gồm có các bộ phận chân đế, vòi phun, ống dẫn gas hay khí vào đèn, vòng sắt để đóng
mở ống kim loại, ống kim loại và ống khói.
Trước khi đốt đèn khí Bunsen, dùng tay quay vặn vòng sắt để đóng kín các cửa vào của
không khí, sau đó mở khóa bình gas cho gas vào đèn và đưa bật lửa đã cháy vào ống
khói. Ngọn lửa của đèn khí có mầu vàng, nhiệt độ không cao lắm.
Muốn sử dụng đèn khí, quay vòng sắt để mở các cửa vào cho không khí đi vào ống
khói trộn lẫn với gas. Lúc này ngọn lửa của đèn khí sẽ có mầu xanh và nhiệt độ được
nâng cao hơn.
X. Bảo quản hóa chất:
1. Muốn bảo quản tốt PTN cần có tủ đựng hóa chất. Người ta thường đặt các axit ở thể
lỏng ở ngăn cuối cùng của tủ để khi lấy ra được dễ dàng tránh đổ vỡ nguy hiểm. Không
nên để nhiều và tập chung trong PTN các hóa chất dễ bắt lửa như xăng, benzen, ete, cồn
đốt, axeton Chỉ nên để mỗi loại hóa chất dễ cháy này từ 0,5 đến 1 lít và khi làm TN
phải để các chất này xa lửa. Phải chuẩn bị các phương tiện PC và chữa cháy. Cần đựng
các hóa chất có tác dụng với cao su như Br2 và axit nitric trong lọ có nút thủy tinh.
Đối với các hóa chất dễ bay hơi, dễ tác dụng với O2, CO2 và hơi H2O cần đựng vào
những lọ có nút cao su hay nút nhám, bên ngoài có tráng lớp paraphin. Kiềm hút nước rất
mạnh và dễ tác dụng với CO2 trong không khí nên phải đựng vào lọ có nút rất kín, nhưng
không được đựng vào lọ có nút nhám vì kiềm và các chất tạo thành sẽ làm cho nút nhám
gắn chặt với lọ rất khó mở.
2. Những hóa chất dễ bị ánh sáng tác dụng như KMnO4, AgNO3, KI, H2O2 cần đựng
vào lọ có mầu và để chỗ tối hay được bọc giấy mầu đen bên ngoài lọ.
3. Những hóa chất độc như muối thủy ngân, xianua cần phải để trong tủ có khóa riêng
và phải được giữ gìn hết sức cẩn thận.

4. Các kim loại Na hay K cần đựng trong lọ dầu hỏa hay xăng, khi làm TN nếu thừa một
lượng nhỏ thì phải gắp bỏ vào, không được vứt bừa bãi có thể gây ra hỏa hoạn. P trắng
được đựng trong lọ H2O, khi cắt nhỏ cũng phải cắt trong H2O. Đục hộp chưa P trắng
cũng phải tiến hành trong chậu nước.
5. Muối KClO3, KNO3 cần được đựng vào lọ sạch, không để lẫn, để gần chất dễ cháy.
6. Cần có nhãn ghi công thức và nồng độ bên ngoài các lọ hóa chất, các lọ hóa chất để
bàn nên có hai nhãn đối diện nhau để quán sát được từ hai phía.
XI. Bảo hiểm trong PTN Hóa học:
Việc bảo đảm an toàn trong khi làm TN là một công tác cơ bản, rất quan trọng của mọi
người vào làm việc trong PTN.
Những quy tắc cơ bản để đảm bảo an toàn khi làm TN và một số PP cấp cứu đầu tiên
trình bầy dưới đây cũng có thể giúp ta tham khảo trong việc phòng và chống chất độc hóa
học, chống ô nhiễm môi trường.
1. Quy tắc về bảo hiểm trong khi làm TN:
a. Thí nghiệm với chất độc:
Trong PTN có rất nhiều chất độc như Hg gây rối loạn thần kinh, rụng răng hợp chất
của As, P trắng làm mục xương, làm bỏng hợp chất xianua, CO (Thở không khí có 1%
CO có thể làm người ta bị chết), NO2, SO2, NH3, Cl2, Br2 phá hủy nặng cơ quan hô
hấp, Br2 lỏng gây bỏng da, rượu metylic, phenol, axit HCOOH cũng gây bỏng da Uống
phải 10 ml CH3OH có thể gây mù mắt, benzen, xăng cũng là những chất độc. Do đó phải
cẩn thận khi dùng các chất này và phải làm theo các nguyên tắc sau:
+ Nên làm TN với các khí độc ở trong tủ hốt hay nơi thoáng gió và mở rộng cửa phòng.
Chỉ nên lấy lượng hóa chất tối thiểu để làm TN được nhanh và giảm bớt khí độc bay ra.
+ Không được nếm và hút các chất độc bằng miệng. Phải có khẩu trang và thận trọng khi
ngửi các hóa chất. Không hít mạnh hay kề mũi vào bình chứa hóa chất mà chỉ nên phẩy
hơi hóa chất vào mũi.
+ Đựng Hg trong các lọ dầy, có nút kín và nên có một lớp H2O bên trên. Khi rót đổ Hg
nên có chậu to hứng bên dưới và thu hồi ngay những hạt nhỏ rơi vãi bằng cách dùng đũa
thủy tinh gạt vào tờ giấy cứng. Nếu có nhiều hạt nhỏ lọt xuống khe bàn thì phải dùng bột
S rắc vào, không được lấy Hg bằng tay.

Phải hạn chế, tránh thở phải hơi Br2, Cl2, NO2, không để luồng hơi này bay vào mắt và
tránh Br2 lỏng dây ra tay.
b. TN với các chất dễ ăn da và làm bỏng:
Có nhiều chất dễ ăn da và làm bỏng như axit đặc, kiềm đặc, kim loại kiềm, P trắng,
Br2, C6H5OH
Khi sử dụng những chất trên cần tránh để dây ra tay, người và quần áo, đặc biệt là mắt,
nên dùng kính che mắt khi phải quan sát thật gần.
Không đựng axit đặc, kiềm đặc vào bình quá to, khi rót, đổ không nên để cao quá mặt
bàn.
Khi pha loãng H2SO4 đặc cần đổ axit vào H2O mà không được làm ngược lại, phải rót
chậm từng lượng nhỏ và khuấy đều.
Khi đun nóng các dung dịch dễ ăn da và làm bỏng phải tuyệt đối tuân theo các quy tắc
đun nóng hóa chất trong ống nghiệm, hướng miệng ống về phía không có người.
c. TN với các chất dễ bắt lửa:
Các chất dễ cháy như cồn, dầu hỏa, xăng, benzen, ete, axeton rất dễ gây ra các tai nạn
cháy nên cần cẩn thận khi làm việc với các hóa chất đó.
Nên dùng lượng nhỏ các chất dễ bắt lửa, không để bình lớn các chất đó ra bàn TN. Phải
để xa lửa khi rót các dung dịch dễ cháy. Không để gần lửa và không đựng các chất đó
trong bình mỏng, dễ rạn nứt hay nút không kín.
Khi phải đun nóng các chất dễ cháy không được đun trực tiếp mà phải đun cách thủy.
Khi sử dụng đèn cồn không nên để đèn cạn cồn, vì khi cồn còn 1/4 bình thì có thể gây
nổ. Khi đổ thêm cồn cần tắt đèn trước và dùng phễu, không châm lửa từ đèn này sang đèn
kia bằng cách chúc ngọn đèn vào nhau mà phải dùng đóm.
d. TN với các chất dễ nổ:
Các chất dễ nổ của PTN thường là các muối nitrat, clorat. Khi làm TN với các chất đó
cần theo yêu cầu sau đây:
+ Tránh đập và va chạm mạnh với chất nổ. Để chất nổ xa ngọn lửa.
+ Khi pha trộn các hỗn hợp nổ cần hết sức thận trọng, dùng đúng liều lượng đã quy định.
Không tự động TN một cách liều lĩnh nếu chưa nắm vững kỹ thuật và thiếu phương tiện
bảo hiểm. Chẳng hạn đập hỗn hợp nổ KClO3 và S, đốt hh nổ của C2H4 hay C2H2 với

O2
+ Tuyệt đối không cho học sinh làm những TN quá nguy hiểm như đập hh KClO3 và S
khi thiếu các điều kiện bảo đảm thật đầy đủ.
Trước khi đốt cháy một khí nào phải thử xem chất đó đã nguyên chất chưa, vì các khí
cháy được thường tạo với không khí hỗn hợp nổ.
Không được vứt Na, K vào chậu nước, bể rửa với lượng lớn.
CÁC QUY ĐỊNH KHI LÀM VIỆC TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM HOÁ HỌC
1.1. Nội quy phòng thí nghiệm:
Mọi người làm việc trong phòng thí nghiệm (PTN) đều phải được học tập, kiểm tra về
nội quy an toàn lao động, nắm vững các quy trình, quy phạm kĩ thuật và các biện pháp
đảm bảo an toàn lao động.
Mỗi người chỉ làm việc trật tự, giữ gìn vệ sinh và tuân thủ hướng dẫn của cán bộ phụ
trách tại nơi quy định. Không tiếp khách lạ hoặc làm ngoài giờ quy định, nếu muốn làm
ngoài giờ thì cần có sự đồng ý của trưởng PTN và phòng Bảo vệ nhà trường.
Phải đọc kĩ tài liệu, hiểu rõ mọi chi tiết của thí nghiệm trước lúc làm và lường trước các
sự cố có thể xảy ra để chủ động phòng tránh.
Tiến hành thí nghiệm thì cần quan sát và ghi chép kĩ các số liệu để làm bản báo cáo thí
nghiệm. Sau giờ làm việc phải lau chùi, sắp xếp gọn gàng các thiết bị và dụng cụ thí
nghiệm. Lưu ý: lấy hoá chất, dụng cụ thí nghiệm ở đâu thì đặt lại vị trí cũ. Trước khi rời
khỏi PTN cần phải kiểm tra lại PTN, khoá các van nước, đóng ngắt cầu dao điện,
Ngoài những quy định chung nêu trên thì mỗi PTN tuỳ theo tính chất chuyên môn cần đề
ra những quy định riêng nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người và tài sản trong
phòng.
1.2. Quy tắc an toàn:
1.2.1. Tất cả các thí nghiệm có sử dụng chất độc dễ bay hơi, có mùi khó chịu, các khí độc
hoặc các axit đặc phải được tiến hành trong tủ hốt ( ) hoặc nơi thoáng gió. Cần tìm
hiểu về các hoá chất dùng trong PTN để biết các đặc tính như: tính độc, khả năng cháy,
nổ, để tránh xảy ra những sai sót khi tiến hành thí nghiệm, dẫn đến những hậu quả đáng
tiếc.
a. Làm việc với các chất độc:

Trong PTN Hoá học có nhiều loại hoá chất thường gặp nhưng lại có độc tính cao như:
HCN, NaCN/KCN, Me2SO4, Hg, HgCl2, CO, Cl2, Br2, NO, NO2, H2S, NO2, hay các
loại chất dùng trong mảng Tổng hợp Hữu cơ như: CH3OH, pyriđin C5H5N, THF,
benzen, toluen, acrylonitrin, anilin, HCHO, CH2Cl2 Tất cả các chất không biết rõ ràng
đều được coi là chất độc. Khi làm việc với các hoá chất này cần chú ý kiểm tra chất
lượng dụng cụ chứa đựng và dụng cụ tiến hành thí nghiệm. Đặc biệt tuân thủ chặt chẽ các
điều kiện đã nêu trong giáo trình, tài liệu đã được chuẩn bị trước.
Không trực tiếp đưa hoá chất lên mũi và ngửi mà phải để cách xa và dùng tay phất nhẹ
cho chúng lên mùi.
Sau khi làm việc phải rửa mặt, tay và các dụng cụ (nên dùng xà phòng).
Cất giữ, bảo quản hoá chất cẩn thận.

b. Làm việc với các chất dễ cháy:
Các chất thuộc nhóm chất dễ cháy, dễ bay hơi bốc lửa là Et2O, Me2CO, ROH, dầu hoả,
xăng, CS2, benzen, Khi làm việc với chúng cần chú ý là chỉ được phép đun nóng hay
chưng cất chúng trên nồi cách thuỷ hoặc cách không khí trên bếp điện kín.
Không để gần nguồn nhiệt, cầu dao điện,
Khi tiến hành kết tinh từ các dung môi dễ cháy thì cần thực hiện trong dụng cụ riêng, có
lắp sinh hàn hồi lưu.
c. Làm việc với các chất dễ nổ:
Khi làm việc với các chất như H2, kiềm (kim loại & dung dịch), NaNH2/KNH2, axit đặc,
các chất hữu cơ dễ nổ (đặc biệt là các polynitro) cũng như khi làm việc dưới áp suất
thấp hay áp suất cao cần phải đeo kính bảo vệ ( ) để che chở cho mắt và các bộ phận
quan trọng trên gương mặt.
1.2.2. Không được cúi đầu về phía các chất lỏng đang đun sôi hoặc chất rắn đang đun
nóng chảy để tránh bị hoá chất bắn vào mặt (có nhiều trường hợp không lưu ý vấn đề
này). Khi đun nóng các dung dịch trong ống nghiệm phải dùng cặp và luôn chú ý quay
miệng ống nghiệm về phía không có người, đặc biệt là khi đun nóng axit đặc hoặc kiềm
đặc. Phải biết chỗ để và sử dụng thành thạo các dụng cụ cứu hoả, các bình chữa cháy và
hộp thuôc cứu thương để khi sự cố xảy ra có thể xử lí nhanh chóng và hiệu quả.

1.3. Cách sơ cứu chấn thương và ngộ độc trong PTN: Vấn đề này sẽ chỉ được nói chung
chung bởi có nhiều trường hợp tai nạn PTN và mỗi trường hợp có 1 cách xử lí khác nhau
Tủ thuốc : trong PTN luôn được đặt ở nơi dễ thấy, dễ lấy và dễ sử dụng. Trong tủ thuốc
thường có các loại bông băng, thuốc đỏ, cồn iot, thuốc mỡ, các dung dịch KMnO4 3%,
CuSO4, NaHCO3 2%, CH3COOH 1%, dung dịch tanin trong cồn
Khi bị axit đặc (H2SO4, HNO3, HCl, HOAc, ) hoặc brom, phenol bắn hoặc rơi vào da
thì phải rửa ngay bằng vòi nước mạnh trong vài phút, sau đó dùng bông tẩm NaHCO3
2% hoặc dung dịch tanin trong cồn đắp lên chỗ bỏng và băng lại.
Khi bị bỏng do kiềm (kim loại hoặc dung dịch đặc) thì phải rửa bằng nước, sau đó rửa
bằng dung dịch HOAc 1% rồi rửa lại bằng nước một lần nữa và bôi thuốc sát trùng, băng
lại.
Khi bị bỏng do vật nóng, thuỷ tinh, mảnh sứ thì phải gắp các mảnh chất rắn đó ra và
dùng bông tẩm KMnO4 3% hoặc dung dịch tanin trong cồn đắp lên vết bỏng, sau đó băng
lại bằng thuốc có tẩm thuốc mỡ chứa bỏng.

Khi bị hoá chất bắn vào mắt thì phải rửa bằng nước nhiều lần để sơ cứu và đem đến bệnh
viện gấp.
Nếu bị nhĩêm độc do hít thở nhiều phí Cl2, Br2, H2S, CO, thì phải đưa ngay ra chỗ
thoáng. Khi bị nhiễm độc kim loại As, Hg, hoặc độc chất xianua thì phải chuyển ngay
đến bệnh viện để cấp cứu.

×