Tải bản đầy đủ (.docx) (139 trang)

Lam van 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.87 KB, 139 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>LÀM VĂN 11 Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000 (Tái bản lần thứ sáu) 3 ÔN TẬP VỀ VĂN NGHỊ LUẬN (1 tiết) I – CÁC KIỂU BÀI LÀM VĂN NGHỊ LUẬN LỚP 10 Nghị luận là một hoạt động phức tạp, phong phú và đa dạng của tư duy và ngôn ngữ, là một năng lực rất tinh tế của con người. Phải công phu rèn luyện mới có thể đạt kết quả tốt. Bởi vậy, dù đã được học lí thuyết và thực hành ít nhiều ở các lớp cuối cấp THCS và sau đó ở lớp 10, song, đó chỉ là những bước đi ban đầu. Con đường học tập vẫn còn dài. Muốn nghị luận được tốt, cần phải có kiến thức phong phú để nghị luận, lại phải biết nhiều cách nghị luận khác nhau. Cả hai điều đó cần phải được tích lũy và rèn luyện lâu dài. Lên lớp 11, chúng ta phải củng cố những kết quả đã đạt được ở lớp 10 để tiếp tục phát triển và nâng cao thêm một bước kĩ năng làm văn nghị luận. Chúng ta hãy cùng nhau đọc kĩ các đề bài sau: Đề 1 Bàn về học vấn, ngạn ngữ Hi Lạp có câu: “Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào” Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy nói rõ quan niệm của mình về vấn đề này. 4 Đề 2 Trong bài Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, đồng chí Phạm Văn Đồng viết: “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người”..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Anh (chị) hãy lấy tác phẩm Bình Ngô đại cáo và một số tác phẩm khác của Nguyễn Trãi để chứng minh cho ý kiến trên. Chúng ta đều biết, nghị luận là loại văn thiên về trình bày các ý kiến lí lẽ, tác động vào lí trí, trí tuệ của người đọc để giải thích chứng minh, biện luận, thuyết phục người đọc về một vấn đề nào đó. Trên cơ sở nắm vững khái niệm văn nghị luận và tìm hiểu hai đề làm văn vừa nêu, chúng ta hãy lần lượt giải quyết những yêu cầu sau: - Xác định nội dung cần nghị luận của mỗi đề và cho biết phạm vi tư liệu cần vận dụng ; - Cho biết kiểu bài nghị luận cần viết theo yêu cầu của từng đề; - Tìm và lựa chọn hệ thống ý để triển khai từng đề; - Lập đề cương (dàn ý) cho bài viết. Hai đề làm văn nêu trên đòi hỏi chúng ta viết hai loại bài nghị luận quen thuộc đã học ở lớp 10: nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Đối tượng của nghị luận xã hội là các đề tài xã hội, đó là những vấn đề thuộc mọi quan hệ, và họat động của con người trên các lĩnh vực trong đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn học, giáo dục, đạo đức, môi trường, dân số… Đối tượng của nghị luận văn học là các vấn đề văn học như: một thời kì văn học, một trào lưu văn học, một hiện tượng văn học, một tác giả, một tác phẩm, hay một nhận định văn học… 5 Tùy theo mục đích và thao tác nghị luận, mà văn nghị luận được chia ra các kiểu bài nghị luận: giải thích, chứng minh, bình luận. Bài nghị luận giải thích nhằm giảng giải làm cho người đọc hiểu vấn đề nghị luận căn kẽ về các mặt: Vấn đề đó là gì? Nó như thế nào? Do đâu mà có vấn đề đó? … Bài nghị luận chứng minh dùng dẫn chứng, lí lẽ để khẳng định tính đúng đắn hoặc phủ định mặt chưa được, mặt sai lầm của một vấn đề. Còn bài bình luận nhằm bàn bạc, cân nhắc, đánh giá một vấn đề nào đấy. Để bàn bạc, đánh giá một vấn đề, người viết cũng phải phân tích, giảng giải (giải thích), dùng lí lẽ và dẫn chứng để thuyết phục người đọc (chứng minh). Như vậy, bài bình luận là kiểu bài cao hơn, có tính chất tổng hợp hơn..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Để làm một bài văn nghị luận trong nhà trường, chúng ta phải phân tích đề bài kĩ càng, nhằm xác định rõ yêu cầu về nội dung và hình thức nghị luận. Dựa trên yêu cầu được xác định mà huy động vốn tri thức, v0ốn sống để tìm và lựa chọn hệ thống ý lớn, nhỏ khác nhau cho bài viết. Trước khi viết, cần làm đề cương (dàn ý) vì đề cương tốt sẽ giúp ta viết có định hướng và chủ động hơn, tránh được tình trạng viết lan man, trùng lặp… Nhà thơ Xuân Diệu từng nói “Dao có mài mới sắc”, Học tập làm văn nghị luận cũng vậy, phải thường xuyên dùi mài, rèn luyện cả về lí thuyết lẫn thực hành. II – CÁC KIỂU BÀI LÀM VĂN LỚP 11 Đề tài làm văn nghị luận ở THPT gắn với chương trình Văn học – gồm Văn học Việt Nam và Văn học nước ngoài. Cho nên càng nắm vững kiến thức cho chương trình Văn học, chúng ta càng có điều kiện làm tốt các bài nghị luận văn học. Ngược lại, các bài làm văn nghị luận văn học cũng giúp cho kiến thức văn học của học sinh thêm vững chắc và sâu sắc hơn. Lên lớp 11, chúng ta sẽ lần lượt tập làm hai kiểu bài phân tích: Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự và phân tích tâm trạng trong thơ trữ tình. Là một kiểu bài phân tích đặc biệt, bài bình giảng văn học cũng nhằm phân tích, khám phá sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, phẩm bình các giá trị biểu hiện của tác phẩm (hoặc đoạn trích) mà người bình cho là độc đáo và thú vị nhất. 6 Bên cạnh các bài nghị luận văn học, chúng ta tiếp tục rèn luyện cách tóm tắt tác phẩm tự sự, cách tham gia các hội thảo khoa học – một hoạt động rất quen thuộc trong đời sống hiện nay. Ở lớp 11, chúng ta cũng tiếp tục học “các bài làm văn tự do và sáng tạo” đã có ở lớp 10. Do thời gian trên lớp có hạn, chúng ta cần cố gắng tự học, tự luyện tập, tranh thủ tập viết những bài làm văn theo tinh thần tự do và sáng tạo. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP Câu hỏi.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> 1. Văn nghị luận là gì? Hãy cho biết đặc trưng cơ bản của các kiểu bài nghị luận. 2. Đề cương là gì? Đề cương thường có những phần nào? Tại sao làm văn nghị luận nên có đề cương? Bài tập Tìm hiểu và lập đề cương cho đề bài sau: Trong lớp, nhiều bạn thích câu tục ngữ Ở hiền gặp lành và lấy đó làm phương châm sống. Nhưng một số bạn khác phản đối, cho câu tục ngữ trên không hẳn đúng, nhiều người ở hiền vẫn không gặp lành. Anh (chị) hãy bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề này. 7 CÁCH TRIỂN KHAI VÀ TRÌNH BÀY Ý TRONG ĐOẠN VĂN, BÀI VĂN NGHỊ LUẬN (2 tiết) I – CÁCH TRÌNH BÀY Ý Xác lập và triển khai ý là giai đoạn đầu cho quá trình viết một bài văn nghị luận. Tiếp theo là giai đoạn tìm cách trình bày và sắp xếp các ý đã được xác định sao cho có hệ thống và lôgic chặt chẽ. Trong văn nghị luận cách trình bày diễn dịch và quy nạp phổ biến hơn cả, vì chúng ứng với quá trình suy nghĩ tìm ý và phát triển ý. 1. Diễn dịch là một thao tác tư duy lôgic, từ một nguyên lí chung suy ra những hệ luận, những đoán định cụ thể. Diễn dịch còn là cách trình bày, cách tổ chức các ý trong một đoạn văn, một bài văn nghị luận đi từ cái chung đến cái riêng, từ khái quát đến cụ thể. (Ở đây chúng ta dùng từ diễn dịch theo nghĩa này) Hãy xét trường hợp sau: “Đồng tiền cơ hồ đã thành một thế lực vạn năng. Tài hoa, nhan sắc, tình nghĩa, nhân phẩm, công lý đều không còn có nghĩa gì trước thế lực của động tiền. Tài tình, hiếu hạnh như Kiều cũng chỉ còn là một món hàng không hơn không kém. Ngay Kiều nữa, cái việc dại dột nhất, tội lỗi nhất trong suốt đời nàng, cái việc nghe lời Hồ Tôn Hiến khuyên Từ Hải ra hàng, một phần cũng bởi xiêu lòng vì ngọc vàng của Hồ Tôn Hiến”..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> (HOÀI THANH) 8 Đoạn văn đề cập đến “thế lực vạn năng” của đồng tiền trong xã hội cũ. Câu đầu nêu ý khái quát của cả đoạn, các câu còn lại triển khai cụ thể “thế lực vạn năng” của đồng tiền đã thể hiện như thế nào trong Truyện Kiều 2. Cũng như diễn dịch, quy nạp vừa là một thao tác tư duy lôgic vừa là một cách trình bài lập luận. Với tư cách là một thao tác tư duy, quy nạp là quá trình suy nghĩ vận động từ sự xem xét những bộ phận, đối tượng riêng lẻ, tìm ra mối liên hệ bản chất giữa chúng với nhau, từ đó nâng lên thành nhận định khái quát về những đặc điểm, tính chất chung của chúng. Với tư cách là một cách trình bày lập luận, quy nạp là cách trình bày từ các ý kiến, các dẫn chứng cụ thể riêng lẻ, rồi sau đó mới đi đến một sự tổng hợp và khái quát về các ý kiến, các sự kiện riêng lẻ đó. Sau đây là một ví dụ: “Sở Khanh có vẻ một nhà nho. Nhưng ngay trong hình dáng “chải chuốt dịu dàng” đã có một cái gì tỏ ra rằng Sở Khanh không phải là nhà nho chân chính. Kế đó Sở Khanh nói với Kiều những lời lụa là, ngọt ngào nhưng cũng khó mà tin có một chúng tình nghĩa nào trong đó: Giá đành trong nguyệt trên mây, Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa? Nghe như một giọng hát rất điêu luyện mà rỗng không. Đến khi Sở Khanh nói những nói những lời khảng khái, lời nói của Sở Khanh rất giống lời một hiệp khách nhưng vẫn không phải là lời hiệp khách: Tức gan riêng giận trời già, Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng? 9 Sau khi nghe Kiều kể nông nỗi đầu đuôi thì Sở Khanh: Lặng nghe lẩm nhẩm gật đầu: “Ta đây nào phải ai đâu mà rằng!.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Nàng đã biết đến ta chăng Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi”. Chưa nói đến cái dáng ngồi “lẩm nhẩm gật đầu” rất đáng nghi, ngay lời nói cũng có vẻ khoác lác, trống rỗng, khác xa những lời nói thực sự ngang tàng của Từ Hải. … Sở Khanh chỉ đi thoáng qua trong truyện mà người đời sẽ mãi mãi không quên! Xét về mức độ bỉ ổi và trâng tráo thì nó vượt xa tất cả những Sở Khanh có thật ngày trước và ngày nay. Người xưa có kẻ khen một bức tranh vẽ ngựa nói: Từ khi có bức tranh ấy thì trong thiên hạ không còn có gì đáng gọi là ngựa. Ta cũng có thể nói như vậy về nhân vật Sở Khanh”. (HOÀI THANH) Như vậy, sau khi phân tích cách miêu tả nhân vật Sở Khanh với đầy mâu thuẫn từ hình dáng, cử chỉ, điệu bộ, đến lời nói, tác giả đi đến đánh giá chung về nghệ thuật của Nguyễn Du khi xây dựng hình tượng này. 3. Trong một bài văn nghị luận, hai cách trình bày diễn dịch và quy nạp thường kết hợp với nhau. Một trong những biểu hiện của sự kết hợp ấy là kiểu trình bày tổng – phân – hợp. Kiểu trình bày này bắt đầu bằng việc nêu vấn đề có tính chất tổng hợp khái quát (tổng), tiếp theo là lời phân tích hoặc giải thích, chứng mình bằng những lí lẽ, dẫn chứng và minh hoa cụ thể (phân), cuối cùng, lại tổng hợp khái quát nâng cao hoặc mở rộng thêm vấn đề được nêu ra ban đầu (hợp). Hãy xét ví dụ: 10 “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược, đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho chính phủ… Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”. (HỒ CHÍ MINH) Cả đoạn văn nhằm nêu bật tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Ý chung này được triển khai theo trình tự ba phần của đoạn văn: - Câu mở đầu nêu ý khái quát: “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước”. - Những câu tiếp theo:“Từ các cụ già…”, “Từ những nam nữ công nhân…”,…, vừa làm rõ nghĩa cho khái niệm “đồng bào”, vừa minh họa cho nội dung “xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước”. - Câu cuối cùng tóm tắt các ý được trình bày, rút ra kết luận khái quát cao hơn: “Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”. Các cách trình bày: diễn dịch, quy nạp và tổng – phân – hợp có thể được sử dụng khi xây dựng đoạn văn, cũng như toàn bộ văn bản nghị luận. Ở cấp độ đoạn văn, tương ứng với những cách trình bày này là các đoạn văn theo kiểu diễn dịch (câu chủ đề đứng đầu đoạn), đoạn văn theo kiểu quy nạp (câu chủ đề đứng cuối đoạn) và đoạn văn tổng – phân – hợp (đoạn văn có ba phần: mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn) như đã học ở lớp 10. Cách trình bày tổng – phân – hợp còn ứng với ba phần cơ bản của một bài văn nghị luận: mở bài, thân bài và kết bài. 11 II – LIÊN KẾT CÁC ĐOẠN VĂN TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN Các đoạn văn phải được tổ chức, sắp xếp thành một chỉnh thể thống nhất mới tạo thành bài văn. Nói cách khác, các đoạn văn.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> trong bài văn nghị luận phải liên kết chặt chẽ với nhau. Để đảm bảo tính liên kết, cần phải tạo mối quan hệ ý nghĩa lôgic chặt chẽ, hợp lí giữa các đoạn văn và biết lựa chọn, sử dụng các phương tiện liên kết phù hợp. 1. Tạo quan hệ ý nghĩa giữa các đoạn văn Tùy từng trường hợp, có thể chọn một trong các quan hệ ý nghĩa sau đây hoặc các quan hệ khác. a) Quan hệ liệt kê Ví dụ: Văn chương chữ Hán ra đời ngay từ buổi đầu của nền văn học viết. Tuy nhiên bằng chữ Hán, thành phần văn học này vẫn là văn chương Việt Nam, vẫn đậm đà tính dân tộc (…) Văn học viết bằng chữ Nôm (một cách ghi âm Tiếng Việt bằng vật liệu chữ Hán) ra đời muộn hơn (…) khi ý thức dân tộc và tinh thần nhân dân đã phát triển cao hơn ở các tầng lớp trí thức. Nó trưởng thành nhanh chóng và sáng tạo được nhiều tác phẩm lớn, sản sinh được nhiều tác giả lớn, đặt biệt là trong lĩnh vực thơ ca. (Văn học 10, tập một, NXB Giáo dục, 2001) b) Quan hệ đối lập Ví dụ: Bởi vậy cho nên khi chữ “tôi”, với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình! 12 Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẽ bỡ ngỡ! Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá! (HOÀI THANH) c) Quan hệ cụ thể - khát quát Ví dụ: Trong thời kì quá độ, bên những thành tích tốt đẹp là chính, vẫn còn sót những cái xấu xa của xã hội cũ như: tham ô, lãng phí, lười biếng, quan liêu, đánh con, đập vợ v.v… Đối với.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> những thói xấu đó, văn nghệ cũng cần phải phê bình rất nghiêm khắc, nhằm làm cho xã hội ta ngày càng lành mạnh, tốt đẹp hơn. Nói tóm lại: phải có khen, cũng phải có chê. Nhưng khen hay là chê đều đúng mức. Khen quá lời thì người được khen cũng hổ ngươi. Mà chê quá đáng thì người bị chê cũng khó tiếp thụ. (HỒ CHÍ MINH) d) Quan hệ nhân quả Ví dụ: Nếu xem thơ, bạn thấy mệt, ấy là lỗi tự bạn. Quyển sách này không phải sách xem hết một lần./…/ Tôi đã đọc tất cả một vạn bài thơ và trong số ấy có non một vạn bài dở. Nếu làm xong quyển sách này, mà không chê chán vì thơ, ấy là điều tôi rất mong mỏi. Vậy nếu trong quyển sách này ít khi tôi nói đến cái dở, bạn hãy tin rằng không phải vì tôi không thấy cái dở. Nhưng tôi nghĩ rằng đã dở thì không tiêu biểu gì hết./…/ (HOÀI THANH) 2. Lựa chọn các phương tiện liên kết phù hợp Tạo được quan hệ ý nghĩa hợp lí giữa các đoạn văn là cần thiết nhưng chưa đủ. Cần phải biết lựa chọn các phương tiện liên kết phù hợp. Sau đây là một số phương tiện để chúng ta tham khảo. 13 a) Các từ ngữ có tác dụng liên kết Việc lựa chọn, sử dụng từ ngữ liên kết nào là tùy thuộc vào quan hệ ý nghĩa giữa các đoạn văn: - Từ ngữ biểu thị quan hệ liệt kê: một là, hai là ; thứ nhất, thứ hai ; trước hết, tiếp theo, sau cùng ; ngoài ra; thêm nữa… - Từ ngữ có ý nghĩa tóm tắt, tổng kết, khái quát: tóm lại, nhìn chung, nói tóm lại, vậy là … - Từ ngữ đối lập: trái lại, ngược lại, thế mà, tuy nhiên, nhưng, song… - Từ ngữ biểu thị nguyên nhân: bởi vậy, cho nên, vì vậy, vì thế, do đó, vậy nên….

<span class='text_page_counter'>(10)</span> b) Câu có tác dụng liên kết - Câu nối. Để thực hiện chức năng nối, câu này thường có hai nội dung: tóm tắt nội dung của đoạn trước, khái quát nội dung trình bày của đoạn sau. Về hình thức, câu thường có các từ ngữ móc nối với đoạn trước (như: trên đây, phần trước, trở lên trên, trên kia …) và các từ báo trước sự triển khai tiếp theo (dưới đây, sau đây, bây giờ, cũng…). Ví dụ: Trở lên, tôi đã đứng về phía người đọc, người nghe mà nhìn nhận tác dụng của phê bình. Cũng có thể đứng về phía người sáng tác mà nhìn vấn đề. (HOÀI THANH) - Câu song hành cú pháp. Câu song hành cú pháp là các câu có khuôn hình cấu tạo giống nhau. Để liên kết, ta đặt các câu này ở đầu mỗi đoạn văn. 14 Ví dụ: Là nhà thơ, tôi muốn nói anh có một tâm hồn, một trái tim chân chính. Anh thành thật yêu thương cũng như căm hờn…. Là nghệ sĩ, tôi muốn nói Xuân Diệu đặt rất cao sự lao động nghệ thuật. Tôi đã nói: Xuân Diệu là nhà thơ dồi dào. Tôi thêm: Xuân Diệu là một nhà thơ luôn luôn tìm tòi. Anh không yên ổn và không để chúng ta yên ổn. (TẾ HANH) CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP Câu hỏi 1. Nêu cách trình bày ý nghĩa trong đoạn văn diễn dịch và đoạn văn quy nạp. 2. Làm thế nào để liên kết các đoạn văn trong một bài văn nghị luận? Bài tập 1. Phân tích cách trình bày ý trong đoạn văn sau: “Nguyễn Du có lòng thương xót đối với những nỗi lầm than, đau khổ của con người. Trong khi nói lên những cảnh thương.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> tâm, không phải Nguyễn Du chỉ mô tả lại một cách khách quan, theo chủ nghĩa tự nhiên, mà trong mỗi cảnh ngộ éo le, mỗi sự đầy đọa đối với con người đều chứa đựng một sự phẫn nộ, một lời phản kháng đánh vào những kẻ đã gây ra tai họa. Thông cảm một cách chân thật, thấm thía với số phận của con người, Nguyễn Du thấy cái trách nhiệm của mình là bảo vệ phẩm giá của con người, tố cáo chế độ xã hội đương thời, qua những nhân vật tiêu biểu cho cái luân thường, đạo lí của xã hội ấy. Tiếng nói của Nguyễn Du là một lời bảo vệ thiết tha con người sống có phẩm giá. Tiếng nói của Nguyễn Du là một lời đanh thép chống những cái gì chà đạp lên giá trị của con người” (HOÀI THANH ) 15 2. Viết các đoạn văn với nội dung sau: a) Ngôn từ văn học cô đọng, hàm xúc. b) Văn học làm cho chúng ta yêu đời và yêu người hơn . c) Văn học chắp những đôi cánh ước mơ cho con người. Hãy cho biết, ý trong mỗi đoạn văn đã viết được trình bày theo cách nào? 3. Hãy sắp xếp lại những câu văn dưới đây cho thành một đoạn văn hoàn chỉnh: a) Không có tình yêu thì thành đêm tối, vậy tình yêu là áng sáng, là mặt trời. b) Phương Tây có câu châm ngôn: “Nếu không có tình yêu thì mặt trời cũng sẽ tắt mất”. c) Chẳng thế mà, vừa thấy Juliet xuất hiện trên khung cửa sổ trong đêm tối, Rômêô đã nói: “Ánh sáng nào vừa lóe trên cửa sổ kia?” và liền gọi nàng Juliet là “mặt trời”. 4. Cho một số câu có nội dung khái quát dưới đây, hãy nghĩ thêm một số câu khác rồi xếp chúng lại thành một đoạn văn có cách trình bày theo kiểu quy nạp hoặc diễn dịch..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> a) Ngô Tất Tố đã góp một tiếng nói mạnh mẽ, rung động trong các tiếng nói tố cáo chế độ thực dân, phong kiến và tội ác của chúng đối với nông dân. b) Nguyễn Trãi đã cống hiến trọn đời mình cho Tổ quốc, cho dân tộc. 16 TÓM TẮT TÁC PHẨM TỰ SỰ (3tiết) I – TÁC PHẨM TỰ SỰ VÀ VIỆC TÓM TẮT TÁC PHẨM TỰ SỰ 1. Tác phẩm tự sự là gì? Trong chương trình Văn học chúng ta đã được học nhiều tác phẩm tự sự: Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Đời Thừa và Chí Phèo của Nam Cao v.v…. Các tác phẩm tự sự trên đều kể về đời sống trong một thời gian cụ thể, một địa điểm xác định thông qua cuộc đời và số phận của những con người cụ thể. Tư tưởng, tình cảm của các tác giả được gửi gắm thông qua bức tranh cuộc sống mà họ miêu tả. Có thể hiểu một cách đơn giản: Tác phẩm tự sự là câu chuyện kể về một người nào đó, một vật gì đó, hay một sự kiện nào đó. Cho nên, tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được khắc họa về nhiều mặt. Cốt truyện đươc triển khai, nhân vật được khắc họa thông qua các chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng, như: các sự liện, xung đột, ngoại cảnh, nội thất, ngoại hình nhân vật, hoạt động nội tâm…. Để tổ chức các chi tiết nghệ thuật, tác giả dùng lời kể để giới thiệu, giải thích, thuyết minh các sự việc xảy ra, biểu hiện cách cảm nhận, cách đánh giá của tác giả đối với sự việc. 17 2. Mục đích của việc tóm tắt tác phẩm tự sự Việc tóm tắt tác phẩm tự sự có nhiều mục đích ứng dụng khác nhau. Thông thường, tóm tắt để dễ ghi nhớ, nhất là đối với các tác phẩm dài và phức tạp. Tóm tắt để ghi chép làm tài liệu sau khi đọc xong một cuốn sách, một câu chuyện; để kể lại cho.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> người khác nghe; để giới thiệu trên sách, báo hoặc để sử dụng như một dẫn chứng trong bài văn nghị luận (thường là một đoạn tóm tắt ngắn về một phần của cốt truyện, một quãng đời của nhân vật để phục vụ cho một ý nào đó trong bài văn). Như vậy, tùy thuộc vào mục đích và phạm vi ứng dụng, có nhiều kiểu tóm tắt khác nhau: tóm tắt hoàn chỉnh tác phẩm (tóm tắt theo cốt truyện, tóm tắt theo nhân vật) hoặc tóm tắt một phần của cốt truyện hay nhân vật. Tuy vậy, dù tóm tắt kiểu nào thì văn bản tóm tắt cũng phải bảo đảm phán ánh đúng nội dung của nguyên bản và phục vụ đắc lực cho mục đích ứng dụng. II – CÁCH TÓM TẮT TÁC PHẨM TỰ SỰ Để có thể tóm tắt được một văn bản tự sự, chúng ta cần tiến hành một số công việc chủ yếu sau đây: 1. Định hướng tóm tắt Trước khi tóm tắt, cần xác định rõ mục đích tóm tắt để làm gì, cần tóm tắt theo cốt truyện hay theo nhân vật, tóm tắt toàn bộ tác phẩm hay chỉ tóm tắt một phần để phục vụ cho một ý kiến nào đấy. Nếu mục đích tóm tắt rơi vào trường hợp sau thì ta chỉ cần lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất phục vụ cho luận diểm được đề ra. 2. Đọc và tìm hiểu tác phẩm cần tóm tắt Tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật có nhiều điểm khác với tiếp nhận các loại văn bản khác. Quá trình đó luôn luôn có sự gắn bó giữa cảm tính và lí tính, giữa cảm và hiểu. Những rung động đầu tiên, những ấn tượng ban đầu của người đọc, về tác phẩm giữ vai trò hết sức quan trọng. 18 Để tóm tắt một cách khách quan, cần phải nắm được chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Chủ đề và tư tưởng của tác phẩm được rút ra từ nhiều yếu tố khác nhau – từ những yếu tố trong văn bản ngôn từ đến những yếu tố bên ngoài văn bản. Xuất phát từ văn bản ngôn từ, cần chú ý đến cốt truyện, đến nhân vật chính thông qua các sự kiện và biến cố; cần chú ý đến cách kể của tác.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> giả: sắp xếp các sự kiện như thế nào, gọi tên và giải thích các sự kiện ấy ra sao, cách đảm nhận của tác giả như thế nào v.v… Cuộc sống được đề cập đến trong tác phẩm Chí Phèo là cuộc sống cùng cực, tha hóa của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Tiêu biểu cho những số phận bi thảm đó là cuộc đời Chí Phèo, nhân vật chính trong tác phẩm. Sự đối lập về con người và nhân cách của Chí Phèo trước khi đi tù và sau khi đi tù về, sự thức tỉnh tính người trong y sau lần gặp Thị Nở, sự trả thù quyết liệt của Chí bằng cách giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình, hình ảnh chiếc lò gạch bỏ hoang hiện lên cuối tác phẩm… là những chi tiết tập trung biểu hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Bắt đầu tác phẩm là tiếng chửi, kết thúc bằng cái chết, nhà văn Nam Cao kể chuyện Chí Phèo nhằm lí giải vấn đề đâu là cội nguồn sinh ra hạng Chí Phèo, và thái độ của Chí, thái độ của con người đang uất hận về số phận chính mình mà không rõ vì đâu, muốn trở lại làm người lương thiện mà không được. Cũng có khi chủ đề của tác phẩm được nêu một cách cô đọng thông qua tên tác phẩm (Sống mòn của Nam Cao, Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan). Muốn tìm hiểu chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, cũng cần chú ý thêm đến những yếu tố nằm ngoài văn bản ngôn từ: hoàn cảnh sáng tác, tiểu sử tác giả, trào lưu tư tưởng và phương pháp sáng tác… 19 3. Xây dựng văn bản tóm tắt Như trên đã nói, có nhiều kiểu tóm tắt tùy thuộc vào mục đích của người tóm tắt. Sau đây, chúng ta chỉ nêu kiểu tóm tắt hoàn chỉnh cốt truyện của tác phẩm tự sự. a) Lựa chọn nội dung tóm tắt Vì nội dung của tác phẩm rất phong phú và phức tạp, người tóm tắt phải biết chọn được nội dung chủ yếu và cần thiết nhất. Nội dung tóm tắt phụ thuộc vào độ dài cho phép của văn bản tóm tắt.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> và phụ thuộc vào mục đích của việc tóm tắt. Tuy vậy, dù trường hợp nào cũng cần lưu ý: - Những nét chủ yếu về cuộc đời và số phận của nhân vật chính: Nhân vật chính của tác phẩm có thể xác định qua tên tác phẩm như trường hợp nhân vật Chí Phèo trong Chí Phèo của Nam Cao, Thúy Kiều trong Truỵên Kiều của Nguyễn Du, Kép Tư Bền trong Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan… Nhân vật chính còn có thể được xác định qua tần số xuất hiện và vai trò của nhân vật trong tác phẩm. Hầu hết các nhân vật chính đều xuất hiện từ đầu đến cuối hoặc ít ra cũng có mặt nhiều hơn so với các nhân vật khác. Quan trọng hơn cả là sự chi phối của nhân vật chính đối với các nhân vật khác và toàn bộ sự phát triển của các sự kiện, tình tiết trong tác phẩm. - Chi tiết chính, là những chi tiết có ảnh hưởng quyết định đối với cuộc đời, tính cách của nhân vật, đặc biệt là các nhân vật chính của tác phẩm. Ví dụ, tóm tắt tác phẩm Chí Phèo, nên chọn các chi tiết: Chí Phèo luôn say rượu, đập phá và rạch mặt ăn vạ, Chí Phèo làm tay sai cho Bá Kiến và trở thành con quỷ của làng Vũ Đại, quan hệ của Chí Phèo với Thị Nở, ước muốn của y sau khi gặp thị, hành động phản kháng quyết liệt và tuyệt vọng của Chí ở cuối tác phẩm… 20 Chi tiết chính là chi tiết thể hiện tập trung tư tưởng của tác phẩm, cũng như quan niệm và thái độ của tác giả. Hình ảnh “cái lò gạch bỏ không” đầu tác phẩm, nơi Chí Phèo ra đời và bị bỏ rơi, hình ảnh thoáng qua trong đầu Thị Nở cũng về chiếc lò gạch vắng vẻ bỏ hoang ở cuối tác phẩm có ý nghĩa biểu hiện rất lớn. Qua những hình ảnh này, tác giả muốn nói tới cuộc sống luẩn quẩn không lối thoát của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: Chí Phèo chết nhưng sẽ lại có Chí Phèo mới ra đời. Trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chi tiết chị Dậu vùng chạy ra ngoài trong đêm tối mù mịt cũng nói lên tiền đồ đen tối, bế tắc không lối thoát của chị Dậu, của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Chi tiết chính của tác phẩm còn là chi tiết có tác dụng quyết định tới sự phát triển của cốt truyện, và là một mắt xích quan trọng của tác phẩm mà thiếu nó khó có thể hình dung được chi tiết tiếp theo. Hãy lấy Tắt đèn làm ví dụ. Chị Dậu phải rứt ruột bán con và bán chó lấy tiền nộp sưu cho chồng. Tưởng đã xong, ngờ đâu chị lại phải đóng thêm một suất sưu nữa cho người em chồng đã chết. Chính chi tiết này thúc đẩy sự phát triển tiếp theo của cốt truyện: anh Dậu vẫn bị đánh, bị trói, chị Dậu lại phải tìm mọi cách kiếm tiền nộp sưu để cứu chồng. Khi chọn các chi tiết và sự kiện, cũng cần lưu ý đến hiện tượng thường được gọi là “cốt truyện lồng”. Tác phẩm có kiểu kết cấu này gồm một vài câu chuyện lồng vào nhau, trong đó có một câu chuyện làm khung, làm cớ để nêu câu chuyện chính. Trong trường hợp này, người tóm tắt cần tập trung vào câu chuyện chính. Đó là trường hợp tác phẩm Đất của Anh Đức: chuyện tác giả được cử đi công tác ở vùng Xẻo Đước liên quan đến chiếc xuồng, cuộc trò chuyện tiếp xúc với Hai Cần chỉ là cái cớ để tác giả kể chuyện ông Tám Xẻo Đước. Tóm tắt tác phẩm này, ta cần tập trung vào chuyện số phận và cuộc đời của nhân vật ông Tám Xẻo Đước cương trực, bất khuất và kiên cường bảo vệ đất đai tổ tiên mình. 21 b) Tổ chức nội dung văn bản tóm tắt Các sự kiện, chi tiết được lựa chọn phải được tổ chức thành một chỉnh thể thống nhất mới tạo nên văn bản. Nhìn chung cách tổ chức này cũng tương tự như cách tổ chức, sắp xếp trong nguyên bản. Gặp các câu chuyện kể theo trình tự thời gian như kiểu tiểu thuyết chương hồi thì việc sắp xếp các chi tiết trong văn bản tóm tắt cũng tuân theo trình tự thời gian ( như Hoàng Lê nhất thống chí, Tam quốc chí, Tây du kí…) Có loại kết cấu tác phẩm theo lối đi thẳng vào giữa câu chuyện, hoặc bắt đầu từ lúc gay cấn nhất rồi sau đó mới quay ngược lại, kể lại ngọn ngành câu chuyện như trường hợp Chí Phèo của Nam Cao, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Gặp trường hợp này, có thể sắp xếp lại các chi tiết theo trình tự thời gian cho dễ tóm tắt, song tốt nhất là nên tôn trọng cách sắp xếp của tác.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> giả, theo mạch liên kết của tác giả mà tổ chức các chi tiết của văn bản tóm tắt. c) Lời văn của văn bản tóm tắt Văn bản tóm tắt phải vừa ngắn gọn, khái quát lại phải vừa phản ánh được cái “thần” của nguyên bản. Bởi vậy, chúng ta thường gặp hiện tượng nén câu và hiện tượng trích dẫn nguyên bản. - Nén câu: Nén câu là hiện tượng tăng lượng thông tin của câu bằng cách nhập nhiều câu lại thành một câu. Đây là hiện tượng phổ biến trong văn bản tóm tắt. Để nén câu, có thể mở rộng câu bằng cách thêm các thành phần phụ, mở ra nhiều thành phần đồng chức, dùng các từ có nghĩa khái quát thay cho các từ cụ thể. Hãy so sánh hai cách diễn đạt sau đây: “Mẹ con Cám lập mưu ghiết Tấm rồi đưa Cám vào thế chân Tấm. Tấm chết đi hóa thành chim vàng anh. Chim vàng anh bị Cám giết, lại hóa thành cây xoan đào. Cám chặt cây xoan đào, đóng khung cửi, khi ngồi vào dệt vải, con ác bằng gỗ trên khung cửi kêu: “ Cót ca cót két, mày tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”. Cám đốt khung cửa đổ tro ra nơi xa cung vua. Từ đống tro mọc ra một cây thị”. 22 “Tấm nhiều lần hóa thân: thành chim vàng anh, thành cây xoan đào, thành khung cửi… nhưng đều bị mẹ con Cám hãm hại”. Từ 6 câu, người ta đã nén lại thành 1 câu bằng cách dùng các từ khái quát “nhiều lần”, “hóa thân”, “hãm hại”, và các thành phần đồng chức: “thành chim vàng anh, thành cây xoan đào, thành khung cửi”. - Tóm tắt kết hợp với trích dẫn nguyên bản: trong khi tóm tắt có thể giữ lại một vài hình ảnh, từ ngữ, đặc biệt là những câu nói cô đọng bộc lộ được tính cách của nhân vật, những suy nghĩ, nhận xét của chính tác giả. Những trích dẫn đó thường được lồng vào làm một bộ phận trong câu văn của người tóm tắt. Tất nhiên, trong văn bản tóm tắt, cần phân biệt lời văn của người tóm tắt với lời văn của nguyên bản (thường được đặt trong ngoặc kép).

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Ví dụ, khi tóm tắt Tắt đèn, có thể viết: Gia đình chị Dậu thuộc loại “nhất nhì trong hạng cùng đinh” hoặc: Chị Dậu gạt mạnh bàn tay bẩn thỉu của “cụ cố”, vùng chạy ra ngoài sân giữa lúc “Trời tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị”. Kết hợp tóm tắt với trích dẫn nguyên văn làm cho văn bản tóm tắt sinh động và sát với nguyên bản hơn. 4. Kiểm tra kết quả tóm tắt Đây là bước tự kiểm tra hiệu quả và độ tin cậy của văn bản tóm tắt. Đối chiếu với mục đích đề ra, nếu thấy điểm nào chưa đạt yêu cầu, có thể điều chỉnh hoặc tóm tắt lại. Đồng thời, cũng nên kiểm tra cả cách dùng từ, viết câu, dựng đoạn cho đúng chuẩn mực và trong sáng. 23 CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP Câu hỏi 1. Phạm vi ứng dụng và mục đích yêu cầu của văn bản tóm tắt tác phẩm tự sự là gì? 2. Tại sao phải đọc và nắm được nội dung của nguyên bản trước khi tóm tắt? Làm thế nào để có thể nắm được chủ đề, tư tưởng của tác phẩm? 3. Nên xây dựng văn bản tóm tắt như thế nào? Bài tập 1. Hãy tìm hiểu mục đích tóm tắt vàa cách tóm tắt tác phẩm Người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) trong đoạn trích sau đây: “Bên cạnh những sự việc có tính cách lịch sử, dân chúng còn chú ý đến một vài tình cảnh khác thường trong cuộc sống hàng ngày. Gặp những chuyện đau thương đặc biệt, trí tưởng tượng của dân chúng cũng tìm cách chữa lại, điểm một nét huyền ảo cho bớt được nỗi bi đát. Ví dụ như chuyện vợ chồng chàng Trương: chàng Trương đi đánh giặc khi vợ mới có mang. Lúc trở về nhà, con đã biết nói. Một hôm đùa với con xưng là bố, thấy con không nhận và nói.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> rằng bố nó tối tối vẫn đến. Trương buồn và ghen, đay nghiến vợ đến nỗi nàng phải tự vẫn. Một tối, ngồi bên đèn đùa với con, thấy nó chỉ lên bóng mình trên tường và nói: “Bố đã đến kia”. Lúa đó mới biết lầm thì không kịp nữa. Câu chuyện lẽ ra chấm hết ở đó. Nhưng dân chúng không chịu nhận cái tình thế đau đớn ấy, và cố gắng đem một nét huyền ảo để an ủi ta. Vì thế mới có đoạn thứ hai kể chuyện nàng Trương xuống thủy cung, và sau lại gặp mặt chồng một lần nữa”. NGUYỄN ĐÌNH THI (Sức sống của dân Việt Nam qua ca dao, cổ tích ) 24 2. Sau đây là ba văn bản tóm tắt truyện cổ tích Tấm Cám: (1) Tấm là một cô gái hiền lành, xinh đẹp, mồ côi mẹ, sống với dì ghẻ và cô em cùng bố khác mẹ tên là Cám. Tấm bị mẹ con Cám ghen ghét, ngược đãi. Đi hớt tép, Tấm bị Cám đánh lừa trút hết giỏ tép. Tấm nuôi con cá bống, mẹ con Cám giết chết con cá bống. Ngày hội, dì ghẻ trộn gạo lẫn thóc, bắt Tấm phải ở nhà nhặt xong mới được đi xem. Mỗi lần bị mẹ con Cám gây chuyện ngược đãi, đau khổ như vậy, Tấm đều được Bụt hiện lên an ủi, giúp đỡ. Bụt bảo Tấm nuôi cá bống cho có bạn, Bụt sai chim sẻ nhặt giúp Tấm mớ gạo trộn lẫn thóc. Bụt chỉ cho Tấm cách chôn xương cá bống để đến ngày hội Tấm có quần áo, khăn, giày đẹp. Tấm đi xem hội, đến chỗ lội, đánh rơi một chiếc giày xuống nước. Nhờ chiếc giày bị rơi ấy, Tấm được vua biết đến và lấy làm vợ. Mẹ con Cám lập mưu giết chết Tấm rồi đưa Cám vào thế chân Tấm. Tấm chết đi hóa thành chim vàng anh. Chim vàng anh bị Cám giết chết lại hóa thành cây xoan đào. Cám chặt cây xoan đào, đóng khung cửi, khi ngồi vào dệt vải, con ác bằng gỗ trên khung cửi kêu: “Cót ca cót két, mày tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”. Cám đốt khung cửi, đổ tro ở một nơi xa cung vua. Từ đống tro mọc lên một cây thị lớn, chỉ có một quả thật to. Một bà cụ bán hàng nước được quả thị ấy, mang về để ở nhà. Mỗi khi bà cụ vắng nhà, từ quả thị, một cô gái – tức Tấm – chui ra quét dọn, nấu ăn giúp bà cụ. Một hôm, vua đến uống nước, ăn trầu ở hàng bà cụ, thấy có miếng trầu do Tấm têm, đã nhận ra.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> vợ. Tấm trở lại cuộc sống hạnh phúc bên vua. Còn mẹ con Cám thì bị trừng phạt đích đáng: Cám bị giội nước sôi chết, xác nó đem làm mắm gửi cho mẹ nó ăn. Ăn hết chĩnh mắm, trông thấy đầu lâu đứa con gái ở đáy chĩnh, mụ dì ghẻ ngã vật xuống chết. CHU XUÂN DIÊN (Từ điển văn học, tập II, NXB Khoa học xã hội, H., 1983) 25 (2) Tấm là một cô gái hiền lành, xinh đẹp, mồ côi mẹ, sống với dì ghẻ và cô em cùng bố khác mẹ tên là Cám. Tấm bị mẹ con Cám ghen ghét, ngược đãi. Mỗi lần Tấm bị ngược đãi, Bụt lại hiện lên an ủi, giúp đỡ. Trong một ngày hội, nhà vua gặp Tấm và lấy làm vợ. Mẹ con Cám giết Tấm để đưa Cám vào làm vợ vua. Tấm nhiều lần hóa thân: thành chim vàng anh, thành cây xoan đào, thành khung cửi, thành cây thị, nhưng đều bị mẹ con Cám tìm cách hãm hại. Cuối cùng, Tấm gặp lại vua và hai người sống hạnh phúc bên nhau. Còn mẹ con Cám bị trừng phạt đích đáng. (3) Câu chuyện kể lại cuộc đời và số phận của Tấm, một cô gái hiền lành, xinh đẹp, mồ côi mẹ, sống với dì ghẻ và cô em cùng bố khác mẹ tên là Cám. Tấm bị mẹ con Cám ngược đãi, hãm hại nhiều lần. Nhờ Bụt an ủi và giúp đỡ. Tấm trở thành hoàng hậu và sống hạnh phúc. Mẹ con Cám bị trừng phạt đích đáng. Hãy tìm sự khác biệt giữa ba văn bản tóm tắt và cho biết tại sao có sự khác biệt ấy? 3. Hãy tóm tắt chuyện Chữ Đồng Tử (Văn học 10 - tập 1 ) với các yêu cầu sau: a) Tóm tắt dưới dạng đề cương b) Tóm tắt thành văn bản khoảng 400 chữ, sau đó rút ngắn xuống còn 200 chữ . (Gợi ý: Để có thể tóm tắt câu chuyện trên, hãy đọc lại tác phẩm, ôn lại bài giảng của thầy, cô ở lớp 10 và trả lời các câu hỏi sau: - Truyện kể về ai? Vấn đề được đặt ra là gì? - Cốt truyện bao gồm các sự kiện nào? Diễn biến ra sao?.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> - Có thể chọn những từ ngữ hoặc câu nào trong truyện để lồng vào lời văn của mình trong văn bản tóm tắt? ) 26 TƯ LIỆU THAM KHẢO Sau đây là hai văn bản tóm tắt ( tóm tắt hoàn chỉnh tác phẩm và tóm tắt một phần tác phẩm) Chí Phèo. CHÍ PHÈO 1. Chí Phèo nguyên là một đứa con hoang bị bỏ rơi khi vừa lọt lòng trong một lò gạch cũ bỏ không. Được người ta nhặt về nuôi, lớn lên đi ở hết nhà này sang nhà khác. Năm 20 tuổi, hắn làm canh điền cho nhà Lí Kiến. Lí Kiến ghen với anh canh điền trẻ trai hay được bà ba gọi lên bóp chân, xoa bụng, đấm lưng gì đấy… Thế là một hôm, hắn bị bắt giải lên huyện và phải đi tù. Sau bảy, tám năm biệt tích, hắn trở về, bộ dạng khác hẳn ngày trước. Vừa về, đã say khướt, cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến – bây giờ Lí Kiến đã là Bá hộ, Nghị viên, tiên chỉ làng Vũ Đại – chửi bới, rạch mặt ăn vạ. Lão Bá Kiến khôn róc đời đã xử nhũn với hắn. Với những “kẻ cố cùng liều thân” này chính sách của lão là “trị không lợi thì dùng”, “dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Thế là chỉ một bữa rượu, một đồng bạc, Chí Phèo hả hê ra về và trở thành “chỗ đầy tớ tay chân” của lão để “khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu, là có thể sai nó đến tác hại bất cứ anh nào không nghe mình”! Từ đó, Chí Phèo luôn luôn say. “Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm” và trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại để tác quái cho bao nhiêu dân làng”. Cuộc đời hắn cứ thế trôi đi… Một đêm trăng rười rượi, trong một cơn say. Chí Phèo gặp Thị Nở, người đàn bà xấu xí ngẩn ngơ bị mọi người hắt hủi. Họ ân ái với nhau. Nửa đêm Chí Phèo đau bụng rồi nôn mửa. Sáng hôm sau, tỉnh dậy hắn bâng khuâng buồn. Tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng nói chuyện của mấy người đi chợ về … làm hắn nhớ lại “có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…”. 27.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Hắn thấm thía nhận ra tình cảnh trơ trọi khốn khổ của mình. Thị Nở đến và bưng đến cho hắn nồi chào hành bốc hơi. Hắn cảm động vì đây là lần đầu tiên được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà. Nhớ lại xưa kia, những lần cái bà ba “quỷ cái’ gọi hắn lên bóp chân, “hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì!”. Hắn bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Nhưng khi Thị Nở về xin ý kiến bà cô già của thị thì bà gào lên: “Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo”, “thằng chỉ có một nghề rạch mặt ra ăn vạ”! Bị từ chối, Chí Phèo lại uống rượu và ôm mặt khóc rưng rức, rồi như mọi lần, lại xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi. Cuối cùng, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, chỉ tay vào mặt lão: “Tao muốn làm người lương thiện! […] Ai cho tao lương thiện! […]. Tao không thể là người lương thiện nữa! […] chỉ còn một cách …”. Và hắn rút dao đâm chết Bá Kiến; sau đó hắn cũng đâm cổ tự sát… NGUYỄN HOÀNH KHUNG (Từ điển Văn học, tập I, NXB Khoa học xã hội, H.,. 1983). 2. Chí Phèo nguyên là một đứa con hoang bị bỏ rơi khi vừa lọt lòng trong một lò gạch cũ.Lớn lên, làm thuê cho nhà Lí Kiến. Lí Kiến ghen với anh canh điền trẻ trai hay được bà ba “bóp chân, xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Thế là Chí phải đi tù. Sau bảy, tám năm biệt tích rở về, bộ dạng tính nết hoàn toàn khác trước. Uống rượu say, Chí đến nhà Bá Kiến (lúc này Lí Kiến đã là Bá hộ, tiên chỉ làng Vũ Đại) chửi bới, rạch mặt, ăn vạ. Rất nham hiểm, Bá Kiến xử nhũn với Chí Phèo và biến hắn thành tay chân đắc lực, thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” để tác oai tác quái cho bao nhiêu dân làng”. Một đêm trăng, trong lúc say khướt, Chí Phèo gặp Thị Nở, người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, muộn chồng. (Văn học 10 – Ban KHTN và Ban KHTN – KT, NXB Giáo dục, 1993). 28 PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ (3tiết).

<span class='text_page_counter'>(23)</span> I – NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ 1. Nhân vật và vai trò của nhân vật Tác phẩm tự sự là tác phẩm kể chuyện. Trong tác phẩm tự sự, qua lời kể, lời tả, cuộc sống hiện lên những nhân vật, những sự kiện… Nhân vật văn học là những con người được miêu tả trong tác phẩm. Ví dụ: trong Truyện Kiều có nhân vật có tên như Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải… Có những nhân vật không tên như gã bán tơ, chú tiểu đồng…Trong thần thọai, nhân vật là các thần và bán thần. Trong truyện ngụ ngôn nhân vật thường là những con vật: con cáo, con chó sói, con sư tử. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật để nhận thức con người, nhận thức xã hội, và để thể hiện tư tưởng, thái độ của mình đối với con người và xã hội. Vậy phân tích để hiểu rõ, hiểu đúng nhân vật trong tác phẩm chính là để tiếp nhận đúng nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm đó. Không biết phân tích nhân vật coi như chưa biết đọc truyện. 2. Các loại nhân vật: Tác phẩm tự sự có nhiều loại, nhiều quy mô khác nhau: thần thoại, cổ tích, sử thi, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài… Có loại có vài ba nhân vật, có loại có hàng chục, hàng trăm nhân vật. 29 Nhân vật trong tác phẩm tự sự cũng có thể chia ra làm nhiều loại. - Xét về vị trí và vai trò trong việc tổ chức tác phẩm, ta có nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm … - Xét về tác động của nhân vật đối với quá trình phát triển của xã hội, của lịch sử, ta có nhân vật tích cực và nhân vật tiêu cực… Phương thức xây dựng nhân vật cũng khác nhau theo từng loại hình tự sự. Mỗi loại hình, mỗi quy mô của tác phẩm, mỗi yêu cầu của phương pháp nghiên cứu… đòi hỏi một cách phân tích tương.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> ứng thích hợp. Ở đây, theo chương trình lớp 11, ta bước đầu tìm hiểu cách phân tích nhân vật trong các truyện ngắn, truyện vừa. II – CÁCH PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ 1. Tìm hiểu chung về nhân vật: Trước khi phân tích nhân vật cần tìm hiểu chung về nhân vật. Ta cần biết rõ nhân vật thuộc tác phẩm nào, vào thời đại nào, của tác giả nào, vì nhân vật gắn liền với nội dung ý nghĩa của tác phẩm, với tư tưởng và quan niệm nghệ thuật cỷa tác giả. Tìm lại nhửng kiến thức văn học sử liên quan, ta đã có những chỉ dẫn ban đầu cần thiết. Mỗi nhân vật sống trong một hoàn cảnh xã hội nhất định và những điều kiện sinh hoạt nhất định. Việc phân tích nhân vật đòi hỏi phải có những hiểu biết về hoàn cảnh và điều kiện sinh hoạt ấy. Lại phải có những hiểu biết liên quan đến những diềi nói trong tác phẩm mới có thể hiểu sâu nhân vật. Ví dụ: Khi tìm hiểu Chữ người tử tù cần viết thú chơi chữ Hán (còn gọi là nghệ thuật thư pháp) của các nhà nho; phát triển truyện ngắn Hai đứa trẻ cần biết cuộc sống đìu hiu, buồn tẻ, quẩn quanh của nhiều phố huyện trước Cách mạng tháng Tám v.v… 30 2. Tìm hiểu nhân vật qua chi tiết cụ thể Không như ở bức tranh, bức tượng, hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh hiện lên cùng một lúc; hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học hiện lên dần dần qua các chi tiết cụ thể trong suốt quá trình đọc tác phẩm. Vậy ta phải chú ý đến các chi tiết lần lượt xuất hiện, nối kết các chi tiết đó lại mới thấy được đặc điểm, tính cách nhân vật. Mỗi chi tiết trong tác phẩm đều đã được tác giả cân nhắc và lựa chọn. Vì vậy, ta phải tìm hiểu ý nghĩa của nó: chi tiết đó đã góp phần xây dựng hình tượng nhân vật như thế nào, thể hiện những ẩn ý gì của nhà văn. Nhìn chung khi tìm hiểu đặc điểm, tính cách nhân vật, cần chú ý đến các khía cạnh sau đây: - hình dáng bên ngoài, gương mặt, dáng dấp…;.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> - lời nói, cách nói, cử chỉ …; - thế giới nội tâm ; - quan hệ của nhân vật với các nhân vật khác ; - cảnh bên ngoài, môi trường sống. + Hình dáng bên ngoài: Hình dáng bên ngoài góp phần quan trọng vào việc thể hiện tính cách nhân vật. chẳng hạn: những vết sẹo ngang dọc trên gương mặt Chí Phèo cùng với những nét chạm trổ ở ngực, tự nó đã nói lên rất nhiều… Phải chăng, cái ngoại hình biến dạng, kì dị, gớm ghiếc kia như đã muốn trưng ra quá khứ dữ dằn, và nội tâm tha hóa, biến chất của Chí Phèo + Lời nói, cách nói, cử chỉ của nhân vật. Lời nói, cách nói của mỗi người đều có nét riêng, liên quan đến cuộc đời, tính cách, và dụng ý trong từng trường hợp. Lời lẽ của Chí Phèo, của Bá Kiến, của Đội Tảo đều in đậm tính cách của mỗi nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao. Những cử chỉ cũng thế. 31 Ngô Tất Tố đã tố cáo tính chất thô lỗ, vô học của nhân vật Nghị Quế qua những cử chỉ dưới đây: “…Ông Nghị đâm chéo đôi đũa qua mặt mâm, bưng bát canh, trợn mắt húp một cái đánh “sọat”. Rồi ông vừa nhai, vừa nuốt, vừa giục thằng nhỏ lấy tăm…”, “Dứt mạch diễn thuyết, ông Nghị bưng tách nước uống một hớp lớn, súc miệng òng ọc mấy cái, rồi nhổ toẹt xuống nền nhà…” + Thế giới nội tâm (cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng bên trong) Những chi tiết về hình dáng bên ngoài, về lời nói, cách nói, cử chỉ… đều giúp ta hiểu hơn tính cách nhân vật. Bên cạnh đó, còn phải chú ý đến những đoạn mà nhà văn trực tiếp phân tích nội tâm – tâm trạng bên trong của nhân vật. Ví dụ: “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.” (Nam Cao – Chí Phèo) Qua đoạn mô tả nội tâm này, Nam Cam cho thấy Chí Phèo không phải lúc nào cũng là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí cũng có những lúc lương tri thức tỉnh “giật mình, mình lại thương mình xót xa”. Nỗi khổ về mặt tinh thần, nỗi buốn sợ cô đơn làm cho hình tượng Chí Phèo có thêm chiều sâu nhân bản. + Hình tượng nhân vật nổi rõ hơn lên trong mối quan hệ với các nhân vật khác, khi đối sánh với các nhân vật khác. Nhân vật phụ làm nỗi rõ nhân vật chính, những điều nhân vật chính cần nói có thể được lời nhân vật phụ bổ sung… 32 Trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam bên cạnh cuộc đời của Liên còn có cuộc đời của chị Tí “đội cái chõng trên đầu, và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc: tất cả cái cửa hàng của chị”. Và “Vợ chồng bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu, bần bật trong yên lặng. Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường.” Tất cả tô đậm thêm sự nghèo khổ, thiếu thốn về vật chất, sự quẩn quanh bế tắc về tinh thần của những người dân phố huyện cùng với chị em Liên. Qua chi tiết, ta thấy rõ những chuyển động, diễn biến trong tâm hồn nhân vật. Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến nhiều lần, mỗi lần với những động cơ khác nhau. Thái độ của nhân vật Huấn Cao (trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân) đối với viên quản ngục lúc mới vào ngục, khác với lúc viết những hàng chữ đẹp và dặn dò những diều tâm huyết. Vì sao có những chuyển biến đó? Chuyển biến đó có hợp lí, hợp tình, hợp với nhân vật ấy không? Đó là những điều phải đi sâu phân tích biện luận. Cũng cần nhớ trong khuôn.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> khổ truyện ngắn, những chuyển biến có thể rất tinh vi khó nắm bắt. Có khi tác giả chỉ hé ra một xu thế, một dự cảm chuyển biến mà người đọc cần phải suy ngẫm kĩ để đoán định. Chẳng hạn, không phải để chờ đón người thân, cũng không phải đợi khách xuống để bán hàng, nhưng hai chị em Liên vẫn thức khuya chờ tàu từ Hà Nội về. Với cuộc sống tù túng hạn hẹp ở một huyện lị tỉnh nhỏ, chuyến tàu như một thứ ánh sáng mới, một điều gì mới từ nơi xa đến. Những khát vọng, những mong ước mơ hồ, mong manh hướng về một cuộc sống khác đã nẩy nở trong tâm hồn hai đứa trẻ. Đối với nhiều tác phẩm tự sự, việc phân tích tìm hiểu những chuyển biến trong tâm hồn, tình cảnh của nhân vật là cơ sở để đánh giá cử chỉ, hành động của họ trong mối quan hệ với các nhân vật khác. Từ đó, cũng có thể thấy được sự phát triển tính cách của mỗi nhân vật. 33 + Cảnh bên ngoài, môi trường sống Nhà văn viết về cảnh bên ngoài, môi trường sống nhằm giúp người đọc lí giải những điều nào đó trong thế giới tinh thần của nhân vật. Thạch Lam miêu tả cảnh chiều tà ở phố huyện, chợ vãn trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị… Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ, cúi lom khom tìm tòi nhặt nhạnh… Chính cảnh bên ngoài ấy, môi trường sống nghèo nàn thảm hại ấy, đã để lại trong tâm hồn chị em Liên những ấn tượng khó quên (Hai đứa trẻ). Đọc mà lướt nhanh các chi tiết cụ thể, chưa thể gọi là đọc tác phẩm văn học. Cũng không thể phân tích chính xách tác phẩm nếu thấy các chi tiết cụ thể nhưng không đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của các chi tiết trong việc xây dựng tính cách nhân vật, trong việc thể hiện nội dung của truyện. 3. Những kết luận về nhân vật Sau khi tìm hiểu các khía cạnh, các chi tiết cụ thể của hình tượng nhân vật phải dẫn đến những kết luận: a) Tính cách nhân vật (đã được phân tích) như thế nào?.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Đâu là những nét tiêu biểu nhất? Ở đây cần chú ý: nhân vật có thể rất phong phú, đa dạng, nhưng rút cục phải nhận ra những nét chính, không sa vào kể lể tràn lan, vụn vặt. Mặt khác, cũng phải tránh đừng rút gọn quá, đễ rơi vào công thức chung chung. Phải chỉ ra nét chung và nét riêng của nhân vật, phân biệt nhân vật này với những nhân vật khác. Nhân vật có mối quan hệ với hoàn cảnh xã hội, với môi trường cụ thể. Nhân vật còn có những tình cảnh riêng không ai giống ai. Có trường hợp những may rủi ngẫu nhiên tình cờ đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời họ. Chú ý nhận ra những điều đó, việc phân tích đánh giá về nhân vật sẽ sát đúng, hợp tình và cụ thể hơn. 34 Sự phân tích nhân vật cần gắn với quan điểm nghệ thuật quan điểm sáng tác của nhà văn, cũng như những tâm tư tình cảm của tác giả muốn gửi gắm trong tác phẩm, muốn thông báo với bạn đọc qua một nhân vật cụ thể. Có như thể mới thấy hết được chiều sâu tư tưởng của mỗi tác phẩm. b) Từ ý định nghệ thuật của tác giả mà xem xét, đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật Tính nghệ thuật của tác phẩm nhằm thực hiện tốt ý định nghệ thuật của tác giả. Cụ thể, ta phải xem xét các chi tiết (về chân dung, về ngoại hình, về ngôn ngữ, cử chỉ, hàng động, về nội tâm…) đã được tác giả lựa chọn như thế nào để thể hiện tốt nhất hình tượng nhân vật như họ mong muốn. c) Nhận định chung về nhân vật nhân vật đã đóng góp những gì về mặt nhận thức, giáo dục, về mặt thẩm mĩ cho người đọc? Nhân vật có làm cho người đọc thấy thêm những khía cạnh mới của một kiểu người đã được miêu tả, hoặc cho người đọc thấy một kiểu người chưa từng được miêu tả? Nhân vật có những đóng góp , những gợi ý mới làm phong phú cho cuộc sống tinh thần của người đọc? Nhân vật được xây dựng đã sinh động chưa? Hoặc nhân vật đã có tính cách rõ, đã đạt đến trình độ điển hình chưa, tính cách của nhân vật phát triển ra sao? v.v….

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Tất cả những nhận định và kết luận đưa ra phải có căn cứ và lập luật chặt chẽ. Có căn cứ nghĩa là nói điều gì phải có dẫn chứng phù hợp rút ra từ văn bản tác phẩm. Lập luật chặt chẽ nghĩa là phải nêu ra lí lẽ vì sao mình lại nói như thế. Tuy không cần phải giải thích dài dòng, nhưng phải làm cho người đọc thấy rõ những nhận định, những kết luận nêu ra đều theo một hệ thống lí luận, dựa trên một quan điểm nhật định. Nếu không đưa ra dẫn chứng, không lập luận, bài viết sẽ mơ hồ, cảm tính, thiếu sức thuyết phục. Nên nhớ rằng bài phân tích văn học nằm trong hệ thống các bài nghị luận văn học. 35 III – CÁCH LÀM BÀI VĂN PHÂN TÍCH NHÂN VẬT Vì có nhiều loại hình tác phẩm tự sự, nhiều phương thức xây dựng nhân vật, và cũng tùy theo cách suy luận sáng tạo của người viết, nên không thể đưa ra một dàn ý thích hợp với mọi bài được. Mọi công thức cứng nhắc đều không phù hợp. Những tìm tòi hợp lí đều đáng hoan nghênh. Việc tham khảo bài viết của các nhà phê bình sẽ giúp ta nhiều kinh nghiệm tốt. Tuy thế, bước đầu có thể chú ý những điểm dưới đây: 1. Về bố cục a) Mở bài Có thể: giới thiệu xuất xứ nhân vật (từ tác phẩm nào, của tác giả nào), một vài lời giới thiệu khái quát (đây là một nhân vật quen thuộc trong văn học, hay một nhân vật có nguồn gốc từ chính sử, một nhân vật xây dựng từ nguyên mẫu trong đời thực v.v…) b) Thân bài Trình bày nhân vật theo từng luận điểm. Mỗi luận điểm có thể là một đặc điểm, một khía cạnh nào đó của hình tượng nhận vật. Mỗi luận điểm tương ứng với một đoạn của thân bài. (Tuy nhiên số luận điểm này không nên quá nhiều, nếu nhiều quá, bài viết sẽ không được tập trung, khó theo dõi). Ở mỗi luận điểm đều cần đưa ra những luận cứ cụ thể xác đáng, làm bật lên được nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả, thái độ của tác giả đối với nhân vật..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> c) Kết bài Có thể bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình đối với nhân vật; nêu những nhận xét khái quát về: bút pháp xây dựng nhân vật, ảnh hưởng của nhân vật đối với người đọc. Cuối cùng cần nói đến vị trí, vai trò của nhân vật trong tác phẩm, và tùy trường hợp, có thể nói rõ tác giả đã đóng góp được những gì mới mẻ về tư tưởng, về nghệ thuật trong quá trình phát triển của văn học một thời kì. 36 2. Về nội dung kiến thức Cần vận dụng những kiến thức đã học được qua môn Văn học và những bộ môn khác. Điều quan trọng là nói lên được những cảm nhận chân thực của riêng mình. Người biết đọc truyện không phải là người biết nhiều cốt truyện; cũng không phải là người thông thuộc các nhận định có sẵn về các nhân vật. Trái lại, đọc truyện phải hiểu nhân vật, “sống” với nhân vật và từ nhân vật trong truyện nghĩ đến những vấn đề của cuộc sống hiện tại. Và, từ nhân vật, đôi khi có thể nghĩ đến cuộc đời của chính mình nếu sự liên hệ ấy là tự nhiên, chân thật. Biết chịu khó đào sâu suy ngẫm, liên hệ, chắc chắn bài viết sẽ có những cảm xúc chân thật, những suy nghĩ độc đáo. Lưu ý: Ở đây chỉ nói riêng về việc phân tích nhân vật. Các đề làm văn, ngoài yêu cầu phân tích nhân vật có thể còn nêu ra một số yêu cầu kết hợp khác. Ví dụ “Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và nói rõ mối liên hệ tinh thần giữa tác giả và hình tượng nhân vật trong chuyện ngắn này”, hoặc “Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, hãy nói rõ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm này”…. Gặp mỗi dạng đề bài như thế, cần có những dàn ý phù hợp với từng yêu cầu cụ thể. Nói tóm lại, cần viết đủ ý nhưng ngắn gọn. Tránh biến bài văn phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự thành bài kể lể toàn bộ cốt truyện. Cũng cần tránh những bình luận dài dòng theo khuôn sáo mòn cũ..

<span class='text_page_counter'>(31)</span> 37 LUYỆN TẬP 1. Phân tích tâm trạng nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam . (Chú ý: diễn biến tâm trạng theo thời gian, từ chiều hôm đến đêm khuya lúc chuyến tàu chạy qua phố huyện). 2. Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao ở đầu truyện và cuối truyện đối với viên quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. (Chú ý: giải thích lí do của sự chuyển biến đó ; sự chuyển biến đó có hợp với tính cách của nhân vật không?) 3. Trong tiểu thuyết Số đỏ, Vũ Trọng Phụng đã lên án sự lố lăng, đồi bại trong xã hội tư bản thời Pháp thuộc. Qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, hãy phân tích vài ba nhân vật để nói lên tính chất lố lăng đồi bại đó. (Chú ý: Tập trung phân tích nhân vật cụ Cố Hồng, vợ chồng Văn Minh và cô Tuyết. Nêu rõ hành động và bản chất thực của các nhân vật ấy). 4. Hãy phân tích nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao và làm rõ bi kịch của người trí thức tiểu tư sản dưới chế độ cũ thời Pháp thuộc. (Chú ý: cho thấy Hộ là người có nhân phẩm, có hoài bão nhưng vì gánh nặng cơm áo, vợ con…đành phải sống một cuộc “đời thừa”.) 5. Tìm hiểu mối liên hệ giữa việc miêu tả ngoại hình và miêu tả nội tâm trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. 38 (Chú ý: trong truyện có nhiều nhân vật. Vì khuôn khổ của bài làm, nên tập trung khảo sát cách miêu tả ngoại hình và nội tâm của nhân vật trung tâm: Chí Phèo. Các nhân vật khác: Thị Nở, Năm Thọ, Binh Chức… chỉ nhắc qua). 6. Phân tích quát trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> (Chú ý:cần phân tích quá trình (bước đường trải qua, trình tự phát triển) tha hóa (biến chất theo hướng xấu) của Chí Phèo. Từ một cố nông lương thiện Chí Phèo đã từng bước, từng bước biến đổi và trở thành con quỷ dữ của làng Đại Vũ. 39 TƯ LIỆU THAM KHẢO 1.NHÂN VẬT CỦA “TẮT ĐÈN” (…) Nhân vật của Tắt đèn cũng dễ nhớ thôi. Nhân vật có cả người, có cả chó (nhân vật chó chỉ hiện hình chứ không đánh tiếng lên trong truyện). Có cả người sống ra trò, và có cả người chết, chết nhưng có vai trò giữ nhịp cho hơi truyện ở đoạn mấu chốt nhất của truyện. Có tên lí trưởng, có lão tri phủ ba que ba dọi, có bố lão quan tình dê cụ. Và cả một tràng nhân vật cầm cờ chạy hiệu, nó nguyên là cái đám cai lệ tay sai phong kiến ở cấp xã. Trên đầm bùn ấy, ngoi lên một đài hoa sen dã ngoại. Tên thứ sen quê ấy là chị Dậu. Dậu là tên người chồng. Tên thật chị là Thị Đào mà đám lính lệ quen thói xếch mé bắt chước quan thầy chúng, thường gọi là “con mẹ Đồng Xá” (tên cái làng nguyên quán của chị Dậu). Mụ đưa người thì đỡ xếch mé hơn một tí, và gọi là “nhà chị Đồng Xá”. Chị nhân vật chính ấy có ba con: Tí, Tỉu, Dần và sau bán mất con Tí 7 tuổi lấy tiền đóng thuế thân cho anh Dậu. Cả một chương X của Tắt đèn là dành cho cái Tí đó. Con bé ngoan quá, hiếu thảo quá. Ngô Tất Tố đã dàng cho cái Tí những lời, những hình ảnh quý giá nhất trong từ vị từ ngữ mình. Văn xuôi, thể truyện, nói về trẻ em Việt Nam, cái chương X đó phải được xếp vào loại những trang đẹp tốt và cảm kích nhất viết về thiếu nhi cũ. Thêm nữa, cả chương X này dồn dồn không khí kịch. Củ khoai, mấy em nhỏ. Một bà mẹ đau khổ, không muốn cho trẻ con thấy sự thật của người lớn. 40 Một cuộc sinh li (giống như tử biệt) bên một cái rá khoai nghèo và khói cứ loãng dần trên củ khoai nguội. Với bao nhiêu câu lục vấn của lũ trẻ..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> Chị Dậu lành mạnh cơ thể và hồn nhiên trong cách nghĩ, trong việc làm, hồn nhiên hiểu theo cái nghĩa của sự thẳng thắn tự nhiên ở một tâm tính người. Con mẹ địa chủ Quế mê tín đểu giả đã gạ mua con chị Dậu cho con gái hắn vốn hiếm hoi “phải nuôi con nuôi thì mới đứng số (…) ta muốn mua cho cô ấy một đứa, để nó gánh vác đỡ đi”. Nghĩa là cái Tí sẽ ốm thay, chết thay, thế mạng cho cháu con nhà địa chủ! Tâm địa mụ địa độc tới như thế, và tiền nong thì mua ép tính thiếu như thế; lúc biết đến, chị Dậu cũng chỉ hạ một câu “Cái bà Nghị, giàu thế mà còn làm điêu”. Cái thằng phong kiến khốn nạn bẩn thỉu là thế, không khỏe chân khỏe tay ẩy được quan ra, chỉ một suýt nữa là nó đổ tim la vào đời mình, đối với con thú bẩn đó, chị Dậu đã “ô hay, nhà ông này mới hay chứ”, và sau này chị Dậu cũng chỉ bảo cho người làng biết qua rằng: “Lão phủ Tư Ân đểu quá”. Đến cả cái việc mà hơn cả nhiều đàn ông khác, chị Dậu đã dám làm, đến cả việc mà sau khi làm, bá cụ người làng đã liệt chị vào cái bậc “đàn bà ngỗ nghịch” ấy, ngay cả về việc đánh một lúc hai tên sai nha đó, khi phải nói thêm với các vị có tuổi ở làng, chị Dậu cũng chỉ nói là “Cháu phải liều với chúng nó”. Và như là còn phảng phất chút ân hận nữa: “Đàn bà đi đánh nhau như thế, là hư thân lắm, chứ không hay gì (…) Cháu đã cố nịn mà không nhịn được”. Chị Dậu là một cái tâm tính mộc mạc, mộc mạc ngay cả trong sự thù ghét. Cái mộc mạc ngay thẳng đó cắt nghĩa nhiều cho mọi cái bột phát và tự phát ở người nữa quần chúng đó. Trên lầy bùn ruộng cũ, những thứ “cỏ nội hoa hèn” đó vẫn hằng có để tăng thêm cho cái thơm cố hữu của đất lúa trổ bông. Trên bãi ruộng oan kiên, chị Dậu là một gốc, một nhánh của thiện căn, của dưỡng khi cánh đồng kết tụ lại. 41 Nhân vật trong Tắt đèn, đậm nét nhất vẫn là chị Dậu. Trong Tắt đèn, lũ người ác đại biểu cho các kiểu bất nghĩa bất lương, cũng khác đông đấy. Những cái mồm cái giọng phải diện cũng khá ồn ào. Nhưng chúng vẫn không bịt được miệng chị Dậu. Tiếng nói.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> chị Dậu vẫn nhiều dư vang. Qua lời qua việc người đàn bà nhân vật chính, thấy cái ý chính của người đàn ông Ngô Tất Tố. Chị Dậu đây, nếu tôi không sai lầm, đích là tác giả Ngô Tất Tố hóa thân ra mà thôi. Và sự phân thân ấy có tính tư tưởng, có tính nghệ thuật. chị Dậu là tất cả cuốn Tắt đèn. Có những lúc tôi muốn xin phép tác giả và nếu tác giả đồng tình, (qua lớp đất nghĩa địa mà tìm được cách nào nhắn lên cho), thì tôi lấy tên chị Dậu làm luôn tên gọi của cuốn truyện Tắt đèn. “CHỊ DẬU”! chị Dậu là đốm sáng đặc biệt của Tắt đèn. Nếu ví toàn truyện Tắt đèn là một khóm cây, thì chị Dậu là gốc cây, cả ngọn, cả cành và chính chị Dậu đã nổi gió lên mà rung cho cà cái cây dạ hương Tắt đèn đó lên. NGUYỄN TUÂN (“Tắt đèn” – Tuyển tập Nguyễn Tuân tập III, NXB Văn học, 1996) 2. NHÂN VẬT CHÍ PHÈO Chí Phèo (1941) là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước cách mạng. Khác với đa số truyện ngắn khác của Nam Cao, Chí Phèo phải ánh xã hội nông thôn trực tiếp trên bình diện đấu tranh giai cấp. Qua hình tượng Chí Phèo, một trường hợp nông dân lưu manh hóa, Nam Cao không những đã miêu tả sâu sắc, cảm động cuộc sống đày đọa của người nông dân bị đè nén bóc lột đến cùng cực, mà còn dõng dạc khẳng định nhân phẩm của họ trong khi họ bị xã hội vùi dập đến mất cả hình người, tính người. 42 Trong Làng Vũ Đại, Chí Phèo là một “thằng cùng hơn cả dân cùng” không cha không mẹ, không thân thích họ hàng, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi…; cả đời Chí Phèo “chưa bao giờ được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà”, đến nỗi mơ ước được chung sống với một người phụ nữ xấu đến “ma chê quỷ hờn” cũng không đạt được. Chí Phèo sống cuộc sống tối tăm của một con vật và chết cái chết thê thảm của một con vật. Số phận.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> khốn khổ ấy của Chí Phèo cũng chính là số phận của cả một lớp người cố cùng dưới đáy xã hội nông thôn Việt Nam. Từ tuổi thơ “bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác” đến tuổi thanh niên “làm canh điền cho ông Lí Kiến”, Chí Phèo sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông ở nông thôn. Quãng đời lương thiện ấy chấm dứt khi Chí bị lão Bá Kiến giải lên huyện rồi đi ở tù. Sau bảy, tám năm biệt tích, Chí hoàn toàn thay đổi. Hắn trở nên xa lạ với dân Làng Vũ Đại và cũng xa lạ với bản thân. Hắn không còn là người nông dân lao động nữa mà là phần tử bị loại ra ngoài giai cấp, ngoài xã hội loài người. Dù vậy, hình tượng Chí Phèo vẫn không mất ý nghĩa điển hình: hiện tượng Chí Phèo không phải là ngẫu nhiên, cá biệt. Xã hội thực dân, phong kiến trước đây không hiếm những trường hợp người lao động bị đè nén bóc lột đến cùng cực đã quay lại chống trả bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy Chí vào nhà tù (giai cấp địa chủ phong kiến còn chỗ dựa nào tốt hơn là bộ máy cai trị của “nhà nước bảo bộ” trong việc đàn áp nông dân!); nhà tù thực dân – cái nhà tù đã bắt giam người ta lúc lương thiện và thả ra khi trở thành hung ác – đã giết chết cái phần người của Chí, biến Chí thành Chí Phèo, một người nông dân hiền lành thành một con thú dữ. Hiện tượng bi thảm ấy là có tính quy luật, tính phổ biến trong cái xã hội ăn thịt người đó. 43 Trong nhiều truyện ngắn khác của Nam Cao, ta đã gặp những họ hàng xa gần của Chí Phèo: Trạch Văn Đoành (Đôi móng giò), cu Lộ (Tư cách mõ)… và ngay trong Chí Phèo là Năm Thọ, Bình Chức, những tiền bối gần gũi của hắn. Chí Phèo chết nhưng hiện tượng Chí Phèo phải chăng sẽ hết? Nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và bỗng “thấy thoáng hiện ra một lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…” Câu chuyện kết thúc ở đó. Sau này Thị Nở có tìm đến cái lò gạch cũ và cho ra đời một Chí Phèo con để “nối nghiệp” bố hay không điều đó chưa có gì chắc, có một điều chắc là: hiện tượng Chí Phèo chưa hết chừng nào bọn địa chủ cường hào còn tác oai tác quái trên đầu dân lành không cho ai được sống. “Tre già măng.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> mọc” có bao giờ hết “những thằng du côn!”. Sức mạnh phê phán của Chí Phèo trước hết là ở chỗ đã vạch ra thật hùng hồn cái quy luật tàn bạo, khủng khiếp trong xã hội thực dân phong kiến đó. Những “thằng du côn” ấy thực ra vốn là những kẻ “cố cùng liều thân” đã uất ức vùng lên. Nhưng, khi chưa có Đảng lãnh đạo, chưa có tổ chức đoàn kết đấu tranh thì sự “vùng lên” cô độc ấy thường bế tắc, có khi rơi vào lưu manh, đầy tính chất phá hoại mùa quáng, rất dễ bị bọn thống trị lợi dụng, mua chuộc. Chỉ mấy câu nói ngọt xớt, một chuỗi cười Tào Tháo và dăm hào chỉ, lão Bá Kiến đã lần lượt thu phục những kẻ tử thù của lão thành “chỡ đầy tớ tay chân”! Và hiện tượng mỉa mai, chua xót đó cũng lại có tính quy luật, tính phổ biến trong xã hội cũ. Đi vào cuộc đời người nông dân lưu manh hóa – vừa tiêu biểu cho số phận cực khổ của người nông dân bị đè nén bóc lột, vừa tiêu biểu cho sự tha hóa phổ biến trong cái xã hội tàn phá tâm hồn con người, một vấn đề mà Nam Cao luôn luôn băn khoăn, suy nghĩ – ngòi bút Nam Cao đã đạt tới sức mạnh phê phán mãnh liệt, sâu sắc ít có. Nhưng giá trị độc đáo của Chí Phèo không chỉ ở đó. Vẽ nên hình ảnh người nông dân lưu manh đầy thú tính, Nam Cao không hề bôi nhọ nông dân mà trái lại, đã đi sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật để phát hiện và khẳng định nhân phẩm đẹp đẽ của người nông dân ngay trong khi họ bị rạch nát cả bộ mặt người, giết chết tâm hồn người. 44 Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Thị Nở không phải đã khơi dậy bản năng sinh vật ở gã đàn ông Chí Phèo mà sự săn sóc giản dị đầy ân tình cùng lòng thương yêu mộc mạc chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã khiến bản chất người lao động lương thiện trong Chí Phèo thức dậy. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chi hót vui vẻ, tiếng cười nói của mấy người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo như là tiếng gọi tha.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> thiết của sức sống vẳng đến đôi tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Chí Phèo ăn bát cháo hành từ tay Thị Nở và bỗng nhận ra rằng cháo hành ăn rất ngon . Hương vị cháo hành hay hương vị của tình yêu thương chân thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà thấm thía, lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng? Lần đầu tiên Chí Phèo “mắt ươn ướt nước” và cái cười “nghe thật hiền”. Giờ đây, Chí Phèo mới trở lại là mình, anh rưng rưng và bẽn lẽn khi trở về với cuộc sống con người. Anh tha thiết được trở lại với xã hội loài người, muốn làm hòa với mọi người biết bao!” Lòng yêu thương, cái tình người cảm động đã thức dậy trong Chí Phèo, phần sâu kín nhất trong tâm hồn, cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động bị che lấp, vùi dập bao nhiêu lâu vẫn không tắt. Xưa kia, Chí Phèo đã từng mơ ước một cuộc sống giản dị trong lao động. Tuy còn trẻ trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa: bị gọi lên bóp chân cho “bà ba”, “anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Bản chất trong trắng lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân ra sức bóp chết. 45 Chí Phèo không chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình: “Trần trụi giữa bầy sói” anh không thể hiền lành, mà muốn sống, anh phải cước giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, gan góc ; những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo gây tội ác một cách vô ý thức, linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi. Nhưng hôm nay, Chí Phèo không say. Tình yêu đã thức tỉnh anh và hé mở cho anh con đường trở lại làm người. Anh hồi hộp hi vọng. Nhưng con đường ấy bị chặn đứng: bà cô Thị Nở không cho phép cháu bà: đâm đầu đi lấy một thằng (…) chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ!”. Mọi người đã quen coi Chí Phèo như một con vật và không công nhận anh là con người từ lâu rồi. Thế là Chí Phèo rơi vào một bi kịch tâm hồn đau đớn, bi kịch của người bị cự tuyệt không được làm người. Chí Phèo uống và “ôm mặt khóc rưng rức”. Anh lại xách dao ra đi, và như mọi lần, vừa đi vừa chửi..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Nhưng bước chân Chí Phèo hôm nay không hẳn là bước chân loạng choạng của kẻ say. Anh đến thẳng nhà Bá Kiến chứ không rẽ vào nhà Thị Nở. Có thể anh say nên quên dự định lúc ra đi và đi theo thói quen. Nhưng đúng hơn là anh đã đi theo sự thôi thúc của lòng căm thù giai cấp vẫn âm ỉ chưa tắt trong đấy khối óc u tối dày đặc nay đã bùng lên. Quằn quại đau khổ vì tuyệt vọng. Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp quyền làm người, cướp cả hình người, hồn người của mình. Trước Bá Kiến, Chí Phèo “chỉ tay vào mặt” lão, dõng dạc đòi quyền làm người. Lưỡi dao căm thù của Chí Phèo đã vung lên. Không phải là một vụ giết người mới của một Chí Phèo lưu manh mà đây là một hành động lấy máu rửa thù của người nông dân cùng khổ đã uất ức vùng lên, vùng lên một cách cô độc, tuyệt vọng, manh động. Giết chết kẻ thù, Chí Phèo cũng “chỉ còn một cách” kết liễu cuộc đời mình. Ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng trở lại cuộc sống thú vật nữa. 46 Trước đây, để bám lấy sự sống Chí Phèo đã phải bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, linh hồn ấy trở về, Chí Phèo lại phải thủ tiêu cuộc sống của mình! Chí Phèo đã chết, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Anh phải chết vì xã hội không cho anh được sống. Và cũng vì anh chết vì không tìm ra đường sống. Kẻ thù đã bị đền tội, nhưng “Tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác”. Cuộc sống vẫn tối sầm. Qua Chí Phèo, Nam Cao như đã mơ hồ cảm thấy cái khốc liệt của mối mâu thuẫn giai cấp ngàn dời giữa nông dân và địa chủ không có gì có thể xoa dịu, sức mạnh ghê gớm của mối căm thù giai cấp đang âm ỉ trong lòng trật tự phong kiến nông thôn, càng nén xuống thì càng dễ nổ bùng không gì có thể dập tắt… NGUYỄN HOÀNH KHUNG (Lịch sử Văn học Việt Nam tập V, 1930 – 1945, (phần II) NXB Giáo dục, 1978) 3. CÁC NHÂN VẬT TRONG “CỐ HƯƠNG”(1) Chú thích:.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> (1) Đề bài cho chúng tôi đặt. Cần chú ý khái niệm nhân vật chính, nhân vật phụ… vai trò của chi tiết trong truyện, sự diễn biến của tâm lí nhân vật trong quá trình phát triển của truyện. Về vị trí của nhân vật người kể chuyện: Tôi …Tôi không chỉ là nhân vật chính còn là nhân vật trung tâm, có vị trí quan trọng hơn rất nhiều so với Nhuận Thổ. Không thấy vị trí của Tôi thì việc phân chia bố cục cũng đã có thể trở thành rắc rối. Thật ra rất đơn giản. Tác phẩm có ba phần lớn: Tôi trên đường về quê, những ngày Tôi ở quê, Tôi trên đường xa quê. 47 Để làm rõ chất trữ tình đậm đà của tác phẩm, cần phân tích diễn biến cảm xúc của nhân vật Tôi, từ chỗ phảng phất buồn (trên đường về quê) đến chỗ đau xót, đau xót đến “bi đát”, song cuối cùng, kết thúc không phải là tuyện vọng mà là “hi vọng”. Buồn bã, đau xót, hi vọng đều chỉ là những biểu hiện khác nhau của tình cảm yêu mến quê hương của nhân vật Tôi.Cái hay của tác phẩm là thể hiện sự diễn biến ất một cách sinh động, chân thật, hợp lí. Đã có nhà nghiên cưu cho rằng trong tác phẩm có một hình tượng bao trùm, ấy là “Cố Hương” ; và quan hệ cần phân tích chính là quan hệ giữa Tôi và hình tượng bao trùm ấy. Nhuận Thổ chỉ là hiện thân nổi bật nhất của “Cố hương” và quan hệ giữa Tôi và Nhuận Thổ, dù được khắc học đậm nét, vẫn sẽ mất hết ý nghĩa nếu tách khỏi các quan hệ giữa Tôi với những nhân vật khác, thậm chí với cả những cảnh vật của “Cố hương”. Không phải chỉ có gia cảnh Nhuận Thổ sa sút, tính cách Nhuận Thổ biến đổi, mà “dưới mắt Tôi”, gia cảnh mọi người – kể cà gia cảnh Tôi, tính cách mọi người đều biến đổi. Gia cảnh, tính cách của thím Hai Dương cũng biến đổi theo cách riêng của nó. Bởi vậy, khi gia đình Tôi sắp lên đường, “kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc, có kẻ vừa đưa chân vừa lấy đồ đạc”. Và khi Tôi xuống thuyền thì “tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét”..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Trong tác phẩm Lỗ Tấn, Tôi thường là hình tượng nhân vật tích cực. Lúc viết Cố hương Lỗ Tấn chưa phải là người mác xít, Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng chưa ra đời, song ở Tôi, có thể nói đã mang mầm mống của hình tượng người trí thức mới: yêu mến và ca ngợi nhân dân lao động; tinh thần tự chỉ trích phê phán, căm thù áp bức, bóc lột, lễ giáo, mê tín, thần quyền; ước vọng vươn tới một xã hội mới trong đó không có sự cách bức giữa giàu nghèo, sang hèn, giữa trí thức và những người lao động… Kết hợp với những thủ pháp nghệ thuật đa dạng (hồi ức, đối chiếu, so sánh, đối thọai nội tâm…) phẩm chất tư tưởng của Tôi đã hướng người đọc tới những suy nghĩ, rung cảm lành mạnh. Phân tích Cố hương mà bỏ qua hình tượng “con đường” cuối tác phẩm thì thật thiếu xót. 48 Vài nét về nhân vật Nhuận Thổ … Cần tập trung phân tích sự biến đổi về diện mạo tinh thần của Nhuận Thổ (qua hình dạng, ngôn ngữ, động tác, đặc biệt qua quan hệ với Tôi). Song, bên cạnh đó, cần chỉ ra một số mặt không thay đổi. Anh vẫn cần cù lao động như xưa, vẫn trân trọng quan hệ tình cảm với Tôi, luôn nhắc đến Tôi và mong gặp Tôi, đến lúc gặp cũng không quên mang ít đậu xanh tặng bạn (không nên cho rằng đây là “lễ lạt người quyền quý”). Cả hai phía đều hướng về nhau nhưng không thể chan hoà như xưa được; điều đó càng tăng thêm ý nghĩa tố cáo quan niệm tôn ti đẳng cấp khắc nghiệt. Về các nhân vật khác Lối viết của Cố hương rất biến hóa song cũng rất chặt chẽ. Mỗi nhân vật, dù rất phụ, đưa vào vẫn có tác dụng góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề. Nhuận Thổ đã có hai con nhỏ đến nhà này chứ không phải một. lần đầu là Thủy Sinh, con thứ năm. Lúc đó Nhuận Thổ nói với Tôi: “Bẩm, vất vả lắm! Cháu thứ sáu cũng đã giúp được việc nhưng nhà vẫn không đủ ăn”. Và lần sau, quả anh ta đã đem đứa thứ sau, lại là gái, đến trông thuyền! Không nên cho rằng Nhuận Thổ đem con tới là để thể hiện “sự chân thành của người dưới” hoặc để cho “gia đình Tấn thấy con anh.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> dể dàng động lòng hơn”! Lỗ Tấn đâu hời hợi vậy và động cơ Nhuận Thổ đâu tồi tệ vậy! Về mặt nghệ thuật, cũng không phải là để đối lập quan hệ hiện nay giữa Hoằng và Thủy Sinh (“ngăn cách”) và quan hệ ngày xưa giữa Tấn và Nhuận Thổ (“hòa hợp”). 49 Thật ra, cả hai đều y hiệt nhau: xưa lúc Nhuận Thổ mới đến nhà Tôi cũng “bẽn lẽn”, nay Thủy Sinh cũng chỉ bẽn lẽn với người lớn thôi, cho nên, lúc được phép ra chơi với Hoằng là em lập tức “khoan khoái” và lúc chia tay, em cũng hẹn Hoằng về quê chơi như bố em ngày xưa. Tuổi trẻ, đúng như Nhuận Thổ nói, “còn nhỏ dại, chưa hiểu”, tức chưa bị lễ giáo ràng buộc. Và như vậy, đưa Thủy Sinh vào chính là để đối lập quan hệ giữa Hoằng và Thủy Sinh hiện nay hòa hợp với quan hệ giữa Tôi và Nhuận Thổ hiện nay ngăn cách. Ở cuối tác phẩm, cũng chính quan hệ chan hòa đó đã gợi cho Tôi suy tưởng về một xã hội tốt đẹp mai sau… NGUYỄN KHẮC PHI (Các tác phẩm văn chương cổ và văn chương nước ngoài. Vụ đào tạo bồi dưỡng – Bộ Giáo dục, 1989) 50 PHÂN TÍCH TÂM TRẠNG TRONG THƠ TRỮ TÌNH (3tiết) I – TÂM TRẠNG TRONG THƠ TRỮ TÌNH 1. Vị trí tâm trạng trong thơ trữ tình Tác phẩm văn học nào cũng biểu hiện cảm xúc và tình cảm – tâm trạng của con người. Nhưng thơ trữ tình biểu hiện tâm trạng theo cách riêng. Ở thể truyện, tác giả xây dựng bức tranh về cuộc sống, trong đó các nhân vật có cuộc đời, đường đi và số phận riêng. Bằng đối thoại và độc thoại, tác giả kịch thể hiện tính cách và hành động con người qua những mâu thuẫn và xung đột. Còn ở thơ trữ tình: tâm trạng dù được bộc lộ trực tiếp hay thể hiện gián tiếp, đều trở thành nội dung chủ yếu phản ánh cuộc.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> sống. Từ tâm trạng ta suy ra ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm. Do đó, có phân tích để hiểu đúng tâm trạng mới lĩnh hội được nội dung tác phẩm thơ trữ tình. Thơ trữ tình có nhiều loại. Dựa vào đối tượng đã tác động để hình thành tâm trạng, người ta chia ra thơ trữ tình phong cảnh, thơ trữ tình thế sự, thơ trữ tình công dân, thơ trữ tình đời thường. Tất nhiên, thế giới nôi tâm của con người vô cùng tinh tế và phức tạp, có trăm nghìn mối quan hệ đan chéo như: đang ngắm phong cảnh lại nghĩ đến thế sự đang nói về đời thường lại liên hệ đến vận mệnh dân tộc… Tuy thế, cách phân chia bốn loại thơ như trên, khi cần thiết, cũng giúp ta biết được cảm hứng chủ đạo của bài thơ. Và dù loại gì, việc tìm hiểu và khai thác tâm trạng vẫn là điều quan trọng nhất để hiểu thơ trữ tình. 51 2. Sắc thái cá thể và ý nghĩa xã hội của tâm trạng Tâm trạng là của một cá nhân cụ thể trước một đối tượng cụ thể trong một thời gian, không gian cụ thể. Sắc thái chủ quan cá thể và riêng biệt của mỗi tâm trạng cần được tìm hiểu và khai thác mới thấy được nét độc đáo của bài thơ. Đó là vẻ đẹp, là sức hấp dẫn không bao giờ trùng lặp. Nhưng tâm trạng nảy sinh từ một đối tượng cụ thể trong một thực tế xã hội nên nó còn có ý nghĩa xã hội. Qua tâm trạng của cá nhân, ta có thể thấy tâm trạng một lớp người nào đó trong xã hội. Thấy rõ điểm này mới giải thích được sức lan truyền, và ảnh hưởng của nhiều bài thơ trong cuộc sống xã hội. Tác động, ảnh hưởng của tâm trạng trong bài thơ đối với xã hội có nhiều loại. Cần nhận ra những tâm trạng tích cực hướng người đọc vươn đến những tư tưởng dân chủ, nhân đạo phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Và những tâm trạng tiêu cực như níu người đọc trở về những hướng ngược lại. Khi phân tích tâm trạng trong một bài thơ trữ tình, cần lưu ý những điều nói trên. Có như thế, cách phân tích và đánh giá mới theo một quan điểm, theo một cơ sở lí luận nhất định, không chủ quan, tùy tiện, vô nguyên tắc..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> II – CÁCH PHÂN TÍCH TÂM TRẠNG TRONG THƠ TRỮ TÌNH 1. Đi sâu vào từ ngữ, hình ảnh…, tìm hiểu nghĩa của bài thơ. Trước hết, ta cần đọc để nắm tinh thần chung của bài thơ và có ấn tượng chung về bài thơ. Những ý kiến ban đầu đó sẽ được soi sáng, lí giải, cụ thể hóa dần khi gắn bài thơ vào tác giả, vào hoàn cảnh ra đời của nó. 52 Sau đó, ta đi sâu vào văn bản, tìm hiểu các từ, các câu, các hình ảnh và biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, hoán dụ...). Điều quan trọng không phải là chỉ ra tác giả đã dùng những biện pháp tu từ nào mà là xem những biện pháp tu từ ấy đã góp phần thể hiện nội dung bài thơ, tâm trạng trong bài thơ như thế nào. Dần dần ta hiểu rõ nghĩa trực tiếp của bài thơ, và nhất là nghĩa sâu, nghĩa ẩn chứa đằng sau câu, chữ. Trong thơ, những điều mà hình ảnh, câu, chữ… khơi gọi ra cũng quan trọng như những điều đã nói rõ ra. Ví dụ: Một đèo, một đèo, lại một đèo (HỒ XUÂN HƯƠNG) Hoặc:. Lối xưa xe ngựa, hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương (Bà huyện THANH QUAN) Gặp những câu thơ như thế phải dừng lại để tìm hiểu sức khơi gợi của cách ngắt nhịp, cách dùng từ, cách đặt câu về một tình thế, về một nỗi niềm… 2. Phân biệt tâm trạng của hai loại nhân vật trữ tình Một điều cần phải đặt ra: Tâm trạng trong bài thơ là tâm trạng của ai? Tâm trạng trong bài thơ là tâm trạng của nhân vật trữ tình (1). Nhân vật trữ tình có thể là chính tác giả: Huế ơi, quê mẹ của ta ơi Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Mưa nguồn, gió biển, nắng xa khơi. (TỐ HỮU) Chú thích: (1) Nhân vật trữ tình là hình tượng văn học trực tiếp thổ lộ những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, hành động… cụ thể, chi tiết như nhân vật tự sự. 53 Tấm lòng đó, giọng điệu đó là của Tố Hữu và gắn liền với cuộc đời, với cá tính sáng tạo trong thơ ông. Dĩ nhiên, khi sáng tác, nhà thơ đã nâng mình lên thành người mang tâm trạng cho một lớp người, một thế hệ người. Cũng có khi nhà thơ hóa thân vào một nhân vật khác, tạo thành nhân vật trữ tình nhập vai. Ví dụ: Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm trong Chinh phụ ngâm đã nói thay tâm trạng người phụ nữ có chồng đi chinh chiến xa. Tố Hữu đã nói lên tâm trạng những bà mẹ miền trung du Bắc bộ có con đi bộ đội trong Bà bủ: … Đêm nay bộ đội rừng khe, Mưa ướt dầm dề, gió buốt chân tay. Nó đi đánh giặc đêm nay Bước run, bước ngã, bước lầy, bước trơn. Nhà còn ổ chuối, lửa rơm, Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì? Năm xưa cơm củ ngon chi, Năm nay cơm gié nhà thì vắng con. Tất nhiên, giữa tâm trạng nhân vật trữ tình do tác giả sáng tạo nên, và tâm trạng bản thân tác giả, có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhưng cần có sự phân biệt để khi nhận định tính chân thật, tính tiêu biểu của tâm trạng trữ tình ta không lẫn lộn. 3. Tâm trạng thuần nhất, tâm trạng phức tạp, sự chuyển biến tâm trạng..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> Tâm trạng là trạng thái tâm hồn. Có tâm trạng buồn, có tâm trạng vui, tâm trạng đau khổ thất vọng, tâm trạng sảng khoái tràn đầy hi vọng v.v…. Nhưng tâm trạng nhiều khi không thuần nhất. Trong tâm trạng có những sắc thái cảm xúc, những tình cảm tinh tế đan xen xuất hiện: mừng mừng, tủ tủi; vừa hi vọng vừa lo âu; vừa tự hào vừa chua xót. 54 Ví dụ: Ngày vào Đảng đất trời như đổi khác, Những vật vô tri cũng làm rưng nước mắt. Đá sỏi cây cằn sao bỗng thấy thiêng liêng. Giọng nói quen nghe, màu đất quen nhìn. Bỗng chan chứa trăm diều chưa nói hết, Tôi cúi đầu nghe, dặt dìu tha thiết. Cây cỏ trời mây, kẻ mất người còn. Trong mơ hồ trăm tiếng của quê hương… (CHẾ LAN VIÊN – Kết nạp Đảng trên quê mẹ) Nhiều cảm xúc, tình cảm hiện lên đan xen hòa lẫn tạo nên một tâm trạng phức hợp: vừa dạt dào xúc động, vừa bồi hồi tưởng nhớ, vừa thành kính biết ơn. Có đi sâu phân tích nhận ra các biến thái tình cảm hợp thành tâm trạng, mới hiểu đúng bức tranh của lòng người, mới thấy hết cái tinh vi của tình cảm con người. Trong thơ trữ tình, tâm trạng có chuyển động, và có thể có chuyển biến. Cần theo dõi qua trình chuyển động đó, để nhận ra những chuyển biến trong tâm trạng nhân vật trữ tình. Đọc bài Mẹ Tơm của Tố Hữu, ta thấy rõ quá trình chuyển động những chuyển biến rõ nét trong tâm hồn, tình cảm nhà thơ. Có cái xôn xao, sung sướng trên đường trở về quê cụ với bao nhiêu kỉ niệm: Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Một buổi trưa, nắng dài bãi cát Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát … 55 Có tâm trạng vừa ngạc nhiên ngỡ ngàng, vừa thân thiết ngọt ngào khi bước vào ngôi nhà cũ: Nhiều đấy ư em, mấy tuổi rồi? - Hai mươi - Ờ nhỉ, tháng năm trôi Sóng bồi thêm bãi, thuyền thêm bến Gió lộng đường khơi, rộng đất trời! Và đoạn cuối là tâm trạng của người đầy lòng thành kính và biết ơn, đang trầm tư sâu lắng: Ôi bóng người xưa đã khuất rồi Tròn đôi nấm đất, trắng chân đồi. Sống trong cát, chết vùi trong cát Những trái tim như ngọc sáng ngời! Đọc Tì bà hành của Bạch Cư Dị, ta thấy rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình lúc tiễn bạn ở bến Tầm Dương, lúc lắng nghe tiến đàn tì bà, lúc cảm động vì cuộc đời người ca nữ, lúc cảm thương thân thế của chính mình: Cùng một lứa bên trời lận đận. Trên đây là những điều ta cần chú ý khi phân tích tâm trạng trong thơ trữ tình. Nhưng không nhất thiết ở bài thơ nào, các điều đó cũng hiện ra đầy đủ, cũng được diễn đạt một cách xuất sắc. Vậy phải tôn trọng thực sự: thấy thì nói, thấy đến đâu nói đến đấy, theo cảm nhận của chính mình. Tránh lối làm cưỡng ép, vẽ rắn thêm chân. 4. Đánh giá về tâm trạng Khi đã nắm thật chắc điều được nói trong bài thơ và cách nói trong bài thơ, ta đi vào phần đánh giá. Cần đặt bài thơ vào hoàn.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> cảnh nó ra đời để nhận định: Tâm trạng phản ánh trong bài thơ là tâm trạng gì? Tâm trạng ấy bắt nguồn từ thực tế xã hội nào? Tâm trạng ấy tiêu biểu cho lớp người nào trong xã hội? Tâm trạng ấy có làm phong phú cho tâm hồn, cuộc sống tình cảm của con người lúc đó và hiện nay không? Tất nhiên khi đánh giá, cũng cần phải chú ý đến những tìm tòi sáng tạo, những đóng góp của bài thơ về mặt ngôn từ trên tiến trình phát triển của lịch sử văn học. 56 III – NHỮNG ĐIỀU CHÚ Ý KHI LÀM BÀI VĂN PHÂN TÍCH TÂM TRẠNG TRONG THƠ TRỮ TÌNH 1. Xác định yêu cầu của đề bài, lập bố cục thích hợp Khi phân tích tâm trạng trong một bài thơ trữ tình, ta chú ý những điều đã trình bày trên. Còn khi làm một bài văn cụ thể, lại có những chú ý khác. Trước hết, phải đọc kĩ, xác định đúng yêu cầu của đề ra. Có đề bài chỉ nên yêu cầu phân tích tâm trạng trong bài thơ. Ví dụ: Phân tích tâm trạng Nguyễn Khuyến trong bài thơ Khóc Dương Khuê. Có đề bài đã định hướng sẵn việc phân tích. Ví dụ: Từ cách nhìn cảnh vật, phân tích tâm trạng của Xuân diện trong bài thơ Đây mùa thu tới. Có đề bài đặt ra yêu cầu vừa phân tích, vừa so sánh. Ví dụ: Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Xuân Diệu có bài thơ Đây mùa thu tới. Sau Cách mạng, Nguyễn Đình Thi trong bài thơ Đất nước cũng nói đến mùa thu. Hãy so sánh tâm trạng của hai thi nhân đối với hai mùa thu đó. Như vậy yêu cầu của đề bài này là phải tập trung phân tích tâm trạng của hai nhà thơ đối với mùa thu trước Cách mạng và mùa thu sau Cách mạng, chỉ ra chỗ giống nhau và những chỗ khác nhau; sau đó giải thích vì sao có sự giống nhau và khác nhau đó. Vậy tùy theo yêu cầu của đề ra khác nhau, tùy bài thơ khác nhau, và tùy sự tìm tòi sáng tạo của người viết mà định ra một.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> bố cục bài làm thích hợp. Không thể có một cách bố cục chung cho mọi đề làm văn được. (Cần đọc các bài tham khảo, những gợi ý cách làm các đề văn để rút ra những kinh nghiệm cụ thể. Khi đọc những bài tham khảo, phải căn cứ vào mục đích, yêu cầu của chính mình mà chọn lấy những điểm cần thiết và thích hợp, lướt qua những điểm khác.) Cần lưu ý bài làm nào cũng phải có một bố cục rõ ràng, hợp lí, được suy tính kĩ lưỡng. Tránh cách viết tùy tiện, tản mạn. 57 2. Lí luận và cảm xúc trong bài văn Bài phân tích tâm trạng trong thơ trữ tình phải vừa có lí luận vừa có cảm xúc. Tùy theo từng bài thơ, đoạn thơ có thể căn cứ vào nguyên lí của lí luận văn học, quy luật tâm lí học, kiến thức ngôn ngữ học… mà tìm hiểu, phân tích. Thầy, cô giáo chờ đón mỗi bài viết của chúng ta là ở sự phân tích cụ thể những cái hay, cái đẹp của lời thơ, ý thơ, nét độc đáo của tình cảm, tâm trạng trong bài thơ; ở việc lập luận chặt chẽ có sức thuyết phục từ câu, từ ngữ, hình ảnh… thơ chứ không phải là những kiến thức chắp vá về lí luận văn học, tâm lí học, ngôn ngữ học… hay lối nói suy diễn chung chung, chỉ theo cảm tính… Khi làm bài cũng cần nói đến những ấn tượng, những cảm xúc của chính mình trong quá trình tiếp nhận bài thơ. Rung động được với cái hay, cái đẹp của tác phẩm chứng tỏ người phân tích đã cố gắng đi sâu vào những chỗ tinh tế của bài thơ. 3. Chọn lọc ý để trình bày Khi tìm hiểu tâm trạng trong bài thơ, ta đi sâu vào nhiều mặt, nhiều chi tiết, nhiều ấn tượng, nhiều suy nghĩ. Khi làm bài, ta cần có ý thức sàng lọc, lựa chọn để trình bày vừa đúng vừa trúng yêu cầu của đề ra. Tức là phải nêu bật lên được trọng tâm của vấn đề. Đó là thực chất và chiều sâu của tâm trạng, những đặc sắc của nghệ thuật ngôn từ, ý nghĩa của bài thơ; những đóng góp của tác giả để tạo nên một giọng điệu riêng, một phong cách riêng. 58.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> Điều gì mới đọc đã nhận ra ngay thì nên nói lướt, điều gì phải suy ngẫm cân nhắc mãi mới nhận ra thì nên nói kĩ… Cũng có thể đặt ra những điều còn băn khoăn thắc mắc hoặc chưa thật rõ. Một bài văn hay phải cho người đọc thấy được sự hiểu biết ngôn ngữ, trình độ phân tích lập luận, và cả khả năng cảm thụ văn chương nghệ thuật tinh tế của người viết. LUYỆN TẬP 1. Phân tích tâm trạng thể hiện trong bài ca dao: Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. (Chú ý: các diễn đạt nỗi nhớ theo thứ tự từ câu 1 đến câu 4 có ý nghĩa gì?) 2. Phân tích tâm trạng thể hiện trong bài ca dao: Chàng về thiếp vẫn trông theo Trông nước, nước chảy, trông bèo, bèo trôi Trông hoa hoa chẳng muốn cười Trông núi, núi đứng, trông người người xa. (Chú ý: tâm trạng thể hiện rõ trong cách nhìn sự vật bên ngoài). 3. Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà. 59 Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> Một mảnh tình riêng, ta với ta. (Chú ý: cần tìm hiểu tiểu sử Bà huyện Thanh Quan, hoàn cảnh ra đời của bài thơ để hiểu rõ tâm trạng của nhà thơ.) 4. Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài Vội vàngcủa nhà thơ Xuân Diệu. (Chú ý tâm trạng được khái quát trong hai câu: Tôisung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân. ) 5. Hãy phân tích các sắc thái tâm trạng trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. (Chú ý các sắc thái tâm trạng: căm hờn, nhớ tiếc, uất hận, mộng mơ… và nghệ thuật diễn tả các tâm trạng ấy trong bài thơ.) 6. Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Trở lại An Nhơn của Chế Lan Viên: Trở lại An Nhơn tuổi lớn rồ,i Bạn chơi ngày nhỏ chẳng còn ai, Nền nhà nay dựng cơ quan mới, Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người. (Chú ý sự hàm súc của thơ tứ tuyệt; nếu có thể, liên hệ với thơ tứ tuyệt đời Đường.) 60 TƯ LIỆU THAM KHẢO 1. QUA ĐÈO NGANG Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang Đèo Ngang trước con mắt lữ khách khi vừa đặt chân tới: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà. Thiên nhiên như ùa đến trong tầm mắt tác giả, cảnh sắc tươi tắn, ưu nhìn, những sinh vật và đất đá nương tựa, xen lẫn nhau cũng có vẻ đông đúc. Cỏ cây chen đá, lá chen hoa..

<span class='text_page_counter'>(51)</span> Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên ấy, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người. Lẽ ra thiên nhiên có thêm con người phải sinh động, đẹp đẽ hơn nhưng ở đây sự điểm xuyết của mấy người hái củi thưa thớt, mấy quán chợ lơ thơ chỉ khiến cho cảnh vật thêm hiu hắt. Lom khom dưới núi, tiều vài chú. Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. Bà Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim cuốc, tiếng chim đa đa vọng đến, rơi vào cái vắng vẻ tĩnh mịch của buổi chiều trên đèo. Khung cảnh thiên nhiên ấy, hoàn cảnh lữ thứ ấy khiến cho tiếng chim gợi liên tưởng đến những từ đồng âm biểu hiện những ý nghĩa, những vấn đề hết sức sâu sắc và lớn lao: nhớ nước và thương nhà. 61 Thương nhà thì đã rõ, bà huyện Thanh Quan có một thời được triệu vào Huế làm chức cung trung giáo tập. Bà vốn người Nghi Tàm, Hà Nội (bài thơ này có thể làm trong dịp vào cung đó). Một người phụ nữ phải rời nhà đi xa như thế, dù là đi làm quan, cũng ngổn ngang biết bao nỗi niềm. Cái tiếng chim đa đa tha thiết khêu gợi biết bao. Nhưng còn cái tiếng khắc khoải của những con chim cuốc? Nhiều người cho rằng đó là tâm sự “hòai Lê” của tác giả. Điều đó không lấy gì làm chắc, bởi lẽ thời bà sống và làm quan, đất nước đã chuyển sang nhà Nguyễn đến thập kỉ thứ ba, thứ tư rồi. Có điều, như các triều đại phong kiến khác, nhà Nguyễn bấy giờ đã bộc lộ những mặt tiêu cực, những chỗ yếu kém và cả những tội ác. Là một nhà thơ nhạy cảm, bà huyện Thanh Quanh hẳn có những điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội. Cái nỗi đau lòng khi nhớ nước có lẽ chính là như thế, chính là sự nghĩa về hiện tình đất nước đương thời. Và khi thiên nhiên đã đánh thức dậy trong lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình. Dừng chân đứng lại: trời, non, nước. Một mảnh tình riêng, ta với ta..

<span class='text_page_counter'>(52)</span> Qua Đèo Ngang trước tiên là bài thơ tả cảnh. Cảnh vật hiện ta phong phú dần theo bước chân người đi. Có cảnh sắc: cỏ cây, hoa lá, đá, tiều phu bên sườn núi, chợ bên sông, nhà; có âm thanh: tiếng cuốc cuốc, gia gia khắc khoải, dồn dập. Và khi lên đến đỉnh núi thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, tòan thể: trời, non, nước. Các mênh mông vô cùng và hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: dừng chân đứng lại. Nhưng tả cảnh chỉ là một phần nhỏ ý nghĩa của bài thơ. Chính là bài thơ đã miêu tả rất rõ diễn biến tình cảm của tác giả khi qua con Đèo Ngang này. Từ cảm nhận ban đầu, tình cảm của tác giả sâu lắng dần; qua sự tiếp nhận của mắt, của tai, những nỗi niềm tâm sự mỗi lúc một dồn nén để rồi nó chất chứa, cô đọng thành một nỗi buồn, nỗi cô đơn không thể cùng ai chia sẻ. 62 Hình ảnh một con người, lại là một người đàn bà, đứng sững giữa cảnh trời, nước, non cao, trong ánh chiều tà đơn độc biết bao! Ở đây có sự tương phản: tương phản giữa không gian mênh mông hùng vĩ và con người lẻ loi đơn độc. Sự tương phải ấy đã tạc vào cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian: tâm trạng cô đơn, nỗi buồn vô hạn, và cả bóng hình nữ sĩ. Qua Đèo Ngàng là một bài thơ hay và sẽ bất tử với thời gian. Có lẽ cho đến khi nào còn đường Nam Bắc, còn Đèo Ngang thì những người qua đây nhiều người còn nhớ đến nữa nữ sĩ và như còn mường tượng ra bức tượng bà đứng cao trội lên trong bóng chiều trên đỉnh đèo. TRẦN THỊ BĂNG THANH (Các tác phẩm văn chương cổ và văn chương người ngoài, Vụ Đào tạo bồi dưỡng – Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo) 2. HUY CẬN NÓI VỀ BÀI THƠ “TRÀNG GIANG”(1) Chú thích: (1) Cần chú ý tâm trạng của tác giả khi sáng tác và tâm trạng được thể hiện trong bài thơ, cách lựa chọn hình ảnh, từ ngữ để thể hiện tâm trạng đó..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Tràng Giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước Cách mạng tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, Vẽ để ngoạn cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ cũng không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương. Chúng tôi lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên. Tràng Giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn. Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng, tôi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra như những lớp sóng: 63 Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng. Thuyền và nước vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng rồi không phải bao giờ cũng gắn bó. Thuyền gợi lên một cái gì nổi nênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đây con thuyền lênh đênh thả mái xuôi dòng và như có một nỗi buồn chia li, xa cách đang đón đợi. Tôi chọn lọc nhiều khả năng biểu hiện hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng” không phải là một thân gỗ xuôi dòng, một đám bèo xanh trôi nổi mà là một cành củi khô bập bềnh trôi giạt trên sóng. Lơ thô cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Khung cảnh của buổi chiều trên sông nước, làng xóm đôi bờ vắng lặng. Trong câu đầu của khổ thơ tôi có học được chữ “đìu hiu” của Chinh phụ ngâm: Non Kì quạnh quẽ trăng treo Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò..

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Cảnh vật vắng vẻ. Đâu đây vẳng lại đôi tiếng lao xao của buổi chợ chiều. Thật không gì vui bằng lúc chợ đông, và buồn bằng khi chợ chiều tan tác, không có tiếng người thì cảnh vật hoang vắng và xa lạ. Đôi chút âm thanh của cuộc sống con người không làm bớt đi sự vắng lặng nhưng vẫn tạo được ít nhiều màu vẻ của cuộc sống. Thiên nhiên tạo vật trong buổi chiều tà trên sông nước cũng lạ lùng. 64 Từng vạt nắng từ trên cao rọi xuống tạo nên những khỏang sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ sâu chứ không dùng chữ cao. Nếu là cao chót vót thì quá bình thường. Không gian được mở ra hai chiều, chiều cao và bề rộng tạo nên một không gian vũ trụ rộng lớn và cũng là những nỗi buồn như vô tận. Câu thơ đề từ của bài: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cũng được láy lại trong ý thơ: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Trong không gian buồn xa vắng đó, ai cũng muốn tìm đến những dấu vết gần gũi của sự sống, của cuộc đời: Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Những dấu hiệu gần gũi nhất của cuộc sống đều không có. Không một chiếc cầu nhỏ, một chuyến đò ngang để cuộc sống đi về trong thân tình gần gũi. Cả bốn câu thơ đều buồn, mỗi câu mang một nỗi buồn riêng. Cảnh vật có đổi thay nhưng cùng một dáng vẻ, tất cả đếu trôi nổi, mông lung, vô định. Không có những dấu vết của con người. Nhắc đến từng hình ảnh lại thấy tha thiết nhớ cuộc sống của con người. Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ lạ lùng: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> Câu thơ đầu có học được chữ “đùn” trong bài dịch thơ Đỗ Phủ: Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm Mặt đất mây đùn cửa ải xa. 65 Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp. Cánh chim bay liệng tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng nhỏ bé, mông lung quá. Và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong thương nhớ. Nó không chỉ đóng khung trong cảnh sông nước ở trước mắt mà mở ra đến những chân trời của miền quê xa. Hai chữ dợn dợn của tôi thường vị đọc sai, in thành dờn dợn, như thế chẳng có ý nghĩa gì. Trong bài thơ Tràng giang có nhiều diệp ngữ như điệp điệp, song song, dợn dợn. Mỗi từ điệp như thế đều có ý nghĩa riêng về nội dung cũng như nghệ thuật. Bài thơ kết thúc bằng nỗi nhớ quê hương da diết. Tôi nói khác ý thơ của Thôi Hiệu: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” Vì lúc đó ( 1939 ) tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường Tôi thường nói vui rằng cảnh trên sông nước có khó sóng làm cho Thôi Hiệu buồn, nhớ quê ; còn tôi thì không có khói sóng cũng da diết nhớ quê hương. Bài Tràng giang đã kết hợp được thơ ca truyền thống, những nét cổ điển của thơ Đường, với những nét hiện đại. Những hình ảnh “con thuyền xuôi mái” “củi một cành khô”, “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” mang tính chân thực của đời thường, không ước lệ. Và cũng có những hình ảnh mang vẻ đẹp tượng trưng. Tình yêu quê hương trong bài Tràng giang gợi lên và mở ra một tình yêu lớn lao hơn mỗi miền quê, mỗi cảnh vật. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước . HUY CẬN (Tác phẩm Văn học 1930 – 1975, Tập II, NXB Khoa học xã hội, 1990) 66.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> 3.CÓ BAO GIỜ CÙNG TRỞ LẠI VƯỜN XƯA (Đọc bài Vườn xưa của Tế Hanh) Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc Hai ta ở hai đầu công tác Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa Mở đầu bài Vườn xưa là hai câu nói lên tác động của thời gian. Tác động đó có hai hướng khác nhau: đối với cảnh vật, cây cối, thời gian giúp cho trở nên xanh tốt sầm uất; đối với con người, thời gian làm cho già nua mòn mỏi. Với cách đặt câu đối sánh, điều đó hiện lên khắc nghiệt như một định luật không thể gì cưỡng lại được. Trước sức mạnh thời gian, hai câu sau chỉ còn là một mơ ước, một hi vọng mỏng manh. Trở lại vườn xưa, điều mới tưởng là dễ nhưng đâu có dễ. Trong cuộc đời có bao nhiêu bất trắc, bao nhiêu lo toan, bận rộn, làm sao cho hai người (hai ta) cùng trở về. Có bao giờ nói lên sự bâng khuâng, khắc khoải, cái điều thiết tha mong đợi nhưng chưa chắc thực hiện nổi. Tình điệu cơ bản của toàn bài thơ được báo hiệu, đúng hơn, được cô đặc trong câu thơ thứ tư này. Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa Như mặt trăng, mặt trời cách trở Như sao hôm sao mai không cùng ở Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa? Hai ta như sen mùa hạ, cúc mùa thu, Như tháng mười hồng, tháng năm nhãn. Em theo chim em đi về tháng tám, Anh theo chim cùng với tháng ba qua. 67 Đoạn này có người cho là nghèo ý. Cả tám dòng chỉ tập trung vào một ý: Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa? Nhưng thơ đâu chỉ nói ý, mà cốt diễn tả trạng thái tâm hồn. Đoạn này đã diễn đạt đặc sắc sự vương vấn, sự day dứt, sự băn khoăn của con.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> người trong tình trạng éo le: rất khó có thể gặp lại người mình mong gặp. Như để an ủi, người ta giải thích sự rất khó có thể gặp nhau đó tương tự như cái hiện tượng trong vũ trụ (mặt trăng, mặt trời) như bốn mùa (hạ, thu), như năm tháng (tháng mười, tháng năm, tháng tám, tháng ba). Sự xa cách như một định mệnh. Lời ví con cao rộng đó, tuy thế, không đem lại một ấn tượng cường điệu, cưỡng ép. Trong dân gian chẳng vẫn quen nói hai người như mặt trăng, mặt trời, như sao Sâm, sao Thương đó sao? Em theo chim em đi về tháng tám, Anh theo chim cùng với tháng ba qua. Lời thơ được gợi ý từ câu tục ngữ nói về sự chuyển di của chim theo mùa: tháng tám chim qua, tháng ba chim về… Đoạn trên là những cảm nghĩ. Đoạn tiếp đây như là những kỉ niệm cũ đưa ra làm bằng chứng: Một ngày xuân em trở lại nhà Nghe mẹ nói anh có về hái ổi, Em nhìn lên ngọn cây gió thổi Lá như môi thầm thĩ gọi anh về. Lần sau anh trở lại một ngày hè Nghe mẹ nói em có về bên giếng giặ.t Anh nhìn giếng, giếng sâu trong vắt Nước như gương soi lẻ bóng hình anh. Cả hai người đều đã có lần trỡ về vườn cũ – nhưng đã không thể cùng về. Cả hai đều phải bổ sung cho khoảng không gian trống vắng hình ảnh người mình yêu thương. 68 Những hình ảnh thật trẻ trung (anh trèo tít lên cây hái ổi) và gần gũi (em ngồi bên giếng giặt gịa). Cái thật của cuộc đời hằng ngày đã đẹp hơn trong kí ức. Khi vui cũng như khi buồn đều.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> cảm thấy sự vắng thiếu nhau là bằng chứng của tình yêu chung thủy. Đã một lần Tế Hanh viết: Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu Có hai ta cùng tựa bên cầu Cho mặt nước Tây Hồ trong sáng mãi (Bài thơ tình ở Hàng Châu) Cách suy nghĩ không mới. Nhưng tình cảm chân thật. Trong Vườn xưa luôn luôn có bà mẹ, người chứng kiến những giờ phút hạnh phúc của lứa đôi này, người ghi nhận sự trung thành của hai người hôm nay. Bà mẹ là hình ảnh trung hậu, ấm áp nhất của Vườn xưa. Tế Hanh đã sử dụng phép trùng lặp, phép đối xứng (một ngày xuân, một ngày hè; em trở lại, anh trở lại; em nhìn cây, anh nhìn giếng…). Phép đối xứng, cũng như ảnh hưởng của thơ ca dân gian ở đoạn trên là có thật, nhưng chưa bao giờ cộm lên như một kĩ xảo, một ngón nghề. Chính sự chân thật, sự hồn nhiên đã làm xúc động lòng người. Con người quả khó có thể tìm lại trọn vẹn hình ảnh cũ, hạnh phúc cũ. May ra chỉ rớt lại ít nhiều cái bóng sót (dư ảnh) của ngày qua trong thế giới tâm tưởng, trong tưởng tượng của mình. Đoạn kết thúc bài thơ y hệt như đoạn đầu. Như điệp khúc của bài hát, nó nhấn mạnh thêm tình điệu cơ bản. Vườn xưa đâu chỉ là mảnh vườn. Vườn xưa như tượng trưng của một khoảng không gian, một khoảng thời gian êm đẹp trong cuộc đời, cho tình yêu thời trẻ. Những người chứng kiến năm tháng hạnh phúc đâu còn mãi. Và hạnh phúc từng người đâu bền vững. Năm tháng sẽ đẩy tất cả lùi dần vào dĩ vãng, rồi hút mất vào cái tĩnh lặng của hư vô… 69 Sống lại trọn vẹn hạnh phúc đã mất là điều không thể được. Nhưng mỗi lần nhớ lại vườn xưa là một lần sống lại không khí của hạnh phúc xưa. Kỉ niệm làm cho cuộc sống tinh thần con người phong phú, trọn vẹn hơn. Và đó là phần thưởng tặng những người chung thủy, trung hậu..

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Tế Hanh đã viết được những bài thơ về nhớ thương tiếc nuối rất trong, rất đẹp, đầy gợi cảm. Vườn xưa là một bài đặc sắc tiêu biểu cho thơ anh: tình cảm chân thật, cách diễn đạt chân thật. Tình yêu, tình mẹ con, tình quê hương như lẫn làm một. NGUYỄN XUÂN NAM (Tạp chí Ngôn ngữ 3 - 1989) 70 BÌNH GIẢNG VĂN HỌC (3 tiết) I – NÉT RIÊNG CỦA BÌNH GIẢNG VĂN HỌC VÀ KIỂU BÌNH GIẢNG VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG 1. Giảng văn, bình văn là những hình thức sinh họat văn thơ khá quen thuộc trong đời sống văn hóa ở nhiều nước, cũng như ở nước ta từ xưa đến nay. Trong nhà trường, bình giảng văn chương cũng là hình thức làm văn đã có từ lâu, thời Nho học, Tây học cho đến ngày nay. 2. Bình giảng văn học là một hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm bản sắc văn chương. Như ta đã biết, tác phẩm văn học là một sáng tạo độc đáo của nhà văn, là một chỉnh thể nghệ thuật, một đối tượng thẩm mĩ đặc thù. Đọc bài thơ, bài văn, không phải ai cũng có thể hiểu được ngay, hiểu được hết cái hay, cái đẹp tiềm ẩn trong tác phẩm nhất là với những tác phẩm xuất sắc, tuyệt bút. Kinh nghiệm cho thấy đã có nhiều cách hiểu, cách cảm và cánh đánh giá rất khác nhau về một sáng tác văn chương. Có khi chỉ về một lời văn, một ý thơ, có khi chỉ về một câu, một chữ. Phát hiện cho được điều độc đáo nhất, sáng tạo nhất lại càng không dễ. Tác phẩm văn học là đối tượng khó chiếm lĩnh; con đường khám phá không đơn giản, cần có công phu và năng lực đặc biết; hiệu quả tiếp nhận không phải dễ dàng có được. 71 Cho nên bình giảng là một phương thức giúp cho người đọc tiếp nhận – cảm, và hiểu được chỗ sâu sắc, độc đáo, tinh tế và thú vị nhất của một bài văn, bài thơ (tác phẩm văn học)(1)..

<span class='text_page_counter'>(60)</span> 3. Qua bài học trước, chúng ta đã hiểu thế nào là phân tích tác phẩm văn học. Bình giảng cũng phải sử dụng thao tác phân tích, cũng phải tôn trọng nội dung cụ thể, khách quan của tác phẩm văn chương. Song bình giảng có chỗ khác. Phân tích tác phẩm văn học là “mở nếp gấp” để thấy được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó (có khi phân tích cả tác phẩm không hay). Còn bình giảng dùng phân tích để tô đậm cho nổi bật một vài yếu tố đặc sắc của tác phẩm văn học (hay hoặc xuất sắc) mà bản thân mình cho là độc đáo, thú vị…Do vậy, kiểu bài phân tích thiên về nghiên cứu, có phần rộng hơn về nội dung cần đề cập, còn bài bình giảng thiên về phê bình, có phần hẹp hơn, chọn lọc hơn, tập trung hơn và mang màu sắc cảm thụ cá nhân đậm hơn (Dĩ nhiên cảm thụ có màu sắc cá nhân không phải là cảm thụ chủ quan, tùy tiện). Lên lớp 12, chúng ta sẽ trở lại kiểu bài bình diện ở bình diện rộng hơn . Chú thích: (1) Giúp cho người đọc cảm, hiểu, không có nghĩa là cảm thay, hiểu thay, rồi áp đặt cho người đọc. II NỘI DUNG BÌNH GIẢNG VÀ CÁCH BÌNH GIẢNG 1. Nội dung bình giảng Đề tài (yếu tố lựa chọn tác phẩm để bình giảng) rất đa dạng và phong phú. Có khi là một tứ thơ, một giọng thơ, một tâm trạng trữ tình, một nhân vật, một vấn đề tư tưởng trong truyện, có thể là một kết cấu độc đáo, một chi tiết… có khi chỉ là một từ, thậm chí một âm thanh…Một âm thanh “xao xác…” trong bài thơ mà người bình làm sống dậy cả một niềm xao xuyến, sức ám ảnh của một tư tưởng tình cảm lớn (Lê Đình Kị). Một từ “ngẩn ngơ” mà làm cho người đọc thấm thía được nỗi cô đơn tuyệt vọng của ngàng Kiều ( Lễ Trí Viễn). 72 Một chữ “tót” (Hoài Thanh), hay mấy chữ “mặt sắt đen sì” (Tố Hữu) mà khắc họa được bản chất một kiểu người. Một chi tiết “chăn bông bằng giấy” trong một bài thơ “trần trụi” mà làm hiện lên được sâu thẳm một lòng nhân đạo rất mực yêu thương trân trọng con người, cái chất lớn của thơ Nhật kí trong tù (Xuân.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> Diệu). Qua một dòng nước mắt mà làm sống dậy linh hồn cả một bài ca dao, nỗi lòng của người lính thú (Hoài Thanh)v.v… Trong một bài bình giảng, người viết thường không đi vào tất cả mọi vấn đề, mọi khía cạnh của tác phẩm mà chỉ chọn lựa điểm nào theo ý mình là độc đáo nhất, sấu sắc nhất, ý vị nhất và tiêu biểu nhất. Điểm lựa chọn dĩ nhiên phải thật đích đáng, thật đắt vì biết chọn lựa hay không là tùy thuộc vào tài năng và độ am hiểu tác phẩm của người bình giảng. 2. Cách bình giảng Tùy theo trình độ và kinh nghiệm của mỗi người mà có nhiều cách bình giảng khác nhau. Tuy nhiên, có thể khát quát chung về cách bình giảng như sau: Giảng là phân tích, cắt nghĩa đễ làm rõ ý nghĩa tư tưởng, nhất là ý nghĩa thẩm mĩ của những yếu tố nội dung hay nghệ thuật được lựa chọn từ tác phẩm mà bản thân mình thích thú, tâm đắc nhất. Đồng thời cũng cần làm rõ vì sao (do đâu) mà những yếu tố đó lại tạo được hiệu quả nghệ thuật đặc sắc. Muốn giảng rõ, phải phân tích các yếu tố nội dung, nghệ thuật, và đặc sắc thi pháp. Có khi phải giảng giải một tư tưởng, một ý nghĩa, có khi phải thống kê, so sánh từ, giải mã, đối chiếu câu v.v… 73 Về câu thơ “Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau”, nhà thơ Vũ Quân Phương giảng: “Thơ kể chuyện nhưng giọng tâm tình. Chi tiết sắc mà gợi cảm. Nói cái ác liệt của trận càn, một chi tiết “Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau”. Đủ lắm. Cháy đến cả cái ngõ vào chùa. Cau là loại khó đốt mà cháy đỏ toàn thân. Cau, đấy cũng là một phần hồn vía làng mạc, nước non mình…”. Để có thể bình giá được Truyện Kiều là “tiếng hát bi quan trốn đời, toàn là chết chóc, héo hắt, mất mát hay đây là tiếng hát yêu đời, tha thiết với cuộc sống”… nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã lập một bản thống kê cụ thể về câu, chữ, tránh lối bình phẩm chủ quan, cảm tính. Bình là đánh giá, là tỏ bày ý kiến khen, chê (chủ yếu là khen) mặt được (chưa được là phụ), chỗ thành công (chỗ chưa đạt là.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> phụ). Lời bình là những nhận định có tính khái quát. Lời bình mang đậm nét cảm xúc của người viết. Lời bình hay là lời bình có độ sâu khái quát về nội dung, cô đọng về lời văn, vừa sáng tỏ về ý, vừa giàu cảm xúc. Bình mà lặp lại giảng là bình nhàm nhạt. Bình mà không dựa vào giảng thì dễ đi xa tán rộng. Giảng mà không bình thì lời giảng dễ cạn nông. Bình và giảng phải gắn với nhau. Bình trên cơ sở giảng để cho rõ hơn, sâu hơn: gắn với nhau, không nhất thiết là đi sóng đôi. Có khi bình trước giảng sau, có khi giảng trước bình sau; mà cũng có khi bình và giảng hòa vào nhau. Cách bình cũng rất đa dạng và sáng tạo. Có khi bình bằng một lời nhận xét trực tiếp về giá trị nghệ thuật. Bình mấy câu thơ trong Truyện Kiều, Tố Hữu có thể viết: “Văn như thế thật là tuyệt”. Có khi là một lời bộc lộ trực tiếo cám xúc của mình. Nguyễn Tuân bình văn của Đôxtôiépxki như sau: “Vào truyện của Đốt là thấy tối mặt xẩm mày lại ngay”, Xuân Diệu bình bài Bầm ơi của Tố Hữu qua một lời bộc bạch tâm sự: “Những câu thơ (Bầm ơi của Tố Hữu) mỗi lần đọc, tôi lại như tắm tâm hồn trong nguồn tình cảm đôn hậu trong lành nhuần nhị mà sâu sắc”. Cũng bằng cách đó, có khi người bình nói lên một liên tưởng của mình để gợi lên liên tưởng ở người đọc. 74 Bình hai câu thơ “Sống trong cái chết vùi trong cát, Những trái tim như ngọc sáng ngời (Mẹ Tơm – Tố Hữu). Hoài Thanh đã viết được một lời bình văn thật thấm thía cảm xúc và sâu sắc về triết lí. Cũng có khi bình bằng cách so sánh. So sánh cái hay này với cái hay khác, tác phẩm này với tác phẩm khác, biện pháp nghệ thuật này với biện pháp nghệ thuật khác. Để làm nổi bật Trăng trong thơ Nguyễn Du, Hoài Thanh đã so sánh Trăng trong Truyện Kiều với trăng trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân và Trăng trong Hoa tiên. Cách bình này cũng thường gặp ở các bài viết của Xuân Diệu. Nói chung, để giảng hay bình văn phải sử dụng thao tác phân tích mà chúng ta đã học trong bài trước. Có điều là trong bình giảng dùng phân tích để làm sáng tỏ, để tô đậm nội dung bình giảng đã được chọn lựa..

<span class='text_page_counter'>(63)</span> III – CÁC BƯỚC XÂY DỰNG MỘT BÀI VĂN BÌNH GIẢNG 1. Kiểu đề bình giảng nói chung có tính chất tự do, ít chặt chẽ về mặc định hướng yêu cầu như các kiểu đề khác. Trong bài bình giảng học sinh được tự ý lựa chọn nội dung bình giảng mình tâm đắc nhất, thú vị nhất trong tác phẩm. Tuy vậy, nội dung bình giảng không được thoát li tư tưởng của tác phẩm; phải bình giảng từ những tác phẩm làm cái cớ để tán rộng đi xa. Cho nên, có hai loại công việc quan trọng làm tiền đề cho việc bình giảng: a) Một là, phải đọc kĩ để nắm được tư tưởng của tác phẩm. Không nắm được tư tưởng của tác phẩm thì không lựa chọn được nội dung bình giảng xác đáng. b) Hai là, sau khi nắm được tư tưởng tác phẩm, phải tự nghiệm xem điểm nào bản thân mình thấy thấm thía, thú vị nhất. Đây là phần quan trọng giúp cho bài làm có màu sắc bình giảng. 75 2. Sau khi đã xác định nội dung bình giảng, phải tiến hành công việc giảng và bình theo yêu cầu đã nói ở mục II. 3. Sau khi đã phác dựng được nội dung bình giảng, cần bắt tay vào kết cấu bài làm. Kết cấu một bài bình giảng không vượt ra ngoài những nguyên tắc chung của một bài làm văn nghị luận. Ở phần mở bài, có thể đi từ những vấn đề chung về tác giả, tác phẩm để quy hẹp vào nội dung sắp bình giảng. Tuy vậy, không nên đi quá rộng vào những vấn đề ngoài tác phẩm. Thân bài là phần mở rộng, triển khai nội dung giảng và bình. Khi viết phần này, cần tránh cách làm tùy hứng và coi nhẹ tính chặt chẽ lôgic của vấn đề trình bày. Việc sắp xếp bình và giảng trước, sau hoặc xen kẽ có thể linh họat, nhưng dung lượng “bình” thường là ít hơn “giảng” vì lời bình phải cô động, súc tích và nội dung lại có tính khái quát. Ở phần kết bài, nên rút trực tiếp từ nội dung bình giảng những nhận xét khái quát về văn học hoặc những vấn đề thu họach sâu sắc nhất đối với bản thân. LUYỆN TẬP.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> Một số bài tập (có thể làm tại lớp) 1. Hãy đọc kĩ bài văn dưới đây: “THU ĐIẾU” Bài thơ mùa thu của làng cảnh Việt Nam Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu Điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. 76 Bài Thu vịnh có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài: “Thu điếu(1) là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam (ở Bắc Bộ). Có về thăm “Vườn Bùi chốn cũ” – đây là “xứ Vườn Bùi” theo đồng bào gọi cả vùng Trung Lương nằm trong xã Yên Đỗ cũ, chứ không phải chỉ là khu vườn của nhà ở cụ Nguyễn Khuyến – mới càng hiểu rõ bài Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Sao lắm ao thế! Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Sóng biếc gợn rất nhẹ, một chiếc lá vàng rụng theo gió, bay bay xoay xoay rồi rơi xuống xa xa một cách khẽ khàng. Khung ao tuy hẹp vậy, nhưng làng cảnh cũng không thiếu không gian. Nhìn lên; trời thu xanh cao đám mây đọng lơ lửng; trông quanh; các lối đi trong làng hai bên tre biếc mọc sầm uất chạy ngoắt ngoéo cho đến lúc tưởng như tre đã kín lại, mọi người ra đồng làm, cho nên làng vắng teo. Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài như con gà ngon, ngon ở từng phao câu đầu cánh, lắt léo khuỷu xương, không thể tóm tắt thơ được. mà phải đọc lại. Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi; ở những cử động; chiếc thuyền con lâu lâu mới nhích, sóng gợi tí, lá đưa vèo, tầng mây lửng, ngõ trúc quanh, chiếc cần buông, con cá động; ở các vần thơ: không phải chỉ giỏi vì là các tử vận hiểm hóc, mà chính hay vì kết hợp với từ, với nghĩa chữ, đến một cách thoải mái đúng chỗ, do một nhà nghệ sĩ cao tay; cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3 – 4: 77.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, đối với: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. thật tài tình; nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá: vèo để tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: tí. Quá trình ngôn ngữ của thơ đi từ đời Lê Hồng Đức, thật hãy còn vất vả nặng nề: Trời muôn trượng thẳm làu làu sạch, đến Nguyễn Khuyến đã thành ra: Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao. thật trong sáng nhẹ nhàng, như không một trở lực nào níu được sự diễn đạt nữa. Thế mới biết những câu thơ thoải mái tự nhiên là kết quả một sự khổ luyện, khổ luyện qua những lời đại, hoặc là khổ luyện trong một người. Các bạn mới làm thơ nên khái niệm cho được thế nào là sự “đắc đạo” trong nghệ thuật ngôn ngữ. XUÂN DIỆU (Thơ văn Nguyễn Khuyến NXB Văn học , 1971) Chú thích: (1) Nguyên văn bài thơ: THU ĐIẾU (MÙA THU CÂU CÁ) Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối ôm cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Sau khi đã đọc kĩ bài văn mẫu hãy:.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> a) Liệt kê riêng những câu theo anh (chị) là lời bình hoặc lời giảng. b) Phân biệt chỗ khác nhau giữa lời giảng và lời bình c) Theo anh (chị), những câu bình nào thể hiện rõ nhất những yêu cầu đối với một lời bình như lí thuyết đã nêu ở trên? 78 2. Phân tích trình tự kết cấu bài văn của Xuân Diệu (ở bài tập 1) rồi viết thành dàn ý sơ lược. Qua bài viết, anh (chị) thấy tác giả đã xử lí quan hệ giảng và bình như thế nào? 3. Bình giảng bài cao dao: “Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng. Nhị vàng, bông trắng, lá xanh… Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Huy Cận viết: “…Mà hẳn như bạn (và tôi) không bao giờ để ý rằng bài thơ đã đổi vần một cách đột ngột. Người tác giả vô danh đã gây chấn động sâu, mạnh trong cảm xúc của bạn mà bạn cứ tiếp thụ hồn nhiên như không…Tại sao lại đổi vần đột ngột? Sau biết bao nhiêu lần đã đọc, chúng ta thử cùng nhau đọc lại một lần nữa xem: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh… Đổi vần có khác nào như dòng nước đang chạy xuôi, ta dựng lên một cái đập, hoặc buộc dòng nước đổi chiều, đổi vần để bắt chúng ta phải chú ý, chỗ dòng thơ cuộn lên, buộc ta phải quan sát, phải chứng kiến một sự kiện gì đây … Nhị vàng, bông trắng, lá xanh… Tưởng có gì mới! Té ra tác giả lại nhắc lại câu thơ thứ hai (tám chữ): “Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng…”, chỉ có điều là đã lật ngược lại thứ tự các hình tượng: nhị vàng ở cuối câu thì nay lại để lên đầu câu v.v…., nhưng chính cái mới lại nằm trong chi tiết ấy:.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> Nhị vàng, bông trắng, lá xanh… 79 Chính nhờ đảo ngược hình ảnh ấy mà chúng ta như thấy hiện lên bàn tay của ai đó đang lật từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng như để cùng phân bua cùng chúng ta một điều cần phải chứng minh, của hai năm rõ mười…Đấy bạn thấy, rõ ràng nhé…nào nhị vàng, nào bông trắng,nào lá xanh (Tôi đã lật đi lật lại từng cái một cho bạn xem kĩ) và: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Và bây giờ thì bạn được thuyết phục hòan toàn. Cái chân lí “Hoa sen sạch giữa bùn nhơ” (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) đã nhập tâm bạn, không cưỡng được. Rõ ràng từ bài thơ, tình cảm và tư tưởng của bài thơ đã gắn quyện lấy vần thơ, với nhịp thơ, với chữ, với vần một cách hòan toàn nhuần nhuyễn như máu với thịt…(Báo Văn nghệ, số 327). Đọc kĩ bài viết trên rồi trả lời những câu hỏi sau: a) Tác giả đã chọn những yếu tố nào để giảng, bình? b) Tác giả đã giảng cách đổi vần như thế nào? c) Theo anh (chị), đâu là lời bình? d) Theo anh (chị), bài viết có nhiều màu sắc văn chương không? Và cho biết vì sao? 4. Tự chọn một bài thơ và viết lời bình (khoảng 10 dòng). Làm tại lớp hoặc ở nhà. Hoặc giáo viên chọn rồi yêu cầu học viết lời bình. Một số đề làm văn (ở nhà) 1. Bình giảng bài thơ Thương vợ của Tú Xương. 2. Bình giảng bài thơ Xúc cảnh của Nguyễn Đình Chiểu. 3. Tự chọn một đoạn (hay một bài thơ) rồt viết lời bình. 4. Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính. 80 TƯ LIỆU THAM KHẢO.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> (Những đoạn có liên quan đến trích dẫn) 1. Trích lời bình …Nhưng trong âm thanh sắc ngọt rắn rỏi của bài thơ, vẫn có một nỗi gì “xao xác”: Tiếng chổi tre Xao xác Hàng me Tiếng chổi tre Đêm hè Quét rác. Bài thơ nhờ thế mà thêm chút xao xuyến, thêm sức ám ảnh cho vấn đề đặt ra… LÊ ĐÌNH KỊ (Đường vào thơ, Văn học, 1969) 2.Trích lời bình …Khi đọc đến câu “Sống trong cái chết vùi trong cát”, tôi tưởng chừng như nghe lại câu nói ghê người của Kinh thánh đạo Gia Tô: “Thân cát bụi trở về cát bụi”, một câu nói đã nặng đè lên cuộc sống của hàng triệu triệu người trong hàng nhìn năm và cũng đã nặng đè lên đời sống của tôi trong những năm dài thê thảm. Tôi có cảm giác như lại sắp rơi vào vực thẳm của những tư tưởng chán chường, tuyệt vọng. Tôi không ngờ tiếp theo đó lại là câu: “Những trái tim như ngọc sáng ngời”. 81 Bàn tay rất khỏe của nhà thơ đã giữ tôi cùng đứng lại với anh trên miệng vực. Thiếu nhiệt tình, thiếu lạc quan cách mạng, không thể đứng vững như thế này ở nơi biên giới giữa Thiên đường và Địa ngục. HOÀI THANH (Tạp chí Nghiên cứu văn họ, số 8 - 1962) 3. Trích lời bình “…Chứng trên vằng vặc vầng trăng,.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> Lại ghi hương nguyệt trên dòng cuối trang”. (Hoa tiên) “Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai mặt một lời song song. Tóc tơ căn vặn tấc lòng, Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. (Truyện Kiều) Trăng trong Hoa tiên chỉ đóng vai trò làm chứng, chỉ làm một thứ công việc “hành chính”, câu thơ Hoa tiên khép chặt. Câu thơ Truyện Kiều, với vần ời ở cuối ngân mãi không thôi. Nó mở ra cả một khoảng trời bát ngát. Giữa cảnh trời đất bao la ấy, một đôi thanh niên nam nữ, cố dựa vào nhau gắn bó với nhau để giữ lấy cái hạnh phúc to lớn vừa chợt đến với họ như trong một giấc mơ. Nhưng trời đất bao la quá mà họ thấy mình bé bỏng quá. Nguyễn Du cũng thấy họ bé bỏng quá. Trong cái thiết tha gắn bó với nhau như đã có cái đau xót trước những cảnh tan vỡ, điêu linh không thể nào tránh được… HOÀI THANH (Cái chính là phải rèn cho mình những tình cảm cách mạng, Văn nghệ, số 54, 12 – 10 1973) 82 4. Trích lời bình Xuân Hương hiện lên trong thơ mình với những tư thế rất lạ. Nhìn thì không nhìn thẳng mà “Ghé mắt trông ngang” (Đề đền Dầm Nghi Đống). Đi thì “Người quen cõi Phật chen chân xọc” (Chùa Hương) tuồng như chân giẫm tới đâu là đất thủng tới đó. Đứng là “Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo” (Quán Khánh), chứ không chịu đứng bình thường. Lúc bực mình phẫn uất thì văng ngay “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” (Lấy chồng chung). Lúc lên giọng bề trên thì đanh đá, chua ngoa chẳng nhượng gì các cô lúc phải đấu khẩu chỗ cần tranh giành, thách thức: “Lại đây cho chị dạy làm thơ” (Mắng kẻ chơi trèo). Lúc.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> buồn nản thì cũng buồn nản đến tột bực, tưởng chừng mình cũng hóa ra đất đá vô tri: “Trơ cái hồng nhan vối nước non” (Tự tình). Đến khi miêu tả thiên nhiên, cách nhìn của Xuân Hương cũng thật kì lạ. Nó như có ma lực làm cho mọi vật sống lên, sôi động. Màu sắc dường như muốn thét lên. Tấm ván đẫm sương trên bờ giếng, ánh sáng chiếu vào thì không chỉ trắng mà trắng phau phau: “Cầu trắng phau phau đôi ván ghép” (Cái giếng). Trăng đang độ rằm, lúc mới lên tròn trĩnh như một quả cây lại vàng ửng như đã chín thì là chín nục, chín mõm mòm: “Một trái trăng thu chín mõm mòm” (Trăng). Cái nửa trên đèo có tấm bảng đề chữ và sơn son, thì không những đỏ mà đỏ loét: “Cửa son đỏ loét tùm hum nóc”. Còn bên cạnh đó, tảng đá phủ rêu chẳng những xanh mà xanh rì: “Hòn đá xanh ri lún phún rêu” (Đèo Ba Dội…). Âm thanh cũng chẳng êm tai, dịu dàng gì mà như có đấm có thụi, đủ hình đủ khối. Gió thổi trên đèo Ba Dội là gió thốc “Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc”, sương gieo trên lá là gieo tới đầm đìa: “Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo” (Đèo Ba Dội). Gió ấy mà thổi vào hang thì như vỗ trống phập phòm: “Làn gió thông reo vỗ phập phòm” (Hang Cắc Cớ). Thậm chí cái buồn nào trong lòng con người không muốn bộc lộ, mà cái mõ, cái chuông cũng lôi ra thành “cốc” thành “om” khô khan, não nuột: “Mõ thảm không khua mà cũng cốc, Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?” (Tự tình)… 83 Những vật vô tri, yếu ớt tưởng như không có sức sống cũng hóa ra sắc nhọn. Cái rêu cũng xiêng ngang mặt đất mà trồi lên, hòn đá cũng chĩa thẳng lên trời đâm toạc cả chân mây: “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám, Đâm toạc chân mây đá mấy hòn” (Tự tình). Hai tảng đá to chồng lên nhau tự thuở nào, dân gian tưởng tượng thành đôi người cổ sơ và gọi là Đá Ông Chồng, Bà Chồng (tại sao lại không là Ông Chồng Bà Vợ?). Xuân Hương nhìn tới là hai thớt đá thành hai người khăng khít với nhau trong yêu đương vĩnh viễn: “Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt, Khối tình cọ mãi với non sông” (Đá Ông chồng, Bà chồng). Chiếc đũa thần của Xuân Hương đã biến mấy cô tố nữ trong tranh thành.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> người thật, có đủ cả tâm hồn và khát vọng, bằng một thái độ vừa ngợi ca vừa tiếc rẻ: “Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình? Chị cũng xinh mà em cũng xinh…” (Tranh tố nữ) LÊ TRÍ VIỄN (Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương NXB, Giáo dục, 1986) 5. Bình giảng bài thơ Nắng mới NẮNG MỚI Mỗi lần nắng mới hắt bên song, Xao xác, gà trưa gáy não nùng, Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng, Chập chờn sống lại những ngày không. Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời Lúc người còn sống, tôi lên mười; Mỗi lần nắng mối lên reo ngoài nội, Áo đỏ người đưa trước giậu phơi. 84 Hình dáng mẹ tôi chửa xóa mờ Hãy còn mường tượng lúc nào ra: Nét cười đen nhánh sau tay áo Trong ánh trưa hè trước giậu thưa. (LƯU TRỌNG LƯ – Tiếng thu) Thơ gợi kỉ niệm thường cảm động nhưng rất dễ lan man, người ta vốn ham nói dĩ vãng. Bài thơ này khác, chỉ có mười hai câu và rất ít chi tiết, chủ yếu là ba chi tiết: nắng mới, áo đỏ, nét cười đen nhánh. Cả ba gắn với nhau rất chặt, chi tiết nọ dẫn đến chi tiết kia. Nắng mới, đây là nắng đầu mùa, mỗi năm chỉ có một lần. Giống như gió đầu mùa, như mưa bụi báo xuân những ngày giáp tết, mỗi lần thời tiết ấy trở lại là một chẳng thời gian đã trôi qua. Tự.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> nhiên, trong tâm trí, nó thành một cái mốc, giục ta quay nhìn lại: bằng giờ năm ngoái, bằng giờ năm kia…Thơ hoài niệm bắt đầu từ cái mốc như vậy là hợp lí, nhanh chóng dắt người đọc nhập vào xúc cảm của bài thơ. Trên báo Văn nghệ, trong một bài bình, có bạn hiểu khác. Bài báo viết: “Không ai ngẩn ngơ đi hỏi tại sao nắng mới hắt bên song, mặt trời mới lên khỏi con sào mà gà trưa đã xao xác gáy? Mỗi yêu cầu hợp lí theo lôgic thông thường trong trạng thái chập chờn ở đây đều trở thành vô nghĩa”. Thì ra người bình hiểu chữ mới ở đây như một trạng từ (vừa mới). Như vậy thì cái lí do gợi tâm trạng của nắng mới bị thủ tiêu và chuyện phơi áo cũng không còn chỗ bấu víu nữa. Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội, bà mẹ lại mang áo rét ra phơi, để cất đi dành cho mùa rét tới. (Đầu mùa rét, trước khi mang ra mặc, áo cũng thường được phơi một nắng, nên thơ Nguyễn Bính mới có câu: Xóm tây bà lão lưng còng Có hai cô gái lấy chồng cả hai Gió thu thở ngắn than dài Bà đem áo rét phơi ngoài giậu thưa). 85 Bài thơ rất lôgic: Không gian nắng đầu mùa trong trẻo tươi mới làm xốn xang lòng người, nên những gì liên quan đến hình ảnh của nó mới gắn vào trí nhớ người ta, chứ là cái nắng thường ngày, mà mỗi lần thấy lòng lại rượi buồn, thì cái buồn ấy sẽ nhàm đi rất nhanh, khó gây một ấn tượng để thành thơ. Vả lại tác giả chú ý đến màu sắc chiếc áo thì hẳn không phải là chiếc áo ngày nào cũng mang ra phơi, càng không thể là bà mẹ ngày nào cũng chỉ phơi áo đỏ. Áo đỏ ở đây là cái áo đỏ được xác định trong lòng tác giả, cái áo đỏ ấy, tôi nghĩ là cái áo rét. Trở lại bài thơ ta nhận ra cái buồn của bài thơ không còn ở cung bậc vò xé, cái buồn đã lắng lại, đã thành tiếng thổn thức, tiếng nấc thầm của cơn đau đã qua. Nỗi đau tang tóc mất mẹ đã qua rồi, những người thân quen chịu sự vắng thiếu người đã khuất. Nỗi nhớ thương chỉ tấy lên khi có lí do gợi nhớ. Ở đây, nắng mới là lí do đó. Đoạn đầu là nắng mới thực, nắng trong hiện tại, đoạn hai.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> đoạn ba cũng nói đến nắng mới, nhưng là nắng của hoài niệm. Cái nắng trong hoài niệm tưng bừng, náo nức, nó reo ngoài nội, nó có màu áo đỏ, có nụ cười đen nhánh. Nó là cái nắng lúc còn mẹ, tác giả còn là chú bé hồn nhiên. Còn nắng mới bây giờ bâng khuâng xa vắng quá. Trước reo ngoài nội, bây giờ chỉ hắt bên song vắng. Xao xác, gà trưa gáy não nùng, Hai từ láy “xao xác”, “não nùng” gợi một nỗi buồn không rõ nét, nhưng mênh mông, xa vắng, hiu quạnh. Cái buồn không phải ở nắng, buồn tự lòng người. Cái buồn của lòng được nắng đánh thức. Con người như bị tan vào cõi mộng, chập chờn sống lại những ngày không. Cõi mộng vốn là sở trường của Lưu Trọng Lư. Thơ ông cảnh thực ít hơn cảnh mộng. Màu đỏ của áo, màu đen nhánh của nét cười trong sắc vàng rợi của nắng đã giúp cho kỉ niệm tạc sâu vào trí nhớ. Thử cất màu đỏ đi: Chiếc áo người đưa trước giậu phơi, hình ảnh của kỉ niệm xám lại ngay. 86 Nét cười đen nhánh sau tay áo Câu thơ rất tạo hình. Chân dung bà mẹ hiện lên chỉ nội trong hình ảnh ấy, nét cười đen nhánh, hàm răng nhuộm đen, đều đặn và bóng, một nét đẹp của phụ nữ xưa. Hình ảnh ấy của bà mẹ đã đọng lại và lưu mãi trong tâm trí người đọc khi bài thơ đã hết, tạo một nỗi buồn bùi ngùi thương cảm. Nắng mới dẫn đến áo đỏ, áo đỏ đưa đến nét cười đen nhánh, mạch tâm trạng ấy rất dễ gợi sự đồng điệu ở người đọc. Chi tiết đời sống là riêng của một người, nhưng tiến triển của lòng người là phổ biến. Người đọc, từ những cảnh ngộ riêng, cũng có được cái bâng khuâng chập chờn cùng tác giả. VŨ QUẦN PHƯƠNG (Thơ với lời bình, NXB Giáo dục, 1990) 6. Bình giảng bài Thăng Long thành hoài cổ. Thăng Long thành hoài cổ không phải là một bài thơ chữ Hán. Cả những ai không hiểu rõ nghĩa ở một loạt những từ Hán Việt đã nêu trên vẫn hiểu tác giả muốn nói gì trong bài trên ý tưởng căn bản..

<span class='text_page_counter'>(74)</span> Nếu chúng ta cắt dọc bài thơ làm 2 nữa. Nửa A gồn 5 tiếng đầu của mỗi dòng, nửa B gồm 2 tiếng cuối của mỗi dòng thì thấy ngay một điều lạ: Hầu hết những yếu tố của nửa A đều có thể hoạt động tự do. Tính nhất “nôm” của bài thơ là ở phần đó. Thậm chí ta còn thấy những yếu tố rất nôm nữa như trơ gan, cau mặt, xuất hiện như một sự đối lập gay gắt với những từ Hán Việt “trang nhã”. Tính chất nôm còn thể hiện ở cách nói uyển chuyển (chú ý tới những yếu tố tình thái): đá vẫn, nước còn, cảnh đấy người đây. 87 Sự vật, hiện tượng, diễn biến tập trung trong việc miêu tả ở phần A này, nó làm thành cơ sở nội dung và có thể tiếp nhận dễ dàng đối với mọi người. Nửa A này lại còn là cơ sở cho sự đoán nhận những gì mơ hồ, mờ nhạt, trừu tượng ở nửa B. Những yếu tố Hán Việt ở nửa B nếu đứng riêng rẽ thì khó hiểu, khó giải thích nhưng trong kết hợp hàng ngang một cách hữu cơ với nửa A thì trở nên dễ hiểu hơn hoặc có thể đoán nhận. Hơn nữa, trong cách ngắt nhịp thơ Đường luật thì mỗi dòng được ngắt thành 4/3. Nhịp 3 kết thúc mỗi dòng làm thành một nhóm có kể hợp chặt chẽ: cuộc hí trường, mấy tinh sương, hồn thu thảo, bóng tịch dương, soi kim cổ, luống đọan trường. Các yếu tố cuộc, mấy, hồn, bóng…đã phạm trù hóa nội dung khái niệm những từ đi liền sau đó, tức cũng là hướng sự đoán nhận về những phạm vi nghĩa bất nhất định chứ không mông lung. Nửa B làm thành một dọc những từ Hán Việt, những từ này cũng có những từ tương ứng ở tiếng Việt, chẳng hạn: thu thảo – cỏ thu, tịch dương – chiều tà, tuế nguyệt – năm tháng, kim cổ xưa nay… Nhưng có một sự đối lập về sắc thái của những từ thuần Việt và những từ Hán Việt. Giả thử ta làm một sự thay thếcác lớp đó cho nhau thì đồng thời thay thế luôn cả màu sắc bức tranh nữa. Những từ thuận Việt chỉ cho ta thấy những sự vật có thể thấy được như ta vẫn thấy trong cuộc đời thực thì ngược lại từ Hán Việt chỉ cấp cho ta một khái niệm không có diện mạo trong hiện thực mà là cái chỉ tồn tại trong ý niệm của ta thôi. “Bức tranh có nhắc đến bóng chiều, đến mặt trời, đến cỏ thu, đến năm tháng, nhưng ở đây đã thành tịch dương, thu thảo, tuế.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> nguyệt, nên trở nên im lìm, phẳng lặng , tịch mịch, ngay khi miêu tả sự biến đổi”(1). Những từ Hán Việt này, nếu không tham gia thật sự cho việc vẽ nên những đường néy thực của bức tranh thì nó lại rất thích hợp để vẽ những gì là ảo, thích hợp cho việc dẫn ta vào thế giới của hoài niệm, mà tất cả ẩn hiện sau tấm màn thời gian. Chú thích: (1. Đinh Trọng Lạc, Giáo trình Việt ngữ Tập III (tu từ học), NXB Giáo dục 1964 , trang 98) 88 “Cùng là buổi chiều tà, nhưng buổi chiều tà của Thanh Quan là buổi chiều của nội tâm, buổi chiều của tâm tưởng, buổi chiều của quá khứ muôn thưở”(1). Đó là sự tham gia của phần B vào bài thơ, nó nói điều không dễ nói rõ ra được, vì đó là nỗi nhớ, đúng hơn: nỗi u hoài. Điều nó nói không phải là những câu chữ rành mạch mà là âm điệu. Các yếu tố Hán Việt ở đây là những tình tiết không đứng riêng ra một mình được, mà nó nhắc gợi đến nhau một hình thức bình ổn hơn và có thể phát huy nhạc tính, đó là hình thức song tiết. “Cỏ” có thể đứng một mình và có thể kết hợp được tự do với nhiều yếu tố khác, trong khi đó “thảo” trong sự liên tưởng của chúng ta lại phải đi với những yếu tố nhất định, chẳng hạn trong các kết hợp: cam thảo, phương thảo, thu thảo… “những liên tưởng này tạo nên cái môi trường cộng minh chung quanh “thảo”, và đó là nguyên nhân của tính chất vang dội của từ Hán Việt” (2). Đó là tính chất đa hưởng của lớp thơ này. Ở bài Thăng Long thành hoài cổ, những từ Hán Việt nằm cuối dòng thơ, cũng là nơi âm tiết có thể ngân dài theo giọng ngâm truyền thống. Chỗ trùng khớp đó (tính đa hưởng của từ song tiết Hán Việt cộng với âm hưởng kéo dài, ngân vang của âm tiết cuối mỗi dòng thơ) làm nên âm điệu độc đáo của bài thơ. Đó là một hình thức ngẫu nhiên vì nó không được tuân theo từ một quy tắt có tính chất kĩ xảo nào, dù sao đây vẫn là một hình thức không thể thấy ở bất kì một bài thơ Đường luật nào khác. Chú thích:.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> (1) Nhữ Thành, Nhận xét về ngữ nghĩa của từ Hán Việt, Ngôn ngữ số 2 – 1977. (2) Tính đa hưởng có cơ sở ở cấu trúc ngữ âm của những từ song tiết, ở đó các thành phần âm tiết trong những mối quan hệ nhất định tạo nên sự cân đối, hài hòa và có thể phát huy tính nhạc mà ở những từ đơn tiết không thể có như thế được. Từ đó, ta nghĩ rằng tính đa hưởng cũng có ở từ láy, từ ghép thuần Việt, hơn thế, có thể nghĩ rằng tính đa hưởng vốn có ở tiếng Việt ấy sẽ là cơ sở cho ta tiếp nhận tính đa hưởng của những từ Hán Việt với những tính cách riêng nào đó. Thực ra, chúng ta tiếp nhận tính đa hưởng này bằng các cảm quan ngôn ngữ của ta. 89 Trở lại theo chiều ngang, theo cái trật tự tự nhiên của những dòng thơ thì ai cũng thấy cứ mỗi dòng lại được khép lại bằng một từ Hán Việt, đối lập về tính chất và giá trị với những yếu tố đứng trước, do đó bài thơ làm thành một mạch luân phiên những giá trị khác nhau xét về nghĩa cũng như về âm hưởng. Điều này khác hoàn toàn với những câu thơ Cung oán ngâm khúc, nơi những từ Hán Việt xuất hiện, dày đặc, không theo những quy tắc phân bố nào, gây cho ta cảm giác nặng về mệt nhọc. Ở Thăng Long thành hoài cổ, cái bình dị, trôi chảy, vận động ăn nhịp với cái trang nhã, tĩnh lại, chìm đắm; nhưng phải nhận rằng những tính chất kể sau được tô đậm hơn do ở thơ nói chung và đặc điểm ở thơ Việt Nam mọi phẩm chất thường nghiêng về nửa phải cùng của bài thơ. Nội dung bài thơ sau dấu ấn thăng trầm lịch sử là một nỗi buồn, nỗi u hoài về một quá khứ vàng son nay chỉ còn vang bóng. Cái nhìn nuối tiếc ấy thực ra có thể quy về một thứ tư tưởng để phê phán, vậy mà bài thơ vẫn được trân trọng, vì tác giả nói những điều đau xót chân thực, vì tác giả mặc dầu không rõ tính danh nhưng qua thơ của bà người ta vẫn nhận định đó là một người có “tính tình đoan chính, thanh tao”, “một người có học thức”(1). Và riêng bài thơ này có những câu được “liệt vào những câu thơ thất ngôn hay nhất của tiếng Việt”(2).

<span class='text_page_counter'>(77)</span> VÕ BÌNH – LÊ ANH HIỀN, (phong cách học – Thực hành tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1983) Chú thích: (1) Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn sử yếu, 1950, trang 393 (2) Xuân Diệu, sự trong sáng của tiếng Việt trong thơ. Tạp chí Văn học, số 3 – 1966. Về Thăng Long thành hoài cổ, Xuân diệu còn có nhận định: “Ta tiếc rằng bài thơ vẫn bị nói chữ nhiều, thiếu cáo trong trẻo, nếu sực nhớ tới con số tám chữ Hán ở cuối tám câu thì người ta khó chịu”. Như đã thấy, chúng tôi có một cách nhìn nhận khác hẳn. 90 7. Bình giảng bài thơ Từ giã bạn bè lần cuối 1. Năm 1940, ở cuối 74, Phan Bội Châu tiên sinh ốm nặng, khó bề qua khỏi. Từ 1925 đến 1940, trải 15 năm, tiên sinh bị chính quyền thực giam lỏng ở Huế, không trực tiếp họat động cách mạng cứu nước được. Tuy vậy, tiên sinh vẫn tìm mọi cơ hội dùng thơ văn để thức tỉnh, cỗ vũ tinh thần yêu nước của đồng bào, nhất là của thanh niên. Ông già Bến Ngự vẫn sống trong sự quan tâm và tình thương yêu của đồng bào cả nước. Nghe tiên sinh ốm nặng, một đoàn thầy giáo và học sinh đã đến thăm. Trong dịp đó, một thầy giáo đã đọc tặng Phan tiên sinh một bài văn sinh vãn (viếng khi còn sống). Tiên sinh đã đáp lại bằng bài Từ giã bạn bè lần cuối này. Bài thơ là một trong những tác phẩm cuối cùng, một trong những lời di chúc của nhà yêu nước vĩ đại. 2. Chúng ta lần lượt tìm hiểu bài thơ qua các đọan thơ. 2.1 Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ cổ: Mạc sầu tiền lộ vô tri kỉ, Thiên hạ hà nhân bất thức quân? (Chớ buồn đường trước không tri kỉ. Thiên hạ ai người chẳng biết anh?).

<span class='text_page_counter'>(78)</span> Hai câu thơ trên là của Cáo Thích (702 - 765) đời Đường trong một bài thơ tiễn bạn lên đường đi xa vào một buổi chiều tà tuyết rơi lạnh lẽo. Phan Bội Châu mượn hai câu thơ ấy để so sánh với cảnh ngộ của mình. Tiên sinh nghĩ rằng mình cũng sắp sửa lên đường đi xa, đi vào cõi vô cùng. Điều an ủi lớn là tên tuổi cũng như hoạt động của tiên sinh đã được đồng bào cả nước biết đến, người Việt Nam không ai là không biết đến Phan Bội Châu. Biết đến Phan Bội Châu là biết đến một nhà ái quốc, đồng thời cũng có lòng nghĩ đến Tổ quốc, và nghĩa vụ cứu quốc. Phan Bội Châu mượn hai câu thơ đó để mở đầu những lời cuối cùng của mình với đồng bào, với hậu thế. 91 2.2 Tiếp đó, tiên sinh nói những lời tâm sự về cuộc đời mình: Bảy mươi tư tuổi, trót phong trần Nay được bạn mới tinh thần hoạt hiện. Ba chữ trót phong trần có nhiều ý nghĩa. Đã trót có nghĩa là đã lỡ. Phan Bội Châu thường nói rằng: mình lỡ sinh ra làm người mà lại làm người ở nước Việt Nam, vì vậy phải chịu cái số phận của một người dân mất nước, lại phải làm tròn cái nghĩa vụ gian nan là cứu nước; giá như sinh ở một nước châu Âu, châu Mĩ nào đó, hoặc sinh ở Việt Nam song lại vô tri vô giác, có lẽ lại yên ổn, sung sướng hơn. Mĩ, Âu đất đá chật gì? Tình cờ sinh ở Trung kì Việt Nam! Sao chẳng điếc, chẳng câm cho rảnh? Sao hay mang, hay gánh hoài hòai? Chân không sao muốn đá trời? Tay không sao muốn vấp vời dời non? (Đêm trăng hỏi bóng) Dĩ nhiên, đó là cách nói cảm khái của tiên sinh để xác định ý thức và trách nhiệm của bản thân mình và để giác ngô, khích lệ đồng bào mình..

<span class='text_page_counter'>(79)</span> Đã trót cũng còn có nghĩa là đã đến cuối, đã sắp hết. Câu thơ cảm khái về thân thế không được may mắn của mình giờ đã sắp kết thúc. Tiên sinh thấy mình như người hấp hối được gặp người thân bỗng nhiên bừng tỉnh táo trở lại, trong một phúc sức sống như được trở về: Gặp bạn mới tinh thần hoạt hiện. 2.3 Trong văn thơ viết sau 1925, Phan tiên sinh thường tự phê phán về sự thất bại của mình:“Lịch sử tôi quả tình chỉ là lịch sử của một cuộc thất bại từ đầu chí cuối”, “Từ lúc cha mẹ để ra, tôi chưa hề nếm mùi đau đớn như vậy, đầu dây mối nhợ là vì cái chí tôi hoài bão 30 năm trước. Cái chí tôi hoài bão ra thế nào? Thì chỉ muốn đổ máu ra mua sự tự do, đánh đổi cái kếp tôi tớ lấy quyền tự chủ đó thôi”. “Bây giờ kết quả thất bại như thế này, chính vì tôi dở mà ra, còn than trách chi nữa” 92 Những câu nói như vậy mới nghe như những lời bi quan, thất vọng, song kì thực, đó là những lời nói khẩn thiết, đau đớn để khích lệ đồng bào. Trong giờ phút cuối đời, tiên sư cũng nói rằng cách đó: Những ước anh em đầy bốn biển Nào ngờ trăng gió nhất ba gian! Sống xác thừa, mà chết cũng xương tàn, Câu tâm sự gửi chim ngàn cá biển. Điều đặt biệt ở đây là tâm sự một đời của Phan tiên sinh được diễn tả bằng những câu thơ giàu hình tượng, vừa đượm nồng tình cảm vừa chan chứa chất thơ. Lời thơ tuy buồn mà bi tráng chứ không bi lụy, vẫn khảng khái, kiên nghị, vẫn là nỗi buồn của bậc trượng phu, của vị anh hùng. Bốn câu thơ không những tóm tắt cuộc đời đẹp đẽ mà còn bộc lộ nhân cách cao quý của nhà thơ. 2.4 Quả vậy, Phan tiên sinh tuy không giấu nỗi buồn của mình song không hề để mất lòng tin rằng. Chính vì vậy, câu thơ vừa chớm đau buồn đã trở lại tin yêu: Mừng được đọc bài văn sinh vãn Chữ đá vòng in mấy đoạn tâm can.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> Tiếc mình nay sức mỏng, trí thêm khan. Lấy gì đáp lại khúc đàn tri kỉ? Hai câu trên nói lên rằng: mình đã hiểu được tấm lòng của bạn. Hai câu dưới nói lên rằng: mình mong bạn cũng hiểu biết tấm lòng của mình. Cả bốn câu nói lên lòng biết ơn và lời cảm tạ. Biết ơn và cảm tạ khách tri âm, người tri kỉ. Biết ơn và cảm tạ lớp người đi sau đã có lòng thông cảm và biểu biết đối với ý nghiện, tâm sự và sự nghiệp của lớp người đi trước và có ý muốn tiếp tục mọi việc lớn còn dở dang. 93 Lời thơ ở đây cũng như mấy câu trên đều có giọng khẩn thiết như những lời cất lên từ gan ruột của nhà thơ, như từ những sức lực và hơi thở cuối cùng của một con người sắp qua đời trối trăng lại. 2.5 Tiếp sau đó, bài thơ đi đến đoạn sâu sắc, hàm súc nhất mà ý nghĩa cũng như tình cảm của nó ẩn náu, chứa chất bên trong những câu thơ mới đọc qua không phải không hiểu và cảm ngay được. Chỗ khó hiểu của đoạn thơ này không chỉ ở hai câu chữ Hán: Nga nga hồ: chí tại cao sơn Dương dương hồ: chí tại lưu thủy Nhân nói đến sự giao cảm giữa người còn ở lại với người sắp ra đi, Phan tiên sinh nói đến khúc đàn tri kỉ và liên tưởng đến câu chuyện Bá Nha – Chung Kì. Bá Nha là người đánh đàn giỏi. Còn Chung Kì là người sành nghe đàn. Khi đánh đàn, Bá Nha nghĩ đến ngọn núi cao thì Chung Kì nói: “Tiếng đàn vòi vọi như núi cao”. Bá Nha nghĩ đến dòng nước chảy thì Chung Kì lại nói: “ Tiếng đàn róc rách như nước chảy”. Bá Nha cho rằng Chung Kì không chỉ hiểu tiếng đàn mà còn hiểu tấm lòng mình. Từ đó mà có chữ tri âm, tri kỉ. Ở đây, Phan Bội Châu cũng mượn điển tích này để nói đến sự giao cảm giữa mình với những người đến viếng mình. Tuy nhiên, lời thơ có những ý uẩn khúc: Đàn Bá Nha mấy kẻ thưởng âm? Bỗng nghe qua, khóc trộm lại thương thầm.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> Chung Kì chết, e quăng cầm không gây nữa! Trong hoàn cảnh cụ thể ở đây, ai là Bá Nha và ai là Chung Kì? Cứ theo mạch ý của bài thơ thì: những người đến viếng thăm là Bá Nha và khúc đàn Bá Nha ở đây là bài văn sinh vãn, còn Phan tiên sinh là Chung Kì, lắng nghe khúc đàn tri kỉ mà không biết lấy gì đáp lại, chỉ khóc trộm lại thương thầm. Thế tại sao nhà thơ lại lo lắng rằng: Chung Kì chết, e quăng cầm không gảy nữa! Chúng ta chỉ có thể hiểu hàm ý của những câu thơ trên như sau: 94 Phan tiên sinh cảm tạ những người đến viếng mình, đã tỏ ra hiểu biết, thông cảm với cuộc đời và tâm sự yêu nước của mình. Đó là khúc đàn tri kỉ không phải của Chung Kì đối với Bá Nha mà là của Bá Nha đối với Chung Kì để rồi đáp lại. Chung Kì cũng rất hiểu Bá Nha, tức Phan tiên sinh rất hiểu, rất tin ở tấm lòng yêu nước của những người thông cảm với mình. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh bấy giờ, ngoài những người ở trước mặt mình, còn có bao nhiêu người nữa có được tấm lòng yêu nước hiểu được sự cần thiết phải yêu nước, phải cứu nước? Tiếng gọi yêu nước của những người yêu nước có còn được nhiều nước có còn được nhiều người nghe và đáp lại hay chăng? Đàn Bá Nha mấy kẻ thưởng âm? Phan tiên sinh quan tâm lo lắng và chân thành mong mỏi rằng sau khi mình chết đi thì tinh thần yêu nước vẫn tiếp tục được truyền bá, được hưởng ứng khắp nơi, đừng vì một Chung Kì mất mà không còn ai gảy khúc đàn Bá Nha nữa, đừng vì Phan Bội Châu chết mà không còn ai kế tục truyền thống yêu nước, sự nghiệp cứu nước nữa. Chung Kì chết, e quăng cầm không gảy nữa! Không, trên đất nước này, một người yêu nước mất đi, có trăm vạn người yêu nước thay thế, để đưa sự nghiệp cứu nước đến thành công. Khúc đàn yêu nước của Bá Nha không vì Chung Kì chết mà phải câm lặng..

<span class='text_page_counter'>(82)</span> Ý nghĩ và tình cảm của tiên sinh gửi gắm trong các câu thơ là như thế. Đó là niềm tin yêu gửi lại cho lớp người sau. Ở mỗi chỗ khác, Phan tiên sinh từng phát biểu điều này trong hai câu đối: Thượng hải vị điền, Tinh Vệ hàm thạch, Chung Kì kí một, Bá Nha đoạn huyền! (Biển xanh chưa lấp, tinh vệ còn ngậm đá, Chung Kì đã chết, Bá Nha dứt dây đà! 95 2.6 Chính do ý nghĩ và tình cảm như trên nên đến cuối bài thơ Phan tiên sinh đã chung kết lại thành một lời di chúc: Nay đương lúc tử thần chờ trước cửa, Có vài lời ghi nhớ về sau Chúc phường hậu tử tiến mau! Ba câu thơ như tạo dựng lên hoàn cảnh của tác giả. Đây là giờ phút lâm chung, lúc tử thần chờ trước cửa. Hoàn cảnh đó làm cho lời chúc cuối bài càng trở nên khẩn thiết và thiêng liêng. Đây là lời di chúc của nhà yêu nước vĩ đại gửi lại những người còn sống, gửi lại đời sau. Như chúng ta biết, năm năm sau khi Phan Bội Châu ra đi, phường hậu tử của tiên sinh đã thực hiện được cuộc cách mạng tháng Tám, thực hiện hoài bão của tiên sinh đổ máu ra mua sự tự do, đánh đổi kiếp tôi tớ lấy quyền tự chủ cho dân tộc! Cho đến nay, trải qua hơn 50 năm quyền tự do, tự chủ ấy vẫn được giữ vững. Anh linh Phan Bội Châu ở nơi vĩnh hằng hẳn đã được vui thỏa! 3. Năm 1914, chính quyền Quảng Đông Trung Quốc bắt giam Phan Bội Châu, tính giao nộp cho chính phủ Pháp ở Đông Dương. Ở trong ngục, Phan tiên sinh viết cuốn Ngục trung thư. Tưởng mình sắp chết, tiên sinh viết: “Con chim sắp chết, tiếng kêu đau thương: người ta sắp chết, lời nói thẳng ngay”. Hai câu này tiên sinh nhắc lại lời trong sách Mạnh Tử. May lần ấy, tiên sinh thoát nạn. Đến 1925 mới bị bắt, 1940 mới qua đời. Bài thơ trên đây là lời nói thẳng ngay của người sắp chết, lời nói kết tinh tâm huyết của cả một cuộc đời tận tụy hi sinh cho đồng bào,.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> cho tổ Quốc, Phương tây có thành ngữ “tiếng hát thiên nga” để chỉ tác phẩm nghệ thuật cuối đời của một tác giả, thường được xem là tác phẩm hay nhất, như tiếng hát của con chim thiên nga trước khi chết thường được em là tiếng hát hay nhất. Bài thơ Từ giã bạn bè lần cuồi cùng là “tiếng hát thiên nga” của đại chí sĩ và đai thi sĩ Phan Bội Châu, là tiếng hát sẽ vọng mãi muôn đời. (TRẦN THANH ĐẠM) 96 8. Bình giảng bài thơ Vội vàng 1. Năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân viết về Xuân Diệu trong “ Thi nhân Việt Nam”: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Đó đúng là đặc sắc chủ yếu của thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. Đặc sắc đó thể hình rõ nhất ở bài thơ Vội vàng. 2. Không vội vàng, chúng ta hãy theo dõi bài thơ qua các đoạn thơ. 2.1 Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu diễn tả cái ý muốn có vẻ kì lạ và ngông cuồng: Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đ;i Đó là hương và màu của mùa xuân. Những câu thơ tiếp theo là những câu tả mùa xuân. Trước Xuân Diệu chưa có thơ nào tả mùa xuân như vậy. Ý mới, lời mới về cảnh sắc và âm thanh của mùa xuân. Chú ý vị trí và cách sử dụng các từ: của, này đây... Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì, Này đây lá của cánh tơ phơ phấ,t.

<span class='text_page_counter'>(84)</span> Của yến anh này đây khúc tình si… 97 Có lẽ mới nhất là mấy câu thơ sau đây: Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa, Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Để thấy câu thứ ba trên đây là một câu thơ táo bạo trong sự so sánh của nó, một sự so sánh thiên về cảm giác. Song chính hai câu thơ thứ nhất và thứ hai trên đây mới đặc sắc. Nhà thơ ví mỗi buổi sớm mùa xuân mình thức dậy, mở mắt ra thì đó là ánh sáng chớp hàng mi, thần Vui hằng gõ cửa. Đó là những ý thơ mới mẻ vừa tươi đẹp. Trong một bài thơ khác, Xuân Diệu có lặp lại hình tượng này khi nói đến tình yêu: Tà áo mới cũng say mùi gió nước. Răng mi dài xao động ánh dương vui… 2.2 Trong đoạn thơ trên, cảm hứng và tư tưởng chính của bài thơ tập trung ở câu thơ đặc biệt này: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân Trước Xuân Diệu không lâu, Thế lữ có bài thơ Hoài xuân (Tiếc mùa xuân) mà khổ thơ đầu tả: Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát Giọng chim quyên ca ánh sáng mặt trời Gió nồng reo trên hồ sen rào rạt Mùa xuân còn, hết? Khách đa tình ơi… Xuân Diệu nói ngược, nói khác với bài thơ của Thế Lữ. Và nhà thơ giải thích: Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già… Xuân tàn, hạ tới, thu hết, đông sang, xưa nay thơ đã nói nhiều ý đó. Thế Lữ cũng chưa nói khác, dù lời thơ mới mẻ, phong phú, sôi động hơn. Song đến Xuân Diệu mới thấy được “phép biện.

<span class='text_page_counter'>(85)</span> chứng” của mùa xuân: cùng một lúc nhà thơ thấy xuân đang đến và xuân đang qua, xuân còn non và xuân sẽ già. 98 Cảm hứng về thời gian của Xuân Diệu mới nẻ, đã đổi khác, “hiện đại” hơn. 2.3 Cảm hứng về thời gian đó dẫn đến cảm hứng về cuộc đời. Nhiều nhà thơ trước đây đều đã thấy sự ngắn ngủi của đời người. Cái mới của Xuân Diệu là còn thấy sự ngắn ngủi của tuổi trẻ: Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian… Từ đó, nhà thơ tiếc mùa xuân, tuổi trẻ ngay đang giữa mùa xuân, tuổi trẻ : Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Tiếc mùa xuân, tiếc tuổi trẻ cũng là tiếc sự sống, tiếc cuộc sống. Đó tức cũng là lòng yêu đời, lòng ham sống. Xuân Diệu diễn tả rất sâu, rất hay, rất mãnh liệt và thiết tha tình cảm đó bằng những âm thanh, màu sắc, hình thể của mùa xuân: Con gió xinh thì thào trong lá biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa… Đó là những câu thơ rất trẻ, rất sống, rất đẹp, thể hiện cao độ tình yêu đời, ham sống của nhà thơ. Nhà thơ còn dùng hình tượng: đất trời, năm tháng, núi sông để làm cho ý thơ thêm rộng hơn: Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; Mùi tháng năm đều rơm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt..

<span class='text_page_counter'>(86)</span> 99 Bước đi của thời gian tuy âm thầm mà mãnh liệt không gì ngăn được! Trước và sau Xuân Diệu, chưa ai diễn tả được cảm hứng này như Xuân Diệu. 2.4 Cảm nhận về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ, về cuộc đời như trên dẫn nhà thơ đến một thái độ sống đặt biệt. Đó là sự “vội vàng”: Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ốm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mớn… - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người! Lại những câu thơ vừa cực tả vẻ đẹp, sức sống của mùa xuân, vừa cực tả lòng yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt, say mê của nhà thơ. Để diễn tả những điều đó, nhà thơ dùng những từ ngữ, hình tượng thiên về cảm giác và hành động: ta muốn ôm, ta muốn riết, ta muốn say, ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều, cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê… và cuối cùng: ta muốn cắn…Tuy vậy, cần thấy rằng nhà thơ rất biết giới hạn niềm say mê, nồng nhiệt của mình, không để rơi vào sự rồ dại, thác loạn. Đúng như Hoài Thanh nhận xét trên kia: “Xuân Diệu say đắm… sống vội vàng, sống cuốn quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình… nồng nàn, tha thiết...”. Thơ Xuân Diệu sống động như chính sự sống. Qua thơ Xuân Diệu, ta cũng thấy rõ sức sống của tiếng nói Việt Nam, câu thơ Việt Nam, có thể diễn tả được mọi cung bậc của cuộc đời, mọi trạng thái tình cảm của con người, từ tĩnh lặng nhất đến sôi nổi nhất. 3. Đã có những lúc, đã có những người quá khe khắt với thơ Xuân Diệu, cho những bài thơ như Vội vàng trên đây khuyến khích lối“sống vội”, “sống gấp”, cổ vũ cho thứ nhân sinh quan hưởng thụ, dẫn thanh niên vào con đường hư hỏng. Phải nói rằng, nếu cảm hiểu không đúng thì bài thơ cũng có chứa đựng nguy cơ đó. Nó là con dai sắc hai lưỡi, có thể giúp người mà cũng có thể hại người..

<span class='text_page_counter'>(87)</span> 100 Tuy nhiên, lại phải nói rằng, đây là một bài thơ ưu tú của một nhà thơ ưu tú; tác dụng tích cực của bài thơ là chính. Thơ là tiếng nói trực tiếp của tình cảm, không thể đòi hỏi bài thơ phải là bài giảng về đạo đức. Song một bài thơ như bài Vội vàng không phải phi đạo đức mà có đạo đức. Nếu được cảm hiểu đúng đắn và sáng tạo, nó giúp cho con người biết yêu sự sống, yêu cuộc đời, yêu quý tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Với một ý thức và tình cảm như vậy, mọi con người có tâm hồn và tư tưởng lành mạnh sẽ biết tận hưởng hạnh phúc riêng chân chính của tuổi trẻ,của cuộc đời, đồng thời lại biết đem tuổi trẻ của mình xây dựng hạnh phúc chung tốt đẹp cho cuộc đời, cho mọi người, không lãng phí ngày xuân, tuổi trẻ một cách vô ích để rồi hối tiếc… TRẦN THANH ĐẠM 101 HỘI THẢO KHOA HỌC XÃ HỘI (2 tiết) I – HỘI THẢO KHOA HỌC XÃ HỘI VỚI NHÀ TRƯỜNG Hội thảo khoa học xã hội là hình thức sinh họat tập thể về những vấn đề thuộc lĩnh vực khoa học xã hội như văn học, ngôn ngữ học, lịch sử, đạo đức, xã hội học, triết họcv.v… Người dự hội thảo trình bày báo cáo đã chuẩn bị trước, lắng nghe các diễn giả khác trình bày phát biểu ý kiến trnh luận và thảo luận về những vấn đề đặt ra. Nội dung hội thảo khoa học xã hội rất phong phú, đa dạng. Vấn đề được nêu lên làm nội dung cho các hội thảo thường là một vấn đề có tính chất thời sự, vừa có ý nghĩa lý thuyết, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Trong nhà trường cũng có thể tổ chức các hội thảo khoa học quy mô nhỏ, về những vấn đề đơn giản hơn do tập thể lớp chi đoàn hoặc Đoàn trường tổ chức, về các vấn đề được học thuộc các bộ môn khoa học xã hội (thảo luận về một cuốn sách mới được nhiều người quan tâm, về một số nhà thơ, nhà văn được bạn trẻ mến mộ…) Cũng có thể là một vấn đề trong đời sống văn hóa tư tưởng … của học sinh như “Thế nào là sống có văn hóa”,.

<span class='text_page_counter'>(88)</span> “Thanh niên với” “mốt” trang phục”, “Thế nào là tình bạn tốt ?” v.v… Hội thảo được tổ chức ở lớp, chi đoàn, nhằm tập tuyện các kĩ năng cần thiết tối thiểu để có thể tham gia các hội thảo trong nhà trường hay trong đời sống sau này. 102 II – CHUẨN BỊ THAM LUẬN Chuẩn bị chu đáo tham luận là điều khiện kiên quyết đảm bảo kết quả cho hội thảo. Khi chuẩn bị, cần lưu ý những công việc sau đây: 1. Chọn đề tài tham luận Chọn đề tài tham luận, nhất thiết phải định hướng vào đề tài chung của hội thảo, nếu không, tiếng nói của mình sẽ lạc lõng. Mặt khác, lại nên tính đến sở thích, sở trường và hứng thú của bản thân để tham luận có tiếng nói riêng, có bản sắc riêng. Ví dụ: Đề tài của hội thảo là “Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Ngyuễn Đình Chiểu”. Đề tài tham luận phải định hướng vào chủ đề trên, nhưng tham luận cá nhân lại có thể đi sâu vào một khía cạnh như “Khí tiết của cụ Đồ Chiểu”, như “Quan niệm văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu” v.v… 2. Thu nhập và xử lí tư liệu Sau khi đã xác định đề tài tham luận, cần phải tìm và xử lí các tư liệu liên quan đến đề tài tham luận. Giả dụ ta chọn đề tài: “Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu chói ngời tinh thần yêu nước, thương nòi”. Để phát biểu về đề tài này, cần phải học lại bài giảng của thầy giáo, SGK Văn học, các bài viết về Nguyễn Đình Chiểu, đặc biệt là các bài bàn đến tinh thần yêu nước trong thơ ông; đọc và suy ngẫm các bài thơ của ông… Trong quá trình đọc tài liệu, cần ghi lại các ý nói về tinh thần yêu nước qua thơ văn và sự nghiệp nhà thơ, các câu thơ tiêu biểu thể hiện tinh thần yêu nước của ông. Để tiện sử dụng, các trích dẫn thơ ca nên ghi ra các phiếu riêng. Sau khi đọc xong các tài liệu, hệ thống lại xem người ta đã nói những gì, còn thành các ý; từng ý lại được.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> triển khai thành các ý nhỏ hơn và kèm theo sự dẫn chứng thích hợp. 103 Tóm lại, khâu đầu tiên sau khi chọn đề tài là thu nhập và hệ thống hóa tư liệu, chia tư liệu thành từng nhóm. Để tiện sử dụng, nên ghi các tư liệu vào các phích rời có đánh số thứ tự hoặc kí hiệu riêng theo các nhóm. 3. Vạch đề cương tham luận Đề cương phát triển rất quan trọng, nó chứa đựng tư tưởng khoa học, ý định tham luận, và phản ánh trình độ nhiều mặt của người tham luận. Đề cương dự tính cụ thể lôgic trình bày, có khi cả thủ pháp, tác động tâm lí khi trình bày để nội dung tham luận có sức thuyết phục hơn. Tuy nhiên đề cương không nên quá rườm rà chi tiết. Đề cương thường có ba phần chính: mở đầu, phát triển, kết luận. a) Mở đầu Phần mở đầu nên giới thiệu đề tài tham luận và những vấn đề cụ thể sẽ được nói đến. Lời mở đầu nên dùng nhiều hình thức hấp dẫn, thu hút sự chú ý của người nghe: có thể vào đề bằng cách trực tiếp nêu vấn đề: hoặc nêu các ví dụ, sự kiện hấp dẫn; dẫn các thành ngữ, châm ngôn hay có liên quan đến nội dung, hướng giải quyết và mục đích của đề tài; đặt câu hỏi ; nêu các mâu thuẫn trong việc giải quyết vấn đề đặt ra…. b) Phát triển (triển khai vấn đề) Phần phát triển (triển khai vấn đề) là phần nội dung chủ yếu của bài tham luận. Ở phần này, cần dự định xem sẽ trình bày những ý nào, cách thức triển khai từng ý ra sao và dùng những dẫn chứng gì. Lại cũng cần suy nghĩ cách sắp xếp giữa các ý sao cho phù hợp với lôgic của vấn đề trình bày và người nghe dễ tiếp nhận. Về đại thể, cách triển khai, sắp xếp vấn đề cũng giống như trong khi làm văn nghị luận, nghĩa là có thể triển khai theo trật tự quy nạp, diễn dịch hoặc tổng hợp - phân tích – tổng hợp. Các dẫn chứng chỉ cần ghi bằng các kí hiệu tương ứng với kí hiệu đã được phân lọai, đánh dấu ở các phiếu ghi tư liệu..

<span class='text_page_counter'>(90)</span> 104 c) Kết luận Phần kết luận ngắn gọn, súc tích, phù hợp với các phần mở đầu và phát triển của bài tham luận và có sức nặng khái quát tổng hợp những điểm đã phát biểu. Lời kết thúc cần tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe. 4. Một số chuẩn bị khác: Người tham luận còn dự kiến và chuẩn bị trước các phương tiện trực quan (nếu có), sơ bộ phân bố thời gian giữa các phần, dự kiến giọng điệu cho thích hợp. Ngoài ra, nên tìm hiểu trước hoàn cảnh hội thảo, thành phần tham gia hội thảo để nắm trình độ và những vấn đề quan tâm chủ yếu của họ mà xác định nội dung, cách thức trình bày cho thích hợp và có sức thuyết phục. III – THAM GIA HỘI THẢO 1. Trình bày tham luận Trình bày tham luận là khâu thể hiện trực tiếp kết quả nghiên cứu và suy nghĩ. Nếu các khâu trước đã được chuẩn bị công phu, chu đáo thì có thể tin chắc vào thành công của tham luận. Khi trình bày tham luận, nhìn chung nên trung thành với đề cương đã chuẩn bị trước nhưng cũng cần có sự điều chỉnh, bổ dung cho thích hợp với không khí của cuộc hội thảo: lướt nhanh những điều đã được người khác trình bày trùng với mình, triển khai cụ thể chi tiết hơn những phần mới chưa được người khác nói hoặc nói chưa đầy đủ. 2. Tham gia phát biểu tham luận Chất lượng hội thảo không chỉ phụ thuộc vào các tham luận mà còn tùy thuộc vào ý kiến thảo luận, trao đổi về các tham luận, nhất là về những vấn đề chính được đặt ra. Để có thể tham gia thảo luận được tốt, cần lưu ý một số công việc sau đây: 105 a) Ghi chép và phân tích các ý kiến trong hội thảo Để ý kiến phát biểu có chất lượng, cần tập trung chú ý lắng nghe, ghi chép và phân tích ý kiến của những người tham luận hội thảo. Trong khi ghi chép, nên lược ghi các ý chính của từng.

<span class='text_page_counter'>(91)</span> người, những nhận xét tức thời của bản thân về các ý kiến đó (ý nào đúng, hay, ý nào cần phát triển, ý nào chưa đúng, thiếu chính xác…) b) Chuẩn bị ý kiến phát biểu Trên cơ sở các tài liệu ghi chép, cần nhanh chóng chọn vấn đề và triển khai cụ thể nội dung vấn đề được lựa chọn. Vấn đề lựa chọn nên là vấn đề được nhiều ý kiến đề cập đến nhưng chưa được giải quyết đầy đủ hoặc chưa đúng. Cũng có thể là vấn đề mới, quan trọng mà chưa ai đề cập đến. Vấn đề lựa chọn cũng không nên quá lớn, phải hợp với khả năng và sở trường của người phát biểu. Chúng ta có thể tán thành với ý kiến của người khác nhưng đi sâu hơn bằng cách bổ sung thêm nhiều chi tiết và khía cạnh mới. Chúng ta cũng có thể vừa tán thành một vài điểm nào đấy vừa phản bác lại một số điểm khác. Có thể phản bác lại ý kiến của người khác bằng nhiều cách thức khác nhau. Sau đây, chỉ đề cập đến một số cách thức đơn giản, dễ thực hiện nhất. Để phản bác, có thể chứng minh bằng phương pháp phản đề: Giả dụ ý kiến đó là đúng nhưng lại không phù hợp với thực tế hoặc gây hậu quả không tốt. Ví dụ, để bác bỏ ý liến cho rằng tư duy của con người ta dường như không phụ thuộc vào ngôn ngữ, một nhà bác học đưa ra nhận xét: “Nếu vậy thì chẳng hóa ra các động vật cũng chính là những nhà tư duy trừu tượng và thực sự hay sao? Bởi vì tư duy của chúng chẳng bao giờ bị làm lu mờ bởi sự can thiệp rầy rà của ngôn ngữ cả”. Đơn giản hơn, có thể đưa các sự việc thực tế, các ý kiến được nhiều người thừa nhận để bác bỏ ý kiến người khác như trường hợp phê phán quan niệm muốn hạ thấp hoặc phủ nhận thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu bằng cách trích dẫn ý kiến của đồng chí Phạm Văn Đồng, ý kiến của các nhà phê bình học có uy tín: bằng chính việc phân tích giá trị thơ văn của tác giả … Sau khi chuẩn bị sơ bộ xong, ta có thể đăng kí phát biểu ý kiến. 106 3. Những lưu ý khi tham luận và phát biểu.

<span class='text_page_counter'>(92)</span> a) Thái độ tranh luận Người phát biểu, tranh luận phải có thái độ nghiêm túc, đúng mực và thực sự khiêm tốn. Thái độ này cần được thể hiện cụ thể bằng nội dung ý kiến, điệu bộ khi phát biểu, và văn hóa lời nói của bài tham luận hoặc lời phát biểu . b) Văn hóa lời nói Bài tham luận hoặc lời phát biểu trong hội thảo mang nhiều yếu tố của phong cách chính luận và phong cách khoa học. Bởi vậy, khi tham luận, phát biểu, cần chú ý một số mặt sau: - Cần đặc biệt nhấn mạnh đến việc điều khiển giọng nói. Nếu từ đầu đến cuối chỉ nói bằng một giọng đều đều, nói to quá hoặc nhỏ quá thì người nghe rất khó chịu, khó tiếp nhận nội dung. Cần nói với tốc độ vừa phải và với độ cao trung bình. Đồng thời, cũng cần thay đổi tốc độ nói, cường độ nói khi cần thiết. Ví như nhấn giọng, nói chậm lại ở những tiêu đề, những ý quan trọng, dừng lại một chút sau khi đặt câu hỏi, thay đổi giọng điều khi đọc trích dẫn thơ văn hoặc ý kiến của người khác. - Lưu ý sử dụng hợp lí các phương tiện ngôn ngữ. Các khái niệm khoa học, các thuật ngữ cần phải được sử dụng chính xác, biết đến đâu nói đến đây, tránh lối “khoe chữ”, sính dùng những thuật ngữ mà ta chưa hiểu đến nơi đến chốn. Trong khi nói, cũng nên sử dụng nhiều câu đơn, nếu là câu ghép thì phải có quan hệ từ rõ ràng, tránh dùng những câu phức tạp làm người nghe khó theo dõi. Thái độ khiêm tốn, thận trọng biểu hiện qua cách dùng từ ngữ. Nên “thưa gửi” lúc bắt đầu nói, “cảm ơn” trước khi dừng lời. 107 Khi không tán thành, nên dùng các từ và tập hợp từ: “có lẽ không nên…”, “có lẽ chưa thật hợp lí…”, “có kẽ chưa thật đầy đủ…” v.v… Để khẳng định ý kiến của mình, nên dùng các cụm từ: “theo sự hiểu biết của chúng tôi…”, “có lẽ nên”, “nên chăng là” v.v….

<span class='text_page_counter'>(93)</span> - Lời phát biểu cần ngắn gọn, có bố cục sáng rõ. Muốn vậy, các ý phải được sắp xếp hợp lí và tuân theo những yêu cầu như khi làm một bài văn nghị luận. - Cuối cùng, khi tham luận và phát biểu ý kiến, nên chú ý quan sát người nghe để nắm được phản ứng của họ mà điều chỉnh nội dung và cách nói của mình. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP Câu hỏi 1. Để chuẩn bị hội thảo cần phải làm những công việc gì? 2. Để phát biểu, tranh luận tại hội thảo, cần tiến hành những công việc gì? Thực hiện như thế nào? 3. Khi phát biểu tranh luận, thảo luận, cần lưu ý những gì? Bài tập 1. Lớp chuẩn bị mở hội thảo về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, anh (chị) hãy chuẩn bị và trình bày tham luận của mình Hướng dẫn a) Hãy đọc lại bài giảng, SGK nói về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, về văn học Việt Nam cận đại. b) Anh (chị) định chọn vấn đề gì trong cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu để tham luận? Tại sao lại chọn vấn đề ấy? 108 (Có thể tham khảo và lựa chọn một trong những vấn đề sau hoặc tự nghĩ ra: Nguyễn Đình Chiểu – một tấm gương đạo đức, nhân nghĩa; một tấm lòng yêu nước nồng cháy; một ngòi bút chiến đấu vì nhân dân, vì Tổ quốc, vì đạo lí chính nghĩa v.v…) c) Để chuẩn bị phát biểu về vấn đề đã lựa chọn, anh (chị) định ghi chép những tư liệu nào? d) Hãy lập đề cương tham luận: Tham luận nhằm mục đích gì? Gồm mấy phần? Phần mở đầu và kết luận viết như thế nào, trình bày những gì? Phần phát triển gồm bao nhiêu ý? Hãy phân bố thời gian cho từng phần, từng ý..

<span class='text_page_counter'>(94)</span> 2. Giả dụ, trong hội thảo, có ý kiến cho rằng: Nguyễn Đình Chiểu bênh vực và ca ngợi đạo lí của giai cấp phong kiến đã suy đồi (như kêu gọi, khuyên răn nên theo đạo đức phong kiến: “Trai thời trung hiếu làm đầu, Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”; như đề cao những tấm gương tiêu biểu cho đạo đức ấy: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga mà không dám nhìn mặt nàng “Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái ta là phận trao”. Lục Vân Tiên cũng đi thi để ra làm quan, Tiểu Đồng quyên sinh cứu chủ… và phê phán bọn người chà đạp lên đạo lí phong kiến như Bùi Kiệm, Trịnh Hâm, cha con họ Võ). Hãy tranh luận với bạn có ý kiến trên. 3. Lớp tổ chúc hội thảo chuyên đề: “Nét thanh lịch trong ứng xử hàng ngày”. Có một số bạn đã dự định chuẩn bị nội dung bài phát biểu của mình như sau: a) Giới thiệu cũng có trước có sau; b) Vài nét lưu ý nơi công cộng; c) Trang phục và vẻ duyên dáng thực sự; Anh (chị) thấy các nội dung trên có phù hợp với chủ đề hội thảo không? Vì sao? Hãy tự nghĩ thêm một đề tài để tham gia phát biểu ở hội thảo trên. 109 TƯ LIỆU THAM KHẢO GIỚI THIỆU CŨNG CÓ TRƯỚC CÓ SAU Phải giới thiệu người ít tuổi với người cao tuổi trước, giới thiệu bạn nam với bạn nữ trước. Bạn dẫn một người bạn đến thăm thầy giáo. Hai người chào thầy xong, bạn nói: “Thưa thầy, đây là X, bạn em, học trường…” Bạn cùng một người bạn đang đi thì gặp bố mẹ. Sau khi chào, bạn giới thiệu bạn mình với bố mẹ: “Thưa bố mẹ, đây là Hạnh, học cùng lớp với con”. Thường chỉ cần như thế là đủ, vì lời giới thiệu đã cho cả hai phía biết về nhau. Trường hợp muốn cho người dưới biết rõ hơn.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> người trên, bạn mới cần giới thiệu tiếp. Chẳng hạn: “Đây là thầy Nguyễn Văn Y, Nhà giáo ưu tú, dạy mình môn văn…”. Nhưng khi giới thiệu bạn bè “bằng vai, phải lứa” với nhau thì cần giới thiệu cả hai phía “Đây là Hùng cùng học Anh văn buổi tối với mình” – “Đây là Mai, bạn học với mình hồi cấp 2”… VÀI NÉT LƯU Ý NƠI CÔNG CỘNG Tuyệt đối không rung đùi, không cho chân lên ghế, lên bàn, dù là ngồi chung ghế băng ở hội trường hay ngồi ghế riêng trong thư viện. Tránh gãi, ngoáy tai, cắt móng tay, cạy mũi trước mặt người khác. Không xỉa răng hoặc ngậm tăm lúc đi đường, hoặc trong lúc nói chuyện với người khác. Tránh ngáp dài hoặc hắt xì hơi giữa đám đông, nhưng nếu không đừng được thì phải lấy tay che miệng. 110 Khi gặp người lớn tuổi hơn, nên chủ động chào nhưng không được đưa tay ra trước. Nếu người lớn chìa tay ra thì bạn hãy mạnh dạn nắm lấy, vừa đủ chặt và chỉ cần một tay phải là đủ. Khi thưa chuyện, tránh những cử chỉ vừa nói vừa gãi đầu gãi tai. Bạn nên nhớ, không có tật nào là “mãn tính”. Chỉ cần bạn chú ý kiểm soát hành vi của mình, bạn sẽ bỏ được những cố tật đó. Trên đây chỉ là một số trong vô vàn biểu hiện của sự thanh lịch. Bạn hãy tìm đọc thêm các sách dạy về ứng xử, học và làm theo những người có văn hóa. Chắc chắn bạn sẽ trở thành người thanh lịch, vì bạn là … học sinh mà! HUY TOÀN (Hoa học trò, Số 50 - 1993) TRANG PHỤC VÀ VẺ DUYÊN DÁNG THỰC SỰ Ở thời nào cũng vậy, trang phục phụ nữ (áo quần, giày dép, nữ trang, cách trang điểm v.v…) gắn liền với người phụ nữ như một bạn đồng hàng chung thủy. Xưa và nay, bao giờ trang phục vẫn là yếu tố không thể thiếu được trong việc trợ giúp cho người phục nữ đẹp hơn lên rất nhiều. Làm đẹp cho mình, cho xã hội.

<span class='text_page_counter'>(96)</span> bao giờ cũng là nhu cầu chính đáng và là báu vật mà người phụ nữ tặng cho cuộc sống của chúng ta. Nhưng, “chiếc áo không làm nên linh mục”. Dù có mặc đẹp đến đâu, trang điểm lộng lẫy đến nhường nào thì người phụ nữ cũng khó mà thay thế được cái chết bên trong của mình. Cha ông ta xưa nói “người đẹp vì lụa”, nhưng lại cho rằng “cái nết đánh chết cái đẹp”. Quan niệm “đẹp người đẹp nết” là sự khái quát về cái đẹp chung của phụ nữ trong đó có sự liên hệ qua lại, bổ sung cho nhau giữa cái “nội dung bên trong” và cái “hình thức bên ngoài”. 111 Ngày nay ở ta, thời mở cửa đã tạo thêm nhiều vận hội trong việc sử dụng trang phục. Và quả thật, bây giờ phụ nữ đẹp hơn lên rất nhiều. Không những đẹp, còn mới lạ, hiện tại và “cởi mở” nữa. Nhưng đây đó, còn đôi chút phải bàn thêm. Tuy chẳng đến nỗi như Nguyễn Bính xưa “Van em…Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh” nhưng dẫu sao “lo..cứ lo là”. Bởi thế, ai mà không ái ngại khi chứng kiến mấy cô gái ăn mặc cực kì hiện đại, đầu tóc, quần áo, mặt mũi đều là “sản phẩm công nghiệp hóa” mà lại nói chuyện rất tục tĩu ở một quán bún chả nọ. Dăm là áo bay phần phật (chứ không phải “tà áo em …bay …bay” vì ngồi sau những chiếc xe phân khối lớn “đánh võng” trên đường, rồ máy, nhả khói um lên làm cho hàng phố tưởng họ từ trên … trời xuống). Một cô gái mặc quần côn, áo thụng, xắc da, đi dày chín phân, má hồng, môi thắm, tóc làm kiểu Sandra lại có thể mắng té tát, xua đuổi rối rít một bà lão ăn xin v.v… và vô số những hiện tượng tương tự làm tổn hại đến niềm ưu ái của thiên hạ dành cho phái đẹp dù có biện hộ theo kiểu nào đi chăng nữa. Người Việt Nam ta thường tự hào về truyền thống văn hóa nét đẹp nhân văn, đạo lí. Cũng như vậy, phụ nữ ta có quyền tự hào về vẻ đạp duyên dáng, dịu dàng, lôi cuốn kiểu Á Đông. Nhưng trước cơ chế thị trường thời mở cửa, chúng ta không thể không e ngại sự tấn công của cái xấu, phi văn hóa vào các giá trị tinh thần, đạo đức đó. Sự “bay đi ít nhiều” của các giá trị nêu trên là điều đáng lưu tâm. Bạn có thể ăn mặc rất đẹp, hợp thời trang, cả hiện đại nữa nhưng chớ vội tự cho rằng mình đã là người toàn.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> bích, hoàn hảo. Nét đẹp toát lên từ trang phụ chỉ là một tiêu chí trong nhiều tiêu chí đánh giá phẩm chất người đẹp theo đúng nghĩa của từ này. Ngạn ngữ Bungari có câu “Áo quần quyến rũ lúc gặp mặt. Tâm hồn quyền rũ lúc chia tay”. Quả vậy, sau cái choáng ngợp ban đầu của hình thức thì cuối cùng cái đọng lại, cái được đánh giá cao, đích thực bao giờ cũng là yếu tố tâm hồn, cái bên trong. Cho nên, trang phục chẳng khác nào lời quảng cáo hấp dẫn về một kho báu nào đó. 112 Còn số của cải trong kho báu thì chỉ sau khi mở cửa ra sẽ biết. Đã qua rồi cái thời kì “ăn chắc, mặc bền” tiến đến bây giờ là đẹp, hợp thời, tân kì nữa. Nhưng có lẽ chẳng hay ho gì một người đẹp ra phố với bộ quần áo xoàng xĩnh là đồ ngủ mặc trong nhà hoặc ngược lại ai đó ăn mặc cực kì đẹp, mốt nhưng lại ứng xử thiếu văn hóa trong cuộc sống. Cả hai đều làm mất đi cảm tình, thái độ trân trọng của người xung quanh. Trong hoàn cảnh kinh tế hiện tại, việc sử dụng trang phục cũng nên có sự “gạn đục khơi trong”. Chọn lựa một giải pháp hài hòa giữa thu nhập và nhu cầu sử dụng trang phục tạo ra sự hợp thời, hợp người, hợp hoàn cảnh nhất. Đã không thiếu bạn trẻ không mệt mỏi chạy đua theo mốt mà gây nhiều phiền toái cho chính mình và người xung quanh. Cái đẹp, vẻ duyên dáng sẽ càng được tôn lên qua việc tiếp thu những nét văn minh của trí tuệ nhân loại đồng thời không quên kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc trong sử dụng trang phục. Phải chăng áo ài Việt Nam là sự hiện diện của hướng này. Trải bao biến cố, thăng trầm, áo dài Việt Nam thành một biểu tuợng dân tộc. Vậy thì, những trang phục đẹp, hợp thời, được dư luận thừa nhận luôn luôn chứa đựng những giá trị văn minh trong đó. Bạn gái sẽ đẹp hơn lên nếu không quá nô lệ vào trang phục mà cần biết kết hợp các yếu tố bên trong, bên ngoài với nhau. Khi đó, cùng với những nét vẻ khác, trang phục làm nên sức mạnh của người phụ nữ. Cái sức mạnh của phái yếu mà ngay cả Sếc-xpia đã từng phải thốt lên “Sức mạnh em, em lấy đâu nhường ấy. Để bắt tôi thành nô lệ thế này”..

<span class='text_page_counter'>(98)</span> Trang phục phụ nữ sẽ không chỉ là vẻ bề ngoài mà còn là sự “phát ngôn” cho cái “duyên ngầm”, vẻ đẹp tâm hồn bí ẩn, lôi cuốn bên trong. Nét duyên dáng nhìn từ góc độ trang phục sẽ là nét đẹp trí tuệ, là sự vươn lên trong chiều hướng hoàn thiện cái đẹp, cái thẩm mĩ của phụ nữ chúng ta. THANH ĐẠM (Báo phụ nữ Việt Nam, số 31, Tháng 8 - 1993) 113 GỢI Ý ĐỀ BÀI LÀM VĂN (Theo phân phối chương trình) A – PHẦN VĂN HỌC VIỆT NAM BÀI LÀM VĂN SỐ 1 - Làm bài ở lớp: 2 tiết - Trả, chữa bài: 1 tiết Đề 1: Phân tích bài Chí nam nhi để làm rõ quan niệm của Nguyễn Công Trứ về lẽ sống của kẻ làm trai. Đề 2: “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương”. Hãy chứng minh rằng: tình cảm yêu ghét rạch ròi của Nguyễn Đình Chiểu thấm đượm trong tác phẩm LụcVân Tiên của ông. Đề 3: Hãy nói lên những điều anh (chị) thấm thía nhất qua cuộc đời và văn thơ Nguyễn Đình Chiểu. Đề 4: Phân tích nhân vật Nhân Sư trong tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu. GỢI Ý Đề 1: Trước đây, bài Chí nam nhi không được đưa vào học ở nhà trường: có ý kiến ngại rằng bài thơ mang nặng ý thức hệ phong kiến, tính chất anh hùng cá nhân. Khi làm bài cần chú ý phân tích cả mặt tích cực và mặt hạn chế trong quan niệm về chí làm trai của Nguyễn Công Trứ. 114.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> Đề 2: Yêu cầu: Đây là kiểu bài chứng minh một nhận định văn học. Học sinh lấy dẫn chứng từ tác phẩm Lục Vân Tiên và phân tích ở mức độ vừa phải để làm sáng tỏ nhận đĩnh cần chứng minh. Nội dung: Tập trung làm sáng tỏ hai phương diện “ghét và thương” trong tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu ở tác phẩm Lục Vân Tiên. Tình cảm đó thể hiện rõ nhất qua thái độ của tác giả đối với cuộc đời, đối với xã hội đương thời, nhất là đối với những con người cụ thể. Tập trung nhất là qua các nhân vật mà tác giả xây dựng lên như bộ ba: Võ Công, Quành Trang, Võ Thể Loan; như Bùi Kiệm, Trịnh Hâm, bọn buôn thần bán thánh. Mặt khác là với những nhân vật đáng cao ngợi như: Ngư Ông, Lão Tiều, Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực và nhất là Vân Tiên. Khi phân tích cần chú ý làm nổi lên mối quan hệ giữa “ghét” và “thương”. Về phương pháp làm bài: Cần chú ý đây không phải là bài phân tích các nhân vật trong tác phẩm Lục Vân Tiên. Các nhân vật được nêu lên như những dẫn chứng cho thái độ, tình cảm yêu ghét của tác giả. Cho nên khi viết phải làm nổi bật lên chủ đề quán xuyến của đề bài là “tình cảm yêu ghét rạch ròi thắm đượm trong “Lục Vân Tiên” và mối quan hệ giữa “ghét” và “thương” Đề 3: Yêu cầu: Đây là kiểu bài tự do. Học sinh nói lên cảm nhận thấm thía nhất của bản thân qua cuộc đời và văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu. Vì đề yêu cầu nói điều thấm thía cho nên học sinh được phép nói một vài điểm, không nhất thiết phải nói đến tất cả mọi mặt về cuộc đời và văn thơ. 115 Nội dung: Đề không yêu cầu nói về văn thơ hay cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu. cái chính là nói lên điều thấm thía nhất của bản thân mình. Song không phải là những cảm nghĩ tùy tiện mà phải có căn cứ xác đáng trên cơ sở cuộc đời và nội dung văn thơ Nguyễn Đình Chiểu, Nếu không phân biệt rõ yêu cầu này thì.

<span class='text_page_counter'>(100)</span> học sinh dễ sa vào việc phân tích văn thơ và cuộc đời tác giả chung chung, thiếu định hướng. Về phương pháp làm bài: Đây là kiểu bài phát biểu suy nghĩ, thu hoạch của cá nhân cho nên bài làm cần có màu sắc tình cảm riêng của người viết. Đề 4: Yêu cầu: - Học sinh vừa học xong kiểu bài phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự. Đề bài này đi sâu vào phân tích một nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. - Bài làm phải nêu được đặc điểm của nhân vật Nhân Sư (trọng tâm) nhưng cũng phải nói được phần nào ý nghĩa, giá trị của tính cách nhân vật trong mối liên hệ với tác giả Nguyễn Đình Chiểu. - Bài phải có 2 phần: Một là, phân tích đặc điểm nhân vật Nhân Sư (về ngoại hình, về lai lịch, về hành động và suy nghĩ); Hai là, phân tích ý nghĩa, giá trị của nhân vật trong mối liên hệ với tác giả dựng lên. BÀI LÀM VĂN SỐ 2 - Làm bài ở nhà - Trả, chữa bài: 1 tiết Đề 1: Đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Hãy phân tích và chứng minh ý kiến trên. 116 Đề 2: Nhà thơ Xuân Diệu có viết: “Nguyễn Khuyến mặc dầu không cầm gươm chiến đấu dưới lá cờ phấn nghĩa Cần vương, vẫn đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu nước”. (Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1974). Hãy giải thích và chứng minh nhận định trên. Đề 3 : Phân tích tâm trạng của Nguyễn Khuyến trong bào thơ Khóc Dương Khuê..

<span class='text_page_counter'>(101)</span> Đề 4: Phân tích cái cười nhẹ nhàng hóm hỉnh của Nguyễn Khuyến trong bài thơ Vịnh tiến sĩ giấy II. GỢI Ý Đề 1: Đây là kiểu bài phân tích và chứng minh một nhận định về tác phẩm. bài làm phải phân tích và chứng minh được hai vế “thất thế” nhưng “vẫn hiên ngang”. Học sinh phải giải thích vì sao lại nói là “thất thế” và “thất thế” ở chỗ nào? Vì sao nói “hiên ngang” và “hiên ngang” như thế nào? Dẫn chứng chỉ cần lấy từ bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đề 2: Đề yêu cầu vận dụng lí lẽ và dẫn chứng cụ thể để làm sáng tỏ lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến. Đề này đòi hỏi học sinh vận dụng hiểu biết tổng hợp về cuộc đời cũng như thơ văn của một tác giả lớn trong chương trình để xử lí một đề bài được giới hạn cụ thể. Tuy nhiên theo cách phát biểu của Xuân Diệu, cần lưu ý thêm một ý phụ chiếm tỉ lệ rất nhỏ nhưng vẫn phải điểm qua. Đó là ý “Nguyễn Khuyến không trực tiếp cầm gương chiến đấu”. 117 Đề 3: Đây là bài thơ trữ tình. Qua giọng kể và qua chi tiết (quá trình giao du với bạn, nhưng nỗi niềm riêng tư của mỗi người), ta nhận ra tâm trạng Nguyễn Khuyến. - Bài thơ có nhiều khía cạnh tình cảm. Để bài viết khỏi rời rạc, phân tán, nên tập trung và đi sâu vào khai thác, phân tích vài nét tâm trạng nổi bật; các điểm khác có thể lướt nhanh. - Có thể tập trung vào hai điểm chính sau đây: + Lòng tưởng nhớ chân thành, tự nhiên: + Nỗi xót đau sâu sắc. Chân thành, tự nhiên vì tình cảm được giải bày không tô vẽ, không cường điều, có sao nói vậy. Đau xót sâu sắc vì tác giả không chỉ mất một người quen biết lâu năm, mà mất một người bạn tri âm tri kỉ: cùng hòan cảnh, cùng tâm sự, cùng chí hướng. những điều trên cần được phân tích qua những chi tiết cụ thể, những hình ảnh thơ tiêu biểu, nổi bật..

<span class='text_page_counter'>(102)</span> - Đoạn kết có thể nói đến giá trị bài thơ ở hai điểm: + Tình cảm đằm thắm trước sau của tuổi già; + Tâm trạng những nhà nho có khí tiết, không muốn hợp tác với kẻ thù. Đề 4 - Đề chỉ giới hạn trong việc phân tích cụ thể bài Vịnh tiến sĩ giấy II nhằm làm nổi rõ các cười nhẹ nhàng, hóm hỉnh của nhà thơ. 118 - Cần đọc kĩ các chú thích về những chữ khó để hiểu chính xác bài thơ: cờ, biển, cân đai, giáp bảng, văn khôi, xiêm áo, khoa danh, ngồi bảnh chọe, đồ thật, đồ chơi… - Cái cười nhẹ nhàng, hóm hỉnh bật lên ngay từ nhan đề bài thơ; từ một sự thật trong cuộc sống: + Ông tiến sĩ trở thành một đồ chơi trẻ em ; + Ông tiến sĩ trở thành tiến sĩ …giấy ; + Nói rộng ra là cái danh không còn phù hợp với cái thực - Cần bám sát vào câu chữ để phân tích cụ thể. Có thể tạm chia làm 2 phần: + 4 câu đầu tả ông tiến sĩ giấy ; + 4 câu sau nhận định về ông tiến sĩ giấy. (Câu nào cũng nói đến những điều trang trọng oai vệ với giọng bỡn cợt nhẹ nhàng, hóm hỉnh…) Đi sâu vào một số câu như: Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng, Nét son điểm rõ mặt văn khôi. Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ? Cái giá khoa danh thế mới hời! Đến câu cuối cái cười của Nguyễn Khuyến thật nhẹ nhàng mà cũng thật sâu sắc, thâm thúy: Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> - Cần so sánh liên hệ thêm với cái cười cay độc, mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, của Tú Xương (rất khác với cái cười nhẹ nhàng, hóm hỉnh của Nguyễn Khuyến trong bài thơ này.) 119 Có sự khác biệt đó có thể vì: + Bản thân Nguyễn Khuyến là một nhà khoa bảng. Ông cười cái yếu kém của tầng lớp mình. Cười người mà cũng là cười mình + Chính bản thân ông cũng có điều ân hận, điều không vừa ý mình: Ơn vua chưa chút báo đền Cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời (Di chúc) + Đặc điểm về cá tính riêng của Nguyễn Khuyến: sâu sắc, thâm trầm, kín đáo. BÀI LÀM VĂN SỐ 3 - Làm bài ở nhà - Trả, chữa bài: 1 tiết Đề 1: “Muốn mù trời chẳng cho mù quách Giương mắt trông chi buổi bạc tình” (Đau mắt) Hai câu thơ trên của Tú Xương gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì về nỗi lòng của nhà thơ? Đề 2: “Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng tòa, Đêm sao đêm mãi thế ru mà? Lạnh lùng bốn bể ba phần tuyết, Xao xác năm canh một tiếng gà. 120 Chim chóc hãy còn nương cửa tổ,.

<span class='text_page_counter'>(104)</span> Bướm ong chưa thấy lượn vườn hoa. Nào ai là kẻ tìm ta đó, Đốt đuốc mà soi kẻo lẫn nhà!” (Đêm dài, Thơ văn Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, NXB Giáo dục, H., 1973) Qua bài thơ trên, anh (chị) hiểu thêm được gì về tâm trạng của nhà thơ Tú Xương? Đề 3. “Tú Xương ấp ủ mãi vết thương mất nước ở trong tâm hồn” Dựa vào những bài thơ đã học, đã đọc, hãy tỏ bày ý kiến của anh (chị) về nhận định trên của nhà thơ Xuân Diệu. GỢI Ý Đề 1 Để làm tốt đề bài này, học sinh cần hiểu đúng nỗi lòng nhà thơ qua hai câu thơ là gì? Lại phải hiểu hàm nghĩa của “buổi bạc tình”. Chính cái buổi bạc tình là nguồn gốc đưa đến nỗi lòng đau đớn cho nhà thơ. Cái bi kịch của nhà thơ nhạy cảm với thời cuộc là không làm ngơ được, không ngoảnh mặt được trước mọi cảnh huống đau lòng của cái thời buổi mất nước: muốn mù mà vẫn phải giương mắt nhìn cảnh nhà túng đói, cảnh đời đen bạc. Đề 2 Bài làm phải làmnổi bật lên tâm trạng lẻ loi cô đơn, đau buồn của nhà thơ trước cảnh tối tăm của đất nước. Tất cả đang đắm chìm trong đêm tối mà bản thân thi sĩ thì lạc lõng, bơ vơ. Đề 3 Đây là kiểu đề tự do phát biểu ý kiến. Song vẫn phải có sự lựa chọn là đồng tình hay không đồng tình với nhận định của nhà thơ Xuân Diệu. Đồng tình hay không đều phải giải thích và chứng minh. 121 Đề bài chỉ giới hạn vốn hiểu biết về những bài thơ đã học, đã đọc. Tuy nhiên vẫn có thể mở rộng, đưa thêm tư liệu và những dẫn chứng liên quan. Hướng chung vẫn là khai thác, phân tích những bài thơ đã đọc, đã học để làm rõ ý kiến của mình..

<span class='text_page_counter'>(105)</span> BÀI LÀM VĂN SỐ 4 (Kiểm tra học kì I) - Làm bài ở lớp: 2 tiết - Trả, chữa bài: 1 tiết Đề 1. Có ý kiến cho rằng thơ Tú Xương là tiếng nói của một con người chất chứa nỗi bực dọc riêng tây. Anh (chị) có đồng ý không? Vì sao? Đề 2. Nhà thơ Xuân Diệu viết: “Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Hãy dựa vào chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến để làm sáng tỏ nhận định trên. Đề 3. Theo anh (chị), giữa Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau hay không? Hãy chứng minh cho ý kiến của mình. Đề 4 Văn học hiện thực trào phúng cuối thế kỉ XIX đã để lại một nội dung tố cáo sâu sắc. Đối tượng tố cáo của nó là bọn bán nước hại nòi trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến và phần nào là những hành động dã man của kẻ thù cướp nước. Dựa vào thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú Xương, hãy chứng minh nhận định trên. 122 GỢI Ý Đề 1 Để cho phép học sinh được tự do phát biểu ý kiến của mình. Có thể đồng ý hay không đồng ý. Song lí lẽ phải có sức thuyết phục. Về ý kiến, cũng có thể có 3 cách nghĩ: Một là, đồng ý hoàn toàn. Hai là, không đồng ý. Ba là, đồng ý một phần và có bổ sung (chấp nhận có nỗi bực dọc riêng tây nhưng còn có tâm sự về đất nước). Đây là kiểu đề bài có vẻ tự do nhưng thật ra cũng là một đề phân tích, chứng minh một vấn đề về tác giả đã học. Đề 2.

<span class='text_page_counter'>(106)</span> - Đây là kiểu đề bài phân tích để chứng minh một nhận định văn học (về tác giả). - Giới hạn của đề là chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. - Trong quá trình phân tích, phải định hướng vào chủ đề “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Đề 3 - Đây là đề bài mang tính chất tổng hợp. Để đòi hỏi người làm bài có cái nhìn tổng hợp về hai tác giả. Mặt khác, lại phải biết định hướng vào một phạm vi hẹp là phát hiện ra nét tâm sự chung giữa hai nhà thơ. Nếu không chú ý sẽ dễ phân tích tản mạn, xa rời yêu cầu của đề. - Đề bài đòi hỏi người làm một mặt phải nhớ những hiểu biết chung về hai tác giả. Nhưng quan trọng hơn là biết khái quát được một số vấn đề, một số ý tổng hợp về tâm sự chung giữa hai nhà thơ. - Lọai đề này không chỉ yêu cầu người làm bài có hiểu biết mà có rèn luyện kĩ năng so sánh, lựa chọn, tổng hợp trong quá trình làm bài 123 Đề 4 Đề bài có tính tổng hợp, đề cập đến đặc điểm cơ bản của một khuynh hướng văn học. Song có mặt thuận lợi là đã xác định rõ phần nội dung cần chứng minh. Tuy nhiên, cần chú ý cách diễn đạt của đề bài đã phân biệt mức độ tố cáo không đồng đều về các đối tượng khác nhau. BÀI LÀM VĂN SỐ 5 - Làm bài ở nhà - Trả, chữa bài: 1 tiết Đề 1. Phân tích hình ảnh hai chị em Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Đề 2. Qua cách nhìn cảnh vật, phân tích tâm trạng của Xuân Diệu trong bài thơ Đây mùa thu tới..

<span class='text_page_counter'>(107)</span> Đề 3. Từ cách nhìn cảnh vật, phân tích tâm trạng của Huy Cận trong bài thơ Tràng giang. Đề 4. Phân tích tâm trạng của người tráng sĩ trong bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm. Đề 5 Ghi lại những cảm giác tinh tế và thanh nhã của Thanh, chàng thanh niên trong truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam. 124 GỢI Ý Đề 1 - Đây là một đề thuộc kiểu bài phân tích nhân vật. Cần phân tích hai mặt trong cuộc sống của chị em Liên: + Cuộc sống vật chất; + Cuộc sống tinh thần. Hai mặt đó có liên quan với nhau. Không nhất thiết phải tách ra thành hai đoạn rạch ròi, cân xứng, nhưng phải làm rõ được hai mặt nói trên. - Cần đặt chị em Liên vào khung cảnh chung – cuộc sống của cả phố huyện với những người cũng như Liên ; + Nghèo khổ trong cuộc sống vật chất ; + Cạn hẹp, tù túng trong cuộc sống tinh thần. - Cần nhận rõ những nép đẹp trong cách sống của chị em Liên (cách cư xử giữa hai chị em, tình cảm giữa những người nghèo). Và nhất là khát vọng tinh thần hướng về một cái gì mới lạ, về những chân trời mới tuy còn mơ hồ, mong manh. - Thạch Lam viết văn rất tinh tế, gợi lên nhiều ấn tượng, nhiều ẩn ý hơn là nói rõ, nói trực tiếp. Vậy cần từ những chi tiết, những câu chữ trong văn bản mà nói rõ những cảm nhận của mình. Đề 2 Đề giới hạn khá rõ, không phải phân tích cả bài thơ mà chỉ cần phân tích cách nhìn cảnh vật. Nhưng phân tích cách nhìn cảnh.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> vật nhằm làm nổi rõ tâm trạng của tác giả bài thơ. Đích là phân tích tâm trạng nhà thơ. Không ý thức rõ yêu cầu của đề, học sinh dễ đi lạc đề và kết cấu bài làm không rõ trọng tâm. 125 Có thể hiểu tâm trạng của tác giả theo mấy ý sau: - Nỗi buồn của người thanh niên trí thức không tìm thấy lối ra trong xã hội lúc bấy giờ; - Nỗi luyến tiếc ngày tháng qua mau của con người ham sống, yêu đời. Có thể nói thêm những suy nghĩ khác của bản thân học sinh. Đề 3 - Yêu cầu của đề bài là phải từ cảnh vật mà phân tích tâm trạng của Huy Cận (cảm xúc, tình cảm). Cách làm bài này cũng giống như cách làm đề 2 đã nói ở trên. - Tâm trạng chính là nỗi buồn cô đơn của con người trước cảnh sông dài, trời rộng buổi chiều… Trong nỗi buồn, có tấm lòng thiết tha yêu thiên nhiên, đất nước. - Cần lựa chọn những chi tiết thơ (hình ảnh, câu chữ, nhạc điệu…) mà mình cảm nhận sâu sắc để có thể nói rõ tâm trạng trên. Cần chú ý các chi tiết khác nhau để có thể nói rõ tâm trạng trên. Cần chú ý các chi tiết khác nhau để có thể nói được cái sắc thái khác nhau của tâm trạng. Lời thơ rất tinh tế nhuần nhuyễn. Trong khi phân tích, chữ dùng cần cân nhắc nếu không sẽ sa vào thô thiển, máy móc. - Cần đi sâu phân tích nguyên nhân của nỗi buồn cô đơn đó: + Nỗi buồn mất nước, mất tự do thấm vào não trạng của mỗi người dân, mà tác giả cảm nhận một cách tự nhiên ; + Nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên trí thức không tìm thấy lối ra trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Đề 4 Học sinh nên phân tích sự giằng xé trong tâm can của một người tráng sĩ sắp lên đường. Một mặt là quyết tâm “một giã gia đình,.

<span class='text_page_counter'>(109)</span> một dửng dưng”, một mặt lại tràn đầy xót thương mẹ già, em dại, và hai chị gái lỡ làng… 126 Đề 5 Thực chất đây là kiểu bài phân tích tâm trạng nhân vật. Truyện ngắn của Thạch Lam rất phong phú và tinh tế khi nói về tâm trạng của Thanh với cảnh vật cũ, với bà của mình, cũng như với người thiếu nữ, bạn nhỏ ngày trước. BÀI LÀM VĂN SỐ 6 - Làm bài ở lớp: 2 tiết - Trả, chữa bài: 1 tiết Đề 1. Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử từ của Nguyễn Tuân, và nói rõ mối liên quan giữa tác giả và nhân vật của truyện ngắn này. Đề 2. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, hãy nói rõ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm này. Đề 3: Phân tích những nét cơ bản nhất trong tính cách nhân vật Chí Phèo. 127 GỢI Ý Đề 1 - Theo yêu cầu của đề ra, bài viết phải có hai phần: + Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao ; + Nói rõ mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật này. Không thể thiếu một trong hai phần, hoặc quá lệnh về một phần nào. Việc phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao phải căn cứ vào văn bản cụ thể. Việc nói rõ mối liên hệ tinh thần giữa tác giả và tác phẩm cũng phải có căn cứ xác thực. Đó là các tài liệu về văn học sử, những bài viết về cuộc đời và khuynh hướng tư tưởng của tác giả, về những tác phẩm khác của Nguyễn Tuân. Tránh những suy diễn chủ quan thiếu căn cứ cụ thể..

<span class='text_page_counter'>(110)</span> - Hình tượng nhân vật có thể có nhiều phẩm chất, nhưng cần lựa chọn những phẩm chất tiêu biểu nhất để bài viết có trọng tâm nổi bật. Ở đây có thể là: + Tinh thần vì nghĩa lớn, dám đứng lên chống áp bức, bất công ; + Cung cách sống tài hoa: viết chữ đẹp, cư xử phong nhã, hào hiệp. Những phẩm chất ấy cũng là ước mong, khát vọng của Nguyễn Tuân: + Một nhà văn có tinh thần dân tộc, từng ao ước một cuộc sống tự do phóng khoáng; + Một con người tài hoa và yêu thích những cuộc đời tài hoa, có khi chỉ còn là những tài hoa vang bóng một thời. - Khi liên hệ, lời lẽ cần có mức độ, tôn trọng tính xác thực lịch sử. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là nhà văn có tinh thần dân tộc, nhưng chưa phải là một chiến sĩ cách mạng, chưa phải là một nhà văn có ý thức rõ rệt phải dấn thân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Không nhận rõ sự khác biệt trong thế giới tinh thần của nhà văn khi mới vào đời, và giai đoạn sau này, là không khoa học. 128 Đề 2 - Theo yêu cầu của đề, phải từ hình tượng của nhân vật mà nói rõ giá trị của tác phẩm. Vì vậy không thể chỉ nói các giá trị mà không có những bằng chứng rút ra từ hình tượng nhân vật hoặc chỉ kể lại hình tượng nhân vật không nhằm một định hướng nào. - Tác phẩm, trong ý nghĩa khách quan, có thể hàm chứa nhiều giá trị. Trước hết ta phải làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Có như vậy, trọng tâm của bài mới nổi rõ đúng như đề ra. - Sau phần mở đầu, ta lần lượt trình bày từng giá trị. Ở đây, giá trị hiện thực chủ yếu là phản ánh đúng đắn sự tha hóa của người nông dân dưới ách thống trị của bọn phong kiến, đế quốc thời Pháp thuộc. Ở đây, giá trị nhân đạo chủ yếu là sự phản ánh trong.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> cùng cực, Chí Phèo vẫn mong muốn một cuộc sống bình thường, một hạnh phúc như mọi người. Cái thiện căn của con người vẫn chưa chết hẳn. - Khi đề cập đến giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm, ta cũng nói đến nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật với các chi tiết cụ thể, có lựa chọn. Để tránh trùng lặp, những tìm tòi quan sát này có thể không tách thành từng phần riêng biệt. Đề 3: Tập trung vào những nét chính sau đây của tính cách nhân vật Chí Phèo: - Là nột cố nông khỏe mạnh và lành mạnh, bị vùi xuống đáy xã hội: - Là một con người bị tha hóa cả ngoại hình lẫn tâm lí, tính cách; - Là con người không mất hết nhân tính, vẫn khát khao lương thiện, hạnh phúc. 129 BÀI LÀM VĂN SỐ 7 - Làm bài ở nhà - Trả, chữa bài: 1 tiết Đề 1. Bình giảng bài thơ Nắng mới của Lưu Trọng Lư. Đề 2. Đọc lời bình bài thơ Nắng mới của Vũ Quần Phương (1). Anh (chị) thích hay chưa thích điểm nào. Vì sao? Chú thích: (1) Xem Tư liệu tham khảo ở bài bình giảng văn học Đề 3. Trong bài Cây đàn muôn điệu cũa Thế Lữ, có những câu thơ được coi như là lời tuyên ngôn nghệ thuật của phái Thơ mới: “Anh dù bảo:Tính tình tôi hay thay đổi Không chuyên tâm, không chủ nghĩa nhưng cần chi? Tôi chỉ là một khách tình si.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể…” Anh (chị) hiểu những câu thơ trên như thế nào? Đề 4. Bình giảng bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu, giấy đỏ Bên phố đông người qua. Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài: “Hoa tay thảo những nét Như Phượng múa rồng bay”. 130 Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu? Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu … Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay Năm nay hoa đào nở, Không thấy ông đồ xưa. Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ? GỢI Ý.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> Đề 1 và Đề 2 Đây là những đề bài làm văn về tác phẩm văn học lãng mạn. Văn học lãng mạn 1930 – 1945 có những đặc sắc riêng về tâm lí thời đại, về nội dung và phương thức biểu hiện (như SGK Văn 11 đã nêu lên). Khi phân tích, chiếm lĩnh những sáng tác văn thơ lãng mạn, học sinh phải có cách tiếp cận riêng, không hiện đại hóa hay gò éo theo cách thưởng thức, đánh giá như với văn thơ cách mạng và văn học ngày nay. Đây là tâm trạng rất riêng của nhà thơ nhưng cũng mang dấu ấn tâm tư một thời của thế hệ thanh niên có lòng yêu nước, yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời, yêu con người; có khát vọng sống tự do, phóng khoáng nhưng đượm một nỗi buồn tê tái, day dứt. Học sinh cần nắm chắc loại thể thơ trữ tình để đi sâu phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình, cảm xúc thơ. 131 Tư liệu trích ở đây chỉ là gợi ý để học sinh tham khảo một cách tiếp cận của một nhà thơ về bài thơ Nắng mới. Từ đó, có thể tìm ra cách thức phân tích, bình giảng một bài thơ trữ tình, (còn nội dung cảm xúc, cảm thụ vẫn có thể rất khác nhau). Đề 3 Đây là kiểu bài phát biểu ý kiến về quan niệm văn học của trường phái “Thơ mới”. Để làm đề này, cần phân tích 4 câu thơ của Thế Lữ để nắm được ý của tác giả. Từ đó mới phát biểu ý kiến của mình về quan điểm nghệ thuật của Thế Lữ. Để làm sáng tỏ cho ý kiến của mình, cần lấy dẫn chứng đã học hoặc đã đọc thêm từ sáng tác của trường phái “Thơ mới”. Đề 4 Để bình giảng đúng bài thơ này, cần hiểu hình ảnh “ông đồ” có ý nghĩa tượng trưng gì thời bấy giờ. Từ đó mới thấy được cảm hứng của nhà thơ về đề tài Ông đồ và nỗi niềm tác giả muốn gửi gắm cho bạn đọc. BÀI LÀM VĂN SỐ 8 (Kiểm tra học kì II) - Làm bài ở lớp: 2 tiết.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> - Trả, chữa bài: 1 tiết Đề 1. Anh (chị) hiểu được gì về nỗi đau của nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao. 132 Đề 2. Bị bắt giam và sẽ bị giao trả về trong nước cho thực dân Pháp xử tội, Phan Bội Châu làm bài thơ sau: Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù Đã khách không nhà trong bốn bể, Lại người có tội giữa năm châu Dang tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu. (Cảm tác trong nhà tù Quảng Đông) Hãy phân tích bài thơ, làm nổi rõ hình ảnh đẹp đẽ của nhà chí sĩ yêu nước đầu thế kỉ XX của dân tộc ta. Đề 3 Tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ II năm 1957, đồng chí Trường Chinh nói về văn học lãng mạn 1930 – 1945 như sau: “…bên cạnh những mặt tiêu cực thái hóa, còn có nỗi đau của người dân mất nước, sự quằn quại của một tâm hồn bị bóp nghẹt, lòng khao khát một cuộc sống chân thật tự do”. Ý kiến của đồng chí Trường Chinh gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì về thành tựu và hạn chế của dòng văn học này? GỢI Ý Đề 1 Thực chất đây là kiểu bài phân tích tâm trạng nhân vật. 133 Bài làm phải hướng vào phân tích “Nỗi đau của nhân vật Hộ”. Đây là nỗi đau của một con người nhân từ, có tài, muốn sống.

<span class='text_page_counter'>(115)</span> vươn theo cái đẹp, lòng nhân ái, cùng với ý thức trách nhiệm làm người. Nhưng thực tế cuộc đời nghiệt ngã đã níu kéo vùi dập Hộ xuống. Tuy là kiểu bài phân tích như đã nói trên nhưng đề bài lại hỏi “Anh (chị) hiểu gì “. Cho nên khi viết, cố gắng làm rõ được màu sắc riêng của các ý kiến phân tích. Đề 2 Đây là kiểu bài phân tích một bài thơ theo định hướng của đề, không phải phân tích bài thơ nói chung mà phân tích để làm rõ hình ảnh đẹp đẽ của nhà chí sĩ yêu nước đầu thế kỉ XX. Đề 3 Để nêu lên ý kiến của đồng chí Trường Chinh nhưng không yêu cầu phân tích và chứng minh thẳng vào ý kiến đó, mà học sinh cần phải dựa vào ý kiến của đồng chí Trường Chinh để định hướng cho suy nghĩa của mình. Định hướng nhưng vẫn có quyần được nói lên suy nghĩ, cảm nhận riêng của mình. Đó là chỗ tinh tế trong đề bài mà học sinh cần phải chú ý. 134 B – PHẦN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI Đề 1. Nhà thơ Phạm Hổ đã kể lại những xúc động và suy nghĩa sâu sắc của mình sau khi được học bài thơ Biển đêm của Vichto Huygô (1). Bài viết của Phạm Hổ đã ca ngợi thêm cho bản thân anh (chị) những hiểu biết và tình cảm gì? Chú thích: (1) Xem tư liệu tham khảo ở Phụ Lục – Các bài làm văn tự do và sáng tạo Đề 2. Hãy nói lên những suy tưởng của mình về thân phận những con người sống, chết với biển cả mà nhà thơ Vichto Huygô đã gợi lên trong hai câu: “Thân trong nước tên trong trí nhớ Thời gian qua dần phủ bóng đen ” (Biển đêm).

<span class='text_page_counter'>(116)</span> Đề 3. Bandắc kể rằng trên nấm mồ lão Gôriô vừa được mai táng, chàng trai Raxtinhắc đã nhỏ một giọt nước mắt. Anh (chị) hãy phân tích tâm trạng của Raxtinhắc lúc bấy giờ. Đề 4. So sánh những chỗ khác nhau giữa bản dịch nghĩa và bản dịch thơ bài Con Đường mùa đông của Puskin mà SGK Văn học 11 đã giới thiệu. 135 Đề 5. Được tiếp xúc với những áng văn cũng như cuộc đời của các nghệ sĩ thiên tài của nhân loại qua chương trình Văn học nước ngoài lớp 11, anh (chị) thu hoạch được những điều gì sâu sắc nhất? GỢI Ý Đề 1 Để không yêu cầu phân tích bài viết của nhà thơ Phạm Hổ mà đòi hỏi học sinh phải nói lên được những hiểu biết và tình cảm sâu sắc của bản thân. Tuy nhiên đề đã kín đáo gợi ý cho người làm bài nên đọc kĩ bài viết của Phạm Hổ, đề tìm cảm hứng cũng như phương hướng cho sự suy nghĩ của bản thân. Không lặp lại ý của Phạm Hổ nhưng cần dựa vào những ý kiến của nhà thơ để tiếp tục suy nghĩ thêm và nói lên được thu họach của riêng mình. Đề 2. Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá rất cao hai câu thơ này của bài “Biển đêm”. Nó là linh hồn, là chủ đề của bài thơ. Tác giả bộc lộ nỗi niềm cảm thương sâu sắc với những con người đã vùi thân dưới đáy biển. Làm bài này, học sinh phải bám sát vào ý thơ, từng chi tiết, hình ảnh của câu thơ, nhất là giọng điệu tình cảm của tác giả, để có thể mở rộng suy tưởng về thân phận âm thầm, nặng nề, tối tăm của những kiếp người bất hạnh. Qua đó hiểu được tấm lòng nhân ái mênh mông, sâu sắc và nhạy bén của Vichto Huygô. Đề 3.

<span class='text_page_counter'>(117)</span> Để làm bài này, học sinh cần dùng đến những hiểu biết về tác phẩm Lão Gôriô, đặc biệt là mối quan hệ giữa Raxtinhắc với ông Gôriô và nhất là tính cách của Raxtinhắc (SGK Văn học 11 đã giới thiệu ). 136 Muốn phân tích tâm trạng Raxtinhắc trong phút cuối lễ mai táng lão Gôriô, cần chú ý đến không khí đặc biệt của buổi lễ (sự vắng mặt của hai người con, cảnh làm lễ, cảnh đào huyệt, cảnh hoàng hôn v.v…). Rồi hình tượng cột đồng trụ của quảng trường Văngđôm, mái tròn điện Anhvalit đập vào mắt Raxtinhắc… Đề 4 Lâu nay, học sinh khi học tác phẩm văn học nước ngoài chỉ được tiếp xúc với bản dịch. Giữa nguyên bản và bản dịch thường có những khoảng cách khá xa, nhất là với thơ dịch. Bài tập kiểu này giúp học sinh bám sát hơn bài thơ qua bản dịch nghĩa. So sánh bản dịch thơ với bản dịch nghĩa học sinh sẽ phần nào hiểu kĩ nguyên bản hơn. Việc so sánh bản dịch thơ với dịch nghĩa cũng còn giúp cho học sinh thói quen bám sát vào văn bản nghệ thuật. Với tinh thần trên, học sinh tự mình phát hiện ra chỗ khác nhau giữa hai bản dịch. (Có thể xem xét về ý thơ, về giọng thơ, về số lượng câu, chữ, về nhịp điệu, nhạc điệu…) Đề 5 Đây là kiểu bài tự do phát biểu cảm nghĩ của mình. Song là một bài làm mang tính chất tổng hợp. Bài làm phải có màu sắc cá nhân trong suy nghĩ, nhưng lại phải bao hàm được nhiều hiểu biết có liên quan đến các tác giả và tác phẩm nước ngoài trong chương trình Văn học lớp 11. Bài làm không nên liệt kê tác phẩm, tác giả hay kể lại nội dung đã học. Cố gắng nêu lên được những ý kiến vừa có tính khái quát chung, vừa mang màu sắc cảm xúc, suy nghĩ cá nhân. 137 PHỤ LỤC CÁC BÀI LÀM VĂN TỰ DO VÀ SÁNG TẠO (1).

<span class='text_page_counter'>(118)</span> Chú thích: (1) Trích có chọn và bổ sung từ Làm văn 11 của Trần Thanh Đạm (chủ biên) Nguyễn Sĩ Bá – Lương Duy Cán – Hoàng Lân NXB Giáo dục, 1999. I – CÁC BÀI LÀM VĂN TỰ DO VÀ SÁNG TẠO CẦN ĐƯỢC TIẾP TỤC Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cuối thế kỉ XIX trong tác phẩm Như Tiều y thuật vấn đáp có hai câu thơ bàn về việc làm văn chương. Nhân vật Đạo Dẫn trong tác phẩm đó cho rằng: văn chương …nào phải trường thi Ra đề hạn vận một khi buộc ràng… Theo tinh thần hai câu thơ đó thì văn chương là một công việc sáng tạo và tự do, cần dành rất nhiều quyền chủ động cho người viết. Không thể “buộc ràng” người làm văn bằng cách “ra đề, hạn vận” như ở trường thi được. Trong trường thi ngày xưa, thí sinh phải làm các bài thơ, phú, kinh nghĩa, văn sách bằng chữ Hán theo lối văn biền ngẫu gồm những câu văn đối ý, đối lời với nhau từng cặp một, lại phải theo đề bài của nhà vua ra. Ngặt nghèo hơn nữa là các bài làm ấy lại phải theo những vần định sẵn. Vì vậy không những những “ra đề” mà còn “hạn vận”. Người làm văn bị “buộc ràng” quá sức, chỉ lo đặt lời, làm bài sao cho đúng vần, đúng luật, đúng thể, không lo suy nghĩ, tìm tòi để có những nhận xét đúng, những tư tưởng hay. Các nhà trí thức tiến bộ và yêu nước ngày xưa thường chê bai, phản đối lối làm văn như vậy. Hai câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng chứa đựng tinh thần phản kháng ấy đối với lối văn khuôn sáo, gò bó. 136 Tất nhiên, như chúng ta đã biết, trong trường hợp trường học, trường thi, học sinh học làm văn phải theo một sự hướng dẫn, rèn luyện nhất định, không thể bừa bão, phóng túng. Ngôn ngữ cũng như văn chương đều có quy luật của nó. Quy luật ấy thể hiện ra thành các quy tắc của việc nói và viết, không biết hoặc coi thường các quy luật, quy tắc ấy thì sẽ phạm nhiều khuyết.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> điểm, lỗi lầm trong việc viết văn, làm văn. Có khi đã biết rồi, đã coi trọng rồi mà viết văn vẫn còn sai, đó là vì còn ít luyện tập, chưa có kĩ năng, thói quen nói đúng, viết đúng. Vì vậy, trong trường học, trường thi, học sinh ta vẫn còn phải tập làm văn ít nhiều theo lối “ra đề, hạn vận”. Chúng ta vẫn phải tập làm văn cho sát đề bài, cho đúng thể loại, suy luận phải hợp logic, hành văn phải đúng ngữ pháp v.v… Mọi sự rèn luyện kĩ năng đều bắt đầu bằng việc tập luyện theo “bài bản”. Làm văn nói chung, làm văn nghị luận nói riêng bước đầu cũng phải ít nhiều làm theo “bài bản” như chúng ta đã làm. Tuy nhiên, làm văn không phải là lắp ghép ý tứ, ngôn từ cho hợp với một bài bản nhất định nào đó. Làm như thể sẽ sa vào cái lối làm văn giáo điều ngày xưa. Làm văn trước hết là đem các nhận thức, suy nghĩ, tư tưởng của mình diễn đạt ra thành lời nói, bài văn. Trong làm văn, hình thức là cần thiết, là quan trọng, song nội dung quyết định hình thức. Phải biết rõ nói, viết điều gì sau đó mới tìm cách nói, viết thế nào. Nếu đầu óc chúng ta không có hiểu biết, không chịu suy nghĩ, tìm tòi thì mọi “bài bản” làm văn đều ít tác dụng, nhiều khi lại phản tác dụng. Lối làm văn sao chép, cóp nhặt văn của người khác mà người xưa gọi là lối “nhai văn, nhả chữ”, “tầm thường, trích cú” là do chỉ viết văn bằng bàn tay mà không dùng đến khối óc. Lối làm văn như thế đối với sự phát triển của con người lợi ít mà hại nhiều. Vì vậy, trong nhà trường của ta, sau lớp 10 đến lớp 11, ngoài các bài làm văn ít nhiều theo lối “ra đề, hạn vận”, chúng ta lại tiếp tục tập làm các bài văn tự do, sáng tạo đã được bắt đầu từ năm ngoái. Cần nhắc lại một chút ý nghĩa của kiều bài làm này. Như tên gọi của nó, kiểu bài làm này có mục đích phát huy tinh thần tự do tư tưởng và sáng tạo văn học của học sinh. 139 Không phải chỉ kiểu bài này mới nhằm mục đích đó. Cả những kiểu bài theo “bài bản” về nghị luận xã hội cũng như nghị luận văn học, nếu không thực hiện một cách gò bó, cứng nhắc thì cũng đạt được đến mục đích đó. Song, các kiểu bài trên thiên về rèn luyện thể thức, cách thức có tính cách khuôn mẫu; bổ sung.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> thêm kiểu bài này chủ yếu nhằm phát huy tinh thần tự do, sáng tạo của học sinh. Trong thực tế, ngoài lớp học và nhà trường, mọi sự viết văn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, ít khi theo lối “ra đề, hạn vận” do người khác đưa ra. Phần lớn các trường hợp đều do bản thân người viết tự “ra đề, hạn vận” cho chính mình, nghĩa là tự mình chọn lựa đề bài và thể loại, nội dung và hình thức cho bài viết của mình. Nếu có người khác yêu cầu hay gợi ý , hay “đặt bài” thì sự chủ động lựa chọn của người viết cũng rất lớn. Với các nhà khoa học hay các nghệ sĩ thì sự tự do sáng tạo lại càng lớn hơn. Nếu có sự hạn chế nào đó có tính cách kỉ luật, kỉ cương thì cũng là do người viết tự giác đặt ra cho mình để sự tự do sáng tạo được đúng hướng và đạt kết quả cao nhất. Trong nhà trường, kiểu bài văn này khác với kiểu bài khác là học sinh phải tập tự “ra đề, hạn vận” cho mình, tức là tự mình lựa chọn lấy nội dung và hình thức, đề tài và thể lạoi cho bai viết của mình, không bị “buộc ràng” vào thầy giáo. Dĩ nhiên, sự hướng dẫn, gợi ý , giúp đỡ của thầy giáo bao giờ cũng cần thiết, song học sinh cần phát huy tinh thần chủ động nhiều hơn. Đây là mục đích, yêu cầu quan trọng và chủ yếu của kiểu bài văn tự do và sáng tạo. SGK Làm văn 10 có đoạn như sau: Khi làm văn, học sinh phải biết kiềm chế mình để tập viết cho đúng, cho tốt từng câu văn, từng đoạn văn. Việc luyện tập này không tránh khỏi có phần gò ép, cứng nhắc, đơn điệu. Viết câu phải có đủ chủ ngữ, vì ngữ (ít nhất phải có vị ngữ). Viết câu phải có đủ chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ (ít nhất phải có vị ngữ). Viết đoạn từ hai câu trở lên phải cò liên kết, chuyển tiếp trong ý hoặc trong lời. 140 Viết bài văn phải có mở bài, thân bài, kết bài; thân bài phải có đoạn mạch rõ ràng. Nghị luận phải có ý thức về giải thích, chứng minh, bình luận, phải biết dùng các dấu câu, hết câu phải chấm, hết đọan phải chấm qua hàng, phải biết lúc nào dùng dấu hỏi, dấu than, ngoặc đơn, ngoặc kép, dấu chấm lửng v.v… Đó là.

<span class='text_page_counter'>(121)</span> những kĩ năng có tính chất kĩ thuật. Đó cũng là kỉ cương, kỉ luật của việc viết văn. Tuy nhiên, làm văn không phải chỉ hạn chế trong các kĩ năng, kĩ thuật đó. Làm văn còn là phát huy sức tái tạo và sức sáng tạo của tâm hồn, của trí tuệ, của cá tính và năng khiếu, của kinh nghiệm và suy nghĩ của từng người. Vì vậy, bên cạnh các bài tập theo các thể thức và đề tài có tính khuôn mẫu, học sinh cần và nên tập viết những bài văn tự do và sáng tạo. Khi tập làm các bài này, học sinh có thể phát huy một cách tự do các năng lực sáng tạo của mình, cố nhiên là trong khuôn khổ và trình độ của lớp đang học (tr 164 – 165) Lớp 11 tiếp tục công việc của lớp 10 cũng với tinh thần trên đây. II – ĐỀ TÀI VÀ PHƯƠNG PHÁP Ở lớp 11, chúng ta cũng tiếp tục các phương hướng đề tài và các phương pháp làm bài như ở lớp 10. Bởi vì đối với kiểu bài và loại văn tự do và sáng tạo này, ở lớp 10 chỉ làm một bài (nhiều lắm là hai bài) cho nên sự hướng dẫn và gợi ý ở lớp 10 lên lớp 11 vẫn còn hoàn toàn thích hợp, cần vận dụng và nâng cao thêm một bước. Các điểm sau đây nhắc lại sự hướng dẫn làm bài ở lớp 10 và gợi ý thêm phần có thể làm ở lớp 11. A – Về đề tài, bài làm có thể hướng về các đề tài sau đây: 1. Kể lại một kỉ niệm sâu sắc trong đời mình và nêu lên những suy nghĩ về kỉ niệm đó. 2. Tóm tắt một tác phẩm văn học đã được đọc mà mình yêu thích và nói cảm tưởng của mình về tác phẩm đó. 141 B – Về phương pháp, đã gọi là bài làm văn tự do và sáng tạo thì tất nhiên cách làm cũng phải tự do và sáng tạo. Không thể quy định một thể thức, phương pháp cố định nào cho việc viết các bài làm kiểu này. Tuy nhiên, cũng có thể nêu lên ở đây một số bước có thể theo: 1. Tìm nguồn cảm hứng Đối với việc làm văn, dù theo bất cứ lọai văn nào thì cảm hứng vẫn là động lực mạnh mẽ của sự sáng tạo. Cảm hứng là trạng.

<span class='text_page_counter'>(122)</span> thái hưng phấn về tâm lí của con người khi có nhiều điều chất chứa bên trong đòi hỏi được giải bày, được lộc lộ ra, đồng thời đó cũng là ước mong thiết tha, nồng nàn, muốn giải bày, muốn bộc lộ những điều chất chứa đó. Sáng tạo là điều thuộc bản chất của con người, ở mọi lứa tuổi, trên mọi hoạt động, trong đó có họat động học tập, hoạt động làm văn của học sinh. Cảm hứng không tự đến. Nhiều khi phải đi tìm, phải khơi nguồn cảm hứng. Nhất là đối với kiểu bài văn đặc biệt này thì việc đi tìm nguồn cảm hứng là rất quan trọng. Cảm hứng để viết văn cũng có thể do trao đổi với bạn, với thầy, với người khác mà nảy sinh. Thầy giáo có thể gợi cho ta những đề tài có thể viết. Hoặc ta có thể trao đổi, tham khảo ý kiến của bạn, của người khác xem nên viết cái gì: kỉ niệm nào, tác phẩm nào. Cũng có thể ta suy nghĩ trước nên viết về cái gì, sau đó hỏi ý kiến thầy, bạn, người khác có nên viết về điều đó không, và nên viết như thế nào. Ở đây, thầy giáo, cô giáo là người hướng dẫn, người cố vấn gần gũi nhất, tin cậy nhất. Nên nhớ rằng, ta chỉ là học sinh phổ thông, ta chưa phải là nhà văn nên những điều ta viết ra chắc chắn là còn vụng về, non nớt, song điều quan trọng nhất là ta đang tập việt về những điều của chính ta có được, chính ta nghĩ ra. Cần tự tin, hào hứng khi viết bài văn kiểu này. 142 2. Xác định chủ đề, sắp xếp ý Tìm nguồn cảm hứng để viết cũng là dần dần xác định chủ đề và nội dung để viết. Khác với các kiểu bài đã được nêu lên trong các chương trước, kiểu bài tự do và sáng tạo này không có đầu đề cụ thể nêu ra để làm chuẩn đích cho bài làm của ta. Cái chuẩn đích này tự ta phải nêu ra, với sự giúp đõ của thầy giáo. Xác định chủ đề là xác định: viết về cái gì? Nếu viết về một kỉ niệm thì nên là kỉ niệm gì? Về một ngôi nhà mình đã sống trong thời thơ ấu mà nay đang ở xa chăng? Hay viết về một chuyến theo mẹ về thăm bà ngoại ở làng quê khi bà ngoại còn sống? Hoặc viết về một tình bạn đặc biệt thời thơ dại đến bây giờ vẫn còn tưởng nhớ? Hay hình ảnh của một người thầy cũ đã cách xa song vẫn còn nhiều tác động đối với tâm hồn mình hôm nay?.

<span class='text_page_counter'>(123)</span> Nếu viết về một tác phẩm văn học nghệ thuật thì đó là tác phẩm nào? Bài thơ Quê hương của Giang Nam chăng? Hay về truyện ngắn Quê mẹ của Thanh Tịnh, truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao? Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay tác phẩm nào đó của một nhà văn hiện đại đang được nhiều người ham đọc? Tóm lại, xác định chủ đề là xác định: Viết về cái gì? Xác định viết về cái gì rồi, lại phải tìm cách viết về cái đó như thế nào? Trước hết là phải tìm cách sắp xếp nội dung ý tứ. Nếu viết về một kỉ niệm thì cần miêu tả hay tự sự về kỉ niệm đó, sau đó nói cảm tưởng, suy nghĩ của mình. Nếu viết về một tác phẩm thì trước hết giới thiệu và tóm tắt tác phẩm sau đó nói cảm tưởng, ý kiến của mình. Trong cả hai hướng đề tài này, phần thứ nhất của bài làm thuộc thể văn miêu tả và tự sự, phần thứ hai của bài làm thuộc thể văn cảm tưởng và nghị luận, kiểu bài làm tự do, sáng tạo này phối hợp cả tư duy hình tượng lẫn tư duy lôgich trong cách viết. 143 Trên những nét lớn, có thể tóm tắt trình tự viết một bài văn này như sau: Về hướng đề tài thứ nhất a) Mở bài Hoàn cảnh nào đã gợi cho mình hồi tưởng lại kỉ niệm sắp được viết ra? Kỉ niệm đó là kỉ niệm về điều gì? Về người nào? b) Thân bài - Nội dung kỉ niệm đó: sự việc và con người: - Ý nghĩa kỉ niệm đó: cảm tưởng và suy nghĩ. c) Kết bài Kỉ niệm đó sẽ lưu lại mãi trong đời làm cho đời thêm ý nghĩa. Về hướng đề tài thứ hai a) Mở bài.

<span class='text_page_counter'>(124)</span> Trong hoàn cảnh nào mình đã đọc tác phẩm sắp được giới thiệu? Tác phẩm đó là gì? Của ai? b) Thân bài - Tóm tắt tác phẩm: câu chuyện và nhân vật. - Bình luận tác phẩm: cảm tưởng và ý kiến. c) Kết bài Tác phẩm có ý nghĩ gì trong đời sống tinh thần và tình cảm của mình. Bài văn tự do và sáng tạo được gọi như vậy là vì nó được viết ra từ chính cảm xúc và suy nghĩ riêng của mỗi học sinh, không nhất thiết phải đồng loạt giống nhau về nội dung và hình thức. Tuy vậy, với tính chất của một bài văn, nó cũng phải bao gồm các câu văn kết lại thành các đoạn văn (đoạn mở bài, các đoạn tạo thành thân bài, đoạn kết bài ), tất cả hợp lại thành bài văn hoàn chỉnh mang một nội dung nhất định trong một hình thức nhất định. 144 Các bài viết tự do sáng tạo không chỉ hạn chế trong khuôn khổ của chương trình nội khóa. Đây là kiểu bài chuyển tiếp giữa nội khóa và ngoại khóa, giữa các bài làm trong lớp học với những bài viết của học sinh ngoài nhà trường, trong cuộc sống. III – NÂNG CAO MỘT BƯỚC CÁC BÀI LÀM VĂN TỰ DO VÀ SÁNG TẠO Ở LỚP 11 Do học sinh lớp 11 đã trưởng thành hơn học sinh lớp 10 về trình độ hiểu biết, trình độ suy nghĩ, trình độ ngôn ngữ, cho nên cùng một hướng đề tài và cùng một cách làm bài giống nhau, học sinh lớp 11 có thể nâng các bài viết theo hướng đề tài 1 (kể lại một kỉ niệm…) thành một thiên bút kí hay một thiên truyện ngắn với phạm vi đề tài rộng rãi và nâng các bài viết theo hướng đề tài 2 (tóm tắt một tác phẩm văn học …) thành một bài điểm sách, giới thiệu và phê bình ngắn một tác phẩm văn học, một công trình nghệ thuật (như một bức tranh, một bài hát, một vở kịch hay một bộ phim). 1. Từ một kỉ niệm thời thơ ấu đến một thiên truyện ngắn.

<span class='text_page_counter'>(125)</span> Làm thơ, viết truyện tức là sáng tác văn học – một công việc phức tạp đòi hỏi năng khiếu, tài hoa, công phu, không phải bất cứ ai cũng làm được và thành công. Tuy vậy, trong tuổi học sinh, mỗi người đều đã học các bài thơ, các bài văn, các thiên truyện và không ít người đã thử tập làm thơ, tập viết truyện. Thông thường, muốn viết thành truyện phải suy ngẫm về những gì mình đã trải qua trong đời, như hồi tưởng lại các kỉ niệm đã qua, rồi từ các kỉ niệm đó mà viết thành truyện. Như trên đã nói, mỗi chúng ta ai cũng có một thời thơ ấu. Trong thời đó, ai cũng đã từng sống với những người thân trong gia đình, nơi quê hương, tại trường học … 145 Nếu kể lại một vài sự việc hoặc con người hay cảnh tượng trong thời ấy kèm theo những cảm tưởng, suy nghĩ của mình thì đó là những dòng hồi kí. Đó là lối văn viết về người thật, việc thật, cảnh thật. Dĩ nhiên, mỗi điều đó khi viết ra đều đã thông qua sự chọn lọc, thêm bớt ít nhiều theo trí tưởng tượng của chúng ta. Những kỉ niệm được kể lại có thể là những điều bình thường, giản dị nhưng ta đã từng chứng kiến, đã từng trải qua; bây giờ có sao viết vậy, chỉ cốt sao cho rõ ràng, sinh động, chân thực và chân thành. Tuy nhiên, nếu trong các kỉ niệm, trong những điều mà ta đã trải qua đó, có một sự việc gì đặc biệt xảy ra với ta hoặc ở giữa ta và một người khác, khiến ta nhớ mãi vì ý nghĩa ít nhiều sâu sắc của nó thì bây giờ kỉ niệm về sự việc đó đã bắt đầu trở thành đề tài để có thể viết thành truyện, nhỏ thì thành một mẩu chuyện, lớn thì thành một truyện ngắn (hay truyện vừa, truyện dài v.v…). Nhà văn Nga – Tuôcghênhep (thế kỉ XIX) có một bài văn ngắn nổi tiếng kể lại một lần ông đi săn về cùng với con chó săn của mình. Dọc đường có một tổ chim từ trên cây rơi xuống đất, trong tổ có mấy chú chim non vừa mới nở kêu chiêm chiếp. Con chó săn chạy lại định vồ tổ chim thì trước mặt nó liền xuất hiện con chim mẹ nhỏ bé xù lông, giương cánh, há mỏ xông lại trước mõm con chó to lớn hơn nó gấp hàng trăm lần. Nó liều chết để che chở cho đàn con. Trước hành động dũng cảm đó của chim mẹ, con chó săn phải lùi lại. Nhà văn liền gọi con chó của mình,.

<span class='text_page_counter'>(126)</span> không cho nó động đến chim mẹ và bầy con. Trong những câu văn sau đó, nhà văn bày tỏ niềm ngạc nhiên và khâm phục của mình đối với con chim dũng cảm. Nhà văn Trung Quốc – Lỗ Tấn (thế kỉ XX) cũng có một tác phẩm tương tự nhan đề là Một chuyện nhỏ, kể chuyện một người phu xe đương chở nhà văn đi trên đường phố, thấy một bà già gặp tai nạn, liền bỏ xe xuống, quên mình cứu bà già đó và hết lòng đưa bà đến nơi an toàn, trong khi nhà văn thì ngồi trơ trên xe, chưa có một hành động gì để giúp đỡ người bị nạn. 146 Sự việc và tấm gương đó của một người lao động nghèo khó, bình thường đã để lại trong tâm trí của nhà văn một bài học suốt đời về niềm tin tưởng đối với bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động Trung Hoa. Nói chung, kỉ niệm nhỏ, mỗi sự việc mà mình trải qua có tính chất và ý nghĩa ít nhiều đặc biệt như vậy, đều có thể viết thành truyện. Một học sinh đã viết một mẩu chuyện về người chị của mình: Hồi nhỏ, hai chị em xấp xỉ tuổi nhau, nhưng em thì đành hanh, còn chị thì hay nhường nhịn. Có quà bánh gì cha mẹ cho, em cũng giành lấy phần hơn, nhiều khi tham lam tranh lấy tất cả. Một lần, trước tính tham lam của em, chị nhường tất cả phần của mình cho em. Lúc em đang hí hửng được phần quà to thì bỗng nhìn thấy chị đứng khóc thầm một mình nơi chỗ vắng: thấy em bắt gặp, chị vội lau nước mắt và làm ra bộ vui vẻ, để em không biết rằng mình cũng thiết tha với quà bánh chẳng khác gì em. Kỉ niệm trên đây làm cho đứa em ân hận và thương chị suốt đời. Truyện ngắn Chuyện buồn giữa đêm vui của Nam Cao trong phần Tư liệu tham khảo dưới đây cũng viết về một đề tài và nhân vật tương tự, song với nghệ thuật cao hơn nhiều vì đó là sáng tác của một nhà văn thuộc tầm cỡ bậc thầy về truyện ngắn Việt Nam. Ở lớp 11, làn các bài văn tự do và sáng tạo theo hướng đề tài 1, học sinh có thể viết những mẫu chuyện nhỏ, những truyện ngắn.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> như trên, nếu cảm thấy mình có cái gì để viết và có thể viết được. 2. Từ một bài cảm tưởng đọc sách đến một bài phê bình văn học đơn giản Trong đời sống văn học, bên cạnh sáng tác văn học, có phê bình văn học. Bên cạnh các nhà văn, nhà thơ, còn có các nhà lí luận, nghiên cứu, phê bình. Họ là những người viết văn, một số đông nhà phê bình là các nhà văn, vì họ viết những bài phê bình hay, đầy tính sáng tạo. Học sinh tập làm các bài văn tự do, sáng tạo cũng là tập sáng tác và tập phê bình. 147 Thông thường người ta hiểu phê bình là khen chê tác phẩm văn học, khen chỗ hay, chê chỗ dở, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm của tác phẩm văn học. Hiểu như vậy cũng đúng. Song để khen chê cho đúng, cho hay thì người phê bình phải là người độc giả thông minh, nhạy cảm, sâu sắc. Người phê bình trước khi khen chê, đánh giá phải cảm hiểu đầy đủ tác phẩm mà mình phê bình, phải cảm hiểu được kinh nghiệm, tri thức, tình cảm, tư tưởng mà tác giả trình bày một cách đầy tài năng, đầy nghệ thuật trong tác phẩm. Vì vậy, đối với các tác phẩm văn học, khi chúng ta tiến hành phân tích, bình giảng v.v… tức là đã làm công viêc phê bình ở một mức độ nhất định. Song đó là các bài làm có định hướng về nội dung và hình thức theo sự ra đề và hướng dẫn của thầy giáo. Trong trường hợp tác phẩm do chúng ta tự chọn lấy, các cảm xúc và suy nghĩ về tác phẩm do chính chúng ta thể nghiệm và viết ra thì đó là bước đầu chúng ta tập viết phê bình. Ở lớp 11, chúng ta có thể viết các bài cảm tưởng đọc sách như ở lớp 10, bao gồm 2 phần: - Tóm tắt tác phẩm; - Phát biểu ý kiến, cảm tưởng về tác phẩm đó. Song nếu các bài làm trên đây mang tính chủ động với nội dung phong phú hơn thì cũng có thể xem đó là các bài phê bình, giới thiệu nho nhỏ về tác phẩm văn học. Điều cần chú ý là trong các.

<span class='text_page_counter'>(128)</span> bài viết này, chúng ta phải phát biểu được ý kiến đặc sắc, độc đáo và có cách viết thể hiện tình cảm, thái độ riêng đối với tác phẩm. Bài viết của Phạm Hổ về bài thơ Biển đêm của Vichto Huygô (xem phần Tư liệu tham khảo) có thể gợi ý cho chúng ta về cách viết một bài phê bình nho nhỏ. 148 Cũng như ở lớp 10, trong kiểu bài làm văn này, khác với các loại bài, kiểu bài đã được định hướng có trong chương trình, chúng ta cần phát huy tối đa tinh thần tự do, sáng tạo mới đạy được kết quả mong muốn. Để viết được các bài văn như ý muồn, cần đọc nhiều sáng tác của nhà văn, tham khảo các bài viết của các nhà phê bình, lấy đó làm nguồn gợi hứng đồng thời làm kiểu mẫu cho các bài viết của mình. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP 1. Tại sao trong nhà trường, ngoài các bài làm văn được viết theo thể thức được quy định, học sinh nên làm các bài làm văn tự do và sáng tạo? 2. Viết một bài văn theo đề tài: “Người thân yêu trong tuổi thơ tôi” hoặc “Tác phẩm mà tôi sẽ nhớ suốt đời” (hoặc đề tài khác tương tự). 3. Tập viết một mẩu truyện ngắn về một đề tài tự chọn. 4. Tập viết một bài phê bình ngắn về một bài thơ (hay một thiên truyện) đã được đọc. 149 TƯ LIỆU THAM KHẢO 1. Sáng tác CHUYỆN BUỒN GIỮA ĐÊM VUI (Truyện ngắn) Họ nói hết chuyện rồi nhưng vẫn chưa muốn đi ngủ. Ngủ sao đang! Có những đêm chẳng bao giờ trở lại. Người ta thức suốt sáng để tận hưởng từng phút một. Chợp mắt đi một phút, tức là bỏ phí một phút sung sướng trong đời mình…Họ lặng lẽ nhìn nhau. Cái nhìn êm dịu, giống như tiếng ngân, kéo dài thêm những lời ân ái họ đã ngừng kể lể. Quyên thấy lòng tràn ngập.

<span class='text_page_counter'>(129)</span> đầy hạnh phúc. Nỗi hoan lạc long lanh trong đôi mắt lăn tăn, bừng bừng trên đôi má ửng hồng, và mơn mởn trên đôi môi hé một nụ cười bất tuyệt. Nhưng bỗng nàng nhận thấy một chút lơ đãng trong đôi mắt Phúc, và chợt nhớ ra một điều mà suýt nữa nàng quên khuyất mất… - À! Em hỏi … Mình nghĩ gì mà lúc nãy ngồi tiếp rượu các anh ấy, mình thừ người ra mấy lượt như người mất vía thế! Phúc lắc đầu: - Không … - Có!...Mình giấu em sao nổi? Em biết thừa! Em bảo nhé! Ngay lúc này đây, mình vẫn còn nghĩ gì luẩn quẩn trong óc đấy. Nghĩa gì? nói đi! - Không mà!... 150 - Có - Ừ thì có …Anh nghĩ: anh yêu Quyên lắm. - Không! Không! Chả chơi với mình nữa đấy! Mình giấu em!... Phúc mỉm cười, vuốt ve người yêu Quyên nũng nịu: - Kìa! Mình bảo em …Nghĩ gì? Người đàn ông nào có thể từ chối một câu hỏi như thế ấy? Nhưng nói ra, vớ vẩn lắm! Chàng nắm lấy bàn tay Quyên, ngắm nghía những ngón tay muôn muốt, để có cớ mà nhìn xuống cho đỡ ngượng… - Ừ thì nói nhé …Anh nghĩ …Anh nghĩ đến một người cô không đến ăn cơm cưới chúng mình hôm nay. Cô Hòan… Chàng ngừng lại. Bởi vì Quyên mở to đôi mắt như ngạc nhiên lắm lắm. Phúc buồn bã vì người cô không có mặt trong đám cưới? Nàng không thể nghĩ một người như Phúc lại có thể tỉ mỉ như thế được. Theo ý nàng, thì việc trăm năm của hai người chỉ quan hệ đến hai người. Có dính dáng gì đến những ông chú, bà bác, cô dì, với bạn bè, có khi lại cả những người dưng nước lã, để phải gắng gượng nói cười với họ và nghe họ cười cười, nói nói, đến mệt óc, chán tai? Trong một đám cưới của ta, người ta.

<span class='text_page_counter'>(130)</span> bày ra đủ trăm trò để làm khổ chú rể, cô dâu. Nào lễ hết bàn thờ nọ đến bàn thờ kia, nào lễ sống cha mẹ, nào chào hết bà cô này lại đến bà dì khác; trả lời những câu đùa cợt của họ - cợt đùa để thử khéo, thử khôn, ấy là chưa kể cái kổ nghe quan viên hai họ đối chọi với nhau chan chát những lời đanh thép vặt. Thật là nhọc mệt. Quyên cho là còn nhọc mệt hơn qua một kì thi có nhiều bài. Chính cái đám cưới, đối với Quyên, đã là một cái gì đoảng vị lắm rồi. Vậy thì nàng có để ý gì đến cái sự một bà cô đến dự hay không đến dự! Mặc bà cô ấy! Miễn là nàng với Phúc yêu nhau là đủ. Cái đáng kể trong đám cưới, ấy là tình yêu giữa đôi trai gái, đâu có phải vì một bà cô hay một bà dì? … 151 Tuy nghĩ vậy, nhưng nàng cũng lơ đãng hỏi: - Cô Hoàn? … Cô Hoàn nào? - Cô Hoàn mù. Cô ấy là chị ruột thầy. Để anh kể chuyện cô ấy cho Quyên nghe nhé. Buồn cười lắm! Buồn cười lắm! Phúc do quen miệng mà nói thế. Thật ra thì chuyện cô Hoàn chẳng có gì buồn cười lắm. Có thể nói là trái lại. Phúc kể như thế này: Bà nội anh chết sớm. Lúc chết bà mới được một trai, một gái. Chị hơn em bốn tuổi. Chị là cô Hoàn. Em tức là thầy chúng ta. Cô Hoàn rất yêu thầy. Mẹ chết đi rồi, cô phải thay mẹ coi sóc em, tuy cô mới lên mười. Mỗi tối khi em học xong rồi, cô phải đi lấy cơm lồng từ bàn trưa để lại làm cơm tối cho em, giầm ra và chan mắm để em ăn (bởi nhà túng nên chỉ mình em bé được ăn cơm tối). Em ăn xong, cô dẫn em ra ao rửa mặt mũi chân tay, rồi về dọn giường chiếu cho em đi ngủ. Mùa bức cô quạt cho em ngủ. Mùa rét, cô luôn luôn để ý kéo chăn lên cho em, mỗi lần em giãy khỏe nên trật cả bên ngoài. Những khi em ốm, chính cô sắc thuốc, rót thuốc, dỗ em uống và nấu canh, nấu cháo. Ngay từ hồi ấy cô đã tập sống cho em, chứ không phải cho chính cái thân cô nữa. Bất cứ cô làm một việc gì, cũng là vì em mà làm… Năm cô mười bảy tuổi, bố chết. Tất cả di sản của nhà nho thanh bạch ấy gồm hai tủ sách và mấy món thuốc. Cô Hoàn vì phải giúp cho hoàn tán mãi nên nhớ được. Nhờ mấy món thuốc ấy và.

<span class='text_page_counter'>(131)</span> nhất là nhờ đức hi sinh của cô, cô nuôi được em cho đi học. Năm sau, một nhà giàu chuộng cái nết của cô, muốn cưới cô về làm dâu. Người ta hứa sẽ nuôi cả người em, cấp lương cho đi học. Em muốn chị lấy chồng để có chỗ nương thân. Nhưng chị bảo: - Ta chả dại! Bây giờ người ta muốn lấy mình thì nói thế. Nhưng lấy được mình rồi, biết họ còn giữ lời hay không? Cái nghề đời: anh rể nuôi em vợ…Mà nào có một anh rể thôi! Lại còn bố mẹ, anh em anh rể nữa…Chị chỉ lo em khổ. Chi bằng cứ thế này, chị em đùm bọc lấy nhau, có no ăn no, có đói ăn đói. 152 Nhưng mấy năm sau, khi có một nhà giàu không có con trai, muốn nhận người em cô làm rể thì cô lại khẩn khoản xin em nhận lời, gửi rể… - Chúng ta bây giờ bồ côi cút, tìm được một chỗ tử tế mà nương tựa là phúc lắm. Em không nên bỏ lỡ. - Em đợi chị lấy chồng rồi mới tính đến việc em. - Ngộ không ai lấy chị? - Thì em sẽ chẳng lấy ai, ở vậy mà thờ chị. - Sao em nói thế? Em không nghĩ đến việc nối dõi tông đường hay sao? Bị chị thúc bách nhiều quá, người em đành thuận vậy. Ngày vui mừng của em gần tới chị bị đau mắt nặng. Rồi chị hỏng cả hai mắt. Cả một đời con gái lỡ! Câu nói gở buột miệng nói ra hôm nào, không ngờ thành sự thực. Ngộ không có ai lấy chị? …Có ai lấy một thiếu nữ mùa làm chi? Người em khóc như mưa như gió, thương chị lắm. Nhưng chị bảo: - Em đừng nghĩ lợi làm gì lắm. Đất nhà ta thế. Đời nào cũng phải có một người mù hoặc chột. Người này chết, tự nhiên người khác bị. Chị cảm ơn trời phật lắm! Chị được mù để khỏi lo em mùa là may lắm rồi. Em cảm động lắm, khóc rưng rưng bảo: - Nhưng trời bắt chị như thế này, em không thể ở rể nhà người ta được. Em không lấy vợ. Em nhất định ở vậy mà nuôi chị..

<span class='text_page_counter'>(132)</span> - Em đừng nghĩ thế. Em cứ lấy vợ đi. Bây giờ chị chỉ còn mong em sớm có con; chị sẽ ở với vợ chồng em suốt đời mà bế các cháu. Mà rồi, chỉ còn một việc bế trẻ con là làm được. Chị được bế con cho em thì còn gì hơn? Chị đã không có con để bế, nếu không được bế cháu thì buồn chết!... 153 Người em đành lấy vợ và xin phép bố mẹ vợ cho chị về nhà vợ. Người chị mù không chịu để em nuôi. Cô vẫn chống gậy, lần ra chợ bán thuốc kiếm ăn. Cho mãi đến khi em được đứa đầu lòng, bấy giờ người em mới ép được chị ở nhà để bế cháu, không phải mò ra chợ nữa… Phúc kể đến đây thì ngừng lại. Chàng hơi nhíu cặp lông mày. Chàng suy nghĩ hay khó chịu. Có lẽ chàng do dự. Nên nói tất cả ra chăng? Hay giấu giếm bớt đi một phần sự thật, mà nếu phải nói ra chắc chàng ngượng lắm…Nét mặt chàng, nhất là đôi mắt, buồn bã hơn một chút. Thở dài một tiếng xong, chàng bùi ngùi kể tiếp: - Thế rồi không biết tại sao, về sau cô không ở nhà em nữa. Cô đi hẳn một nơi khác biệt tích, ở với một bà dì, và trở lại nghề làm thuốc. Dần dần, tại nhà người em, người ta quên hẳn cô. Chỉ còn chính người em, vẫn nhớ. Mỗi năm, một vài lần, ông dắt đứa con lớn nhất của mình đến thăm cô. Người cô móc một ít tiền dành dụm ra (đó là tiền mua ván sau này) mượn người mua kẹo bánh về, ẵm cháu vào lòng bảo nó ăn, rồi vừa xoa đầu cháu, nắn cổ tay cổ chân nó để xem lần ấy nó gầy hay nó béo, hỏi xem em út nó biết làm gì rồi? Thầy nó có hay đánh nó không? Nó học đến đâu rồi? …Hoặc kể cho nó nghe chuyện Phật hiện lên để thử người đời xưa… Cuộc đời đổi thay luôn. Gia đình người em rời nhà quê đến một thành phố nhỏ. Họ buôn bán và làm giàu ở đấy. Đứa con lớn, lớn hơn xưa, bắt đầu thấy cái việc ngồi lòng cô, ăn bánh của cô và trả lời những câu hỏi lẩm cẩm của cô là vô vị. Người cha cũng bận rộn buôn bán. Hai cha con ít đến thăm cô hơn trước. Rồi đứa cháu ấy được lên Hà Nội học. 154.

<span class='text_page_counter'>(133)</span> Nó có nhiều bạn, nhiều thú vui, và có lẽ cũng nhiều bài vở nữa nên quên hẳn người cô mù của nó. Mà cứ gì người cô mù ấy! Ngay đến cha mẹ nó, nó cũng thấy xa hơn một chút. Nhiều kì nghỉ, nó không hăm hở về thăm nhà như trước nữa. Nó ở lì Hà Nội. Nó say mê thể thao, âm nhạc, những cuộc hội họp trẻ trung, nhưng buổi chiều đi lượn phố, và bóng dáng thướt tha của những cô thiếu nữ nhởn nhơ trên bờ hồ… Một hôm, trong cuộc đi chơi bằng xe đạp, đến một làng kia, nó sực nhớ ra rằng đây là làng người cô mù ở. Sự tò mò, nhiều hơn là tình thương, xui nói rẻ vào thăm. Người cô đã già và gầy, và xanh hơn trước rất nhiều. Tóc cô đã lớm đớm hoa râm. Cô không đi chợ nữa. Cô ngồi nhà bán thuốc, ai mua thì đến. Số tiền kiếm được, do thế, có sút đi đôi chút. Muốn bù vào đấy, cô nhận bế trẻ con thuê. Những người mẹ cần đi làm hay đi chợ sáng sáng cứ đem đến chỗ cô, kèm theo một nắm cơm. Cô sẽ ẵm nó cho, khi nó đói, cô mớm nó. Rồi cô ru nó ngủ. Cô còn mày mò tắm rửa cho nó nữa. Tối đến, mẹ lại tới rước nó về. Họ trả công cho cô mỗi ngày hai hoặc ba xu. Cũng có người chẳng có xu nào! Họ trả công bằng một lời nói suông. Thì cũng được. Miễn là cô được nâng niu đứa trẻ, nghe nó cười, nó khóc, vuốt ve cái mông mát trơn của nó. Không có chúng, đời cô sẽ buồn biết bao!... Mới đầu cô không biết cháu là ai. Và khi đứa cháu đã nói rõ cho cô biết thì cô reo lên, cười rồi khóc. Cô chìa bàn tay run run về phía nó. Cô bảo nó ngồi sát lại với cô. Cô nắm lấy cổ tay nó, sờ tay, sờ vai, sờ cổ, sờ đầu, sờ cả lên mắt nó. Chà! Nó đã lớn lắm rồi đây nhỉ. Cô hỏi nó bao nhiêu chuyện! Nó học mãi trên Hà Nội! Ồ! xa nhỉ!… Nó đã đỗ tú tài: Ồ! Giỏi nhỉ! …Rặt những “ồ”, những “à” như vậy. Người cô ấy tiếc không còn đôi mắt để nhìn nó. Cô sờ lại! Ồ! Nó giống thầy nó ngày xưa như đúc! Chắc nó cũng ngoan như thầy nó ngày xưa đấy. 155 Thầy nó ngày xưa ngoan lắm! Thầy nó ngày xưa học chăm mà sáng lắm! Thầy nó ngày xưa…thầy nó ngày xưa…Cô kể lại biết bao nhiêu là chuyện về thầy nó ngày xưa, với một giọng tha thiết lắm. Hình như thầy nó ngày xưa là hình ảnh cuồi củng in.

<span class='text_page_counter'>(134)</span> trong đáy đôi mắt đã khép kín hẳn lại. Sau những hình ảnh ấy, chẳng còn một hình ảnh nào nữa chồng lên trên … Cuối cùng cô bỗng kêu lên: - À, cháu có vợ chưa? Và khi biết rằng chưa … - Ồ! Cháu hư lắm! Thầy cháu ngày xưa bằng tuổi cháu đã có cháu rồi. Cháu phải lấy vợ đi! Lấy mau lên! May ra cô còn sốn mà ăn cưới cháu. Đám cưới cháu chắc là to đấy nhỉ? Cưới vợ cậu tú mà chả to? Quyên hỏi Phúc: - Thế cô ấy có được tin không mà không về ăn cưới chúng ta? - Cô ấy chết rồi . - Thề thì anh còn nghĩ làm gì? - Để mà buồn. Bởi vì giá cô Hoàn còn sống thì cũng chả chắc cô ấy về ăn cưới chúng ta đâu. Ai còn nghĩ đến cô? Chỉ còn một mình anh. Mà lòng lại hỏi lòng, anh nhận ra rằng chẳng bao giờ anh có can đảm mời cô về để khoe với bao nhiêu khách sang trọng nhà em và chính em. Tiểu thuyết thứ bảy Số 475 – 21 – 8 – 1943 Nam Cao (Tuyển tập Nam Cao, tập 1, NXB Văn học , 1987) 156 2. Viết cảm nghĩ về một tác phẩm văn học “ĐÊM ĐẠI DƯƠNG”(1) VÀ BIỂN QUY NHƠN Chú thích: (1) Bài thơ này. SGK Văn học 11 (sách chỉnh lí hợp nhất) dịch là Biển đêm. Năm ấy tôi mười bốn tuổi. Và đến thời ấy tôi đã sống hơn mười năm với biển Quy Nhơn..

<span class='text_page_counter'>(135)</span> Nhà tôi ở cách biển chỉ chừng ba trăm thước. Từ nhà, có thể nhìn thấy cái vệt sáng lớn màu xanh của biển cứ lấp lánh, lấp lánh. Tiếng sóng vào những đêm yên tĩnh, nghe gần như sờ được. Mùa hè, cứ chiều chiều, chúng tôi lại ra biển tắm. Rồi đá bóng trên bãi cát. Tôi đến xách chiếc chiếu con ra biển ngủ. Để sáng dậy, lại tò mò nhìn bà con đi kéo rùng, bắt cá, bắt tôm. Đối với tôi, biển Quy Nhơn chỉ là như thế. Có thêm chăng là những lúc ngồi ngắm trăng, hay ngắm mặt trời lên. Cho đến một hôm… Hôm ấy, thấy Mùi giảng cho chúng tôi nghe về bài thơ Đêm đại dương của Vichto Huygô: Ôi! Biết bao nhiêu thuyền trưởng và thủy thủ Đã vui vẻ ra đi trong những chuyến đi xa… Lúc đầu tôi nghe thầy giảng bài này như bao lần nghe thầy giảng các bài khác. Giọng thầy ấm áp, nói chỉ vừa đủ cho cả lớp nghe. Nhưng chỉ một lúc sau, tôi như bị bài thơ cuốn hút vào một thế giới mới lạ, vừa quen, vừa xa xôi, vừa gần gũi. Tôi nghe lời thầy hay nghe lời của đại dương, của biển, của những con người sống cùng với biển. Thực mà như hư… Càng nghe tôi càng ngơ ngẩn, thẫn thờ. 157 Và đêm hôm đó, khi ôm chiếc chiếu con ra biển ngủ, tôi đã không tài nào ngủ được. “Đêm đại dương”, những lời thầy giảng giải lại thần thì, trò chuyện với tôi. Tôi nghe tiếng sóng vỗ. Và thấy đúng là tiếng sóng có tiếng người. Tiếng thở dài và tiếng khóc của những người vợ, những bà mẹ, những đứa con, có chồng, có con, có cha ra đi trên mặt biển này và không bao giờ trở về nữa. Và chân trời kia, lần đầu tiên tôi mới hiểu đó không chỉ là ranh giới của biển và trời, đó không chỉ là sự mênh mông của không gian và thời gian… Chân trời ấy còn là ranh giới của sự sum họp.

<span class='text_page_counter'>(136)</span> và chia li, đó là sự mênh mông của nỗi đau và lòng dũng cảm của con người . Tôi cứ ngồi như thế trước mặt biển Quy nhơn, trên chiếc chiếc con mà mà nghe tiếng sóng, mà nhìn về phía chân trời đang có những ánh đèn bà con đi câu mực… Như thế này, biển của Vichto Huygô đã bước đầu giúp tôi hiểu được biển của quê tôi. Và yêu biển, yêu người. Những con người ăn sóng, nói gió, suốt đời sống với biển cả, biển cả lúc phẳng lặng như tờ, lúc gầm thét như điên, như dại. Hôm ấy, đối với tôi là một ngày không thể quên. Nó đã làm rung động trong lòng tôi nhiều mối quan hệ tình cảm rất đẹp đẽ và nhân văn: Giữa tôi và đêm đại dương Giữa đêm đại dương và biển Quy Nhơn Giữa biển Quy Nhơn và Vichto Huygô Giữa Vichto Huygô và em bé là tôi Giữa em bé là tôi và cuộc sống những người dân làm nghề đánh cá … PHẠM HỔ (Bái Văn nghệ, ngày 5 – 7 - 1986) 158 MỤC LỤC - Ôn tập về văn nghị luận (1 tiết). 3. - Cách triển khai và trình bày ý trong đoạn văn, bài văn nghị luận (2 tiết) 7 - Tóm tắt tác phẩm tự sự (3 tiết). 16. - Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự (3 tiết). 28. - Phân tích tâm trạng trong thơ trữ tình (3 tiết). 50. - Bình giảng văn học (3 tiết). 70. - Hội thảo khoa học xã hội (2 tiết). 101. - Gợi ý đề bài làm văn. 113.

<span class='text_page_counter'>(137)</span> A – Phần Văn học Việt Nam + Bài làm văn số 1. 113. Làm bài ở lớp: 2 tiết Trả, chữa bài: 1 tiết + Bài làm văn số 2. 115. Làm bài ở nhà Trả, chữa bài: 1 tiết + Bài làm văn số 3. 119. Làm bài ở nhà Trả, chữa bài: 1 tiết + Bài làm văn số 4. 121. Kiểm tra học kì I: 2 tiết Trả, chữa bài: 1tiết + Bài làm văn số 5. 123. Làm bài ở nhà Trả, chữa bài: 1 tiết + Bài làm văn số 6. 126. Làm bài ở lớp: 2 tiết Trả, chữa bài: 1 tiết + Bài làm văn số 7. 129. Làm bài ở nhà Trả, chữa bài: 1 tiết + Bài làm văn số 8. 131. Kiểm tra học kì II: 2 tiết Trả, chữa bài: 1 tiết B – Phần Văn học nước ngoài Phụ lục, Các bài làm văn tự do và sáng tạo (Trích có chọn lọc và bổ sung từ sáng Làm văn 11 do Trần Thanh Đạm chủ biên) 137.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> Sách chỉnh lý hợp nhất trên cơ sở các sách giáo khoa sau đây: 1. Làm văn 11 do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chủ trì biên soạn. Tác giả: PHAN TRỌNG LUẬN (Chủ biên), LÊ A, NGUYỄN XUÂN NAM 2. Làm văn 11 do Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP.HCM chủ trì biên soạn. Tác giả: TRẦN THANH ĐẠM (Chủ biên), NGUYỄN SĨ BÁ, LƯƠNG DUY CÁN, HOÀNG LÂN Bản quyền thuộc Nhà Xuất bản Giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban Biên tập: PHAN TRỌNG LUẬN (Chủ biên) LÊ A – NGUYỄN XUÂN NAM Biên tập lần đầu: PHẠM KIM CHUNG Biên tập tái bản: BÙI DUY NGHĨA Biên tập mĩ thuật: TÀO THANH HUYỀN Trình bày bìa: LƯU CHÍ ĐỒNG Vẽ bìa: BÙI QUANG TUẤN.

<span class='text_page_counter'>(139)</span> Sửa bản in: PHAN TỰ TRANG – TRẦN THU HIỀN Sắp chữ: PHÒNG CHẾ BẢN (NXB GIÁO DỤC ) Chịu trách nhiệm xuất bản Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI Phó Tổng Giám đốc Tổng biên tập NGUYỄN QUÝ THAO LÀM VĂN 11. Mã số 3H103t6. Số in: 03GC. Số xuất bản: 1517/319 – 05. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01 năm 2006..

<span class='text_page_counter'>(140)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×