Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Noi dung tu tuong cua tac pham khong bao gio la su li giai dung dung lanh lung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.52 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>SỞ GD – ĐT TỈNH PHÚ YÊN TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN CHÁNH. BÀI TẬP CHUYÊN ĐỀ ĐỀ TÀI: “ Nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học không bao giờ chỉ là sự lí giải dửng dưng, lạnh lùng mà gắn liền với cảm xúc mãnh liệt” (Lê Anh Trà). Anh(chị) hiểu như thế nào về nhận xét trên. Hãy làm sáng rõ qua hai tác phẩm tự chọn.. TGHD: BÙI NGỌC BỬU NHÓM THỰC HIỆN : Lê Quỳnh Giang – Trương Hiểu Nhi. Tuy Hòa tháng 12 năm 2015.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> SỞ GD – ĐT TỈNH PHÚ YÊN TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN CHÁNH. BÀI TẬP CHUYÊN ĐỀ ĐỀ TÀI: “ Nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học không bao giờ chỉ là sự lí giải dửng dưng, lạnh lùng mà gắn liền với cảm xúc mãnh liệt” (Lê Anh Trà). Anh(chị) hiểu như thế nào về nhận xét trên. Hãy làm sáng rõ qua hai tác phẩm tự chọn.. TGHD: BÙI NGỌC BỬU NHÓM THỰC HIỆN:Lê Quỳnh Giang – Trương Hiểu Nhi. Tuy Hòa tháng 12 năm 2015.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> LỜI CẢM ƠN.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> MỞ ĐẦU Cảm xúc là một trong những đặc điểm tâm lý hết sức quan trọng, tham gia vào cấu trúc năng lực sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Xúc cảm của người nghệ sĩ được thể hiện trong một cấu trúc đối nghịch. Chính cấu trúc này đã tạo nên tính hai mặt trong quá trình tiếp nhận thế giới hiện thực. Ở họ khi nhìn nhận đánh giá các sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan bao giờ cũng được phân định rõ ràng bởi các cặp phạm trù đối nghịch như yêu , ghét, căm thù, thương xót, ca ngợi, khinh bỉ… Cảm xúc của người nghệ sĩ là yếu tố quan trọng, là ngọn nguồn và cũng là “cái hứng” theo suốt quá trình sáng tác. Trước hết, một tác phẩm được nảy sinh từ ý tưởng. Ý tưởng là ý nghĩ mới mẻ xuất hiện một cách bất ngờ hay bật ra từ chính sự nhạy cảm thiên bẩm của người nghệ sĩ. Nói cách khác, nó là kết quả lóe lên rất nhanh của việc rung cảm trước hiện thực. Vì lẽ đó mà nhà văn Pauxtopki gọi ý tưởng là “tia chớp”– hình thành từ quá trình tích điện của những đám mây cảm xúc. Khi có ý tưởng , nhiều người nghệ sĩ sáng tác trong cảm xúc “thăng hoa”, họ sáng tác một cách nghiêm túc mà lại rất say mê cho đến khi khi hoàn thành tác phẩm họ chịu sự chi phối một cách tổng hòa của xúc cảm và tri thức. Thực tế, một tác phẩm hay rất cần những giây phút thăng hoa khi cảm xúc chiếm lĩnh và hoàn toàn thắng thế trong sự chảy tràn của sự đam mê. Các tác phẩm nghệ thuật lớn đều được ra đời nhờ những cơn bốc đồng của cảm xúc chứ không phải cái mà lý trí nhằm nhằm hướng tới. Tuy nhiên, cũng có những tác phẩm ra đời trong tư duy nghệ thuật mạch lạc mà vẫn hấp dẫn. Nhưng xin nhắc lại khởi điểm của những sáng tác ấy cũng phải bắt đầu từ sự quan sát, băn khoăn trăn trở…Chính lẽ đó Lê Anh Trà đã nhận định rằng:”Nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học không bao giờ chỉ là sự lí giải dửng dưng, lạnh lùng mà gắn liền với cảm xúc mãnh liệt.” Như vậy cảm xúc không chỉ giúp người sáng tác nhìn ngắm sâu sắc mà còn đối thoại, phát biểu giúp đỡ cuộc đời. Mặc dù vậy, nếu chỉ có cảm xúc thì người nghệ sĩ chưa thể sáng tác được mà người nghệ sĩ cần phải có trí tưởng tượng, ta có thể nói tưởng tượng là nguồn nuôi dưỡng cảm xúc cho tâm hồn giống như bữa ăn nuôi sống cơ thể..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> NỘI DUNG 1.Tầm quan trọng của vấn đề Điều gì tạo nên giá trị của một tác phẩm căn học? Câu hỏi đã làm băn khoăn không chỉ có chúng ta mà còn cả giới nghệ sĩ. Đã có nhiều cách bàn bạc, lí giải xung quanh vấn đề này, ý kiến của nhà văn Lê Anh Trà theo tôi là ý kiến chính xá và đáng ghi nhận: “Nôi dung tư tưởng của tác phẩm văn học không bao giờ là sự lí giải dửng dưng, lạnh lùng mà găn liền với cảm xúc mãnh liệt.” Ông hiểu giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưỏng của nó. Nhà văn phải là người có tư tưởng. Nhưng bằng những sự trải nghiệm của một đời cầm bút, ông cũng thấm thía không phải chỉ là tư tưởng đơn thuần mà phải là tư tưởng được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, nghĩa là tư tưởng ấy phải được tắm đảm trong tình cảm của người viết, tư tưởng ấy phải được chuyển tải bằng tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Nói cách khác, ý kiến của Nguyễn Khải đã khẳng định mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời giữa tư tưởng và tình cảm của nhà văn.. 2.Giải thích vấn đề “Nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học không bao giờ chỉ là sự lí giải dửng dưng, lạnh lùng mà gắn liền với cảm xúc mãnh liệt”. Câu nói hiển nhiên như một chân lí không thể phủ nhận. Một tác phẩm văn học, trước hết phải có tư tưởng lí giải về cuộc sống, con người . Một nhà văn có tầm cỡ hay không, tôi nghĩ điều yêu cầu đầu tiên là nhà văn ấy phải là một nhà tư tưởng. Qua tác phẩm văn học là thể hiện, giải thích, đánh giá, nhận xét, quan sát của nhà văn về thời đại, cuộc sống, con người. Sự lí giải của nhà văn không giống với bất kì cách lí giải nào của nhà triết học, sử học, xã hội học,… bởi lẽ sự lí giải của các nhà khoa học này phải đáp ứng yêu cầu khách quan, không mang tính chủ qua. Trái lại, tác phẩm văn học là sự lí giải tràn đầy cảm xúc của nhà văn . Nhà văn luôn gắn liền với cảm xúc, thông qua cảm xúc, nhà văn thể hiện sự lí giải của mình về cuộc sống bằng thái độ yêu ghét, trân trọng, đồng tình, phê phán, tố cáo,… Đôi khi cách thể hiện của nhà văn bề ngoài tưởng như “ dửng dưng, lạnh lùng” nhưng thực chất, bao giờ cũng ẩn chứa cảm xúc mãnh liệt ngay bên trong. Có thể nói tình cảm của người viết chính là khâu đầu tiên của quá trình xây dựng tác phẩm nghệ thuật. Điều này có căn nguyên sâu xa từ đặc trưng của văn học. Văn học là tiếng nói tâm hồn, tình cảm của cá nhân người.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> nghệ sĩ trước cuộc đời. Làm sao nhà văn có thể viết nên tác phẩm – sản phẩm của thế giới tinh thần của mình – nếu như tâm hồn trơ như đá trước cuộc đời? Nhà văn chỉ có thể sáng tạo nên tác phẩm khi cảm thấy bức xúc trước cuộc sống con người, cảm thấy tiếng nói thôi thúc mãnh liệt con tim. Người đọc đến với tác phẩm trước hết đâu phải bằng con đường của lí trí. Họ đến với tác phẩm bằng chiếc cầu nối từ trái tim đến với trái tim. Những tư tưởng tâm đắc nhất, tha thiết nhất nhà văn gửi gắm trong tác phẩm sẽ thâm nhập vào tâm hồn bạn đọc trong hình hài của cảm xúc. Mỗi khi đọc một bài văn, bài thơ, lí trí ta chưa kịp hiểu câu chữ, hình ảnh,… thì tình cảm đã xâm chiếm hồn ta tự khi nào, lòng ta chợt rung lên theo những rung cảm của tâm hồn người nghệ sĩ, cũng chợt thấy yêu ghét theo những yêu ghét của người viết. Phải chăng, bởi thế Bạch Cư Dị đã khẳng định: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm” và tình cảm là gốc của văn chương. Một tác phẩm có giá trị hay không xét cho cùng là do tình cảm của người viết có chân thực hay không, có khả năng đánh động tới tình cảm của người đọc hay không. Tư tưởng nghệ thuật nó là những phát hiện, những triết lí riêng của nhà văn, một thứ triết lí nhân sinh đầy tình cảm, cảm xúc, thấm đẫm bầu tâm huyết của người nghệ sĩ.Lẽ vậy, tác phẩm văn học ra đời là gắn liền với tình cảm của tác giả. Xét đến cùng, một tác phẩm văn học lớn là tác phẩm phản ánh con người và hướng tới phục vụ đời sống con người. Nhà văn khi viết tác phẩm không thể không bộc lộ tư tưởng của riêng mình, chủ kiến của riêng mình trước những vấn đề của đời sống. Làm sao văn học có thể thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng của mình là bồi đắp, làm giàu đời sống tinh thần của con người, nếu như người viết không gửi được vào trong tác phẩm của mình tư tưởng nào đó về cuộc sống? Mặt khác, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo, nghề văn phải là nghề sáng tạo. Mà tôi cho rằng sáng tạo khó khăn nhất, nhưng cũng vinh quang nhất của người nghệ sĩ là quan sát, khám phá, đánh giá, nhận xét,…về cuộc sống, con người và bày tỏ những tình cảm của riêng mình trong mỗi tác phẩm. Văn chương đâu chấp nhận những sản phẩm nghệ thuật chung chung quen nhàm, viết ra dưới ánh sáng của một khuôn mẫu như một nhà khoa học nào đấy. Nếu thế thì văn học sẽ trở nên tẻ nhạt biết bao. Không những thế ở những nhà văn lớn, yếu tố cốt lõi hình thành nên phong cách nghệ thuật, gương mặt riêng, dấu ấn riêng của nhà văn trong đời sống văn học vốn mênh mông phức tạp, vàng thau lẫn lộn này, có thể khẳng định nhờ vào đôi mắt, trái tim biết rung động trước.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> cuộc sống, con người và kết tinh trong túi tình cảm, cảm xúc đẹp đẽ ấy mới là tố chất của một nhà nghệ sĩ lớn. Cảm xúc trơ lì, mòn sáo, tình cảm thoáng qua hời hợi, rốt cuộc những tư tưởng đó dù hay đến mấy cũng chỉ “nằm thẳng đơ”, vô hồn, vô cảm trên trang giây mà thôi. Những sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh hoạ giản đơn cho tư tưởng này hay tư tưởng khác, cho dù đó là tư tưởng rất hay ( Khrapchencô). Tư tưởng của nhà văn không khô khan và cứng nhắc, tư tưởng của nhà văn là tư tưởng nghệ thuật, là “tình cảm”, là “nhiệt hứng”, là “say mê”, là tất cả nhiệt tình kết tinh lại (Biêlinxki).. 3.Phân tích – Chứng minh 3-1 “ Truyện Kiều” kết tinh từ tình yêu thương, đồng cảm đối với con người đặc biệt là người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến. Cuộc sống như một dòng chảy không ngừng nghỉ mà đã trên mỗi bước đi của nó luôn hằn rõ dấu vết của ngày hôm qua. Không phải ngẫu nhiên mà đã hơn hai thế kỉ trôi qua, vượt qua sự khắc nghiệt của thời gian và sự đào thải khắt khe của lòng người, những sáng tác của Nguyễn Du vẫn sống trong lòng người đọc bao thế hệ không chỉ trên mãnh đất hình chữ S mà nó còn lay động lòng người khắp năm châu. Để có giá trị tồn tại vĩnh viễn với thời gian chắc chắn bản thân nó phải chứa đựng những giá trị cao cả mà loài người hướng đến bất luận thời kì nào. Soi vào thực tế văn học, tôi chợt hiểu vì sao có những nhà văn suốt đời không tạo nên một tác phẩm có giá trị đích thực để rốt cuộc phải ngậm đắng, nuốt cay than thở cho sự bạc bẽo của nghề văn và vì sao lại có những nghệ sĩ lớn như Nguyễn Du sống mãi với thời gian. Dù dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi, bao đời người dâu bể, bao thế kỉ thăng trầm, âm thầm cái công việc của nó là phủ bụi, xoá bỏ tất cả những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật sẽ còn sống mãi, trong đó có những vần thơ của Nguyễn Du. Đã có một thời người ta quá đề cao vai trò tư tưởng của nhà văn. Điều đó dẫn đến một thực trạng đáng buồn là văn chương cơ hồ trở thành triết học, luận thuyết giáo điều, rơi vào nguy cơ mất dần vẻ đẹp đích thực của nó. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò to lớn ấy tuy nhiên cũng không thể vì thế mà lãng quên đặc trưng của văn chương nghệ thuật, khiến văn chương đúng là văn chương là tình cảm: Văn học phải là tiếng nói của tâm hồn, tình cảm. Tư tưởng của nhà văn phải được gửi vào xúc cảm, sống trong tình cảm. Đó là bài học đối với mọi nghệ sĩ chân chính trong sáng tạo nghệ thuật..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Có thể nói chính tình cảm của Nguyễn Du đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến những người yêu truyện Kiều và thương cho số phận hồng nhan tài hoa bạc mệnh. Trong tư tưởng của Nguyễn Du có tình thương xót đối với những nỗi lầm than, đau khổ của con người. Trước hết chúng ta có thể thấy được tình cảm mà Nguyễn Du gửi gắm qua tác phẩm xuất phát từ hiện thực nhiều cay nghiệt, oan trái trong xã hội phong kiến bấy giờ. Cảm thương cho kiếp người hồng nhan mà đa truân, tài tử mà đa cùng không phải là cảm hứng mới mẻ trong văn học nhưng phải đến Nguyễn Du người đọc mới thực sự đau lòng vì “những điều trông thấy”bởi Nguyễn Du viết về nỗi đau của người khác như nỗi đau của chính mình. Sắc đẹp khuynh thành và tài năng hiếm có của Thúy Kiều đã được Nguyễn Du đặc tả trong hai câu thơ: “Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một tài đành họa hai”. Là một người tràn đầy tình yêu và lòng trắc ẩn đối với những phận người tài hoa nhưng nổi trôi trong xã hội như Thúy Kiều; Nguyễn Du bằng trái tim, bằng nước mắt khắc họa thành công nhân vật Thúy Kiều. Kỳ thực Thúy Kiều không phải được dựng lên bằng ngôn ngữ tài hoa bậc thầy của Nguyễn Du mà được tạo nên từ chính tình cảm yêu thương mãnh liệt của ông. Thúy Kiều tài sắc như vậy nên người nàng yêu cũng phải là một văn nhân-Kim Trọng- vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa. Hai người đã thề nguyền trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai và có vầng trăng trên trời làm chứng. Nhưng rồi tai họa ập đến với gia đình khiến Thúy Kiều đành phải hy sinh chữ tình vì chữ hiếu. Việc Kiều bán mình chuộc cha không phải vì nàng hành động theo đạo lý tam cương của Nho giáo mà đó là đạo hiếu của kẻ làm con: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Thúy Kiều rơi vào cảnh này cũng xuất phát từ tấm lòng hiếu thảo với mẹ cha, nàng lựa chọn chữ “hiếu” thay vì chữ ‘tình”. Bởi hai chữ đó có bao giờ được vẹn nguyên, sự lựa chọn nghiệt ngã, đầy nước mắt ấy chính là con đường gian khổ mà Thúy Kiều phải chịu dày vò. Nhưng chỉ Nguyễn Du mới hiểu đến tận cùng bi kịch của Thúy Kiều khi phải trao duyên cho em, nhờ em thay mình trả nghĩa chàng Kim. Nàng giờ sống mà như đã chết. Biết bao đau đớn khi Kiều nhận mình là kẻ phụ bạc: “ “Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” Màn trao duyên ấy chính là bi kịch đầu tiên mở ra quãng đời 15 năm oan khổ lưu ly của Thúy Kiều. Cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che” ngày xưa giờ đã thay bằng cuộc sống “Dập dìu lá gió cành chim -Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh”. Thúy Kiều không tìm thấy chút vui thú nào trong cuộc sống “bướm lả ong lơi” ấy, mà tâm trạng thực của nàng là vui gượng, là sầu, buồn, cuối cùng đọng lại ở nỗi đau, một nỗi đau luôn dày.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> vò, không thể giải tỏa. Có người đã nhận xét rằng cái “ giật mình mình lại thương mình xót xa” của cô Kiều mới đáng quý biết chừng nào. Nếu không có những phút “giật mình” ấy thì nàng Kiều cũng tầm thường như một cô gái làng chơi mất hết nhân phẩm. Cái “giật mình” ấy chứng tỏ Thúy Kiều đã đau đớn biết bao nhiêu khi nhân phẩm bị nhơ bẩn, “Mặt sao dày gió dạn sương - Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”, nàng phẫn uất, đay nghiến thực trạng phũ phàng, cuộc sống bị cầm tù trong một vòng tròn luẩn quẩn không lối thoát. Người đọc dường như không phân biệt được đâu là lời của nhân vật, đâu là lời của nhà thơ vì Nguyễn Du đã nhập thân để hiểu tận cùng nỗi đau của Thúy Kiều và bất bình thay cho nàng. Thúy Kiều đã trải qua bao nhiêu sóng gió, qua tay bao nhiêu kẻ, chịu nhiều nỗi nhục nhã, ê chề nhưng nàng vẫn kiên cường, mạnh mẽ chống chọi tất cả. Hơn hết Thúy Kiều vượt lên số phận, luôn khát khao yêu thương, khát khao hạnh phúc, khát khao được đoàn tụ. Đây đều là những khát vọng bình dị nhưng lại vô cùng lớn lao đối với số kiếp tài hoa bạc mệnh như Thúy Kiều. Qua việc xây dựng hình tượng Thúy Kiều đẹp đẽ, đầy sức sống, đầy khát khao và tình yêu Nguyễn Du đã gửi gắm đến người đọc thông điệp về khát vọng sống, khát vọng vươn tới hạnh phúc. Khi tình yêu lớn hơn sự khắc nghiệt của hiện tại thì nó sẽ chiến thắng.. Trong khi phản ánh những hiện tượng xã hội không phải Nguyễn Du chỉ mô tả một cách khách quan, theo chủ nghĩa tự nhiên mà trong mỗi cảnh ngộ éo le, mỗi sự đày đọa đối với nàng Kiều đều chứa đựng một sự phẫn nộ, một lời phản kháng đối với những kẻ đã gây ra tai họa. Thông cảm một cách chân thật, thấm thía với số phận của Kiều, Nguyễn Du nhận thức được rằng trách nhiệm của mình là bảo vệ phẩm giá của con người, tố cáo chế độ xã hội mục nát đương thời qua tái hiện những nhân vật tiêu biểu cho cái luân thường đạo lý xuống cấp của xã hội ấy. Thơ văn của Nguyễn Du là một lời bảo vệ thiết tha quyền sống của con người. Có thể nói, việc để người phụ nữ trong xã hội phong kiến đóng vai chính quyết định tình yêu của mình, Nguyễn Du đã vượt xa những thành kiến của xã hội đương thời về người phụ nữ, đồng thời thách đố tất cả những trào lưu đương đại về tình yêu thương. Ẩn sâu trong từng lời thơ, chúng ta dễ nhận thấy tấm lòng xót thương bao la đối với thân phận con người bị chà đạp, lòng tôn trọng phẩm giá đối với những con người tưởng chừng đã chìm xuống tận dưới đáy cùng của xã hội. Không dừng lại ở đó, giữa cảnh ngột ngạt của xã hội phong kiến ấy vẫn ngời sáng một tình yêu mãnh liệt đối với cuộc sống. Giữa những xấu xa, tàn ác, những cái dối trá, lừa lọc được miêu tả trong các tác phẩm của Nguyễn Du thì ẩn đằng sau nó dường như vẫn bùng cháy ngọn lửa của hy vọng - hy vọng về một ngày mai tốt đẹp hơn, hy vọng rằng tất yếu lẽ phải sẽ chiến thắng. Những bọn bất nhân bạc ác rồi cuối cùng bị trừng trị, những người lương thiện dù trải qua gió dập sóng dồi, nhưng cuối cùng sẽ gặp điều hay. Có thể có người cho rằng lòng tin ấy là ngây thơ và cảnh đoàn viên kết thúc Truyện Kiều là gượng gạo, nhưng có lẽ chính.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> lòng tin, niềm hy vọng ấy là chính là sức mạnh đưa Nguyễn Du trở về với nhân dân, là nhà thơ, nhà tư tưởng của nhân dân muôn đời nay.. 3-2. “ Lão Hạc” tình cảm của Nam Cao đối với người nông dân trước Cách mạng tháng Tám Có lẽ bất cứ một con người nào, dù ở các cương vị xã hội khác nhau cũng đều cần nuôi dưỡng tâm hồn, nhân cách của mình bằng cách này hay cách khác mà trong đó, các tác phẩm văn học là một loại hình rất có ý nghĩa trong quá trình này. Nam Cao, nhà văn đã sống cách chúng ta hàng nửa thế kỷ, người đã từng luôn tự giày vò khổ sở vì lẽ sống thế nào cho phải, viết thế nào cho hay...để cho ra đời những tác phẩm mà cho đến bây giờ và cả mãi mãi sau này vẫn còn nguyên giá trị. Đọc tác phẩm của Nam Cao, cảm nhận được rất nhiều điều trong đó nổi bật lên tình người, lòng nhân ái, bao dung thấm đậm chất nhân văn, ta học được ở ông sự quan sát, phân tích, đánh giá sự vật; ta nhận thấy nỗi day dứt trăn trở trước thời cuộc và số phận con người, biết nhạy cảm trước cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác, cái cao thượng, cái thấp hèn và đứng trước một tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm của Nam Cao nói riêng, ta thấy cuộc sống này có rất nhiều điều mà thông qua ngôn ngữ của nhà văn ta được “hưởng thụ” nhanh nhất và cũng phần nào nhờ đó mà ta thấy cuộc sống quanh ta vô cùng ý nghĩa, vô cùng thú vị. Tác phẩm trước hết được khẳng định qua tấm lòng đồng cảm của nhà văn đối với những số phận bất hạnh của các nhân vật trong tác phẩm. Những con người trong tác phẩm này đều là nạn nhân của xã hội phong kiến nửa thực dân. Họ phải gồng mình chống lại nạn đói, những hủ tục phong kiến,... Và mỗi người lại có những nỗi khổ riêng. Nhân vật chính, lão Hạc, là một người có hoàn cảnh vô cùng bi đát. Vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất bỏ đi làm đồn điền cao su. Một mình lão phải đối mặt với tuổi già, bệnh tật, cái đói và sự cô đơn. Nhà văn hay chính là nhân vật ông giáo trong tác phẩm đã không nén được những lời thương cảm: "luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai". Con trai lão Hạc cũng là một người đáng thương. Vì nhà nghèo, anh không lấy được người con gái mình yêu. Phẫn chí, anh bỏ làng đi, cái đất cao su "đi dễ khó về", "khi đi trai tráng khi về bủng beo". Ông giáo, một nhân vật có uy tín ở làng, trong thời buổi ấy cũng túng thiếu dặt dẹo, đang sống cái đời "sống mòn", "rỉ ra, mốc lên”. Có thể nói, thông qua "Lão Hạc" Nam Cao đã thể hiện lòng thương, sự đồng cảm với tất thảy những lớp người bần cùng trong xã hội Việt Nam khi ấy. Nhưng sống trong nghèo đói mà không bị cái bần hàn bài mòn nhân phẩm, đó là một đặc điểm đáng quý của người nông dân Việt Nam. Và một biểu hiện quan trọng khác của giá.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> trị nhân đạo trong tác phẩm là nhà văn đã biết khám phá để nâng niu trân trọng và ngợi ca phẩm chất ngời sáng trong tâm hồn những người đồng bào lao khổ của mình. Các nhân vật trong "Lão Hạc" hầu hết đều là những người giàu tình thương như Nam Cao vậy. Tình phụ tử ở nhân vật lão Hạc đặc biệt cảm động. Dù rất đau lòng nhưng lão chấp nhận nỗi cô đơn hờn tủi, đồng ý để con trai ra đi theo chí hướng của mình. Con đi rồi, lão chỉ còn con chó Vàng làm bạn. Lão Hạc yêu con chó Vàng đến độ gọi nó là "cậu" Vàng, ăn gì cũng cho nó ăn cùng, cho nó ăn ra bát như người... Có điều đó không đơn giản bởi lão là người yêu động vật. Hãy nghe lời tâm sự của lão với ông giáo:“con chó ấy là của cháu nó để lại.” Vậy là lão Hạc yêu con Vàng phần lớn bởi đó là kỉ vật duy nhất do con để lại. Lão đã dồn toàn bộ tình cha cho con chó ấy. Khi bán cậu Vàng, "lão khóc như con nít", "mắt ầng ậng nước".... Không chỉ vậy, lão thậm chí còn chấp nhận cái chết để giữ đất cho con. Cái đói rượt lão gần đến đường cùng. Vẫn còn một lối nhỏ khác là bán mảnh vườn để lấy tiền ăn nhưng lão nghĩ rằng: đó là mảnh vườn của vợ để lại cho con trai... Và lão chọn cái chết chứ nhất quyết không bán đất của con. Con trai lão Hạc vì phẫn chí mà đi cao su nhưng trước khi đi vẫn để lại cho cha ba đồng bạc. Cả ông giáo, dẫu gia đình vẫn bữa đói bữa no nhưng luôn cố gắng giúp đỡ, cưu mang người hàng xóm bất hạnh... Sống trong cái đói, cái nghèo nhưng không bị sự bần hàn làm cho quay quắt, hèn mọn, điều đáng quý nhất ở người nông dân Việt Nam trước Cách mạng là lòng tự trọng sáng ngời trong nhân phẩm. Lão Hạc thà nhịn đói chứ không chịu ăn không dù chỉ là củ khoai củ sắn của hàng xóm. Lão đã có thể bán vườn lấy tiền chống chọi với cái đói nhưng lão không làm vậy vì nhất quyết không ăn vào của con. Lão cũng có thể chọn con đường như Binh Tư đi đánh bả chó lấy cái ăn. Và lão không hề làm vậy. Con người ấy, đến lúc chết vẫn còn lo mình làm phiền hàng xóm nên dành dụm gửi gắm ông giáo tiền làm ma. Cảm động hơn cả là nỗi lòng quặn thắt của lão sau cái chết của con Vàng. Lão dằn vặt bởi nghĩ mình "đã đi lừa một con chó". Lão Hạc ơi! Ẩn bên trong cái hình hài gầy gò, già nua của lão là một tâm hồn cao thượng và đáng trân trọng. Đồng cảm với số phận của người lao động, đặc biệt là người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, đồng thời ngợi ca những phẩm chất cao quý của họ là những biểu hiện quan trọng của giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Lão Hạc" của Nam Cao. Viết về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, giọng văn Nam Cao lạnh lùng, bàng quan nhưng ẩn sâu trong đó là một tình thương sâu sắc và mãnh liệt. Tác phẩm của ông đã phản ánh hiện thực bộ mặt xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, một xã hội mà ở đó số phận của những người nông dân chất phác hồn hậu đã bị bần cùng trong đói khổ, quằn quại trong sự chèn ép và thông qua việc sử dụng ngôn ngữ tài tình, tinh tế với những tình huống điển hình Nam Cao đã làm được một việc lớn lao hơn.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> hẳn một số nhà văn hiện thực phê phán tiêu biểu cùng thời là “sự tổng hợp của nhiều tiếng nói, nhiều giọng điệu, nhiều lớp ý nghĩa, nhiều màu sắc thẩm mỹ, gợi sự suy ngẫm, liên tưởng” của người đọc khi đọc tác phẩm của ông và qua tác phẩm của ông thấy yêu quý, trân trọng ông – một nhà văn đầy nhân ái, đầy tình người.. 4. Kết luận vấn đề Tác phẩm văn học nói bằng thứ tiếng duy nhất : thứ tiếng của cảm xúc. Bản chất người sáng tác là giải bày tình cảm và nhạy bén trước cuộc đời “khi tôi viết là tôi đau ở đâu đó trong người” (Rospuchin ). Một tác phẩm văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở của đời sống, con người thì sẽ không truyền được cảm xúc đến người đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời, chuyện con người gắn với thứ tình cảm mãnh liệt chỉ con người có thể có. Nhà văn muốn sáng tác phải lặn ngập trong biển lớn của cuộc đời, tìm cái đẹp xấu, thiện ác, cơ cực, lầm than, áp bức, bất công,… đưa vào tác phẩm với tất cả trái tim đồng cảm, yêu thương..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Hải Hưng (2010), Một số đặc trưng cơ bản trong năng lực sáng tác của người nghệ sĩ. 2. Nguyễn Kim Sơn, Trần Nguyên Việt (2012), Tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du. 3. Bùi Việt Lâm (2015), Gía trị tư tưởng của văn học trước hết ở giá trị tư tưởng. 4. Phạm Quang Trung, Tình cảm – một đặc thù bậc của văn chương. 5. Trần Hoài Anh (2011), Nhà văn trong quan niệm lí luận phê bình văn học ở đô thị 6. Một vườn hoa nhiều hương sắc ,Nsb Văn hóa Dân tộc(1985) 7. Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp Các hội VHNT số 2/2010 8. Trần Bá Đĩnh(2003), Nguyễn Du về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáodục Hà Nội. 9. Trần Nho Thìn(2004), Cảm nhận của Nguyễn Du về xã hội trong Truyện Kiều (Tạp chí Văn học số 5,6).

<span class='text_page_counter'>(14)</span>

×