Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Mot so giai phap duy tri si so va dam bao chuyen can lop chu nhiem o tieu hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.16 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….3 I/. Đặt vấn đề …….……..……………………………………………………………..3 II/. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………..4 B. PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………….4 I/. Thực trạng ban đầu ………………………………………………………………...4 II/. Các biện pháp tiến hành …………………………………………………………...5 1/. Phương pháp xử lí thông tin ……………………………………………………..5 2/. Phương pháp dạy học bằng tình thương …………………………………………6 3/. Phương pháp giao việc cho học sinh chưa hoàn thành …………………………..7 4/. Phương pháp thư giản ( vui chơi ) trong các tiết học ……………………………7 5/. Tạo môi trường giáo dục tốt ……………………………………………………..8 6/. Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp ………………………………………...8 7/. Xây dựng phong trào “ Giúp bạn vượt khó” ……………………………………..9 8/. Phương pháp “ Phối hợp với phụ huynh học sinh” ……………………………...9 9/. Phương pháp giúp học sinh khó khăn trong học tập ……………………………10 III/. Nguyên nhân thành công, tồn tại ……………………………………………….11 IV/. Kết quả đạt được ……………………………………………………………….11 V/. Hiệu quả đạt được ………………………………………………………………12 1/. Tác dụng của đề tài qua thực tiễn công tác …………………………………… 12 2/. Phạm vi tác dụng ………………………………………………………………13 3/. Bài học kinh nghiệm …………………………………………………………...13 C. Phần kết luận ………………………………………………………………………13. 1.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> 2.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> A. PHẦN MỞ ĐẦU I/. Đặt vấn đề: Ngày 4.11.2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu chỉ rõ: “Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020. Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương”. Quan điểm chỉ đạo: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp”. Đây là các định hướng chiến lược để đưa đất nước ta tiến vào một thế kỉ mới phù hợp với yêu cầu của thời đại – Một thời đại mà trí tuệ 3.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> con người được xem như một tài sản quý báu, để tạo nên mặt bằng cao về dân trí. Trong đó giáo dục đóng vai trò quan trọng để thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển quốc gia. Chính vì vậy, việc duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần ở trường Tiểu học đóng một vai trò rất quan trọng trong việc học tập của học sinh nói riêng và trong việc thực hiện phổ cập giáo dục nói chung. Việc duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ và mang lại kết quả học tập tốt. Nhưng hiện nay, một số học sinh trong địa phương thuộc con em gia đình lao động nghèo, một số dân từ các vùng khác chuyển đến vì cuộc sống mưu sinh phải đi làm thuê, họ gửi con em vào trường Tiểu học An Nông để học. Chính vì mãi lo cho kinh tế gia đình một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của con em nên việc các em nghỉ học, bỏ học trong thời gian nhiều ngày ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài và kết quả học tập là điều không tránh khỏi. II/. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học ngày càng phổ biến. Cấp học càng cao tỷ lệ học sinh bỏ học càng lớn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học nhưng trong đó nguyên nhân chính là các em học tập chưa hoàn thành nên không thích đi học, không thích đến trường dẫn đến duy trì sĩ số và chuyên cần không đảm bảo. Xã hội ngày càng phát triển thì yêu cầu về giáo dục cũng được nâng cao. Đòi hỏi trong xã hội ai cũng được học hành, được tiếp thu kiến thức, kĩ năng, năng lực và phẩm chất từ nhà trường để phục vụ cuộc sống sau này. Chúng ta ngày đêm đang ra sức phổ cập giáo dục ở các cấp học. Nhưng trên thực tế có biết bao học sinh bỏ học giữa chừng, biết bao nhiêu trẻ em không biết đọc, biết viết hoặc đọc viết không thông thạo mà đã bỏ học. Tất cả đều là sản phẩm của nhà trường, do không quan tâm chưa đúng mức đến học sinh, không có biện pháp để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần. Vì thế, qua nhiều năm công tác bản thân tôi luôn suy nghĩ và đặt cho mình câu hỏi: “ Làm thế nào để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần?”. Đây cũng là một vấn đề giúp các em tiếp thu bài đầy đủ, có kết quả tốt trong học tập và tiếp tục con đường học vấn của mình. Đó là lý do tôi viết sáng kiến “Một số giải pháp duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần lớp chủ nhiệm ở tiểu học” B. PHẦN NỘI DUNG. I/. Thực trạng ban đầu: 4.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Đơn vị trường Tiểu học An Nông, trên địa bàn một bộ phận gia đình quan tâm đến việc học, bên cạnh đó một số là con em gia đình lao động nghèo, có hoàn cảnh khó khăn bộn bề với những lo toan cho miếng cơm, manh áo, đa phần thiếu quan tâm đến việc học của con em. Trong những năm gần đây sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền đoàn thể, các ngành và sự chuyển biến nhận thức của cộng đồng về công tác giáo dục đã góp phần đáng kể cho công tác huy động học sinh đến trường, hạn chế học sinh bỏ học. Tuy nhiên trong thực tế công tác duy trì sĩ số của lớp chủ nhiệm vẫn còn không ít khó khăn, rất đáng quan tâm. Các em ham chơi trốn học, học chưa hoàn thành, kiến thức cơ bản bị hụt hẩng không tiếp thu được kiến thức mới nên các em chán, mất hứng thú học tập, mặc cảm với bạn bè về trình độ một số ý thức học tập chưa cao làm cho các em chán học dẫn đến bỏ học, một số khác học sinh có hoàn cảnh đặc biệt: cha mẹ ly hôn ở với ông bà hoặc chú bác, gia đình thiếu quan tâm. Đôi lúc chưa làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, chưa quan tâm đúng mức đến học sinh lớp mình như: Hoàn cảnh sống, điều kiện học tập. Chưa thật sự gần gũi với các em để hiểu được tâm tư, tình cảm nhất là các em có hoàn cảnh khó khăn, học sinh học chưa hoàn thành. Trong giảng dạy chưa phát huy được tính tích cực học tập của các học sinh, chưa kích thích tính tự tìm tòi, khám phá điều mới, việc phân hóa đối tượng học sinh trong giảng dạy của giáo viên chưa tốt. Thiếu thu hút các em trong học tập. Đặc biệt là ở các em bị hụt hẩng kiến thức để các em có thể phấn đấu vươn lên. Đôi lúc chê trách, cáo gắt, nặng nề tạo sự ngăn cách thầy trò ngày một xa . Trường chưa tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá nhằm thu hút các em bám trường, bám lớp, hoạt động của Đoàn, Đội còn đơn điệu và hình thức chưa phong phú nên chưa tạo nhiều sân chơi cho các em. Một số gia đình sự nhận thức còn hạn chế, thiếu quan tâm đến việc học tập của con em, không theo dõi kiểm tra nhắc nhở con em mà bỏ mặc cho thầy cô và nhà trường. Một số gia đình lao động nghèo tất bật với sinh hoạt đời sống hằng ngày, chỉ nghỉ tới lợi ích trước mắt mà cho con em nghỉ học lao động sớm như: bán vé số, hái ớt mướn … hoặc đi làm ăn xa vào mùa vụ. Địa phương do nhiều công việc nên công tác lãnh chỉ đạo đôi lúc chưa thường xuyên chủ yếu vào những thời gian cao điểm ( đầu năm học hoặc vụ mùa… ). Trong thực thi luật phổ cập giáo dục chủ yếu là giáo dục thuyết phục, chưa mạnh dạn giải quyết đối với một số hộ gia đình có đủ điều kiện nhưng không muốn cho con em đến trường. Chính từ thực tế đó là giáo viên chủ nhiệm tôi luôn tìm mọi biện pháp kết hợp gia đình và ban tự quản ấp nắm bắt kịp thời những nguyên nhân bỏ học để vận động các em trở lại lớp kịp thời nhằm hoàn thành tốt công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần lớp chủ nhiệm. 5.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> II/. Các biện pháp tiến hành. Từ thực trạng của vấn đề như thế, tôi đã trăn trở tìm những biện pháp giải quyết, với mong muốn giúp các em thoát khỏi cảnh học chưa hoàn thành đưa đến chán học rồi bỏ học để hoàn thành tốt công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần . Vì vậy tôi đã tìm các biện pháp giải quyết như sau: 1/. Phương pháp xử lí thông tin. Ngay từ đầu năm học, tôi thống kê và nắm chắc số lượng học sinh chưa hoàn thành có nguy cơ trở thành học sinh không đảm bảo duy trì sĩ số và chuyên cần ở lớp mình. Phải tìm ra những nguyên nhân dẫn đến sự chưa hoàn thành đó ở học sinh. Phân loại học sinh chưa hoàn thành theo những nguyên nhân chủ yếu và có kế hoạch giúp đỡ thích hợp với từng loại. Ví dụ: Học sinh chưa hoàn thành vì mất kiến thức căn bản từ lớp dưới, ..., học sinh chưa hoàn thành vì ham chơi với bạn xấu, ham chơi game, ..., học sinh học chưa hoàn thành vì hoàn cảnh gia đình, ... Từ đó, tôi có kế hoạch giảng dạy thích hợp, giải quyết sự chưa hoàn thành của học sinh từ những nguyên nhân trên. Ví dụ: Học sinh chưa hoàn thành vì mất kiến thức từ lớp dưới thì tổ chức phụ đạo cho các em lấy lại kiến thức; học sinh chưa hoàn thành vì ham chơi thì quản lí các em tốt hơn, tổ chức các hình thức vui chơi để các em ham thích học tập, ..., học sinh học chưa hoàn thành vì hoàn cảnh gia đình thì giáo viên phối hợp với phụ huynh để tìm biện pháp tháo gỡ, ... Tôi xác định được mức độ học sinh chưa hoàn thành, như các em chưa hoàn thành môn gì? Kiến thức gì? Tôi có hồ sơ để theo dõi từng em học sinh chưa hoàn thành ở lớp mình... biện pháp đã đề ra, sự chuyển biến của học sinh theo từng tháng... 2/. Phương pháp dạy học bằng tình thương. Đối với học sinh chưa hoàn thành thông thường giáo viên luôn có ác cảm. Vì các em mà giáo viên phải bỏ công sức nhiều hơn, thành tích lớp bị hạ thấp, danh hiệu thi đua bị cắt, ... cho nên khi kèm cặp học sinh chưa hoàn thành tại lớp mình giáo viên thường bực bội, có thái độ không tốt như: chửi mắng, nói nặng nhẹ, thậm chí nhiều giáo viên còn dùng những lời lẽ, hình phạt không phù hợp với giáo dục hiện nay. Như vậy, học sinh không thể nào học tốt được, mỗi lần thầy cô lại gần là sợ bị chửi mắng, ... nên học sinh chưa hoàn thành lại càng học chưa hoàn thành hơn, Một số giáo viên hiện nay về phương pháp giáo dục còn mang ảnh hưởng cách giáo dục cũ như còn dùng hình phạt, nhục mạ học sinh trước lớp làm cho các em không có thiện cảm với giáo viên, với trường lớp, sinh ra chán học. Để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành giáo viên phải biết sử dụng lời lẽ, cử chỉ, tổ chức các hoạt động dẫn dắt các em vào bài học, giúp các em yêu mến bạn bè, trường lớp, thầy cô, ... Giáo viên muốn học sinh ham thích học thì trong tiết dạy điều cần thiết là phải thể hiện được tác phong sư phạm mẫu mực, gần gũi, ân cần với học sinh. Tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh. Trong giảng dạy tôi luôn lưu ý về lời ăn tiếng nói, phải nhẹ nhàng, giữa tôi và học sinh luôn có sự ăn ý nhịp nhàng, khi giảng bài tôi luôn quan sát học sinh trong lớp, đặc biệt 6.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> những em học chưa hoàn thành hay nghịch ngợm. Mỗi lần học sinh có ý kiến nếu trả lời sai thì luôn giúp học sinh hiểu cái sai, định hướng các em vào cái đúng, chứ không để các em ngồi xuống mà không biết mình sai điểm nào, đừng để các em mất mặt trước bạn bè, làm trò cười cho lớp học. Biết động viên, khích lệ học sinh dù các em chưa thật sự tiến bộ hay tiến bộ rất chậm. Giáo viên phải biết sử dụng những năng khiếu của mình làm tiết học thêm sinh động. Ví dụ: Tìm những câu chuyện vui kể cho các em, để các em thấy thoải mái, ... Một tiết học mà học sinh hoạt động vui vẻ sẽ có hiệu quả hơn những tiết học mà học sinh quá nghiêm túc. Để các em chưa hoàn thành mạnh dạn hơn thì giáo viên phải biết yêu thương, gần gũi, tạo sự thân tình để các em hòa đồng vào môi trường học tập ở trường lớp. Để từ đó các em có ấn tượng tốt với trường lớp, thầy cô, ... mà ham thích học tập. Tôi luôn gần gũi, tâm sự và trò chuyện với những học sinh chưa hoàn thành, không chuyên cần đặc biệt những em nhút nhát. Hỏi các em về chuyện gia đình, về chuyện học hành, để các cảm thấy thân thiện với giáo viên hơn và qua đó tôi sẽ hiểu được nguyên nhân vì sao các em học chưa hoàn thành, không muốn đi học, hiểu về tâm tư tình cảm, hoàn cảnh các em để có biện pháp giáo dục tốt hơn. Ví dụ: Nhà em ở đâu? Bố mẹ em làm gì? Hôm nay em đi học với ai, bằng phương tiện gì? Hôm nay em có hiểu bài không? Có cần thầy giúp gì không? Nhiều khi chỉ một câu nói, một cử chỉ của thầy cô mà thay đổi cả cuộc đời các em. Làm cho các em thấy thầy cô luôn quan tâm đến mình, không ghét bỏ mình và các em thêm gần gũi, yêu mến thầy cô, tự tin vào bản thân mình. Ví dụ: Như một lời khen, một lời khuyến khích, động viên, một cử chỉ thân mật, ... ). Đối với các em còn thiếu tự tin thì giáo viên nên tìm lấy một ưu điểm nào đó của các em để khen ngợi động viên. Hãy luôn khen học sinh, cố tìm ưu điểm dù là nhỏ nhất để khen. Ngoài ra, cuối tháng, cuối học kỳ, ... cần có các hình thức khen thưởng cho các em học sinh chưa hoàn thành mà học tập có tiến bộ nhằm động viên các em có thêm hứng thú trong học tập. Vì vậy, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ, tôi thường tổ chức cho các đồng chí giáo viên của tổ giao lưu, học hỏi đưa ra những hình thức, cách thức tổ chức hay nhất nhằm thu hút sự ham thích đến trường cho các em.. 3/. Phương pháp giao việc cho học sinh chưa hoàn thành. Để học sinh chưa hoàn thành học tập có tiến bộ, chúng ta cần cho học sinh thấy các em luôn được thầy cô tin tưởng, thương yêu, được làm việc có ích cho trường lớp, thầy cô bằng cách giao việc cho các em làm. Tôi luôn thường xuyên tìm những việc nhỏ, thích hợp hàng ngày ở lớp để giao các em làm. Đặc biệt là những học sinh chưa hoàn thành lại có tính nhút nhát, rụt rè và tự ti, để các em mạnh dạn, gần gũi thầy cô hơn. Các em này sẽ rất vui, rất tự hào và cảm thấy mình đã làm việc có ích và từ đó học tập được tốt hơn. Ví dụ: Nhờ các em thông báo họp Sao, Đội. Nhờ tưới cây, khiêng bàn ghế, chuyển thông báo, ...Làm cho các em thêm gần gũi với thầy cô và cảm thấy mình được thầy cô tin 7.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> tưởng, giao phó nhiệm vụ trước lớp, từ đó các em có thêm tự tin vào bản thân mình, gần gũi trường lớp hơn, ham học và cố gắng học tập hơn....Đặc biệt, những học sinh chưa hoàn thành vì ham chơi, vì không chịu học thì chúng ta cần làm cho các em này yêu thích trường lớp, rồi mới yêu thích học tập. 4/. Phương pháp thư giản ( vui chơi ) trong các tiết học. Trong học tập có nhiều môn học khô khan, nặng về kiến thức như: toán, tập làm văn, luyện từ và câu, ... Đối với học sinh chưa hoàn thành thường không có hứng thú học những môn này. Như vậy để tạo được hứng thú, ham thích việc học ở học sinh chưa hoàn thành, tôi tăng cường các trò chơi, hình thức học tập sinh động trong tiết học. Khi tổ chức một trò chơi thì học sinh chưa hoàn thành sẽ tham gia hết mình và qua trò chơi giáo viên giúp học sinh nắm được kiến thức, hiểu được bài hơn. Ngoài các trò chơi, tôi còn tổ chức các hình thức học tập sinh động khác để giúp học sinh chưa hoàn thành có hứng thú trong học tập như: đóng kịch, phỏng vấn, ... Nhiều hình thức học tập sinh động khi tổ chức không nên cầu kì quá dẫn đến mất thời gian, tốn kém,... giáo viên nên chọn các hình thức học tập đơn giản nhưng mang hiệu quả cao.... Trong thời gian chuyển tiết giữa các môn học, tôi dành từ 5 đến 7 phút cho học sinh vui chơi ( chơi trò chơi, múa hát, kể chuyện, đóng kịch, thi đố vui, ....). Để tổ chức trò chơi và các hình thức học tập sinh động khác giáo viên lưu ý phải để cho học sinh chưa hoàn thành tham gia, phải biết được trong hình thức học tập đó học sinh chưa hoàn thành có thể tham gia ở phần nào. 5/. Tạo môi trường giáo dục tốt. Với trường lớp khang trang như hiện nay, đội ngũ giáo viên nhiệt tình, sự quan tâm của Ban Giám hiệu, sân chơi rộng rãi, thoáng mát đó là một thuận lợi rất lớn để xây dựng một môi trường sư phạm tốt cho học sinh vui chơi, học tập. Phải tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể, tạo khung cảnh giáo dục tốt làm cho học sinh ngồi trong lớp học thấy vui tươi, thích thú, không nặng nề, sợ sệt. Tôi luôn lưu ý xem tài sản của trường lớp, chăm sóc lớp như nhà của mình để cùng nhau lao động, vệ sinh, trang trí, … Giờ ra chơi tôi luôn tổ chức hướng dẫn các em vui chơi tập thể, đọc sách báo để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và sự gần gũi thân mật giữa học sinh với giáo viên. Trong những năm qua, bằng hình thức này tôi đã tạo cho các em sự vui thích tìm tòi, tham gia tích cực các phong trào của trường lớp tổ chức. Tôi cũng thường xuyên quan tâm đến hoàn cảnh sống của một số em học sinh nghèo nhằm tìm ra phương pháp khắc phục khó khăn. Tôi kêu gọi học sinh, phụ huynh lớp có hoàn cảnh kinh tế gia đình khá giả quyên góp mua dụng cụ học tập quần áo giúp các em tiếp tục đến trường. Liên lạc, trực tiếp trao đổi với phụ huynh học sinh về việc học 8.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> tập, tâm tư tình cảm của các em. Từ đó động viên, khuyến khích phụ huynh học sinh có hướng khắc phục cho các em đến trường đều đặn ( đối với những gia đình ít quan tâm đến việc học tập của con cái hoặc có ý định cho con nghỉ học ). Giáo dục riêng đối với những trường hợp học sinh trốn học, nghỉ học không phép, hay liên tục nghỉ học nhiều ngày và báo về gia đình để gia đình kịp thời nắm rõ, có biện pháp kết hợp với nhà trường quản lý các em. 6/. Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành có hứng thú học tập, gắn bó hơn với trường lớp ngoài các tiết học chính khóa, giáo viên cũng cần thông qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp như: tiết sinh hoạt lớp, các hoạt động ngoài giờ, …Trong tiết sinh hoạt lớp tôi luôn tổ chức tuyên dương các em học chưa hoàn thành ( dù đó là tiến bộ nhỏ nhất ) nhằm làm cho các em có thêm hứng thú trong học tập và để cho các em thấy mọi nổ lực của các em luôn được giáo viên và bạn bè đánh giá cao. Tôi còn thường xuyên phối hợp với giáo viên Tổng phụ trách Đội tổ chức các cuộc thi giữa các lớp để giúp các em lấy lại kiến thức,… Chú ý nội dung thi chỉ dành cho học sinh chưa hoàn thành và câu hỏi thường đơn giản để các em có thể trả lời được. Ví dụ: Thi về kiến thức Tiểu học, về an toàn giao thông, về phòng tránh bệnh tật, ….Qua cuộc thi giúp các em ôn lại kiến thức và giúp các em chưa hoàn thành kém ham học hơn. Phối hợp Tổng phụ trách tuyên dương các em chưa hoàn thành có tiến bộ qua lễ chào cờ. Ngoài ra, tôi còn tổ chức cho lớp mình hoạt động độc lập. Tôi soạn một số câu hỏi ( Nội dung câu hỏi là những kiến thức các em chưa nắm bắt được ) giao cho các em chưa hoàn thành đại diện cho các tổ về học và tìm hiểu, để hôm sau lên thi … Khi nhận trách nhiệm này, các em sẽ cố gắng học và tìm hiểu để hôm sau lên thi đua với các bạn. Một hki có hình thức thi đua trong các hoạt động sẽ luôn kích thích các em cố gắng và làm những việc hằng ngày các em không làm được. Ví dụ: Trong lớp, một số em chưa nắm được cách tìm “ Tỉ số phần trăm của hai số” giáo viên giao cho các em đó về học và tìm hiểu để hôm sau thi đua với các tổ khác. Tất nhiên khi được giao các em đó sẽ cố gắng về học để thi đua được tốt hơn” 7/. Xây dựng phong trào “ Giúp bạn vượt khó”. Khi nắm bắt học sinh vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, thiếu điều kiện học tập, thiếu 9.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> tình yêu thương của bố mẹ, làm cho các em buồn nản, tủi thân không muốn đến lớp. Tôi phát động phong trào các em làm kế hoạch nhỏ, tiết kiệm tiền, quà bánh hàng ngày đóng góp lại mua sách, vở, bút, áo quần, …. Mục đích giáo dục các em tinh thần tương thân tương ái, giúp bạn có điều kiện học tập tiến bộ, vơi đi những khó khăn mà các em phải gánh chịu. Món quà dù ít nhưng đó là nguồn an ủi, động viên rất lớn đối với các em có hoàn cảnh khó khăn, giúp các em vui vẻ và thích đi học hơn. Bên cạnh đó, trong các kỳ họp phụ huynh học sinh tôi đã kêu gọi, động viên những phụ huynh có điều kiện kinh tế gây quỹ “ Phụ huynh học sinh giúp đỡ những học sinh nghèo, bất hạnh” để các em được đến trường. Đồng thời tôi mạnh dạn đề bạt, tham mưu Ban Giám hiệu, Ban Chấp hành Công Đoàn, Hội Khuyến học, … chăm lo: quần áo, đồ dung học tập, quà bánh, … cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống và tích cực trong học tập. Ngoài ra, hàng tuần, trong tiết sinh hoạt lớp tôi luôn nhắc nhở học sinh không nghỉ học với những lý do không chính đáng như: bận việc nhà, trông nhà, đám tiệc, đi chơi, ….Tôi tổng kết ngày nghỉ của các em rồi phân tích cho các em thấy nghỉ học như thế nào là chính đáng và không chính đáng, việc nghỉ học của mình làm ảnh hưởng đến lớp, thầy cô, bạn bè phiền lòng như thế nào, ảnh hưởng đến kết quả học tập của bản thân ra sao? Vì vậy, mà các em có lý do không chính đáng vẫn cố gắng đến lớp chứ không dám nghỉ học. Đối với các em bị khuyêt tật ( khó khăn nói, khó khăn nghe, khó khăn về vận động, khó khăn về nhìn, …) tôi giáo dục học sinh không chế nhạo bạn, mà phải tìm mọi cách để giúp đỡ bạn, để các bạn đó vui vẻ, không mặc cảm về tật của mình mà hòa nhập với tập thể không bỏ học, đi học đều, cảm thấy đến trường là một ngày vui. 8/. Phương pháp “ Phối hợp với phụ huynh học sinh”. Học sinh học hoàn thành hay chưa hoàn thành trước hết phụ thuộc vào rất nhiều từ phía gia đình, gia đình thiếu sự quan tâm trong việc giáo dục, chăm lo việc học hành của con em mình cũng là những nguyên nhân học chán học, nghỉ thường xuyên. Thêm vào đó, những tác động xấu của môi trường xã hội đã lôi kéo các em như ham chơi, đua đòi, nghe bạn xấu rủ rê … dẫn đến lơ là việc học, không có kiến thức căn bản nên học chưa hoàn thành gây nên chán nản, bỏ học. Một gia đình êm ấm, hòa thuận, cha mẹ biết chăm lo cho con cái, tạo điều kiện thuận lợi đẻ con em học hành, biết giáo dục con cái hiểu được ích lợi của việc học thì học sinh 10.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> sẽ học tốt hơn. Ví dụ: Một học sinh không có vở viết, không có vở viết đến trường, học sinh đó sẽ sợ đi học vì không có vở viết không chép bài, không làm bài được, có thể sợ thầy cô la mắng, phạt. Nếu cha mẹ kịp thời mua vở cho con, yêu cầu con cẩn thận hơn thì học sinh đó sẽ vui vẻ đi học. Nếu bố mẹ chửi mắng hoặc không mua vở viết thì sẽ làm cho em đó đi học với tâm trạng lo sợ thầy cô la rầy và phạt nên có thể trốn học. Từ đó, trở thành học sinh chưa hoàn thành, chán học, trở thành nguy cơ nghỉ học nhiều ngày đẫn đến bỏ học. Vậy, giáo viên chủ nhiệm cần biết phối hợp với phụ huynh trong việc tạo sự ham thích cho học sinh khi đến trường. Hiện nay, một số phụ huynh không biết cách giáo dục con cái thường la mắng khi con em mình mắc phải một lỗi lầm nào đó ở trường, lớp ( như chưa hoàn thành một môn học nào, đánh nhau với bạn, … ), làm cho các em sợ sệt, ức chế khả năng học tập, làm giảm đi niềm ham thích học tập ở các em. Do đó, giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi, hướng dẫn phụ huynh nên tạo điều kiện tốt để cho con mình đến trường ( đảm bảo thời gian đến trường, sắm dụng cụ học tập, giúp đỡ con học ở nhà, biết động viên kịp thời những tiến bộ của con em mình, nhắc nhở con em về thời gian học, …), khi giáo dục con em nên nhẹ nhàng, cần cho các em hiểu việc đó đúng sai thay vì la mắng, trừng phạt. Việc quan tâm đến bạn bè của con em cũng rất quan trọng. Chơi với bạn xấu trước sau các em cũng nhiễm thói xấu. Phụ huynh chú ý đến những thời gian rảnh rỗi của con em mình, cần biết các em đi đâu, chơi chỗ nào? Đừng cho các em quá nhiều thời gian tự do một mình mà cha mẹ không biết. Cần thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để biết tình hình của con em mình, như có đến trường không? Đến đúng giờ không? Có hành vi gì cần sửa chữa không?.... Khi học sinh chưa hoàn thành môn học nào, phụ huynh cần giúp con em lấy lại niềm tin học tập, nhận thức được học là một hoạt động đầy hứng thú. Cần có sự ham thích mới học tốt được. Giúp con em thấy được, từ những bài học trên lớp sẽ học được rất nhiều điều thú vị mà đều là những tri thức có lợi cho bản thân. Cần giúp trẻ vượt qua khó khăn để lấy lại kiến thức đã mất, động viên con em khi chưa hoàn thành một việc gì thì cũng không nên chán nản, mà nên tìm ra nguyên nhân để lần sau cố gắng làm tốt hơn. 9/. Phương pháp giúp học sinh khó khăn trong học tập. Ngay từ đầu năm học khi nhận lớp chủ nhiệm, tôi cho học sinh làm lý lịch ghi rõ họ tên, nghề nghiệp cha mẹ, hoàn cảnh sinh sống của gia đình, bao nhiêu em có hoàn cảnh khó khăn, bao nhiêu em có sổ hộ nghèo và công việc thường ngày của các em ở nhà…… tôi còn trao đổi và luôn nắm thông tin qua giáo viên chủ nhiệm năm học trước, xem em 11.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> nào thường xuyên trốn học, nghỉ học nhiều và có nguy cơ bỏ học… từ đó có giải pháp phân luồng học sinh theo nhóm như: nhóm học sinh chưa hoàn thành hay trốn học, nhóm học sinh có gia đình khó khăn, nhóm học sinh ham chơi… Qua một tuần học tập tôi nắm lại tình hình học tập của từng em và xem lại kết quả học tập của năm học trước, từ đó tôi có kế hoạch phân công các bạn học hoàn thành tốt giúp đỡ các bạn học chưa hoàn thành dưới hình thức đôi bạn cùng tiến. Tổ chức hội thảo chuyên môn ở tổ, liên tổ nhằm tìm kiếm các biện pháp hữu hiệu nhất phụ đạo đối tượng học sinh chưa hoàn thành. Nắm tình hình đạo đức từng em của lớp chủ nhiệm để qua đó thường xuyên theo dõi các hành vi, vi phạm của các em để động viên, uốn nắn kịp khi các em vi phạm. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng học sinh vi phạm nội qui, đưa đến xử lý dẫn đến các em chán phải bỏ học. III. NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG, TỒN TẠI a.Thành công: Việc thành công trong công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần của lớp tôi chủ nhiệm là do: Sự hướng dẫn đôn đốc thực hiện tốt công tác vận động duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần lớp của lãnh đạo nhà trường. Sự giúp đỡ nhiệt tình của các cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác vận động học sinh trở lại lớp học, sự giúp đỡ về vật chất của những mạnh thường quân trong địa bàn xã và sự phối kết hợp chặt chẽ giữa Giáo viên chủ nhiệm – Phụ huynh học sinh. Sự quan tâm giúp đỡ tận tình với tâm huyết của nhà giáo theo phương châm của Bác Hồ dạy “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Tạo môi trường học tập thuận lợi thoải mái, lấy học sinh làm trung tâm trong quá trình giáo dục. Xây dựng một tập thể vững mạnh biết tương thân tương ái lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Làm cho các em thấy được mỗi ngày đi học là một ngày vui. b. Tồn tại: Trong quá trình thực hiện, chúng ta phải lưu ý những vấn đề sau: Không phải phụ huynh nào cũng quan niệm giống nhau, có gia đình nghèo tiền nhưng không chịu nghèo chữ; cũng có gia đình nhìn chuyện học chữ của con em họ theo hướng chưa tích cực nên đôi khi họ có thái độ bất cần khi giáo viên đến vận động. Lúc ấy người giáo viên phải thật sự kiên nhẫn. Địa bàn dân cư còn một số khó khăn, phân tán, có gia đình sống tách bạch khu dân cư, …nên còn gặp vất vả trong vận động học sinh. 12.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Mỗi học sinh có hoàn cảnh, tâm lý khác nhau nên phải tùy theo hoàn cảnh của từng em mà áp dụng từng biện pháp thích hợp. IV/. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Qua thực hiện các giải pháp trên, công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần của lớp chủ nhiệm 2 năm học trước trong và học kì I, năm học 2014 – 2015, đạt được kết quả như sau:. Năm học. Sĩ số đầu năm. Sĩ số cuối năm. Số lượng HS bỏ học. 2012-2013. 37. 37. 0. 2013-2014. 27. 27. 0. Đến cuối HKI. 34. 34. 0. 2014-2015 V/. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC. 1/. Tác dụng của đề tài qua thực tiển công tác. Với những biện pháp nêu trên trong quá trình thực hiện công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần, trong các lớp chủ nhiệm những năm qua đã có nhiều chuyển biến tốt, sĩ số các lớp tiếp tục giữ vững, tỷ lệ chuyên cần hàng ngày luôn đạt cả tuần không vắng . Tỷ lệ chuyên cần lớp theo chiều hướng tiến bộ. Công tác chủ nhiệm ngày một nâng lên, nề nếp lớp tốt hơn . Giáo viên biết vận dụng và kết hợp tốt nhiều phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh ( hoàn thành, chưa hoàn thành) tạo hứng thú học tập của học sinh, các em đều thể hiện sự cố gắng vươn lên trong học tập. Tạo sự chuyển biến nhận thức của cộng đồng về công tác giáo dục, thể hiện được tinh thần trách nhiệm, tích cực tham gia công tác huy động và hỗ trợ học sinh đến trường. Năm học. Sĩ số đầu năm. Sĩ số cuối năm. Số lượng HS bỏ học. 2012-2013. 37. 37. 0. 2013-2014. 27. 27. 0. Đến cuối HKI. 34. 34. 0. 2014-2015 a.Với học sinh: Giáo dục học sinh nâng cao nhận thức đi học là quyền lợi là nghĩa vụ để có thái độ và động cơ học tập tốt, học để tương lai sau này tốt đẹp hơn. 13.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> b.Với giáo viên: Việc giáo dục ý thức học tập cho các em học sinh ngay từ những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường là cần thiết, là việc làm thường xuyên liên tục của người giáo viên. Từ đó, chất lượng học tập của học sinh mới nâng lên và công tác chống bỏ học của giáo viên chủ nhiệm mới đạt được kết quả tốt nhất. c.Với tổ chuyên môn: Sự thành công sáng kiến đem lại tổ có thành viên đạt chỉ tiêu hoàn thành tốt nhiệm vụ, từ đó lan rộng ra cho toàn tổ thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần lớp mình, nhờ thế công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần của tổ đạt chỉ tiêu đề ra. 2/. Phạm vi tác dụng. Sáng kiến kinh nghiệm áp dụng được cho tất cả giáo viên chủ nhiệm trong trường Tiểu học An Nông. Bên cạnh có khả năng áp dụng rộng rãi cho những giáo viên làm công tác chủ nhiệm bậc tiểu học ở các trường. 3/. Bài học kinh nghiệm. Từ những biện pháp và kết quả trên, rút ra một số bài học kinh nghiệm sau : Phải quán triệt tốt tinh thần văn bản chỉ đạo hướng dẫn của ngành, hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng công tác hạn chế học sinh bỏ học trong tập thể học sinh và phụ huynh, đặc biệt là tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị 30-CT/TU ngày 19/5/2008 của Ban thường vụ Tỉnh ủy An Giang và kế hoạch số 15/KH-UBND ngày 16/7/2008 của UBND Tỉnh An Giang về việc hạn chế học sinh bỏ học. Giáo viên chủ nhiệm phải nắm hoàn cảnh những học sinh có nguy cơ bỏ học để có hướng vận động hỗ trợ giúp đỡ phù hợp. Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên trao đổi phụ huynh, để thông báo kịp thời kết qua học tập của các em, và tỉ lệ chuyên cần của học sinh khi đến lớp. Tiếp xúc giáo viên chuyên để nắm được năng lực và thái độ học tập của từng em, đối với từng môn học. Thực hiện tốt công tác chủ nhiệm với tâm huyết cao và lòng kiên trì bền bỉ, nắm tâm sinh lý, hoàn cảnh, năng lực học tập của học sinh, trao đổi giáo viên chuyên cần phải đầu tư nghiên cứu phân hóa đối tượng học sinh vận dụng tốt các phương pháp phát huy được tính tích cực của học sinh, để thu hút học sinh trong giờ học. Giáo viên chủ nhiệm trao đổi nhà trường nhất là lực lượng Đoàn, Đội cần tổ chức tốt hoạt động ngoại khoá bằng nhiều hình thức phong phú, từng bước tạo cảnh quan sư phạm nhằm thu hút học sinh bám trường, bám lớp, yêu mến thầy cô, bạn bè. Tạo môi trường giáo dục thân thiện nhà trường, gia đình, xã hội cùng chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phải có sơ tổng kết, rút kinh nghiệm, phân tích, đánh giá tìm ra những nguyên nhân thành công và tồn tại thiếu sót nhằm phát huy ưu điểm khắc phục những tồn tại, hạn chế. C. PHẦN KẾT LUẬN 14.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Để thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần học sinh lớp chủ nhiệm, giáo viên phải thực sự yêu quí học sinh, phải biết sự tiến bộ của học sinh là niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống của mình, phải biết hy sinh cả thời gian sức lực, đặt hết tâm huyết vào công việc, quyết tâm giáo dục đến nơi đến chốn. Trong công tác chủ nhiệm ngoài sự nhiệt tình của người giáo viên còn đòi hỏi phải có phương pháp vận động học sinh phù hợp với từng đối tượng, luôn bám sát theo dõi tình hình sĩ số của lớp để kịp ngăn chặn học sinh có nguy cơ bỏ học, giáo viên chủ nhiệm phải khen thưởng kịp thời khi học sinh có tiến bộ trong học tập, trong xử lý phải hết sức bình tĩnh và tùy từng tình huống cụ thể, tránh những suy nghĩ chủ quan nóng vội, gây cho các em cảm giác bị mặt cảm và bị bỏ rơi, để không còn tư tưởng chán học rồi bỏ học. Thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần, được xem là nền tảng là cơ sở vững chắc lâu dài quyết định sự phát triển bền vững cho việc phổ cập giáo dục nói chung và phổ cập bậc tiểu học đúng độ tuổi nói riêng đòi hỏi những người làm công tác giáo dục phải luôn đổi mới, năng động, linh hoạt, sáng tạo tìm nhiều biện pháp với nhiều hình thức đa dạng, phong phú để thu hút, lôi cuốn học sinh tích cực học tập, say mê học tập bám trường, bám lớp. Điều quan trọng để đạt được kết quả chúng ta phải thật sự thương yêu, gần gũi và quan tâm giúp đỡ học sinh. Vì chính tình cảm thương yêu chân thật, thân thiết sẽ là động lực lớn để các em phấn đấu vươn lên. Có vậy, mục tiêu giáo dục mới đạt hiệu quả cao góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có chất lượng cao cho thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của đất nước. Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân thực hiện. Rất mong ý kiến đóng góp của quý thầy cô, tôi xin chân thành cảm ơn. An Nông, ngày 19 tháng 01 năm 2015 Người viết. Cao Dương Huyền Trung. 15.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO - Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.. - Chỉ thị 30-CT/TU ngày 19/5/2008 của Ban thường vụ Tỉnh ủy An Giang và kế hoạch số 15/KH-UBND ngày 16/7/2008 của UBND Tỉnh An Giang về việc hạn chế học sinh bỏ học.. 16.

<span class='text_page_counter'>(17)</span>

×