Tải bản đầy đủ (.docx) (248 trang)

Nhung vi than duoc tho o Ha Noi 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.88 KB, 248 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>VŨ THANH SƠN. NHỮNG VỊ THẦN ĐƯỢC THỜ Ở HÀ NỘI.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI – 2004. LỜI NHÀ XUẤT BẢN Hà Nội – mảnh đất thiêng liêng ngàn năm văn hiến, nơi có nhiều danh lam thắng cảnh, có nhiều đình, đền gắn liền với lịch sử hào hùng của dân tộc. Các đình, đền đã thể hiện nét đặc trưng của văn hóa truyền thống và đời sống tâm linh của dân tộc ta nói chung và người Hà Nội nói riêng. Mỗi mái đình, mỗi ngôi đền có những nét độc đáo riêng về kiến trúc và sự tích các vị thần được thờ mà không phải ai cũng biết và hiểu tường tận. Để giúp bạn đọc hiểu rõ về sự tích các vị thần được thờ ở các đình, đền tại Hà Nội, nhà xuất bản Hà Nội cho ra mắt bạn đọc cuốn sách NHỮNG VỊ THẦN ĐƯỢC THỜ Ở HÀ NỘI của tác giả Vũ Thanh Sơn. Tác giả đã kết hợp giữa việc nghiên cứu, tham khảo các tư liệu đã công bố và lưu trữ với khảo sát thực địa, với thái độ làm việc nghiêm túc, khoa học. Cuốn sách không đi sâu mô tả về di tích kiến trúc đình, đền mà chủ yếu giới thiệu kĩ thân thế và sự nghiệp của các vị thần được thờ ở Hà Nội. Ngoài một số ít nhân vật truyền thuyết, còn lại phần lớn các vị thần được thờ là các bậc danh nhân trong lịch sử nước ta. Họ là những người tài đức, có công lao lớn với nước, với dân, ở tất cả các lĩnh vực, từ chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc đến xây dựng mở mang đất nước về kinh tế, giáo dục… Những vị thần đó là An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, là nhà giáo Chu Văn An, Nguyễn Quý Đức, là Bà Tổ nghề dệt lĩnh, Bà Tổ nghề giấy Yên Thái… Để tiện theo dõi cho độc giả, chúng tôi sắp xếp thứ tự các vị thần được thờ theo các thời kì lịch sử và hi vọng cuốn sách giúp bạn đọc có thêm nguồn tư liệu hữu ích bổ sung cho vốn kiến thức của mình và hiểu biết sâu sắc hơn về ý nghĩa những lễ hội đặc trưng của mỗi đình, đền, địa phương. Với sự đa dạng, phong phú của nội dung sách, cùng với truyền thuyết ở các địa phương có thể không đồng nhất, cuốn sách chưa có điều kiện giới thiệu đầy đủ toàn bộ các vị thần được thờ ở Hà Nội và không tránh khỏi sai sót. Nhà xuất bản Hà Nội rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của bạn đọc gần xa cho cuốn sách. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn. NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> PHẦN I. BUỔI ĐẦU DỰNG NƯỚC (HÙNG VƯƠNG – AN DƯƠNG VƯƠNG).

<span class='text_page_counter'>(4)</span> MẪU THOẢI – NỮ THẦN KHỞI THỦY Tất cả các điện thờ Mẫu sau các chùa ở Hà Nội đều thờ Mẫu Thoải. Trong những bài chầu văn cúng Mẫu Thoải có những đoạn: Trên cao xanh một mình vò võ Sớm khuya cùng núi, cỏ, gió, mây Dưỡng thân hoa cỏ bạn bầy Vãng lai Sơn phủ đôi ngày thong dong(1) Và: Trạnh Giang Biên dòng dòng lai láng, Nguyệt lầu lầu soi nắng Nam Ninh Ngài con Vua thủy Động Đình Cổ tiên thần nữ giáng sinh đền rồng Tài gồm đủ công, dung, ngôn, hạnh, Nét ôn hòa ưa tính thiên nhiên(2) Con vua thủy Động Đình là vị nào? Ta hãy lật giở các trang chính sử và truyền thuyết: Đại Việt sử ký toàn thư của nhà sử học Ngô Sĩ Liên trong Kỷ Hồng Bàng thị, phần Ngoại kỷ viết: “Kinh Dương vương trị vì phương Nam, tên nước là Xích Quỷ. Vua lấy con gái của Động Đình Tiên nữ, tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân”(1). Sách Lĩnh Nam chích quái viết chi tiết hơn: “Kinh Dương vương có tài, đi chơi Thủy phủ, lấy con gái vua hồ Động Đình Tiên nữ tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân(2). Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, quyển VI, phần Nhân vật chí coi Kinh Dương vương thuộc dòng chính thống của các đế vương, khẳng định: “Kinh Dương vương là dòng dõi Thần Nông, vua khởi đầu của nước Việt Nam ta, cháu ba đời của Thần Nông là Đế Minh đi tuần thú bờ biển phía Nam, gặp nàng Vụ Tiên rồi lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục có Thánh đức, Đế Minh yêu lắm, muốn lập làm con nối, nhưng Lộc Tục cố nhường anh là Nghi. Đế Minh liền phong cho Lộc Tục ở đất Việt về miền Nam tức Kinh Dương vương, Kinh Dương vương lấy con gái của Động Đình Quân, đẻ ra Lạc Long Quân”. Sách khảo cứu về địa lý kinh tế, văn hóa thời Nguyễn nói đến một núi Động Đình cách châu Yên 6 dặm về phía Nam, rất cao, ngọn núi trùng điệp, khe ngòi bao quanh, năm Tự Đức thứ 3 (1950) liệt vào hàng linh sơn, chép trong điển thờ. Có lẽ chốn ấy nay thuộc tỉnh Hòa Bình. __________________ (1) (2) Chầu văn Mẫu Thoải ở đền Đồng Bằng, Thái Bình. (1) Đại Việt sử ký toàn thư tập I, Nxb KHXH, 1972..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> (2). Vũ Quỳnh, Kiều Phú, chích Lĩnh Nam chích quái, Nxb Văn học 1990.. Ở làn Á Lữ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có truyền thuyết: “Thuở trời đất mới mở mang, núi cao, rừng rậm, đầm lầy còn bao phủ gần kín mặt đất, Kinh Dương vương thường đi dạo khắp mọi vùng, trông nom bờ cõi đất nước. Một ngày kia khi dạo tới vùng nước còn mênh mông trắng xóa, chỉ lô nhô đôi gò đất cao nổi lên, vua bỗng gặp người con gái có sắc đẹp tuyệt trần, vừa như tiên giáng thế, vựa tựa thiếu nữ nơi thủy cung lên. Vua hỏi thì nàng xưng là con gái của Động Đình quân Thần Long. Kinh Dương vương trong lòng cảm động, lấy làm vợ. Sau đó ít lâu sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi cha, xưng là Lạc Long quân”. Truyền thuyết của vùng Ngân Hống (Nghệ An) kể: “… Công việc tạm xong (ý nói xây dựng kinh đô Ngàn Hống), Vương lại cưỡi thuyền ra phương Bắc, tiếp tục cuộc tuần du. Thuyền theo dòng Thanh Long (tên cũ của sông Lam) gần Cửa Hội, bỗng thấy một người con gái mặt hoa da phấn, tóc đen mượt, má đỏ hây hây từ dưới nước nổi lên, tự xưng là Thần Long, con gái Động Đình quân. Người con gái đó sau trở thành vợ Kinh Dương vương, mẹ Lạc Long quân”. Công lao lớn nhất của bà Thần Long, con gái Động Đình quân đối với nòi giống Việt Nam là sinh ra được Lạc Long quân, ông vua thứ hai của nước ta. Sau đó Lạc Long quân lấy Âu Cơ, đẻ ra một trăm trứng, lập ra triều đại Hùng Vương truyền tới 18 đời (thực ra là 18 thế, mỗi thế có nhiều đời vua). Như vậy là nàng Thần Long, nữ thần hồ Động Đình, hay nói cách khác là thần của Thủy phủ, trở thành người mẹ đầu tiên của tộc người Việt. Dân gian tôn kính kiêng tên húy, kiêng vùng bà sinh sống là Thủy phủ, mà gọi chệch đi là Mẫu Thoải. Bà trở thành Thánh mẫu của Việt Nam, là Mẫu thủy tổ của dân tộc ta, trước cả Mẫu Thượng Ngàn (thời Hùng Vương), mẫu Liễu Hạnh (thời Lê Trung Hưng). Mẫu Thoải cũng như Mẫu Thượng Ngàn là mẫu vĩnh hằng trong đạo Tứ phủ. Mẫu Thoải có vị trí xứng đáng trong đạo Tứ phủ (Tứ phủ công đồng), tức Chư linh bốn miền của vũ trụ là: Trời, rừng, đất, nước. Tam Tòa là bộ phận phổ biến trong các đền Tứ phủ, được đặt ở nơi thâm nghiêm trong cùng nhất (hậu cung có cửa ngăn với bên ngoài). Tam tòa gồm các thần tối thượng, tối linh gồm Mẫu Đệ Nhất là Mẫu Thượng Thiên, trùm khăn đỏ, ngự chính giữa. Ngài sáng tạo ra miền trời bao la, Ngài là chủ của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mẫu Đệ tam là Mẫu Thoải ngồi ở bên trái Mẫu Thượng Thiên, trùm khăn trắng. Mẫu Thoải là người sáng tạo ra mọi dòng sông, suối mà trước hết là nguồn nước tưới cho mùa màng, hoa trái – Đó là Thần nước, Thần Nông nghiệp mà cư dân ở vùng trồng cấy lúa nước ở các tỉnh châu thổ sông Hồng và trung du tôn thờ. Mẫu Đệ tứ là Mẫu Địa, ngồi bên phải Mẫu.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Thượng Thiên trùm khăn mầu xanh lam. Đây là vị thần sáng tạo cho đồng ruộng phì nhiêu, mùa màng tốt tươi (không thấy nói đến Mẫu Đệ nhị). Một điều đáng chú ý là trong các giá đồng, Mẫu Thượng Thiên bao giờ cũng mặc trang phục mầu đỏ. Mẫu Thoải lên các giá đồng đều mặc mầu trắng và có chèo thuyền (múa, hát). Mẫu Thoải là vị thần khởi thủy Mẫu Việt Nam, là thần tối linh, tối thiêng cùng với Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn là những vị tối cao trong các Mẫu Việt Nam. PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG Làng Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm có đền thờ Phù Đổng Thiên vương(1). Chuyện kể vào đời Hùng vương thứ 6, ở làng Phù Đổng có một người đàn bà xấu xí, nghèo khổ, tuổi đã cao mà chưa có chồng con, sống một mình trong túp lều tranh xiêu vẹo. Bà sống bằng nghề mò cua bắt ốc, và mấy luống cà trồng quanh nhà. Một đêm mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng, ông Đổng “về hái cà” ở kẻ Đổng, ông để lại vết chân “ướm thử đo tày năm gang” trong vườn cà của bà. Bà ra thăm thấy thế ướm thử. Nhìn thấy ra bị dẫm nát, nhưng chưa bị úa, bà tiếc của đem về nấu ăn, sau đó trong lòng chuyển động rồi có thai. Dân làng nhiếc móc đuổi bà ra khỏi làng. Bà đành đến rừng Trại Nòn (nay là thôn Phù Dực) rồi sinh ra Gióng dưới bóng cây trên cái gò nổi ở giữa đồng. Trời cho nhiều tôm cá cua ốc để bà ăn lấy sữa nuôi con. Trời cũng đẽo đá thành thống để bà tắm cho con, đẽo đá thành liềm để bà cắt rốn cho con, đẽo đá thành chõng cho Gióng nằm. Trong ba năm Gióng nằm yên trên chõng đá. Vào thời đó giặc Ân sang xâm lược nước Văn Lang, bọn giặc có đến 28 tướng đều là nữ. Giặc Ân rất tàn bạo, chúng giết đàn ông, hãm hiếp đàn bà con gái. Chúng bắt dân ta cắt cỏ cho ngựa đá ăn, ngựa không ăn, chúng giết chết. Chúng bắt người nước ta trồng cây ngược, cây chết, chúng giết… Đất nước Văn Lang đâu đâu cũng tràn ngập khói lửa binh đao. Các tướng đi đánh giặc đều bị thua, kinh đô Bạch Hạc bị giặc uy hiếp. Vua Hùng vương phải cho sứ đi rao kén chọn người hiền tài ra đánh giặc giúp nước, cứu dân thoát họa binh đao. Gióng khi đó Gióng mới ba tuổi, chẳng nói chẳng cười, chỉ nằm trên chõng đá. Khi nghe thấy tiếng rao của sứ giả, cậu ngồi bật dậy bảo mẹ gọi sứ giả vào. Bà ____________________ (1). Tại Hà Nội còn có đền Sóc Sơn huyện Sóc Sơn là nơi Tháng Gióng bay về trời và đền Sóc ở thôn Xuân Tảo, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, Hà Nội đều thờ Phù Đổng Thiên Vương..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> mẹ vô cùng kinh ngạc nhưng vẫn nghe con, gọi sứ giả vào, Gióng nói: “Bay về bay “dổng”(1) vua hay Cơm thì bay thổi cho đầy bẩy nong, Cà thì muối lấy ba gồng(2) Ngựa sắt, vọt sắt ta dùng dẹp cho…” Gióng hô hào mọi người theo Gióng đánh giặc. Người đi theo Gióng rất đông. Trước hết là ông tổ nghề rèn ở quê Gióng và ở hai làng Y Na và Mai Cương thuộc bộ Vũ Ninh (nay là Quế Võ). Thiếu sắt, ông Gióng cho xẻ núi lấy sắt, gọi 1000 thợ rèn trong vùng đến thổi bễ, rèn sắt đúc ngựa sắt, nón sắt, giáp sắt, roi sắt. Gióng mỗi lần vươn vai là cao lớn thêm, sắt nhiều như vậy mà áo giáp vẫn không kín người, trẻ con theo Gióng phải lấy bông lau cài vào cho kín. Khi thợ rèn đem ngựa đến, Gióng vỗ thử, ngựa bẹp rúm. Thì ra đó là con ngựa rỗng, Gióng nói. “Sao mà cùng cực thế này?”. Thợ rèn phải thu thập sắt trong thiên hạ đúc một con ngựa sắt đặc, có đủ tim, gan, phổi, ruột… Gióng mới bằng lòng. Bà mẹ và dân làng dọn cho Gióng một bữa cơm cà đồ sộ. Trước khi lên đường ra trận, Gióng ăn một lúc: “Bẩy nong cơm, ba nong cà, Uống một hơi nước, cạn đà khúc sông!” Cứ ăn xong một nong cơm thì Gióng lại cao lớn thêm. Gióng cưỡi ngựa sắt, vỗ mạnh một cái, ngựa thét ra lửa cháy một bãi rộng (nay gọi là làng Cháy). Ngựa lao đi, sức mạnh gây thành bão táp, cây cối đổ ngổn ngang, chân ngựa xéo tạo thành ao chuôm. Khi Gióng qua làng Hội Xá, gần làng Gióng, có lẽ trẻ đang chăn trâu bò, Gióng dừng ngựa lại hỏi: “Có đi đánh giặc không?”. Cả bọn buộc trâu bò lại rồi theo ông Gióng. Người đang câu cá cũng vác cả cần câu theo Gióng. Hổ ở trong rừng cũng chạy ra theo Gióng đi đánh giặc. Khi qua làng Trung Mầu Gia Lâm, có ông cầm vồ đang đập đất cũng theo Gióng. Ở làng Y Na có một bà mẹ sinh một bọc được năm người con trai, nay cũng tòng quân theo Gióng, làng có thêm 35 trai tráng theo năm anh em. Hai anh em ông Hà Dực, Hà Minh ở làng Hà Lỗ, Hà Phong trước đã đánh giặc Mũi Đỏ cũng đem quân theo Gióng. Gióng dẫn quân tiến thẳng đến núi Trâu ở Vũ Ninh, nơi 28 nữ tướng giặc Ân đóng ở đó. Vì thế đến nay trong lễ hội đền Gióng có đoạn hát: “Nhớ xưa, thứ sáu, Hùng vương, Hai mươi tám tướng, tướng cường nữ nhung Cậy thế xâm thượng, khoe hùng Đem quân đóng chặt một vùng Vũ Ninh…” Gióng quất ngựa sắt, ngựa phun lửa thiêu cháy quân giặc rồi xông vào _____________________ (1) (2) Từ Việt Cổ: dổng là thưa, nói, gồng là gánh..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> giết chết chủ tướng giặc, người một nơi, đầu văng một nơi. Gióng đánh hăng quá, roi sắt bị gãy, Giọng lập tức nhổ bụi tre đằng ngà ở làng Thất Gian, nơi tre bị nhổ biến thành hồ Thất Gian. Gióng vung bụi tre đánh giặc, tre gẫy vung tứ tung, vung đến đâu mọc thành bụi đến đó. Thắng giặc, Gióng ghé vào thăm làng Mai Cương là một trong những làng giúp Gióng rèn ngựa. Gióng vươn mình qua sông Đuống, uống nước ở làng Bưởi, Gióng vừa ăn trầu nên đến nay giếng nước vẫn đỏ, nay phiến đá ở bờ giếng vẫn còn vết chân Gióng. Gióng không về thăm mẹ mà tới bến Bồ Đề Gia Lâm, qua sông Hồng, Gióng đi ngược lên Làng Cáo, cạnh làng Cáo Đỉnh. Làng Cáo có tên Nôm là Giàn, vốn xưa là Kẻ Cấu, sau gọi chệch đi là Kẻ Cáo. Gióng nghỉ chân ở gò Con Phượng bên bờ Hồ Tây, buộc ngựa sát ở đầu làng Cáo, Gióng hỏi dân làng: “Ở đây có món gì ăn ngon?” Dân làng kính thưa với Thần tướng: “Ở đây có cà làng Cáo nổi tiếng trong vùng vì cà nhỏ, vỏ dầy, ít ruột, ăn giòn vị thanh”. Gióng gật đầu, dân làng đem cà ra dâng. Gióng giở cơm nắm ra ăn với cà làng Cáo. Ăn xong cơm, Gióng cởi áo giáp xuống ao làng tắm rồi đi đánh giặc tiếp. Gióng lại qua sông Hồng đến Đông Đô (Nam Hồng, Đông Anh), Gióng nghỉ lại. Đánh xong giặc, Gióng đi từ Đông Anh, qua Kim Anh tới Đa Phúc. Nay trên đường này còn rất nhiều vết chân ngựa thành ao chuôm, và nhiều bụi tre đằng ngà. Khi Gióng qua làng Khốn, hỏi bọn trẻ: “Làng này là làng gì?” Lũ trẻ trả lời: “Đây là làng Khốn”. Gióng nói: “Ở đây mát thế này sao gọi là Khốn, đổi tên là làng Mát”. Nay làng Mát tên chữ là Thanh Nhàn. Gióng lên núi Sóc Sơn cởi áo giáp vắt trên cây trầm hương rồi cả người lẫn ngựa vút lên mây bay về trời. HÀ DỰC – HÀ MINH Xưa, làng Hà Lỗ, tổng Hà Lỗ nay thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh có một bà mẹ sinh đôi được hai anh em trai. Một đứa cất tiếng khóc chào đời vào lúc nửa đêm khi trời còn u minh, tối tăm, một đứa cất tiếng khóc chào đời vào lúc tờ mờ sáng hôm sau. Vì thế đặt tên là Hà Minh và Hà Dực. Theo tập quán của địa phương, đứa sinh sau là anh, đứa sinh trước là em, nên Hà Dực là anh Hà Minh. Vì nhà nghèo nên mẹ phải cho Hà Minh làm con nuôi ở làng Giá, tên chữ là Hà Phong, cách đó một cánh đồng. Lớn lên hai ông đều là những chàng trai khỏe mạnh làm ruộng làm vườn chăm chỉ. Hai anh em còn luyện tập võ vật ở cánh đồng giáp ranh hai làng. Trai tráng hai làng đến học võ, học vật rất đông. Hai làng Hà – Liên kết làm lò vật nổi tiếng..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Đời Hùng vương thứ 6, có giặc Mũi Đỏ tràn qua biên giới vào nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi của vua Hùng, hai anh em đưa lò võ Hà – Liên và mộ thêm quân đi đánh giặc. Tướng giặc Mũi Đỏ là Xích Tỵ phải rút chạy. Giặc Mũi Đỏ tan chưa được bao lâu thì giặc Ân lại sang xâm lược. Hai ông Hà Dực, Hà Minh lại cầm quân đi đánh giặc. Nhưng vì quân ít, vũ khí ít lại lạc hậu nên quân của hai ông cầm cự được ít lâu thì phải rút. Hai ông rút quân về Cầu Bài, làng Ró (gần nơi sinh ra Gióng) nhập với quân Gióng rồi cùng đi phá giặc. Sau khi đánh tan giặc Ân, Gióng phi ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn rồi cởi áo giáp, nón sắt để lại, cả người lẫn ngựa bay lên trời. Ông Minh phi ngựa đến núi Độc (châu Định Hóa, Thái Nguyên) rồi biến mất. Người anh đi tìm em không thấy cũng hóa ở làng Tuy Xá (Đại Từ, Thái Nguyên). Dân làng Hà Lỗ lập đền thờ hai ông, sau tôn hai ông làm Thành hoàng làng Hà Lỗ(1). Năm nào làng cũng mở hội để tưởng nhớ hai ông. LÝ TIẾN – THÀNH HOÀNG THĂNG LONG Vào đời Hùng vương thứ 6, trên vùng đất sông Cái (Nhĩ Hà) và sông con Tô Lịch có hai vợ chồng già. Chồng hàng ngày đánh cá kiếm sống, theo con nước lên theo lịch mùa mà gieo mạ, gặt lúa. Người vợ thì thành tâm lặn lội đi các nơi có thần sông, thần núi, thần mưa, thần gió linh thiêng cầu xin có con để nối dõi tông đường. Ở vùng này có một gò đất cao nổi lên giữa đồng bằng mênh mông. Dân đồng ruộng muốn nhìn xa trông rộng, dõi tìm người đi xa thường leo lên gò đất cao để nhìn phóng tầm mắt về bốn phương, tám hướng. Vì thế gò đất ấy còn được gọi là gò Khán, hay núi Khán. Trên núi có đền thờ thần mùa xuân, tế trời đất, mùa màng, bởi vậy núi còn có tên là núi Khán Xuân. Đền trên núi là đền Khán Xuân, được coi là nơi thiêng liêng, cầu gì được nấy. Một lần người vợ cầu cúng suốt đêm ở trên núi Khán Xuân thì gặp linh ứng. Bà nằm mơ thấy rồng vàng xuất hiện về báo mộng rằng “Đất này sẽ là đất đế đô muôn đời, cần phải có một vị Thành hoàng của đất để giữ gìn khí linh thiêng lâu dài. Ta sẽ chọn vị thần về ở với vợ chồng ngươi. Khi sinh con ________________ (1). Có truyền thuyết, giặc Ân đánh mãi hai ông không được, chúng biết hai ông thương yêu nhau, không thể sống thiếu nhau. Giặc lập kế thua chạy làm nhiều ngả, một cánh quân chạy lên núi Độc, một cánh quân chạy về làng Túy. Ông Minh dẫn quân đuổi theo giặc đến núi Độc, giặc phao tin ông Dực chết ở Đồng Túy. Hà Dực đuổi giặc tới Đồng Túy, giặc phao tin ông Minh chết ở núi Độc. Hai ông không ngờ mắc mưu giặc, nên tự hóa. Khi biết mình bị lừa, hai ông không thể trở lại kiếp dương gian được liền hiện lên dẫn đường cho quân lui về giữ Cầu Bài và cánh đồng Lỗ Khê, gần làng Phù Đổng..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> vợ chồng ngươi phải đem tiếng vua”. Từ đó người vợ mang thai chín trăm chín mươi chín ngày thì sinh được một người con trai khôi ngô tuấn tú. Nhớ lời dặn của Thần, hai vợ chồng đem con ngược sông Cái (sông Hồng) lên Phong Châu tiến vua. Vua Hùng cho là điềm lạ, nhận tiến và giao cho dân làng Tô cùng vợ chồng ông lão chăm nuôi. Từ đó dân làng gọi chàng trai ấy là Trai Tiến. Trai Tiến càng lớn càng trở thành một chàng trai thông minh, can đảm. Lớn lên chàng Trai Tiến nối nghiệp cha làm nghề đánh cá, nối nghề mẹ gieo hạt, gặt lúa. Chàng Trai Tiến khỏe mạnh hơn người, lại có chí. Nghe tin vùng núi phía Bắc thường có tiên đến chơi, chàng Trai Tiến đến tận nơi du ngoạn khắp miền Tiên Du. Nghe núi phía Đông qua sông Cái có những đầm nước mênh mông thường có những nàng tiên đến du ngoạn, chàng Trai Tiến đến tận nơi thả thuyền ngoạn cảnh. Chàng lại nghe tin vùng đất sông Mẹ (sông Cái) sinh ra một đôi sông con là sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Chàng gặp Nàng Tiên biển Đông dắt tay chàng Trai Tiến dùng thuật rút đường bay lên trời. Từ trên đỉnh trời cao vùng sông Mẹ, sông Con, chàng Trai Tiến nhìn thấy sông Mẹ, sông Con uốn khúc như một con rồng nằm cuộn trong ổ. Tiên nữ bảo chàng: “Đất này có thế rồng nằm, là đất thiêng có thể làm đất lập đế đô dựng nghiệp cho muôn đời con cháu mai sau. Nhưng hiện nay con rồng không nằm yên được vì rốn rồng bị bọn Hồ tinh tức Cáo chín đuôi, trốn từ đầm Xác Cáo chạy về làm tổ cố thủ. Rốn rồng bị động nên rồng cứ vật mình, vật mẩy đất trồi lên, sụt xuống, động liên miên, không yên được lúc nào để bay lên. Nếu chàng diệt được cáo chín đuổi, giữ được rốn rồng thì một nghìn năm sau rồng sẽ bay lên được. Còn nếu không diệt được cáo chín đuôi, rốn rồng sẽ bị thủng đất này sẽ động sụt xuống biển”. Chàng Trai Tiến bèn lao vào đánh nhau với Cáo chín đuôi, đuổi lũ cáo chạy khỏi vùng rốn rồng. Thanh kiếm của chàng Trai Tiến phải phóng sâu vào rốn rồng mới chặt đứt được cái đuôi thứ chín của con Hồ tinh. Chàng trai tìm cách rút kiếm lên để đánh đuổi Hồ tinh, nhưng có một con rùa vàng nổi lên ngăn lại mà rằng: “Lũ cày cáo đời nào cũng có, giết con này con khác lại thành tinh, cáo mà chết thì mèo già lại hóa cáo. Mà người cũng có thể hóa cáo chứ không phải chỉ có cáo thành tinh hóa ra người đâu. Vì thế chàng phải để thanh gươm lại yểm ở nơi rốn rồng, để lũ cày cáo không thể nào dám bén mảng đến quấy rối rồng được nữa. Lưỡi kiếm của chàng nằm lại nơi đây sẽ hóa thành gươm thần giữ đất cho muôn đời. Chàng trai vâng lời Rùa Vàng tức thần Kim Qui để thanh gươm lại. Từ đó rốn Rồng được yểm, biến thành một cái hồ rộng, gọi là hồ Long Đỗ, tức là hồ Rốn Rồng. Từ đó vùng đất này có tên là thành Long Đỗ..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Chàng Trai Tiến sau khi trấn yên Cáo chín đuôi ở hồ Rốn Rồng thì giúp dân chúng mở mang việc trồng lúa đánh cá khắp vùng sông Cái, sông Con, tạo nên một vùng đông dân trù phú. Tuy ở đây không có núi non hiểm trở nhưng thành quách vững chắc vì tựa vào lòng người, vua Hùng giao cho chàng Trai Tiến làm Lạc tướng, chỉ huy đạo hùng binh ở vùng sông Tô. Giặc Ân từ phương Bắc kéo xuống, vua Hùng cử chàng Trai Tiến dẫn quân lên biên ải cự nhau với giặc. Nhưng thế giặc quá mạnh, cứ tràn xuống như nước vỡ bờ. Quân của chàng Trai Tiến vừa đánh vừa lui. Đến bộ Vũ Ninh giặc Ân vây trùng trùng điệp điệp hãm quân chàng Trai Tiến vào thế tử địa. Một mình chàng Trai Tiến tả xung hữu đột trong vòng vây. Nhưng quân giặc khá đông, Trai Tiến bị 99 mũi tên xuyên khắp mình mẩy, chàng kiệt sức nhưng vẫn cố ôm cổ ngựa chiến phóng về quê mẹ. Giặc Ân khiếp sợ trước khí phách của Trai Tiến, bèn lui quân. Tới đầu sông Tô – nơi nền nhà cũ, nơi mẹ chàng cắt rốn, chôn nhau cho chàng, chàng mới chịu gục xuống, từ giã cõi trần, cưỡi hạc bay về Tiên giới. Con ngựa chiến cũng hí lên một tiếng thê thảm rồi chết theo chủ. Đây là linh địa nên lập tức mối đùn lên thành gò. Cư dân hai làng Song Tang xưa ở hai bên bờ sông Nhuệ huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây ngày nay, đến mở mang vùng sông Tô, lập ra làng Nhân Thuận, lại lập ra giáp, nên gọi là Ngũ Giáp (nay là phố Hàng Cá, quận Hoàn Kiếm) đã lập đền thờ chàng Trai Tiến đã hy sinh vì nước. Đến khi Lý Công Uẩn lập ra Vương triều Lý đặt tên vùng đất thành Long Đỗ thành kinh thành Thăng Long, tôn phong Trai Tiến là Thánh Tổ của thành Thăng Long, thì Trai Tiến được ban quốc tính họ Lý gọi là Lý Tiến. Khi có tục thờ Thành hoàng thì ông được tôn là Thành hoàng kinh thành Thăng Long. Cư dân 5 giáp (gọi là Ngũ Giáp) tôn tạo lại đền và cũng là đình thờ Lý Tiến. Trải qua biến thiên của lịch sử, nay đền Ngũ Giáp (còn gọi là đền Đông Giáp hay đền Hàng Cá) chỉ còn lại hậu cung trong đó có hai đôi câu đối: “Nhất khí quán sơn hà, Hùng Quốc Long thành ghi di tích. Song tang huyền nhật nguyệt, Đông Kiều ngư phố kỳ dư tung Tạm dịch: Một hào khí mạnh tràn khắp non sông, đất nước Vua Hùng, Thăng Long thành cổ còn lưu lại dấu vết Hai đất Tang (Khê) sáng ngời mặt trăng, mặt trời, đền Cầu Đông, phố Trại Cá giữ dấu xưa Và: Mộng gián Hoàng Long, Tô Lịch giang biên lưu hiển tích Chí thanh danh tướng, Vũ Ninh sơn ngoại lâm trung can Tạm dịch: Mộng ứng Rồng Vàng, dấu hiển hách còn ghi bên bờ sông Tô Lịch.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Chí thanh cao của vi tướng nổi danh, gan trung kiên, ngời sáng mãi ngoài núi Vũ Ninh Đến nay đền vẫn khói hương không dứt. XUNG THIÊN DŨNG LIỆT CHIÊU MINH UY TIẾN ĐẠI VƯƠNG Xét truyện Báo cực chép: cổ truyền, Vương là thần thổ địa chùa Kiến Sơ. Xưa có thiền sư tên là Chí Thành tu ở chùa Kiến Sơ (1), tại làng Phù Đổng, lập một gian nhà thờ Thần thổ địa ở bên hữu chùa làm nơi tĩnh mịch để đến tụng niệm. Sau vì lâu năm, đất cũ mất hết, các sư đến ở sau, không biết là chỗ thờ gì. Người làng tin sự ma quỷ thường đến khắp hương khấn cầu nhảm nhí. Đến khi sư Đa Bảo sửa lại chùa Kiến Sơ, cho chỗ này là chỗ thờ nhảm, muốn phá hủy đi. Bỗng một hôm thấy ở thân cây cổ thụ bên đền, có đề một bài kệ rằng: Phật pháp thùy năng hộ, Vãng thính trụ Kỳ Viên Nhược phi ngô chủng tử. Tảo tùy biệt sứ thiên Bất tái Kim cương bộ, Mật tích ná la diên Mãn không trần số chúng Thị phật thành oan khiên(2) Mấy hôm sau dưới bài kệ lại có 8 câu thơ: Phật pháp từ bi đại, Uy quang phù đại thiên. Vạn thần câu hướng hóa, Tam giới tận hồi toàn Ngô sư hành hiệu lệnh. Tà quỷ thục cảm tiên Nguyện thường tùy thụ giới Trưởng ấu hộ kỷ Viên(3) ___________________ (1). Chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Phép Phật ai hộ trì? Đợi nghe ở chỗ đất Phật. Nếu không phải giống nòi ta, nên sớm rời đi chỗ khác. Không được đem bộ Kim cương đi. Vết bí mật không nên để lan ra. Những kẻ trần tục như bụi bặm đầy trong không gian, mà thờ Phật thì chí thành tội lỗi. (3) Pháp phật rất từ bi. Uy linh trùm cả cõi đời. Muôn vị thần đều chuộng theo. Ba cõi đều lan khắp. Nay sư ta thi hành hiệu lệnh. Tà quỷ nào dám phạm. Xin thường theo sư để thụ giới. Lớn với nhỏ đều hộ trì đất nhà Phật *(Hùng vương giữ nước tập III, Nxb Khoa học xã hội, trang 113, 114) (2).

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Sư Đa Bảo lấy làm lạ, bèn lập đàn trì giới và cúng lễ tại chỗ đó. Lý Thái Tổ khi chưa làm vua, biết Đa Bảo là một vị cao tăng, thường đến chùa thăm hỏi. Khi đã lên ngôi, một hôm vào thăm chùa, sư Đa Bảo ra đón vào tới gần cây cổ thụ, sư nói to lên rằng: “Phật tử! Người có thể làm thơ mừng đấng “Tân thiên tử” được không?” Liền thấy trên thân cây hiện ra 4 câu: Đế đức kiền khôn đại Uy thanh tĩnh bái diên U âm mông huệ trạch Ưu ốc ná xung thiên(1) Thái Tổ đọc liền hiểu ngay, bèn ban cho hiệu là: “Xung thiên thần vương”, những dòng chữ trên cây liền biến mất. Vua lấy làm lạ, sai thợ đắp tượng thần hình dung rất đẹp, lại sai đắp 8 pho tượng đứng hầu, tượng đắp và tô xong thì lại thấy ở thân cây có 4 câu thơ: Nhất bát công đức thủy Tùy duyên hóa thế gian Quang quang trùng chiếu trúc Một ảnh nhật đăng san(2) Sư Đa Bảo đem mấy câu thơ ấy tấu lên, Thái Tổ không hiểu ý ra sao. Sau nhà Lý làm vua được 8 đời, rồi phải nhường ngôi cho nhà Trần. Chữ “Bát” (cái bát) đồng âm với “Bát” là tám, một lần tám là tám. Còn “Nhật đăng san” là chữ “nhật” ở trên chữ “san”, tức là chữ Sán, tên vua Huệ tông, vua cuối đời Lý. Câu thơ thần diệu là như thế đấy. Trùng hưng năm đầu, sắc phong “Dũng liệt đại vương”. Năm thứ tư, gia phong hai chữ “Chiêu ứng”. Năm Hưng long 21, gia phong hai chữ “Uy tín”(3). ____________________ (1). Đức nhà vua to bằng trời đất. Nhờ oai tiếng, tám cõi được yên. Kẻ ở cõi âm u được nhờ ơn. Thấm nhuần đến Xung Thiên này. (2) Một bát nước công đức Theo duyên hóa cõi đời, Ngọn đuốc vằng vặc sáng soi mãi. Đến sau mặt trời lên núi, mất bóng (3) Lời người sao lục – Chùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng, cạnh đền Phù Đổng thiên vương, một vị thần dẹp giặc Ân khi xưa. Xét trong sử chép: “Vua Lý Thái Tổ truy phong Ngài là “Xung thiên thần vương”, lập miếu thờ ở bên chùa Kiến Sơ…” thì Xung thiên thần vương tức là huệ hiệu của Phù Đổng Thiên vương, ở đây, sao lại còn thấy “Xung thiên” là thần thổ địa? Nếu bảo thần thổ địa đây tức là Phù Đổng Thiên vương thì ta không dám tin. Dưới Phù Đổng Thiên vương có thần thổ địa, thì còn có lẽ phải. Lại có thuyết rằng: Sư Chí Thành sau khi đã tịch, vẫn còn anh linh, thường giả hình làm thần thổ địa. Đọc những câu thơ, câu kệ trên đây rõ ra giọng một vị cao tăng, có lẽ chính sư Chí Thành hiển linh mà làm ra cũng chưa biết chừng..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> THIÊN TỔ ĐỊA CHỦ XÃ TẮC ĐẾ QUÂN Đế quân tức là Hậu tắc dạy dân nghề trồng lúa, từ đời Chu đến nay thờ làm xã thần. Nước ta, thờ Đế quân tại phía nam La Thành bên cửa Quốc Bình, miếu điện rất tôn nghiêm, tục gọi là Xã Đàn tư thần, linh thiêng có tiếng. Các triều vua trước thường làm lễ tế “giao” cùng với trời đất. Khi có đại hạn hoặc nạn hoàng trùng, làm lễ cầu mưa hay trừ sâu tất được linh ứng. Năm Trùng hưng thứ 1, truy phong là “Hậu tắc tư đế quân”, năm thứ 4 đổi phong là “Thiên tổ xã tắc đế quân”, đến năm Hưng long 21, gia phong “Thiên tổ địa chủ xã tắc đế quân”. ĐỘNG ĐÌNH VƯƠNG – HÀN MINH Cuối đời Hùng Nghị vương (Hùng vương thứ 17) ở làng Long Đỗ, gần Hồ Tây, có một bà mẹ hiền lành, phúc hậu cả đời tu nhân tích đức, cứu người nghèo khổ, điều ác mảy may không phạm. Trời thương, Phật độ, đã sai Ngọc nữ, Đồng tử giáng sinh vào làm con. Con gái lớn, ông bà đặt tên là Hằng nương. Hằng nương mặt hoa, da phấn, bội phần xinh tươi, lại có tài nội trợ, may vá, hiếu thảo với cha mẹ, hòa thuận với xóm giềng, kính trên nhường dưới, nên xóm làng ai cũng quý mến. Đến tuổi trưởng thành nàng càng xinh tươi, duyên dáng nổi tiếng trong vùng. Hùng Nghị vương đi tuần thú qua Long Đỗ nghe tiếng liền cho gọi Hằng nương đến trò chuyện. Nhà vua đem lòng yêu thương, đón về kinh thành Phong Châu, phong làm cung phi thứ tám. Hằng nương giúp vua cai quản Nội cung, cùng vua đi du ngoạn ở nông thôn để vua biết được cảnh sống của dân chúng. Hằng nương sinh với vua được một con trai đặt tên là Mộng Đình vương. Vương là người khô ngô, lớn lên học hành thông tỏ cả văn lẫn võ lại có tài về thủy chiến, nên được vua giao cho chức Thủy đạo đô thống Lạc tướng quân, giao cho trấn giữ hạ lưu sông Hồng, cửa ngõ phía Đông nam của kinh thành Phong Châu đề phòng giặc từ biển theo cửa sông Hồng vào xâm phạm bờ cõi. Em trai của Hằng nương là Hàn Minh, cũng là trang anh kiệt, khỏe mạnh lại có võ nghệ, ông đầu quân dưới triều Hùng Nghị vương. Khi Hùng Nghị vương băng hà, Hùng Duệ vương lên nối ngôi tức là Hùng vương thứ 18, Hàn Minh trở thành viên tướng tin cậy của nhà vua, được vua giao cho nhiều nhiệm vụ đánh thù trong giặc ngoài đều lập được chiến công. Hàn Minh thường cùng với cháu là Động Đình vương đem thủy quân xuôi sông Cái đến vùng Hồ Tây, giúp nhân dân chống và diệt trừ thủy quái hàng năm thường dâng nước lên tàn phá xóm làng cướp đi sinh mạng của nhiều người cùng gia súc. Cậu cháu Hàn Minh ra tay trừ khử, xác thủy quái nổi lên mặt hồ, những con sống sót bỏ chạy, nhờ đó dân vùng ven Hồ Tây được sống thanh bình không lo thủy quái gieo tai vạ cho mình. Cậu cháu Hàn Minh và.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Động Đình vương còn đưa quân lên vùng núi Ba Vì hỗ trợ Tản Viên Sơn Thánh Nguyễn Tuấn đánh bại Thủy Tinh. Đến cuối đời Hùng Duệ vương, Thục Phán từ phía Tây Bắc đem quân đánh nước Văn Lang, Tản Viên Sơn Thánh phái Động Đình vương cùng với người cậu là Hàn Minh đi trấn thủ mạn Dương Tuyền (Hải Dương, Hải Phòng, phía đông Hưng Yên ngày nay). Do lập được nhiều chiến công, Động Đình vương và Hàn Minh được Hùng Duệ vương ban thưởng nhiều lần. Sau khi chống Thục thắng lợi, vua Hùng giao cho Hàn Minh về đóng ở Phong Châu trấn giữ ngã ba Bạch Hạc cửa ngõ của Kinh đô và mất ở đó. Nhân dân lập đền thờ, vì ông là tướng Thủy quân, sau nhân dân gọi là đền Thủy Thần. Động Đình Vương được Hùng Duệ vương giao cho đem thủy quân về đóng ở ven sông Hồng giáp Hồ Tây. Khi Động Đình vương mất, nhân dân Lâm Ấp thuộc làng Nghi Tàm nhớ ơn ông có công với dân với nước lập đền thờ ông. Vì ông là người của Thủy cung Động Đình đầu thai vào làm con vua giúp dân, giúp nước, nên nhân dân gọi là đền Thủy Thần, vả lại đây cũng là quê người mẹ thương yêu Hằng nương của Vương. Cạnh đền thờ Vương, nhân dân xây một điện riêng thờ người cậu là Hàn Minh. TẢN VIÊN SƠN THÁNH Làng Ngọc Trục, xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm có ngôi đền cổ gọi là Quán cũ thờ Tản Viên Sơn Thánh và hai người em kết nghĩa của Sơn Thánh là Cảm Hóa Đại vương và Minh Trạc Đại vương(1). Đến nay trong đền vẫn còn giữ được đôi câu đối: “Bách Việt sơn hà lưu chính khí, Tam vương uy phúc giáng linh từ” Dịch: “Sông núi Bách Việt lưu mãi chính khí Uy phúc của ba vị Đại vương ứng vào đền thiêng” Sự tích của Thần Tản Viên như sau: Đời Hùng vương thứ 18 ở động Lăng Xương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Hưng Hóa, xứ Sơn Tây(2). Động này núi non cẩm tú, suối nước trong xanh, cây cỏ tốt tươi. Bấy giờ có ông Nguyễn Cao Hạnh đã hơn 70 tuổi, vợ là Đinh Thị Điên(3) đã hơn 50 tuổi ăn ở phúc hậu mà vẫn chưa có ____________________ (1). Có lẽ đây là Cao Sơn và Quý Minh, hai tên trên là tên hiệu khác của hai vị, vì hầu hết các truyền thuyết, thần phả về Tản Viên Sơn Thánh không có bản nào nhắc tới hai vị Cảm Hóa và Minh Trạc là em kết nghĩa với Tản Viên. (2) Nay thuộc xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. (3) Thần tích làng Dị Nậu, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ viết: “Tản Viên Sơn Thánh là con một người đàn bà xấu xí nghèo khổ ở động Lăng Xương tên là Hàn không có chồng..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> con. Một hôm ông bà nhìn thấy trong khe có đốm mây lành rực rỡ rồng vàng bay lượn lấy nước, hương thơm ngào ngạt, sau đó, rồng vàng bay lên trời. Lát sau bà Đinh Thị Điên từ trong nhà ra khe lấy nước tắm trên phiến đá trắng, tự nhiên bà thấy trong mình chuyển động rồi mang thai 14 tháng. Đúng vào ngày mùng 1 tháng giêng năm Đinh Tỵ, bà đang ngồi chơi trên một phiến đá trắng thì một đám mây ngũ sắc, hào quang rực rỡ sà xuống, bà sinh ra một trai, mặt mày khôi ngô tuấn tú, dáng người hiên ngang. Sau 100 ngày đặt tên là Nguyễn Tuấn(4). Nghe việc lạ đời, đời sau có thơ: Lăng Xương cốt cách ngọc tinh thần Bả thác hoàng long giáng hạ trần Thái thủy điên vi thiên thượng mẫu Cứu hoài hà nhược thế gian nhân Khi Nguyễn Tuấn lên sáu tuổi lại đổi tên là Nguyễn Huệ. Cũng năm đó cha mất, mẹ con dắt díu nhau lên ở núi Ngọc Tản. Bà Đinh Thị Điên kết bạn với một bà lão ở núi đó, là “Ma Thị Cao Sơn thần nữ” sống bằng nghề đốn củi. Ở được ba năm, hai mẹ con lại trở lại Lăng Xương. Ông lại đổi tên là Nguyễn Chiêu. Năm 12 tuổi ông theo học Lý Đường tiên sinh ba năm liền. Nguyễn Chiêu thương mẹ lam lũ vất vả tần tảo nuôi mình ăn học, nên thường đến Linh Sơn Ngọc Tản than phiền với mẹ nuôi là Ma Thị Cao Sơn thần nữ là thương mẹ, bèn xin làm con nuôi bà lão họ Ma và đưa mẹ đến đó ở. Một năm sau mẹ mất. Một hôm Nguyễn Chiêu lên núi chặt một cây cao to rồi về động gọi mọi người đến đó đem về. Nhưng thật kỳ lạ, hôm sau mọi người đến nơi thì cây đại thụ lại tốt tươi, xanh như cũ. Ông lấy làm lạ liền chặt tiếp một cây nữa rồi ngồi rình. Đến nửa đêm bỗng thấy một ông già thân dài một trượng râu tóc bạc phơ, đầu đội mũ hoa, mình khoác áo gấm, chân đi giầy mây, tay phải cầm gậy trúc thong thả như phượng múa gấm hoa, rồng ngậm măng ngọc. Nếu chẳng là nơi viện kỳ thì cũng là của báu nơi Lãng Uyển. Đi sau ông là một tiểu đồng tay cầm một chiếc nhạc vàng, lắc ba lần. Ông lão miệng đọc thần chú tay cầm gậy chỉ vào cây đổ. Bỗng nhiên một trận gió mát thổi tới, mây lành bảng lảng, khí thiêng rừng núi tụ về, trời đất biến hóa, chốc lát gốc cây đổ dựng lên, cây to sống lại. Nguyễn Chiêu _________________ Một hôm bà đi cấy dẫm phải một vết chân to, cảm động mà có mang. Dân làng đuổi bà vào rừng, bà làm lều trong rừng ở, hàng ngày có hổ mang thịt thú rừng đến nuôi. Bà có mang 14 tháng sinh ra một người con trai đặt tên là Tuấn. Nhiều bản thần tích chép bà Trần Thị Xương không có chồng sinh ra quỷ. (4) Nhiều bản thần tích chép quỷ tên là Nguyễn Tùng. Bản thần tích đền Và thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây chép: “Tản Viên là vị thần núi được thần thoại hóa thành người có tên là Nguyễn Xuân Sinh, Nguyễn Tuấn, Nguyễn Tùng..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> bèn chạy lại ôm lấy cụ già hỏi tôn hiệu, hỏi phép thần thông của cây gậy. Cụ già nói: “Ta chính là Sơn Tinh đại thần, tên gọi là Thái Bạch Thần tiên tử vi thiên tướng vâng chỉ Ngọc hoàng cai quản nhân gian. Ta phải hồi sinh cho những cây này vì đây là cây quý không được chặt đốn”. Nguyễn Chiêu nghĩ đến sinh linh người cũng như vật bị chết oan uổng vì đói khát bệnh tật, vì chiến tranh phải chết non, chết yểu chết oan ức liền cúi xin Kim Tinh ban cho chiếc gậy để cứu nhân độ thế. Sơn Tinh thấy tướng mạo Nguyễn Chiêu phương phi hiền lành phúc hậu liền giao cho gậy thần, lại đọc cả thần chú cho, lại dặn kỹ khi cứu người, cứu vật thì chỉ đầu sinh, khi trừ ác thì chỉ đầu tử. Sơn Tinh lại dặn kỹ không được chỉ gậy lên trời vì mây bay, mù tan thấu Ngọc hoàng. Kim Tinh ban gậy thần, thần chú cho Nguyễn Chiêu, Chiêu về nói với mẹ nuôi, sau đó trở về động Lăng Xương tự xưng là thần sư. Một hôm Nguyễn Chiêu đi qua ấp Thủ Pháp, thôn Cốc thấy 500 hổi voi cản đường, ông liền chỉ gậy lập tức hổ voi tránh ra hai bên, đường lại thông suốt. Ông đi đến xã Ma Xá thấy lũ trẻ chăn trâu xúm lại đánh chết một con rắn đen, ông thương tâm xin lũ trẻ con rắn đó đem tới châu Trường Sa chỉ đầu sinh của gậy thần, con rắn sống lại. Rắn bái tạ thần sư rồi rẽ nước bơi đi, Thần sư Nguyễn Chiêu biết đó là con của Long vương. Rắn đen đem việc Thần sư cứu mình tâu với Đế quân. Đế quân sai Thái tử (rắn đen) với Giao long đi đón Thần sư. Thần sư theo Thái tử và Giao long xuống thủy cung. Đế quân thiết đãi tiệc lớn, đem tặng ngọc vàng châu báu nhiều vô kể, Thần sư không lấy thứ gì. Đế quân có quyển sách muốn ước gì mở ra đọc thần chú thứ đó khắc hiện lên, gọi là sách ước liền ban cho thần sư. Sau Ma Thị Cao Sơn thần nữ yếu, biết mình sắp về trời liền làm di chúc giao núi rừng sông suối vùng non Tản, sông Đà cho Thần sư quản lý. Một năm sau Ma Thị Cao Sơn thần nữ qua đời, Thần sư an tang theo đúng lễ mẫu tử, lập miếu phụng sự như mẹ đẻ. Từ đó Thần sư Nguyễn Chiêu trở thành Thần núi Tản Viên còn gọi là Sơn Tinh. Sơn Tinh kết bạn với Cao Sơn, Quý Minh là hai an hem ruột cũng có nhiều pháp thuật, trở thành bộ ba Tam thánh hay là Tam vị thánh Tản. Hùng Duệ vương (Hùng vương thứ 18) đóng đô ở ngã ba Bạch Hạc, vua sinh nhiều hoàng tử nhưng không ai chịu làm vua mà đều đi tu tiên. Vua sinh hai gái là Tiên Dung công chúa và Ngọc Hoa công chúa. Tiên Dung đã gả cho Chử Đồng Tử ở bãi Tự Nhiên, còn Ngọc Hoa sau khi gieo cầu kén chồng chỉ còn hai người là Sơn Tinh, Thủy Tinh ngang sức, ngang tài không bên nào chịu thua bên nào. Vua liền hạn: “Ai có voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao và thứ quý sơn hào hải vị đem đến làm củ sính lễ trước thì vua gả công chúa cho”. Sơn Tinh nhờ có sách ước nên việc đó chẳng khó khăn gì, đã đến trước đón được Ngọc Hoa về làm vợ..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Thủy Tinh đến sau không lấy được Ngọc Hoa liền nổi cơn thịnh nộ làm mưa nổi gió đuổi theo Sơn Tinh. Nhưng nước dâng tới Sơn Tinh cho quân hổ, báo, hươu, nai, lợn lòi đi chặn dòng nước lại bằng cách ném đất đá, bẻ cây cối ném xuống sông đánh đuổi quân của Thủy Tinh. Sơn Tinh cho quân giăng lưới sắt dưới dòng sông Từ Liêm (đoạn sông Hồng chảy qua huyện Từ Liêm, Hà Nội). Bị chặn đường chính, Thủy Tinh sai quân đào sông qua lối huyện Lý Nhân (Hà Nam) ngược lên huyện Quốc Oai (Sơn Tây), Thủy Tinh còn khơi sâu tất cả các sông nhỏ, suối dâng nước lên đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh còn cho giải, ba ba, thuồng luồng, tôm, cá vòng lên sông Đà đánh úp sau lưng quân Sơn Tinh. Nhưng nước dâng cao lên bao nhiêu, Sơn Tinh lại nâng núi lên cao tới đó. Bị thua Sơn Tinh, từ đó cứ tháng 6, 7, 8 Thủy Tinh lại gọi gió làm mưa ở trên thượng ngàn đổ nước xuống trung du, đồng bằng sông Hồng. Sơn Tinh lại cho quân ném đất đá, bẻ cây cối ném xuống sông đánh các loài thủy quái, vì thế nước sông đục ngầu như sông Hồng đỏ phù sa… … Vào thời Hùng Nghị vương (ngành thứ 17), ở bộ Ai Lao có ông bộ chủ cũng trong tôn phái họ Hùng, là người tài năng đức độ được cử đi phụ đạo ở đây. Thục vương nghe biết cất quân sang đánh bộ Ai Lao để cướp lấy chức phụ đạo đó. Bị đánh bất ngờ, ông bộ chủ Ai Lao không chống lại được sai người cáo cấp với Hùng Nghị vương, Hùng Nghị vương đem 10 vạn hùng quân thẳng đến thành Ai Lao để đánh cứu. Thục vương bèn đưa thư cho Hùng Nghị vương rằng: “Quân Thục từ phía Tây lại ý muốn đem bộ chủ về để truyền ngôi há dám đem con bọ ngựa địch với muôn cỗ xe đâu…” Nghị vương thấy vậy liền rút quân, Thục vương đem bộ chủ Ai Lao về nước Thục gả công chúa cho và nhường ngôi lại sai sứ đến tạ Hùng Nghị vương nguyện xin Tây triều là em, Nam triều là anh, hai nước giảng hòa không xảy ra nạn đao binh. Đến đời Hùng Duệ vương (ngành thứ 18) muốn nhường ngôi cho con rể là Tản Viên, Thục Vương là bộ chủ của Ai Lao xưa cũng trong tôn phái họ Hùng nghe tin đó âm mưu khởi binh nhưng muốn sang đánh vua Hùng thay ngôi vị trước. Nhưng Duệ vương biết tin ấy bèn sai Tản Viên đem 30000 hùng binh cử các tướng lĩnh chiếm cứ các nơi và mộ thêm Phiên binh làm quân thủ túc… Lúc ấy quân Thục đã tiến đến châu Quỳnh Nhai, Tản Viên dẫn hùng binh đến Mộc Châu bày trận đánh quân Thục. Tản Viên được các tướng giỏi lại quen thung thổ như Trần Bách Thanh (trước đây quê ở châu Quỳnh Nhai) và Phiên binh các nơi giúp sức nên đánh thắng được quân Thục. Hai năm sau Thục lại chia quân làm năm đạo tiến đánh Văn Lang. Tản Viên lại được vua Hùng sai đi đánh Thục. Tản Viên cùng hai em mình là Cao Sơn, Quý Minh chỉ huy các tướng chia quân đánh Thục. Trận đánh lớn.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> nhất diễn ra ở Sóc Sơn. Trận đầu quân Tản Viên thua, nhưng sau quân Văn Lang lại thắng phá tan quân Thục. Sau Tản Viên khuyên Hùng Duệ vương nhường ngôi cho Thục Phán để yên trăm họ, Hùng Duệ vương nghe lời. Thục An Dương vương đã dựng cột đá thề ở núi Nghĩa Linh nơi có lăng mộ các vua Hùng hẹn nối nghiệp các vua Hùng dựng nước, bảo vệ đất nước. Tản Viên trở về núi Tản (Ba Vì) thường hiển linh giúp các vua đời sau đánh giặc bảo vệ đất nước, an dân, phù trợ cho nhân dân đất Việt cường thịnh. Ghi nhớ công lao của Tản Viên Sơn Thánh đất nước ta từ Nghệ An trở ra tới đồng bằng sông Hồng và đặc biệt là ở các tỉnh Hà Tây, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Hà Nội, Yên Bái, tới Lào Cai đâu đâu cư dân nước Việt cũng có đền thờ ngài. CAO SƠN – QUÝ MINH Mễ Trì Thượng và Mễ Trì Hạ, huyện Từ Liêm tên cũ là Anh Sơn thờ thần Cao Sơn và Quý Minh làm Thành hoàng(1). Cao Sơn và em ruột ông là Quý Minh là nhân vật huyền thoại đời vua Hùng vương thứ 18. Cao Sơn còn gọi là Sùng Công, Quý Minh còn gọi là Hiến Công. Tại trang Thanh Uyên(2) có hai vợ chồng người nông dân sống trong cảnh thanh bần, tu nhân tích đức nhưng hiếm con. Một hôm người vợ nằm mơ thấy mình nuốt hai quả trứng, cảm động mà thụ thai. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa sinh được hai trai đặt tên là Cao Sơn, Quý Minh. Cả hai đều khôi ngô, tuấn tú, học một biết mười. lại có sức khỏe tuyệt luân, sức địch muôn người, thường tự đặt ra các môn võ nghệ, thường dùng tay không bắt cọp như bắt lợn con vậy. Một hôm Tản Viên đi săn thấy hai người tay không dồn cọp mà đánh, Tản Viên đam lòng yêu mến, hỏi chuyện rồi kết làm anh em. Hùng Duệ vương (Hùng vương thứ 18) tuổi già sức yếu không có con trai. Bộ chúa Ai Lao Thục Phán sợ ngôi vua sa vào tay con rể là Tản Viên Sơn Thánh, liền cất quân đánh nước Văn Lang. Vua giao cho Tản Viên chức Tổng chỉ huy quân đội đánh Thục. Cao Sơn, Quý Minh là bộ tướng đắc lực tin cậy của ông. Tản Viên, Cao Sơn, Quý ____________________ (1). Riêng đình Mễ Trì Hà còn thờ phụ tướng là Lý Lữ là tướng của vua Lê Đại Hành (9801005) đánh giặc Tống bị thương chạy qua làng để lại mấy giọt máu, dân làng nhớ công ơn lập đền thờ, Đình Kim Liên phường Kim Liên, Đống Đa cũng thờ Cao Sơn làm Thành hoàng. (2) Nay là xã Thanh Uyên huyện Tam Nông, Phú Thọ..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Minh chỉ huy các tướng dàn trận ở Mộc Châu đánh bại quân Thục vừa ở châu Quỳnh Nhai kéo đến. Hai năm sau, Thục Chúa lại chia quân làm 5 đạo tiến đánh Văn Lang. Vua Hùng lại triệu ba anh em ông chỉ huy quan quân đánh Thục. Vua Hùng phong Tản Viên là Tổng chỉ huy quân dân Văn Lang, Cao Sơn là Thống lĩnh Tả bộ Sơn thần, Quý Minh là Thống lĩnh Hữu bộ Sơn thần. Cao Sơn, Quý Minh về trang Thanh Uyên chiêu mộ quân lính, trang bị vũ khí, quân lương. Cao Sơn dạy quân sẽ làm bánh dày, xôi nén làm lương ăn đi đường, mổ lợn, lòng ăn ngày, thịt muối mang đi. Nhân dân cũng làm bánh chưng, bánh dày, xôi nén cho quân đội đi vội, nên phải vừa chạy vừa nhặt bánh dân để sẵn hai bên đường. Dưới quyền chỉ huy của Tản Viên Sơn Thánh và Cao Sơn, Quý Minh, quân Hùng đã đánh nhiều trận lớn. Song trận đầu ba ông dẫn tướng sĩ tới núi Sóc Sơn, các ông còn đang hội quân thì quân Thục đã bao vây tứ phía. Các ông chưa kịp mặc giáp, thắng yên cương phải mở đường máu rút ra ngoài. Nhưng từ sau trận này, quân Hùng luôn luôn thắng trận và đã đánh bại hoàn toàn quân Thục. Sơn Thánh giao cho Cao Sơn giữ đạo Kinh Bắc, Quý Minh đi tuần hành đạo Hải Dương. Sau khi đánh thắng hoàn toàn quân Thục hai ông trẩy quân về dinh, vào ngày 15 tháng 11, tự nhiên thấy trời đất chuyển động, có một đám mây như tấm lụa vàng từ trên trời thả xuống, hai ông theo mây bay lên trời. Sau khi Cao Sơn, Quý Minh hóa thì hai ông cùng với Tản Viên Sơn Thánh trở thành ngôi tối cao tương ứng với ba ngọn núi Ba Vì. Nhân dân tôn là “Tam Đức Thánh Tản”, trong văn tế gọi là “Tam vị quốc chúa thượng đẳng thần”. Bài vị của Tản Viên Sơn Thánh đặt bên tả cao nhất, sau đó đến bài vị của Cao Sơn, Quý Minh. Từ khi hóa hai ông cùng Thần núi Tản Viên âm phù cho các vua, các tướng đánh thắng giặc ngoại xâm để quốc thái dân an, phù hộ cho mưa thuận, gió hòa, cho mùa màng bội thu cây cối tốt tươi đâm chồi nẩy lộc. Cho tới nay có hàng trăm làng xã từ miền trung du Bắc Bộ, hai bên Tả, Hữu ngạn sông Hồng, sông Lô, sông Đà, cho tới các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, tới tận Thanh Hóa đều có đền miếu, đình, nghè thờ Hai ông. Tương truyền đình Anh Sơn nơi thờ hai ông, bị mưa lũ lở xuống đầm Anh Sơn. Đầu năm 1426, tướng quân Lê Thụ đưa quân từ Lam Sơn ra đóng Tổng hành dinh ở Anh Sơn để đánh Phương Chính đóng ở làng Phú Đô. Nhớ công của làng đã giúp đỡ nghĩa quân nhiều mặt, năm Nhâm Tý (1432), Lê Thái Tổ cấp tiền cho hai thôn Thượng, Hạ xã Anh Sơn xây một đình riêng và cũng thờ Cao Sơn, Quý Minh. Sau Anh Sơn cấy được lúa tám thơm ở đầm đem tiến vua nên vua đổi tên là Mễ Trì có nghĩa là đầm gạo..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Sau đó hai ngôi đình trên được tu bổ nhiều lần. Đình Mễ Trì Hạ có năm gian đại đình, ba gian hậu cung. Đình có giá trị nghệ thuật kiến trúc với các đầu đao cong vút, có mười bức cốn khắc rồng mây, hoa lá, hươu nai, con trâu gặm cỏ. Đình có bốn hoành phi, trong đó có bức “Hộ Quốc An Dân”. Bức hoành phi này đã được Hồ Chủ tịch dịch và cắt nghĩa cùng với nhiều câu đối trong đình Mễ Trì Hạ khi người về dự Hội nghị các xã Ngoại thành bàn kế hoạch chống hạn ngày 11 tháng 1 năm 1958. Hồ Chủ tịch xem xét ngôi đình và căn dặn phụ lão, cán bộ Mễ Trì cần bảo quản ngôi đình quý giá này. Hồ Chủ tịch còn ra đứng dưới gốc cây đa cổ thụ trước cửa đình nói: “Nơi này ngồi đọc sách, báo thì rất tốt”. Khi Hồ Chủ tịch mất, nhân dân Mễ Trì dựng tượng Người ở đình Mễ Trì Hạ và ghi chép lời dạy của Người. Đình Mễ Trì Hạ trở thành di tích lịch sử, là thắng cảnh của vùng Mễ Trì. PHAN TÂY NHẠC VÀ HOA DUNG CÔNG CHÚA Đình làng Hòe Thị nay thuộc xã Xuân Phương và đình làng Thị Cấm xã Hương Canh đều thuộc huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội thờ Phan Tây Nhạc là tướng của vua Hùng vương thứ 18 và phu nhân của ông là Hoa Dung công chúa. Phan Tây Nhạc sinh ngày 12 tháng 2 là bộ tướng của Hùng Duệ vương, ông có công lao trấn giữ vùng biên cương của nước Văn Lang. Vua Hùng gả cháu gái của Hoàng hậu là Hoa Dung cho. Hai ông bà đi chu du trong đất nước Văn Lang, qua làng Thị Cấm, xã Hương Canh thấy phong cảnh hữu tình, dân cư thuần phác liền dựng nhà ở. Hùng vương thứ 18 có con trai nhưng không ai muốn làm vua, trước sau đều theo nhau về thủy quốc, vua có hai công chúa là Tiên Dung và Ngọc Hoa, Tiên Dung được gả cho Chử Đồng Tử, Ngọc Hoa được gả cho Sơn Thánh. Nhà vua có ý định nhường ngôi cho con rể là Tản Viên Sơn Thánh Nguyễn Tùng. Khi đó ở nước phía Tây có Thục Phán vốn là tông phái họ Hùng được cử đi trị nhậm ở Ai Lao (1) liền đưa quân đến đánh nước Văn Lang để đoạt ngôi vua. Hùng vương triệu Sơn Thánh về giao cho làm Tổng chỉ huy quân dân Văn Lang đánh Thục. Tản Viên Sơn Thánh triệu Phan Tây Nhạc về triều phong làm tướng tiên phong đánh Thục. Phan Tây Nhạc nhận lệnh lên đường đánh Thục. Bà Hoa Dung cùng dân làng xin được đi theo để phục dịch quân đội. Phan Tây Nhạc nhận thấy trong quân đội có bàn tay phụ nữ lo việc cơm ___________________ (1). Không phải là nước Lào mà ở vùng Tây Bắc nước ta ngày nay..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> nước thì quân sĩ được ăn cơm dẻo, canh nóng, liền tổ chức hội thi nấu cơm để kén người tài đi theo quân ngũ lo việc hậu cần. Kết quả bà Hoa Dung cùng nhiều chị em làng Thị Cấm có tài hoa được tuyển theo quân đội. Sau khi chiến thắng Thục Phán(2), Phan Tây Nhạc và bà Hoa Dung trở về làng Thị Cấm, vua Hùng phong tước cho Phan Tây Nhạc, Hoa Dung được phong là công chúa. Hoa Dung công chúa dạy dân Thị Cấm dệt vải, trở thành nghề cổ truyền nổi tiếng với câu ca: “Sồi Cử, vải Canh”. Khi Phan Tây Nhạc và công chúa Hoa Dung qua đời, nhân dân Thị Cấm, cũng như nhân dân Hòe Thị đều tôn hai ông bà làm Thành hoàng. Mở hội vào ngày 12 tháng 2. Đình làng Hòe Thị dựng trên nền doanh trại cũ của tướng quân Phan Tây Nhạc, đình kiến trúc theo kiểu tiền nhất (-) hậu đinh (J) chỉ đóng cửa hậu cung, còn đình bỏ ngỏ. Đình Hòe Thị có nhiều di vật quý đặc biệt có liên quan đến cuộc kháng chiến của phe chủ chiến trong triều đình nhà Nguyễn vào các năm 1873 và 1882 – 1883. Hiện nay đình còn giữ được nhiều di vật quý, đó là bức hoành phi treo ở nhà Tiền tế có bốn chữ: “Hộ quốc tý dân” do quan Tiết chế Bắc Kỳ Đại thần Hoàng Kế Viêm đề tặng, triều Tự Đức năm Giáp Tuất (1874) sau khi ông đóng quân ở đình này phối hợp với quân Cờ Đen do tướng Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy kéo ra Cầu Giấy giết chết tên Phăng xi Gácniê. Đôi câu đối do Trung quân tứ trấn kỵ nhất đội, xuất đội là Nguyễn Chí Độ cúng tiến. Đình còn giữ được 29 đạo sắc phong của triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Đình Hòe Thị được Bộ Văn Hóa – Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa năm 1990. Đình làng Thị Cấm còn giữ lại toàn bộ những đồ cổ vật dùng trong lễ hội thổi cơm thi như bốn chiếc nồi đồng, sáu chiếc lọ đồng để đựng nước, trống lệnh, dây kéo lửa… AN DƯƠNG VƯƠNG Vào nửa sau thế kỷ III trước Công nguyên, nhân sự suy yếu của Hùng Duệ vương (Hùng vương thứ 18), Thục Phán thủ lĩnh người Âu-Việt cũng thuộc tông phái họ Hùng trị nhậm ở Ai-Lao mởi 22 tuổi đã phát nhiều đạo ___________________ (2). Trong cuộc chiến tranh Hùng – Thục, lần thứ nhất quân Hùng thắng trận. Sau Thục Phán lại kéo quân sang, quân Hùng thua trận đầu, sau thắng lớn ở Sóc Sơn, nhưng Tản Viên Sơn Thánh khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán, vua Hùng nghe lời. Thục Phán dụng hòn đá thề ở núi Hùng Lĩnh thề nối nghiệp họ Hùng và đời đời tôn thờ các vua Hùng..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> binh tiến đánh kinh đô Văn Lang. Theo truyền thuyết thì sau khi Hùng vương thắng Thục Phán lần thứ hai, nhà vua đã nghe lời tâu của con rể là Sơn Thánh Tản Viên Nguyễn Tùng, nhường ngôi cho Thục Phán(1). Sau khi được nước Văn Lang, năm 257 trước Công nguyên, Thục Phán dựng nước Âu-Lạc xưng là An Dương vương, dời đô về Cổ Loa. Việc dời đô từ miền núi về đồng bằng là một bước trưởng thành lớn lao của dân tộc vì Âu Việt – Lạc Việt hợp nhất thành một quốc gia có cương vực rộng, dân đông. Từ đó, kinh tế, văn hóa, quân sự Âu Lạc phát triển. Về nông nghiệp, An Dương vương chú trọng khai phá, mở rộng đồng bằng sông Hồng, di dân ở miền núi đến. Do nghề nấu quặng sắt, quặng đồng phát triển mạnh, công cụ bằng đồng, bằng sắt như cày, bừa, liềm, hái, dao, cuốc cũng phong phú. Nghề chăn nuôi phát triển, đàn trâu bò sinh sản nhanh đưa vào canh tác, nên nông nghiệp phát triển nhanh. Ngoài lùa nước, ngô, khoai, sắn thì rau, mầu, đậu đỗ, cây có hạt cũng như bông, dâu tằm, chàm phục vụ cho thủ công nghiệp ươm tơ, kéo sợi, dệt vải phát triển nhanh. Đô thị cũng phát triển thành các trung tâm trao đổi hàng hóa, các chợ. Kinh tế phát triển thì văn hóa cũng phát triển theo, đó là nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ. Quân sự thời An Dương vương cũng mạnh mà tiêu biểu là thành Cổ Loa, là nỏ liên châu, là mũi tên đồng cùng nhiều vũ khí bằng sắt, bằng đồng khác. Ngoài bộ binh còn có thủy quân và kị binh. Nhưng độc đáo, sáng tạo là thành Cổ Loa mà theo sử thì quanh co chín lớp, nay còn lại không kể những ụ công sự thành lũy riêng lẻ còn có ba vòng thành đắp bằng đất có chu vi tới 16 kilômét. Chân thành có rất nhiều đoạn kè bằng đá, Loa thành hiện còn ba vòng thành là thành ngoài, thành giữa và thành trong. Thành ngoài vây quanh một khu đất ngày nay là xã Cổ Loa, một phần các xã Dục Mộc, Dục Tú nay đều thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội). Cả ba vòng thành phía ngoài đều có hào sâu rộng từ mười đến 50 mét. Ở phái Nam, An Dương vương lợi dụng đoạn sông Hoàng Giang và các ngòi, lạch tự nhiên làm hào. Các sông, ngòi, lạch, hào ở ba vòng thành nối tiếp với nhau thành hệ thống cho thủy quân hoạt động thông tới sông Hoàng Giang ra sông Hồng, sông Cầu, tới ___________________ (1). Quách Phác (Trung Quốc) thế kỷ III chú giải sách Phương ngôn của Dương Hùng (thế kỷ I) nói rằng: “Tây Âu chỉ là một nhánh khác của Lạc Việt. Tuy một bộ phận dân Âu Lạc cư trú ở Lưỡng Quảng nhưng cùng dòng họ sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Họ sống xen kẽ với người Âu Việt cũng chế tạo đồ đồng thau, tiến hành canh tác nông nghiệp, chăn nuôi gia súc và đánh cá như người Lạc Việt. Người Âu Việt cũng có tục cắt tóc, xăm mình, mặc áo chui đầu, gài khuy bên trái như người Lạc Việt. Giữa người Âu Việt và người Lạc Việt có sự giao lưu kinh tế, văn hóa, hôn nhân, nhưng những cuộc xung đột vũ trang, xâm phạm giữa họ với nhau cũng không tránh khỏi”. Về trình độ phát triển văn hóa, xã hội, người Lạc Việt có phần tiến bộ hơn người Âu Việt..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Lục Đầu giang qua sông Bạch Đằng ra biển. Trong thành có khu Đầm Cả và khu Vườn Thuyền đỗ được hàng trăm thuyền chiến là căn cứ thủy quân lớn. Trong thành có nhiều nơi chế tác vũ khí, đặc biệt là chế tác nỏ liên châu và các mũi tên đồng cùng vũ khí cho bộ binh, thủy quân. Quân đội Âu Lạc có hàng vạn người bao gồm bộ binh, thủy quân, chưa kể lực lượng làm nhiệm vụ hậu cần, cứu thương, tải thương, có nhiều tướng tài như Cao Lỗ, Lý Ông Trọng, Lạc Hầu, Hầu Nồi, Đình Toán… Năm 221 trước Công Nguyên, nhà Tần thống nhất toàn Trung Quốc, phái 50 vạn quân tiến xuống đánh chiếm các nước trong nhóm Bách Việt ở miền Nam Trung Quốc. Lần lượt các nước trong nhóm Bách Việc bị quân Tần chiếm, lập ra các quận Mãn Trung (Phúc Kiến), Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Bắc Quảng Tây), quận Tượng (Tây Quảng Tây – Nam Quý Châu). Việt sử thông giám cương mục viết: “Nhà Tần hám đất Việt có nhiều ngọc trai và ngọc cơ muốn chiếm lấy, đặt làm quận huyện mới bắt kẻ trốn tránh, người gửi rể và lái buôn đi làm lính – Sai hiệu úy Đỗ Thư làm tướng, Sử Lộc thì khơi cừ lấy lối tải lương đi sâu vào Lĩnh Nam cướp lấy đất để đặt làm quận huyện”. An Dương vương đã lãnh đạo nhân dân Âu Lạc chống Tần từ năm 214 trước Công nguyên. Do chính trị trong nước được củng cố vững chắc, kinh tế phát triển, lực lượng quân sự hùng hậu, nên An Dương vương đã lãnh đạo quân, dân Âu Lạc chống Tần gần một chục năm, hàng chục vạn quân Tần bị giết chết, chủ tướng Đồ Thư cũng bị bỏ mạng ở chiến trường. Tư Mã Thiên, nhà sử học nổi tiếng của Trung Quốc viết: “Lúc bấy giờ nhà Tần ở phía Bắc thì mắc họa với người Hồ, ở phía Nam thì mắc họa với người Việt. Đóng binh ở đất vô dụng tiến không được thoái cũng không xong. Trải hơn 10 năm, đàn ông phải mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở khổ không sống nổi, người ta thắt cổ tự tử trên cây dọc đường, người chết trông nhau. Kịp khi Thủy Hoàng mất (209 trước Công nguyên) thì cả thiên hạ nổi lên chống. Tư Mã Thiên viết tiếp trong sử ký: “Sai Giám Lộc đào cừ chở lương để vào sâu đất Việt. Người Việt bỏ trốn. Quân Tần cầm cự lâu ngày, lương thực bị tuyệt và thiếu. Người Việt ra đánh. Quân Tần đại bại”. Sách Hoài Nam Tử của Lưu An đầu thời Hán viết như sau: “Trong hai năm không cởi giáp, buông nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại bắt binh lính đào cừ cho thông đường lương để đánh nhau với người Việt. Giết được quân trưởng Tây Đà là Dịch Hu Tống. Nhưng người Việt vào rừng ở với cầm thú, không chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau cử người tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, cả phá Tần, giết được Đồ Thư. Quân Tần thây phơi, máu chảy hàng mấy chục vạn người”..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Chiến thắng của nhà nước Âu Lạc đối với nhà Tần là chiến bại đầu tiên của Tần Doanh Chính. Năm 208 trước Công nguyên, Tần Nhị Thế phải bãi bỏ cuộc chiến tranh xâm lược Âu Lạc. Khi Đồ Thư đem quân sang xâm lược Lĩnh Nam thì Tần Thủy Hoàng sai Triệu Đà vào đất Bách Việt để chiếm giữ các vùng đất nhà Tần mới thành lập quận huyện. Năm 207 trước Công nguyên, Triệu Đà là quan của nhà Tần quân nhà Tần suy yếu, chiếm ba quận Nam Hải, Tượng, Quế Lâm lập ra nước Nam Việt xưng vương. Triệu Đà nhiều lần đem quân đánh nước Âu Lạc đều bị thua. Triệu Đà biết không thắng Âu Lạc bằng chiến tranh vũ tranh mà dùng kế ly gián giữa vua với các quan đại thần, chiến tranh gián điệp bằng cách giả giảng hòa, cho con trai là Trọng Thủy sang làm con tin, hỏi Mỵ Nương cho Trọng Thủy và xin ở rể. Vua An Dương vương bằng lòng, bất chấp lời khuyên can của quần thần. Một hôm Trọng Thủy bảo Mỵ Châu: “Trước kia cha nàng thắng cha ta là nhờ bí quyết nào vậy?”. Mỵ nương tin chồng mù quáng đem nỏ thần của cha ra khoe, chỉ vào lẫy nỏ nói: “Cha thiếp thắng được cha chàng là nhờ cái lẫy nỏ của thần Kim Quy ban cho”. Trọng Thủy xem rồi nhân đó làm một lẫy nỏ giả đánh tráo (còn gọi là nỏ liễn). Lấy được lẫy nỏ cũng như bí mật quân sự của An Dương vương, Trọng Thủy xin vua An Dương vương về thăm cha đẻ. Trước khi đi, Trọng Thủy đưa cho Mỵ nương chiếc áo long ngỗng dặn: “Ta về thăm cha, rủi có chuyện lưu lạc thì nàng nhớ rắc lông ngỗng làm dấu để ta đi tìm”. Trọng Thủy đem lẫy nỏ về cho cha cùng các bí mật quân sự khác, Triệu Đà cho làm nhiều nỏ liên châu rồi phát binh đánh nước Âu Lạc. Trong khi đó An Dương vương vẫn cho rằng mình đã hòa với Triệu mà mối tình Trọng Thủy – Mỵ Châu là sợi dây gắn bó không thể xảy ra chiến tranh, nên trễ nải việc quân. Trong thời gian qua, nhà vua đã nghe lời xiểm nịnh của Trọng Thủy đuổi hết các tướng như Cao Lỗ, Hầu Nồi, Đình Toán, còn Lý Ông Trọng thì đi sứ Trung Quốc đã bị vua Tần giữ lại. Vì thế khi Triệu Đà tấn công, quân Âu Lạc bị thua, nhà vua chỉ kịp cho Mỵ Châu ngồi lên sau ngựa rồi chạy vào phía Nam. Nhưng nhà vua đi đến đâu, giặc đuổi theo đến đó. Tới vùng biển Diễn Châu đã cùng đường, nhà vua gọi lớn: “Thần Kim Quy không cứu ta sao?” Thần Rùa nổi lên mặt nước nói: “Giặc ngay ở sau lưng”. An Dương vương hiểu ra liền rút gươm chém chết Mỵ Châu rồi nhảy xuống biển tự tử. Thương nhớ người anh hùng vì nhẹ dạ, cả tin, mất cảnh giác đến nỗi cơ đồ bị mất, còn mình phải chết thảm, nhân dân Cổ Loa và vùng phụ cận lập đền thờ An Dương vương, nhân dân còn lập đền thờ Cao Lỗ tướng quân, lại có am Mỵ Châu và đền Giếng thờ thần Kim Quy. Ở đền Thượng Cổ Loa vẫn thờ một cái nỏ thần, nghe các cố lão xưa nói ở đền Thượng trước còn thờ một cái ống đồng có đục nhiều lỗ để cắm các mũi.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> tên, nhân dân gọi là nỏ thần linh quang (đã mất). Năm 1874, khi Tôn Thất Thuyết đánh Pháp ở vùng chung quanh Hà Nội, có đến đền Cổ Loa, ông để lại một đôi câu đối như sau: “Tặc đáo Loa thành tùy diệt một Điện vô quy nỗ dũ uy linh” Dịch: “Giặc gần thành ố liền tiêu diệt Đền vắng nỏ rùa vẫn hiển linh” Hàng năm Cổ Loa mở hội từ ngày 6 đến ngày 8 tháng giêng kỷ niệm ngày Thục Phán nhập cung. Sáng mùng 6 tháng giêng, 12 vị kỳ mục trưởng xóm thuộc làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, đến hội họp tại nhà ông tiên chỉ hoặc nhà chánh hội để chuẩn bị đám rước. Tại đây các vị kỳ mục đã tề chỉnh trong bộ quần áo tế, đến trước giá văn tế đã được để sẵn lễ, lễ mỗi người năm lễ. Trên giá văn tế, một tờ văn tế do người giỏi soạn văn tế trong làng soạn thảo. Do đó đám rước do 12 xóm cùng tham dự khởi hành. Đi đầu đám rước là cờ quạt, kiệu long đình rồi đến phường bát âm, tiếp đến 12 vị kỳ mục, mặc quần áo tế, đi hia, sau đó là dân đinh mang lọng rước giá văn tế và kiệu long đình. Một số dân đinh của các làng hóa trang đeo râu giả, mặc quần áo trắng, đỏ đi cùng đám rước. Sân đền lúc này đã được trang hoàng đầy đủ, chầu ngoài cửa đền là đôi ngựa hồng và ngựa bạch với đầy đủ yên cương. Hai bên tả, hữu đường vào đền cắm cờ quạt và các đồ lộ bát biểu rồi đến kiệu của 12 xóm. Trước đền là một hương án bày đồ lễ hộp đựng hia vàng và các đồ ngũ sự. Trước hương án này là một hương án nhỏ hơn, trên bày toàn khí giới của nhà vua như cung, kiếm, tên. Trước hương án nhỏ là một chiếu cạp điều để hội đồng kỳ mục làm lễ. Khi đám rước kỳ mục tới đền, giá văn tế được đặt trên long đình và đem để trước hương án để thờ rồi tiên chỉ làng hoặc chánh hội đứng ra tế. Khi cuộc tế chấm dứt, ông tiên chỉ cùng các quan viên, kỳ mục cùng đến lễ trước bàn thờ rồi đến lượt dân làng vào lễ. Buổi lễ kéo dài đến giờ Mùi mới kết thúc. Sau các quan viên là kỳ mục xóm chùa khiêng long đình trên có bài vị vua rồi tới kiệu các thôn khác do kỳ mục khiêng. Mỗi xóm đều có phường bát âm, có cờ quạt, các quan viên mang tự khí và dân xóm hóa trang riêng. Đám rước đi rất chậm, luôn luôn dừng lại vòng quanh giếng Trọng Thủy rồi đi tới cổng làng kéo dài trên hai tiếng đồng hồ. Lễ hội đền An Dương vương còn có rất nhiều trò vui chơi nên xưa đã có câu: “Chết thì bỏ con, bỏ cháu Chứ không bỏ hội mùng sáu tháng giêng..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> CAO LỖ ĐẠI VƯƠNG Cao Lỗ là tướng giỏi của An Dương vương, giúp nhà vua đánh thù trong giặc ngoài, xây dựng cơ đồ. Cuối thời Hùng vương thứ 18, ở trang Sỹ Lộ nay thuộc xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh có ông Cao Thông và bà Đỗ Thị. Ông làm nghề dạy học, bốc thuốc, đó là những nghề nhân nghĩa có ích cho đời. Bà Đỗ Thị làm ruộng, tháng 3, ngày 8 thì trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Vợ chồng tu nhân tích đức, nhưng đã luống tuổi mà vẫn chưa có con nối dõi tông đường. Hai ông bà trai giới thành tâm đến núi Hoa Động cũng ở địa hạt Gia Bình là nơi linh thiêng để cầu tự. Đêm đó ông bà ngủ lại núi Hoa Động cầu mộng. Lòng thành của ông bà Cao Thông thấu đến trời xanh. Ngọc Hoàng cho một vị Thần Rồng xuống làm con. Đêm đó bà mộng thấy con rồng trắng từ trên trời bay xuống quấn quanh người(1). Đầy ngày đầy tháng, bà sinh ra một trai khôi ngô tuấn tú, ông bà đặt tên là Cao Lỗ. Vì là con của Thần Rồng có thể bay lên bầu trời làm bạn với trăng cao, mây gió hoặc vùng vẫy nơi sóng nước, nên ngay từ khi mới chào đời cho đến năm ba tuổi, Cao Lỗ khỏe mạnh lạ thường, lại thông minh hiếu học. Chẳng bao lâu cậu bé học hết chữ của cha. Đến năm Cao Lỗ lên 4 tuổi, ông bà cho Cao Lỗ đi học ở trường, Cao Lỗ học đâu nhớ đó và hiếu động. Đến năm Cao Lỗ 8 tuổi thì học giỏi, lại có sức mạnh phi thường, vật được tất cả đô vật vốn nổi tiếng trong vùng, bạn bè suy tôn Đô Lỗ là Tiểu tướng. Vào tuổi thanh niên, Cao Lỗ có tài văn võ song toàn. Ông tập hợp tráng đinh dạy vật, dạy bơi, cũng như dạy côn quyền và cả các thế trận cho họ. Đoạn sông Đuống chảy qua trang Sỹ Lộ để hợp lưu với hai con sông khác tạo ra “Lục Đầu Giang” có rất nhiều thuồng luồng cá sấu quấy phá trên sông, lật đổ thuyền bè, gây biết bao tai họa cho dân. Cao Lỗ đã dẫn trai tráng xuống sông tiêu diệt cá sấu, thuồng luồng, làm cho cả một vùng sông nước Lục Đầu Giang yên ả. Từ đó trang Sỹ Lộ trên bến dưới thuyền, người bốn phương đến tụ hội ngày càng đông. Cao Lỗ tổ chức cho nhân dân khai hoang đất hoang hóa vùng ven sông làm ruộng lập trang trại mới. Dân đông, đất đai rộng lớn, có trang ấp, có phố phường, Cao Lỗ tách trang Sỹ Lộ thành nhiều trang ấp mới, sau này là đất đai bẩy trang Tiểu Than, Bình Than, Kênh Phù, Đại Trang, Văn Than, Đông Trung và Mỹ Lộc. Cao Lỗ là người có công lập ra vùng đất mới rộng lớn hình thành nhiều trang ấp ở vùng sông Lục Đầu, chẳng những chỉ phát triển kinh tế mà còn là lực lượng quân sự hùng mạnh, ngăn chặn nạn giặc ngoại xâm từ biển theo __________________ (1). Còn có thuyết cho rằng ông vốn là tinh con rồng đá nên còn gọi là Thần đá..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> đường sông Bạch Đằng để vào Lục Đầu Giang. Ông được vua Hùng vương thứ 18 giao cho cai quản vùng đất mới đó. Khi ông nhận thấy Hùng Duệ vương già yếu, không có con trai nối ngôi, lực lượng quân sự trong nước yếu, trong khi đó thì quân Tần đã đánh tới miền Hoa Nam (Trung Quốc), đã khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán để tập hợp chỉ huy quân dân hai nước Lạc Việt và Âu Việt chống Tần. Hùng vương đã nghe lời ông và các tướng khác như Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn, Quý Minh nhường ngôi vua cho Thục Phán. Thục Phán đã lập cột đá thề ở núi Nghĩa Linh, Đền Hùng ngày nay nguyện nối tiếp sự nghiệp họ Hùng và thờ cúng các vua Hùng lập ra nước Âu Việt. Ngày vua Hùng nhường ngôi là ngày 6 tháng giêng cũng là ngày nhập cung của Thục Phán, lên ngôi vua hiệu là An Dương vương. Nhà vua sát nhập Âu Việt và Lạc Việt thành nước Âu Lạc. Để bảo vệ nhà nước Âu Lạc, Cao Lỗ dẫn đầu hàng nghìn trai tráng vùng Lục Đầu Giang đã được ông huấn luyện về quân sự xin tòng quân. Thục An Dương vương trao thêm quân sỹ trang bị thuyền bè binh khí cho ông phòng bị ở vùng Đông Bắc đề phòng quân Tần theo đường biển đánh vào trung tâm nước Âu Lạc. Ông trở thành vị tướng tài đứng vào hàng đầu các võ tướng của An Dương vương. Cao Lỗ cũng là người sáng chế ra nỏ liên châu thường gọi là nỏ thần, bắn một lần được nhiều phát tên và chế tạo ra mũi tên đồng sắc nhọn có tác dụng sát thương lớn và hiệu quả chiến đấu rất cao. Nỏ thần không phải là một truyền thuyết hoang đường, vì với lòng căm thù giặc ngoại xâm, tài chỉ huy của nhà vua và của các tướng lãnh có nỏ liên châu đã đánh thắng đạo quân hùng mạnh của quân Tần, giết chết chủ tướng Đồ Thư, đánh đuổi quân Tần về nước. Điều này đã được Khảo cổ học chứng minh vào năm 1959 khi khai quật được một kho ở Cầu Vực trong thành Cổ Loa, có tới hàng vạn chiếc, kích cỡ khác nhau, hình dáng khác nhau. Đây là thứ nỏ cải tiến, một phát bắn được nhiều mũi tên, có khả năng khi sử dụng nỏ liên châu không sử dụng bằng tay mà bằng một thứ máy, nó phù hợp với truyền thuyết “nhất phát sát vạn nhân”. Những mũi tên đồng ở Cầu Vực, Cổ Loa cùng với trống đồng, thạp đồng là vật chứng tiêu biểu cho “Văn hóa đồ đồng ở giai đoạn Âu Lạc” và “văn hóa vật chất của tổ tiên thời An Dương vương”. Cao Lỗ cũng đã khuyên vua Thục Phán An Dương vương dời đô từ Bạch Hạc về Cổ Loa. Ông là người vẽ, thiết kế thành có năm vòng thành với kiến trúc độc đáo xoáy trôn ốc, nên còn gọi là Thành Ốc. Ông đã giúp vua trừ “Tinh bạch kê” để xây dựng thành Cổ Loa. Thành Cổ Loa vô cùng rộng lớn về quy mô và hiện đại về kiến trúc, hiểm trở. Thành vừa là nơi làm việc của vua và các quan trong triều, vừa là căn cứ bộ binh để phòng thủ, vừa là căn.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> cứ xuất phát, tập kết của thủy binh của quân đội cả nước, lại là nơi sản xuất vũ khí hiện đại nhất thời đó là nỏ liên châu và tên có mũi bằng đồng, là nơi đóng chiến thuyền. Thành có nơi tập bắn nỏ, có “Ngự xạ đài” cho vua xem bắn. Về quy mô, hiểm trở kết hợp là căn cứ của bộ binh, thủy quân thì vượt rất xa về mọi mặt so với thành của các nước Tống, Tề, Lương, Ngụy, Hàn, Tần của Trung Quốc cùng thời. Cao Lỗ cũng là một vị tướng xuất sắc trong cuộc chiến tranh chống Triệu Đà, vua nước Nam Việt đem quân đánh chiếm Âu Lạc. Chúng đã bị đánh chặn tại các phòng tuyến từ rất xa thành Cổ Loa. Quân Triệu Đà bị chết hàng nghìn tên trong một trận vì những mũi tên đồng từ nỏ liên châu bắn ra, khiến cho từ tướng đến quân đều khiếp sợ. Triệu Đà đánh mãi nước Âu Lạc không được, lại hao binh tổn tướng phải giảng hòa, âm mưu thực hiện đánh chiếm nước Âu Lạc bằng chiến tranh gián điệp. Triệu Đà hỏi Mỵ Châu cho Trọng Thủy, hai nước kết làm thông gia, lại xin cho Trọng Thủy ở rể để thực hiện âm mưu gián điệp. An Dương vương thuận nghe, Cao Lỗ cùng nhiều tướng ngăn cản, vua không nghe mà nghe những lời xiểm nịnh của bọn gian thần. Vua còn xử tệ với các tướng như Cao Lỗ, Hầu Nồi và các tướng khác. Cao Lỗ phải ra đi để lại lời nhắn Thục An Dương vương: “Giữ được nỏ liên châu là giữ được thiên hạ, mất nỏ liên châu là mất thiên hạ!” Trên đường trở về quê hương, Cao Lỗ còn tiêu diệt hai tên nổi loạn là Đốc Duyệt và Đốc Thư. Cao Lỗ biết âm mưu gian xảo của Triệu Đà, ông tiếp tục tuyển mộ tráng đinh, luyện tập quân sự, chờ ngày tiêu diệt cha con Triệu Đà. Sợ uy quyền và tài năng cầm quân của Cao Lỗ, bọn nịnh thần xúi bẩy Thục An Dương vương là ông chiêu mộ quân làm loạn, âm mưu, cướp ngôi vua. Nhà vua quá tin con rể, cùng bọn nịnh thần, không suy xét, ghép ông vào tội phản nghịch, xử tội chết. Thần phả Cao Lỗ vương ở đền Cao Đức, huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh chép: “Sau khi ông bị chém, có con bạch hổ đã tha đầu ông về đến khu vực Miễu (nay thuộc Tiểu Than, Cao Đức), trời vừa tang tảng sáng, nhóm nhà trò đi hát đêm về thấy vậy thì xua đuổi. Bạch Hổ tha đầu Cao Lỗ vương vào bụi rậm. Dân làng chạy ra tới nơi đã thấy một đám đất phủ kín bụi rậm, liền lập miếu thờ Cao Lỗ vương trên đống đất đó. Sau khi Cao Lỗ vương mất, dân bẩy thôn tách từ trang Sỹ Lộ ra đều lập đền thờ ông. Đền chính lập ở làng Lớ nơi có khu mộ ông. Trong đền có tượng Cao Lỗ vương cùng nhiều đồ thờ, nay còn đôi câu đối: Hoa Động cổ sinh thần, Thục tướng đằng đề thụ ấn Đại Than kim hiển thánh, trầm Thư, hãm Duyệt chính tâm hương.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Dịch: Xưa Hoa Động sinh thần, làm tướng to cho vua Thục được trao ấn tín Nay đất Đại Than hiển thánh, một nén hương dìm chết Đốc Thư, bắt Đốc Duyệt bêu đầu Tại Hà Nội có nhiều nơi thờ Cao Lỗ ngoài đền thờ Cao Lỗ ở Cổ Loa, dân làng Phúc Lộc, xã Uy nỗ huyện Đông Anh thờ Cao Lỗ làm Thành hoàng. MỴ CHÂU Nhà Tần sau khi thống nhất Trung Quốc (năm 221 trước Công nguyên) phát 50 vạn quân đi đánh phương Nam. Quân Tần chiếm được các vùng đất Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây. Song càng đi sâu vào đất Việt, quân Tần đã bị người Âu Việt, Lạc Việt đánh bại, giết chết chủ tướng Đồ Thư. Tần Thủy Hoàng chết, một viên quan của Tần Thủy Hoàng là Triệu Đà phản lại nhà Tần chiếm Nam Hải, Quế Lâm, Tượng quận lập ra nước Nam Việt. Triệu Đà đem quân đánh Âu Lạc đều bị quân dân Âu Lạc dưới sự lãnh đạo của An Dương vương đánh bại. Triệu Đà rút quân về vùng núi Vũ Ninh, đây là cửa ngõ miền Bắc vào đồng bằng Bắc Bộ. Triệu Đà thấy rõ nếu chỉ dùng lực lượng quân sự thì không thể đánh bại được An Dương vương bèn thay đổi chiến lược. Triệu Đà làm kế hoãn binh cho sứ sang xin giảng hòa. Vua Thục bất chấp những lời can ngăn của các tướng như Cao Lỗ, Hầu Nồi… chấp nhận vì “Triệu Đà xin hàng phục An Dương vương, xưng thần mà thờ” (Giao Châu ngoại vực ký). Triệu Đà lại hỏi Mỵ Châu con gái của Thục An Dương vương cho con trai mình là Trọng Thủy. Mỵ Châu thấy dung mạo Trọng Thủy khôi ngô nên đem lòng yêu. Trọng Thủy ở rể bên Âu Lạc, chưa đầy ba năm, thông qua Mỵ Châu học được phép chế nỏ liên châu. Huyền thoại kể: “Trọng Thủy hỏi Mỵ Châu xem cái nỏ thần của cha, Trọng Thủy thấy nỏ, liền lấy cưa cưa trộm cho gần gẫy, lại thay lẫy nỏ từ vuốt rùa vàng bằng lẫy giả, do thám các vị trí đóng quân. Trọng Thủy cũng đã mua chuộc nhiều tướng tá của Âu Lạc làm tay sai cho mình. Các tướng tài như Cao Lỗ, Hầu Nồi, Đình Trọng… đều bị An Dương vương bạc đãi, giết chết hoặc đuổi đi. Lịch sử viết: “Không biết Cao Lỗ là thần, đối đãi vô đạo, Cao Lỗ liền bỏ đi, bảo với vua rằng: “Giữ được lẫy nỏ thì làm vua cả thiên hạ, không giữ đươc nỏ ấy thì mất thiên hạ”(1). Nhà vua ỷ có thành Cổ Loa hiểm trở, ỷ vào nỏ thần, bạc đãi công thần, cơ mưu chẳng nhiệm, thương tin con rể mê muội. Còn Mỵ Châu thì cố tình giao ____________________.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> (1). Theo Giao Châu ngoại vực ký – Còn Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thần phả ở Tiểu Than (Gia Lương) đều viết An Dương vương giết Cao Lỗ.. thông với địch, vô tình làm mất uy thế quân sự của Âu Lạc. Khi Trọng Thủy nắm được bí mật chế tác nỏ liên châu và các bí mật quân sự, liền nói dối xin về thăm cha. Hắn báo cho Triệu Đà những bí mật về nỏ thần, về các đồn trại quân sự khác. Triệu Đà đem đại quân đánh Âu Lạc. Theo truyền thuyết dân gian vùng Cổ Loa thì khi quân Triệu Đà đã đến gần thành, An Dương vương vẫn đánh cờ bảo: “Triệu Đà không sợ nỏ thần của ta sao?” Khi quân Triệu tới, Thục An Dương vương đem nỏ ra bắn thì nỏ gãy, thua trận phải chạy. An Dương vương chạy về phía nam, cho Mỵ Châu ngồi sau ngựa. Mỵ Châu nhớ lời chồng dặn khi về nước “Nếu có xảy ra chiến tranh thì nàng chạy đến đâu nhớ rắc long ngỗng từ chiếc áo ta đưa cho nàng tới đó, để ta tìm”. An Dương vương thua chạy, nhưng tới đâu cũng bị quân Triệu đuổi sát phía sau, thì ra quân Triệu cứ theo vết lông ngỗng Mỵ Châu rắc. An Dương vương cùng đường chạy tới cả biển Quỳnh Lưu (Nghệ An) thì phía trước là biển, phía sau là quân giặc liền hô lớn: “Thần Kim Quy không cứu ta sao?” Thần Kim Quy nổi lên mặt nước nói: “Người ngồi sau ngựa tức là giặc đó”. Vua rút gươm muốn chém Mỵ Châu, Mỵ Châu ngẩng mặt lên trời khấn rằng: “Thiếp là con gái nếu có lòng phản cha thì xin chết làm tro bụi, nếu một lòng trung tín nhưng vì thật bụng tin người, bị người lừa dối thì xin chết hóa thành châu ngọc để rửa nhục này!”. Vua chém Mỵ Châu, máu chảy xuống nước, trai hút lấy hóa thành ngọc trai”. Vua cầm sừng tê dài bẩy tấc, rùa vàng rẽ nước đưa vua xuống biển. Nước Âu Lạc mất. Tại đền Cổ Loa, cạnh đền Thượng vài trăm mét có am Bà Chúa, dưới tán cây đa trồng từ thời Ngô Quyền, đã có nghìn năm tuổi. Am có ba gian, gian giữa thờ Công chúa, có ngai thờ, có mũ cườm, giầy cườm, hai bên thờ hai nàng hầu. Sau bàn thờ công chúa, vén bức trướng lên sẽ nhìn thấy một khối đá hình người có hai vai cao hơn một mét phủ vải vàng. Khối đá xây tướng kín ba phía giống như hậu cung, đó là tượng Mỵ Châu. Trong am có đôi câu đối của Đại học sĩ Nguyễn Tư Giản: Trung tín thệ tẩm than hóa thạch Hưng vong sa lệ tinh chầm châu Dịch: Lời thề trung tín thân hóa đá Giọt lệ hưng vong giếng trầm châu (rửa ngọc) Trong am còn có bài thơ của Tiến sỹ Chu Mạnh Trinh viết năm 1903 khắc trên gỗ: Lang quân tình trọng, phụ ân thâm.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Bất bách kỳ oan trực đáo câm Cơ trảo vô hình quy diệc khứ Minh châu hữu lệ, bang do trầm Hoàng bi cổ miếu thiên niên quốc Bách hại giao thiên nhất phiến tâm Tịch mịch Tiên triều cung ngoại miếu Đồ quyên đề đoan, nguyệt âm âm Dịch: Nghĩa cha sâu lại nặng tình chồng, Giải nỗi kỳ oan mãi chửa thông, Thần nỏ mất thiêng rùa đã lặn Trai ngậm minh châu, lệ nhỏ ròng Ngàn năm đại thụ che bia cổ Biển biếc trời xanh một nỗi lòng Triều xưa tịch mịch cung ngoài vắng Tiếng cuốc ngừng kêu, trăng mung lung (Khương Hựu Dụng dịch) Theo Thần phả am Bà Chúa, thì Bà Trưng khởi nghĩa từ Mê Linh. Bà kéo quân xuống Cổ Loa để từ đó xuống đánh thành Luy Lâu, Bà Trưng đã dừng chân ở Cổ Loa, ngủ bên am Bà Chúa đã mê thấy Mỵ Châu hiện về hối lỗi với Hai Bà Trưng (về tội “thật bụng tin người, bị người làm hại” để mất nước khi xưa) và nguyện xin âm phù Bà Trưng đánh giặc. Sáng ra Bà Trưng hỏi thăm các cố lão ở Cổ Loa nghe kể chuyện Mỵ Châu, sai giết trâu làm lễ tế cúng Mỵ Châu rồi mới xuất quân đi dẹp giặc. Trai gái Cổ Loa theo Hai Bà tòng quân rất đông. HUYỀN THIÊN TRẤN VŨ Tại Hà Nội có hai đền thờ Huyền Thiên Trấn Vũ có tượng đồng lớn là đền Quán Thánh, quận Ba Đình và thôn Ngọc Trì xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm. Ngọc Trì, tên Nôm là làng Đìa, xưa thuộc xã Cự Linh, tổng Cự Linh huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Từ năm 1961 theo Quyết định của Chính phủ chuyển Gia Lâm về Hà Nội. Theo truyền thuyết dân gian, từ đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), trên đường đi chinh phạt phương Nam, nhà vua đóng quân ở Cự Linh được Thánh Huyền Thiên Trẫn Vũ báo mộng liền cho dân Ngọc Trì lập đền thờ. Đền được xây dựng trên đất quy xà hội tụ. Cừa đền trông về hướng Bắc cũng như đền Quán Thánh. Trước đền có hồ Bán nguyệt rồi tới cánh đồng ruộng thoáng đãng; phía sau đền là chùa giáp với đê sông Hồng. Qua khỏi.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> hồ xưa có Tam quan, nay chỉ còn hai trụ gạch, có trang trí tứ linh, hoa quả. Kế đó là tiền đường có bốn cột bằng đá xanh, hình vuông. Tiền đường 5 gian, hai đầu hồi xây bít tay ngai. Đặc biệt nền tiền đường ba gian giữa thấp làm nơi hành lễ, hai gian bên cao hơn khoảng 0,6 mét thay sàn gỗ. Các cột có bệ đá, các vì kèo kiểu giá chiêng kê chuyền liên kết với bốn hàng cột. Tiếp tới tiền đường là trung đường, sau cùng là thượng cung. Đặc điểm của thượng cung là có hai tầng mái để tiếp nhận ánh sáng thiên nhiên. Gian giữa tiền đường có nhang án gỗ lớn, chạm trổ rồng, hổ phù, hoa lá. Trên án là bộ ngai lớn, hai tay ngai chạm rồng, sơn son thếp vàng. Cửa võng bằng gỗ chạm trổ tứ linh, chim muông, hoa lá. Trên cửa võng treo ba bức hoành phi, phía trước ngai là một thanh kiếm bằng gỗ dài 1,5 mét, chạm trổ, sơn son thếp vàng. Phía dưới trên nền gạch là hai tượng võ sĩ bằng đá cao 1,6 mét. Khi mới dựng đền chỉ có tượng bằng gỗ và bài vị đề 5 chữ: “Hiển linh trấn vũ quán”. Sau trải mấy trăm năm tượng gỗ rạn nứt, bia ký tại đền Ngọc Trì chép: “Nguyên từ thời Lê Thánh Tông ban chiếu cho làm tượng gỗ để thờ được 292 năm, đến thời Lê Hiển Tông, năm Đinh Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8 (1747), tượng gỗ có nhiều vết nứt, các quan vâng theo chiếu chỉ cùng với dân ấp đúc pho tượng đồng để thờ”. Nhưng do tượng lớn đòi hỏi nhiều đồng, việc làm khuôn đúc cũng khó khăn nên đến tiết Đông chí năm Mậu Thân (1788) mới khởi công đúc, mãi đến tháng 8 năm Nhâm Tuất (1802) tượng mới đúc xong. Nhưng Gia Long trả thù nhà Tây Sơn bằng nhiều hình thức kể cả hủy hoại các công trình văn hóa thời Tây Sơn, nên mãi đến năm 1820 mới dựng bia ghi lại quá trình đúc chuông. Tương truyền Thánh Huyền Thiên Trấn Vũ là linh hồn của Ngọc Hoàng thượng đế hóa thân xuống trần tu hành đạo Phật, trải qua ba kiếp người ở các nước khác nhau hai lần vào tu ở núi Bồng Lai, một lần vào tu ở núi Linh Thứu. Trải qua ba kiếp tu, Ngài mới thành Phật. Thượng đế phong là “Kim Khuyết Hóa thân Đăng ma Thiên Tôn”, hiệu là Tự thế Phúc thần. Thượng đế lại ban cho ngài một thanh kiếm Tam Thai Thất tinh. Thượng đế phái Ngài cùng 36 Thiên tướng dưới quyền Ngài đi chinh phục yêu quái ở 36 động. Tuy vậy Ngài vẫn chưa thành chính quả nên chưa đủ trí lực để điều khiển các Thiên tướng, yêu ma cũng không phục. Ngài lại xuống trần gian tu luyện ơ nước Tĩnh Lạc, đầu thai làm con vua Tĩnh Lạc. Khi Ngài sinh, Thượng đế sai chín rồng xuống phun nước cho Ngài tắm. Nhà vua đặt tên cho Thái tử là Huyền Nguyên. Năm 14 tuổi, Thái tử vào tu ở núi Vũ Dương suốt 42 năm mới thành chính quả. Kim Khuyết Hóa thân Đăng ma Thiên Tôn được Ngọc hoàng thượng đế ban sắc chỉ phong làm vạn pháp giáo chủ cai quản Tả ban huyền đại tướng,.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Hữu ban Quan thánh đế quan. Ngài cũng được ban 36 thiên tướng, ấn vàng, hỏa đạn đi hàng phục yêu quái ở 33 động được kết quả. Theo truyền thuyết, niên hiệu An Dương vương thứ ba (tương ứng với Đông Chu Trung Quốc, tính đến năm 2002 là 2292 năm), nhà vua xây thành Cổ Loa. Thành xây mãi không xong vì cứ đến đêm yêu ma biến thành hàng đàn lợn dũi đổ. Ngọc Hoàng cho Tiên nữ xuống gánh đất xây thành, nhưng cứ tới nửa đêm, yêu ma giả làm tiếng gà gáy, các nàng tiên tưởng trời đã sáng bỏ về, nên thành xây mãi không xong. Vua Thục cầu trời, Thần Nhân trả lời: “Đợi Thanh Giang sứ đến giúp”. Hôm sau Rùa Vàng từ sông bò vào xưng là “Thanh Giang sứ”. Thanh Giang sứ cho vua biết “Đây là hồn ma các vua trước muốn báo thù đang ẩn náu ở Thất Diệu Sơn. Ở quán Ma Lôi gần miếu có con gà trắng cất tiếng gáy. Khi giết được gà, đào nơi chon hài cốt và nhạc khí, đốt thành tro bụi mới xây được thành”. Vua nghe kế đó, quả nhiên hiệu nghiệm. Thanh Giang sứ lại ban cho vua móng rùa để làm lẫy nỏ và dặn: “Nỏ thần thần diệu có thể đánh tan giặc trong chốc lát”. Vua lập đền thờ tôn làm phúc thần. Ở làng Thụy Lôi (tên Nôm là làng Nhội) sau đổi là Ma Lôi, lại đổi là Xuân Lôi nay là Thụy Lôi có đền thờ Huyền Thiên Trần Vũ, ngày hội có diễn trò “Vua lễ tạ Thánh Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Sái” tên chữ là Vũ Dương nguyên quân. Nguyên do nghi thức này được sách Lĩnh Nam chích quái chép: “Sau vua Thục trai giới cầu đạo, ngày 7 tháng 3 có một cụ già từ phương Đông tới than thở trước cửa thành rằng: “Thành xây biết bao giờ cho xong?”. Vua mừng đón vào trong điện thi lễ và hỏi: “Ta đắp nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?”. Cụ già đáp “Nhà vua hãy lên núi Sái cầu thần”. Nói đoạn cụ già từ biệt. Nhà vua nghe lời, việc xây thành thành công, từ đó cứ tới ngày 1 tháng giêng vua lên núi Sái làm lễ tạ ơn. Phải chăng cụ già đó chính là hóa thân của Huyền Thiên Trấn Vũ. Sách Đại Nam Nhất thống chí cũng chép: “Khi cùng Thần Kim Quy đến núi Vũ Dương, Thục An Dương vương thấy có dấu vết chân người to lớn dị thường, bèn thỉnh thần Kim Quy chỉ giáo. Thần Kim Quy đáp rằng: “Đây là Huyền Thiên Trấn vũ giáng lâm để trừ tai họa cho đất nước”… Lễ hội đền Trấn Vũ ở Ngọc Trì: - Ngày 3 tháng ba lễ kỷ niệm ngày sinh. - Ngày 9 tháng 9 kỷ niệm ngày hóa. - Ngày 6 tháng hai đến 14 tháng hai mở hội và cúng lễ vào các ngày tết, tuần rằm. Lễ hội có nhiều trò vui chơi giải trí nhưng không thể thiếu trò kéo co đặc sắc mà chỉ có hội đền Trấn Vũ ở Ngọc Trì mới có..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Ngày nay nước ta có ba pho tượng đồng lớn nhất là tượng Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Quán Thánh, đền Ngọc Trì và tượng Phật Di Đà ở chùa Thần Quang, Ngũ Xã, Hà Nội. LÝ ÔNG TRỌNG Đình Chèm ở thôn Chèm xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội thờ Lý Ông Trọng làm Thành hoàng. Đình ở trên đê sông Hồng bên cửa sông Nhuệ. Đình Chèm là ngôi đình có giá trị kiến trúc nghệ thuật. Hiện nay trong đình có bức tượng gỗ Lý Ông Trọng khá lớn và đôi câu đối ghi lại sự nghiệp của Lý Ông Trọng: “Đồng tượng khiếp cường di chung cổ thần uy dương Bắc tái Thiết la tiêu thủy quái, thiên thu thánh lực hộ Nam Bang” Dịch: “Tượng đồng khiếp giặc mạnh, muôn thưở oai thần lừng ải Bắc Lưới sắt trừ quỷ quái ngàn thu sức thánh giữ trời Nam”. Vương họ Lý, tên Ông Trọng, tên thật là Lý Thân. Ông người làng Chèm, xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Ông là người có sức vóc khổng lồ, nổi tiếng về sức khỏe, tài trí và lòng hiếu thảo. Khi chưa lập thân, ông còn ở nhà với mẹ, một hôm mẹ già ra sông Hồng tắm giặt, không may bị thuồng luồng ăn thịt mất, Lý Ông Trọng đau buồn khóc lóc thảm thiết, ông cầm dao nhọn lội xuống sông, gặp thuồng luồng bất cứ to nhỏ chém tất, xác chúng nổi đầy sông. Từ đó họ hàng thuồng luồng kinh sợ không dám ở từ bến Chèm đến bến Phà Đen. Cả một đoạn sông dài được yên ổn, nhân dân vui mừng đặt tên là bến Phật. Vào thời Hùng vương thứ 18, Ông Trọng giữ một chức quan nhỏ ở huyện ấp. Thấy một tên lính huyện đánh đập dân phu, ông nổi giận cầm vồ đập chết tên lính đó, có lần ông lại phá kho thóc công chia cho dân đói. Ông Trọng bị quan trên quở phạt, chúng còn vu thêm tội để triều đình khép ông vào tội chết. Vua Hùng thương ông là người có sức khỏe, có tài lại có đức nên không giết. Khi bị quan quở phạt, Ông Trọng than: “Làm người phải có chí lớn như chim phượng hoàng bay muôn dặm xa, sao lại chịu làm tôi tớ để cho người mắng mỏ”. Nói xong Lý Ông Trọng bỏ đi cầu học ở phương xa. Đến thời Thục An Dương vương, Lý Ông Trọng trở thành một tướng giỏi chống quân Tần bảo vệ Loa thành. Khi quân Tần bị đại bại, chủ tướng Đồ Thư bị giết chết, An Dương vương giữ vững chủ quyền nước Âu Lạc. Vua Thục cử Lý Ông Trọng đi sứ Tần, Tần Thủy Hoàng tiếp Lý Ông Trọng, thấy dáng người cao lớn uy nghi rất ngạc nhiên bèn giữ luôn không cho về nước..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Nhà Tần tuy đánh bại sáu nước, thống nhất Trung Quốc, nhưng ở biên giới phía Bắc thường bị quân Hung Nô sang đánh phá, chiếm đất. Tần Thủy Hoàng cử nhiều tướng giỏi để đánh nhưng không chế ngự được quân Hung Nô. Triều đình nhà Tần vô cùng lo lắng. Quan lại nhà Tần thấy tướng mạo Lý Ông Trọng uy nghi, lẫm liệt liền tâu với Tần Thủy Hoàng cử Lý Ông Trọng ra trận đánh Hung Nô. Lúc đầu Tần Thủy Hoàng không nghe vì nếu để người nước Âu Lạc làm tướng thì mất thể diện của Thiên triều. Bọn quan lại hiến kế nếu Lý Ông Trọng không đi thì lấy cớ đó mà giết để triệt người tài của Âu Lạc. Nếu Lý Ông Trọng ra trận thua thì nhà Tần mượn tay Hung Nô giết để Tần đỡ mang tiếng là giết sứ giả. Nếu Lý Ông Trọng có thực tài đánh thắng Hung Nô thì giữ lại ở Trung Quốc, thế là Trung Quốc được người tài. Vua Tần nghe lời phong cho Lý Ông Trọng chức Tư lệ hiệu úy sai cầm quân giữ đất Lâm Thao (Trung Quốc) chống nhau với quân Hung Nô. Với trí dũng song toàn, ông đã chỉ huy đánh cho quân Hung Nô đại bại. Từ đấy hễ thấy bóng Lý Ông Trọng ở đâu là quân Hung Nô bỏ chạy. Tiếng tăm Lý Ông Trọng vang lừng vùng biên giới phía Bắc Trung Quốc và tới cả kinh đô Hàm Dương. Vua Tần muốn giữ ông ở lại lâu dài trên đất Tần nên đã phong cho ông chức Phu tín hầu và gả công chúa Bạch Tịnh cho. Cùng đi với Lý Ông Trọng sang Tầu còn có đức ông Nguyễn Văn Chất quê ở làng Hoàng, làm quản mã cho Lý Ông Trọng. Ông Chất có kiến thức thuốc nam ở quê nhà, sang Tần chữa khỏi bệnh cho Hoàng hậu nước Tần, được vua Tần phong làm quan Thái y. Lý Ông Trọng vẫn một lòng nhớ quê hương, đất nước, ông tìm mọi cách xin về. Cuối cùng vua Tần phải để ông đem vợ con về thăm quê hương. Lý Ông Trọng tìm mọi cách thoái thác không chịu sang Trung Quốc, ông bỏ trốn vào rừng để tránh sứ Tần. Thục An Dương vương buộc phải nói dối Lý Ông Trọng đã chết. Sứ Tần đòi được mang xác của Lý Ông Trọng về trình với vua Tần, Ông Trọng là người trọng tín nghĩa không muốn đem thân đi làm tôi nước ngoài, lại không muốn Thục An Dương vương thất tín với vua Tần nên đã tự xử. Xác Lý Ông Trọng được ướp trong bột thủy ngân đưa sang kinh đô Hàm Dương. Vua Tần vô cùng thương cảm truyền dựng tượng đồng ở cửa Tư Mã, kinh đô Hàm Dương. Lại làm một tượng bằng gỗ cầm gươm, chân tay lắp máy cử động được mặc đầy đủ giáp phục đặt lên yên ngựa đưa lên biên giới dàn trận. Tượng Ông Trọng ngồi trên mình ngựa khua gươm, quân Hung Nô trông thấy sợ bỏ trốn hết. Năm 715 đời Đường, Đô hộ sứ là Triệu Xương sợ oai Lý Ông Trọng liền lập đền thờ ở xã Thụy Phương quê ông. Năm 866 Tiết độ xứ Cao Biền lại.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> cho sửa sang mở rộng đền đặt tên là đền Lý Hiệu ụy, tạc tượng Đức ông, Đức bà thờ, nhân dân ta gọi là Đức ông Thành Chèm. Ông Nguyễn Văn Chất cùng về nước với Lý Ông Trọng, khi ông mất, nhân dân làng Chèm tạc tượng ông Chất thờ ở đình làng Chèm. Đình làng Hoàng, quê ông thờ ông làm Thành hoàng, thờ vọng Lý Ông Trọng. Đức ông Thành Chèm rất linh thiêng. Năm Trung hưng thứ nhất sắc phong là Anh liệt vương, năm Trung hưng thứ tư gia phong hai chữ Dũng mãnh, năm Hưng long thứ 21 gia phong đền Phu tín đại vương. Trên đường đi tìm chân chúa, một hôm Trần Nguyên Hãn trong vai người bán dầu qua làng Thụy Phương vào ngủ nhờ ở đền Chèm thờ Hy Khang thiên vương Lý Ông Trọng. Ban đêm nghe thấy vị thần ở làng bên cạnh đến rủ Thiên vương lên chầu Thượng đế. Vương từ chối là vì có Quốc công ngủ trọ. Gày gáy vị thần ấy đi chầu về, vương hỏi hôm nay Thiên đình bàn việc gì, có hiệu lệnh gì. Vị thần ấy nói: “Thượng đề đã sai Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm bề tôi”. Trần Nguyên Hãn tỉnh dậy bèn đi dò tìm Nguyễn Trãi là anh em bên ngoại rồi báo cho biết giấc mộng của mình. Nguyễn Trãi liền đến đền Thiên vương Lý Ông Trọng làm lễ xin cầu mộng, thì mộng thấy Thiên vương báo rằng: “Việc bí mật của thiên đình không dám tiết lộ, bà chị Tiên Dung biết rõ cả đấy và lời người đàn bà nói thì Thượng đế không vì thế mà quở trách, nên đem 10.000 nén vàng làng Sét đến để cứu”. Ông làm theo lời đến cầu bà chúa Tiên Dung thì nằm mộng thấy bà bảo: “Hỡi Lê Trãi, Lê Lợi làm vua, Lê Trãi làm bề tôi nhà người còn chưa biết ư?” Ông hỏi kỹ thì bà chúa bảo Lê Lợi người Lam Sơn, Thanh Hóa. Ông bèn cùng với Trần Nguyên Hãn tìm đến Lam Sơn. Lễ hội hàng năm tiến hành từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 5. Ngày 14 là ngày tiền hội, ngày 15 là ngày chính hội, ngày 16 là ngày hậu hội. Lễ hội được chuẩn bị rất công phu, ban tổ chức gồm những cụ già và những người tham gia lễ hội với các chức sắc như Phủ giá, Thủ hiệu, Cờ sai, Lịch triều, Gươm bầu, Huyền sư, Áo nâu… Lễ hội tiến hành các bước: rước nước, rước mạ, rước văn, lễ tắm tượng, lễ cúng Phật và có rất nhiều trò vui chơi. THÀNH HOÀNG NGUYỄN VĂN CHẤT Hoàng Xá là một làng nhỏ trong xã Liên Mạc, giáp làng Chèm. Xưa Hoàng Xá thuộc tổng Hạ Trì, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Làng Hoàng Xá có lăng và đình thờ Đức ông Nguyễn Văn Chất, lăng nay chỉ còn bốn cái cột bằng đá..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Ông Chất sinh cùng thời với Lý Ông Trọng dưới triều Hùng vương thứ 18, nhưng phục vụ dưới triều An Dương vương. Ông theo Lý Ông Trọng (Lý Thân) quê ở làng Chèm làm tướng dưới triều An Dương vương đi sứ nước Tần, bị Tần Thủy Hoàng giữ lại phong cho chức Hiệu úy đi đánh rợ Hung Nô ở biên giới phía Bắc. Ông giữ ngựa cho Ông Trọng. Nhờ hiểu biết cây thuốc Nam và các phương thuốc chữa bệnh bằng thuốc Nam, ông đã chữa khỏi bệnh cho Hoàng hậu của Tần Thủy Hoàng, được vua Tần phong làm quan Thái y. Khi Lý Ông Trọng cùng vợ trở về, ông Nguyễn Văn Chất cũng theo về. Lý Ông Trọng coi ông Chất như anh em ruột thịt nên cho làng Hoàng là anh thứ hai, làng Mạc là thứ ba gọi là “Ba làng anh em”. Xưa có tục nuôi trâu, lợn thờ Lý Ông Trọng trong hội Chèm rất nặng nề. Khi nhà Tần cho sứ sang đòi Ông Trọng về Trung Quốc, ông không muốn gây khó khăn cho nhà vua đã tự sát. Nhân dân làng Chèm tôn Lý Ông Trọng là Thánh Chèm, thờ ở đền, sau tôn làm Thành hoàng, thờ ở đình Chèm và tạc tượng ông Chất thờ phụ ở đình Chèm. Đình làng Hoàng Xá thờ Nguyễn Văn Chất làm Thành hoàng và thờ vọng Lý Ông Trọng..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> PHẦN II. THỜI BẮC THUỘC.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> TRƯNG NỮ VƯƠNG Tại Việt Nam có rất nhiều đình, miếu, đền nghè thờ Hai Bà Trưng, nhưng có ba đền lớn, nguy nga, nổi tiếng trong nước là Đền Hạ Lôi, nay thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc được dựng trên nền nhà cũ của bà Trần Thị Đoan sinh ra Hai Bà. Đền Hát Môn, dựng ở xã Hát Môn huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây, theo Việt Điện u linh thì đền Hát Môn được lập ngay sau khi Hai Bà tuẫn tiết và đền Đồng Nhân nay ở phố Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng. Đền Đồng Nhân lập nên theo một huyền tích, một truyền thuyết. Theo “Trưng vương lưỡng vị Thánh sắc” thì sau khi gieo mình xuống sông Hạc (Tam Giang), Hai Bà hóa thành tượng đá rực sáng trôi đến bến bãi Đồng Nhân. Vua Lý Anh Tông biết chuyện, cho người ta đón rước nhưng không được. Dân làng Đồng Nhân lấy vải đỏ ra đón thì được. Tượng đá lớn và nặng, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay trỏ lên trời, một bàn chân quỳ, một bàn chân ngả. Vua bèn truyền cho làng ấy lập đền thờ hai cỗ tượng trên ở bờ sông. Đó là vào năm Đại Định thứ ba (1142)(1). Đến năm Gia Long thứ 18 (1819), bãi Đồng Nhân bị lở, dân Đồng Nhân được phép dời đền Hai Bà tới làng Hoa Viên thuộc tổng Hậu Nghiêm, huyện Thọ Xương, dựng trên nền Tập võ sở của Triều Lê. Nhiều người làng Đồng Nhân cũng đến ở đó lập ra làng Đồng Nhân mới. Nay đền Đồng Nhân ở vào số nhà 317 phố Đồng Nhân quận Hai Bà Trưng. Đền Đồng Nhân có quy mô lớn, qua một cái sân rộng có hàng cột trụ lớn là tới tam quan, bên ngoài tam quan là hồ Bán nguyệt. Trên sân bên phải là tấm bia đá lớn trên lưng con rùa, đó là bia “Trưng Vương sự tích bi kí” do tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm 1840. Bên phía trái sân là tấm bia do cử nhân Dương Duy Thanh soạn năm 1848 kể về việc dời đền Đồng Nhân từ bãi sông vào làng Đồng Nhân mới. Tại nhà tiền tế có hai con voi gỗ sơn đen, nhưng hai cặp ngà voi là thật, đây là tặng phẩm của vua Lý ban cho làng Đồng Nhân để chế voi thờ. Ở nhà tiền tế, hậu cung có nhiều câu đối như: “Đồng Nhân miếu, tôn tượng túc thanh cao, hạo khí như sinh, Bắc cố mục trung vô Hán quốc, Hát Môn thủy, nộ đào thời chấn đang, anh phong bất tử, Nam âm sử thượng hữu Bà Vương”. Dịch: “Miếu Đồng Nhân, tượng báu trang nghiêm, hạo khí như còn, ngoảnh ngó Bắc phương, không nước Hán, ___________________ (1). Theo Việt sử lược và Toàn thư đều viết: “Canh Thìn, năm thứ 21 (1160) mùa xuân, tháng giêng làm đền Hai Bà và đền Suy Vưu ở phường Bố Cái”..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Cửa sông Hát, sóng hờn sôi sục, anh phong không dứt tiếng vang Nam sử có Vua Bà”. “Khả liên Hán đế xưng Quang Vũ Bất đế thoa quần khởi nghĩa binh” Dịch: Khá thương vua Hán phô oai mẽ Khôn đọ quần thoa dấy nghĩa binh. Tượng Hai bà đặt trên bệ cao trong hậu cung, tượng bằng đất luyện, hai tay đưa ngang ra phía trước, đầu trần, khác hẳn với tượng mô tả trong huyền tích. Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em sinh đôi, cha là Hùng Định, Lạc tướng Mê Linh, mẹ là Trần Thị Đoan (1). Hai Bà sinh tại xóm Đường, trang Cổ Lai. Hùng Định mất sớm, bà Đoan nuôi dạy con gái theo tinh thần thượng võ, mượn những người tài giỏi về dạy văn võ cho hai con gái. Trưng Trắc lớn lên là người tài sắc, kết duyên cùng Thi Sách là con viên Lạc tướng Chu Diên. Đất nước bị nô lệ vào nhà Hán, từ năm Kiến Vũ (nhà Hán) năm thứ 10 (năm 34), khi Tô Định sang làm Thái thú Giao Chỉ (2) thì sự tham lam, tàn bạo của hắn lên tới cực điểm. Nhân dân lầm than cơ cực không biết đâu mà kể, ngay cả Mã Viện cũng phải nói: “Tô Định giương mắt lên vì tiền”. Nhân dân Giao Chỉ uất hận, nhiều lần chuẩn bị khởi nghĩa nhưng đều bị Tô Định dìm trong biển máu. Thi Sách huyện trưởng huyện Chu Diên (3) cùng với em trai là Thi Huy và nhiều người khác chuẩn bị khởi nghĩa, nhưng âm mưu bại lộ, Thi Sách, Thi Huy cùng nhiều người khác bị Tô Định giết chết. Nợ nước thù nhà chồng chất, tháng 2 năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở cửa sông Hát(4). Khi đó ở khắp Giao Chỉ cũng có hàng chục cuộc khởi nghĩa đang âm ỉ, Hai Bà Trưng gửi hịch khởi nghĩa đi khắp các quận huyện, được hàng chục thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa như ở Hưng Yên có Trần Thị Mã Châu ở xã Quảng Châu (Tiên Lữ), Trần Lữu ở trang Đào Đầu (Tiên Lữ), Nguyệt Thai, Nguyệt Độ ở Hải Dương, Lê Chân ở Hải Phòng, Đỗ Năng Tế ở Hà Đông, Sơn Tây, Lê Thị Hoa ở Thanh Hóa, Thiều Hoa ở Phú _____________________ (1). Sử nước ta đều viết bà Man Thiện là mẹ của Hai Bà Trưng, quê ở phía dưới ngã ba Bạch Hạc. (2) Quận Giao Chỉ thời Hán là Bắc Bộ ngày nay có 10 huyện là Liên Lâu, An Định, Câu Lậu, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Mê Linh, Chu Diên. (3) Huyện Chu Diên gồm các tỉnh Hà Đông, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Nam Hưng Yên ngày nay. (4) Hát Môn từ cửa sông Hồng ra nay phù sa bồi đắp sông Hát chỉ còn là một cái lạch nhỏ và vạt đầm hồ có tên là sông Cùng, bến Chúa, chỉ từ cầu Phùng trở xuống mới thành sông gọi là sông Đáy..

<span class='text_page_counter'>(42)</span> Thọ, Vũ Thị Thục ở Sơn Nam… đã nhất tề kéo quân về Mê Linh hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà. Ở Nhật Nam Cửu Chân và ở cả Hợp Phố (trên đất Trung Quốc, cũng có những cuộc khởi nghĩa. Hai Bà lập đàn thề ở hát Môn (huyện Phúc Thọ, Sơn Tây, nay thuộc Hà Tây) tế cáo trời đất với lời thề: Một, xin rửa sạch nước thù, Hai, xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng Ba, kẻo oan ức lòng chồng Bốn, xin vẹn vẹn sở công lênh này(1) Tháng 2 năm 40, Hai Bà chỉ huy các tướng lĩnh đưa quân từ cửa sông Hát đi hạ các thành trì của giặc, đồng thời các thủ lĩnh nghĩa quân khác cũng hạ thành giặc ở địa phương như Lã Văn Ất hạ thành Kênh Cầu (Văn Giang) sau đó hợp với đại quân của Hai Bà đến phá thành Luy Lâu của Tô Định (vùng Dâu, huyện Thuận Thành). Tô Định chống cự không nổi phải bỏ cả ấn tín, vàng bạc châu báu, vặt râu, thay áo, chui qua lỗ chó chui lần mò trốn về Nam Hải (Quảng Đông). Dẹp xong giặc, bà Trưng Trắc lên làm vua đóng đô ở Mê Linh, xá thuế cho dân 2 năm, cắt đặt các tướng chia quân đi chiếm giữ những nơi hiểm yếu. Về cuộc khởi nghĩa này, nhà sử học Lê Văn Hưu thế kỷ thứ XIII bàn: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà hô một tiếng mà cả Cửu Chân, Hợp Phố và 65 thành ở Lĩnh Nam đều hưởng ứng. Bà dựng nước, xưng vương dễ như trở bàn tay. Như thế thì thấy hình thế đất Việt Nam ta có thể được cơ nghiệp bá vương”. Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo, nhiều tướng lĩnh, quân sĩ là nữ giành toàn thắng, thành lập vương triều chỉ xẩy ra một lần ở Việt Nam và trên thế giới. Hán Quang Vũ không cam chịu thất bại nhục nhã đã hạ lệnh cho các quận huyện ở Hoa Nam sắm sửa thuyền bè, xe cộ, khí giới, điều binh mã xâm lược nước ta. Vua Hán phong cho Mã Viện chức Phục Ba tướng quân, đem 20.000 quân, 2000 chiến thuyền(2) sang đánh. Mã Viện theo đường biên giới Lạng Sơn tiến sang đã bị nữ tướng Thánh Thiên đánh cho đại bại phải chạy về Trung Quốc. Mã Viện xảo quyệt chuyển hướng hành quân về Hợp ____________________ (1). Thiên Nam ngữ lục. Theo H. A. Giles trong Chinese biography dictionary. Mã Viện sinh năm 14 trước Công nguyên, mất năm 49 sau Công nguyên (Hậu Hán ký viết Mã Viện chết năm Kiến Vũ thứ 26, trước năm 50. Khi đánh nước ta, lúc đầu Mã Viện chỉ có 1 vạn quân, sau được bổ sung 5 vạn quân. Theo Patris trong Essaidhistoire d’Annam (Đắc Lấp, Huế xuất bản năm 1922). Theo Thủy Kinh chú thì Tây Thục cũng đưa quân hỗ trợ Mã Viện xâm lược nước ta. (2).

<span class='text_page_counter'>(43)</span> Phố, Khâm Châu, Phòng Thành, Đông Hưng (Trung Quốc) chia làm hai cánh thủy, bộ cùng xâm nhập nước ta, trong khi vẫn nghi binh ở biên giới Lạng Sơn. Quân bộ của Mã Viện vượt sông Bắc Luân sang Móng Cái rồi theo đường 14, đến thị trấn Tiên Yên thì theo đường 18, qua Hòn Gai về cửa sông Bạch Đằng hợp với quân đi đường biển xuất phát từ Khâm Châu qua vịnh Hạ Long vào cửa sông Bạch Đằng để hợp với quân bộ, rồi cùng tiến về Lục Đầu giang, Phả Lại(1). Hai Bà Trưng lập phòng tuyến ở Lãng Bạc – một vùng trũng giữa hai bờ sông Cầu từ Đông Triều đến Yên Phong. Trận đánh dữ dội, khoảng 10.000 quân của Hai Bà Trưng hy sinh(2). Quân ta tan vỡ, Hai Bà rút về lập phòng tuyến ở Cấm Khê. Cuộc chiến đấu ở đây kéo dài gần một năm. Cuối cùng quân ta thua to, tan vỡ. Theo truyền thuyết(3), các tướng sĩ có mặt ở Cấm Khê như Cả Lợi, Hai Lợi, Hà Tơ, Hà Liễu, năm anh em chàng Vịt với mục đích cứu chủ tướng đến cùng. Trận đánh diễn ra ác liệt, đẫm máu. Trưng Vương bị tử thương, voi của bà cũng bị quân giặc đâm nhiều nhát, uống nước rồi chết. Tướng sĩ liều chết cướp được xác chủ tướng đem tới nơi an toàn mai táng. Cũng theo truyền thuyết thì quân sĩ mang thi thể của Trưng Vương về an táng tại khu vực Đền Hùng. Voi của Trưng Nhị cũng bị giặc đâm chết tại trận, quân ta tan vỡ, các tướng phần nhiều bị thương phải chạy về bản doanh. Theo truyền thuyết thì Hà Tơ đi cứu Hai Bà bị giặc chém vào vai, ông chạy về bản doanh ở Giàn Cẩm (Phong Châu), chưa về tới nơi thì hóa ở cánh đồng Miễn cách Giàn Cẩm 5 kilômét. Trước tình thế như vậy, bà Trưng Nhị gieo mình xuống ngòi Cấm Khê tự tử(4). Nhân dân ven sông Nguyệt Đức vớt được giải yếm, giải áo __________________ (1). Đường Hợp Phố - Đông Hưng (TQ) dài 180km, đường Móng Cái – Tiên Yên dài 86km, đường Tiên Yên – Phả Lại 180km, cộng 446km. Một dặm là 400m, 446km tương ứng với 1000 dặm. (2) Theo thống kê của nhà Hán dân số Âu Lạc khi đó có 143.643 hộ với 981735 khẩu. (3) Về trận đánh ở Cấm Khê căn cứ vào quyển Lịch sử Vĩnh Phú – Văn hóa – Thông tin Vĩnh Phú, 1980. (4) Ngòi nguyên là một nhánh sông Hồng xuất phát từ gần Bạch Hạc, sau phù sa bồi lấp nâng dần thành ao, ruộng chỉ còn khúc từ Phú Đa xuống Hồng Chấn ngòi vẫn còn. Ngòi này đổ nước vào sông Nguyệt Đức (đối diện bên kia sông Hồng là cửa sông Hát (Hát Môn), huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây. Có lẽ vì thế sử sách và truyền thuyết đều viết Hai Bà tự tử ở Hát Giang. Về cái chết của Hai Bà Trưng tất cả các sách của Việt Nam và Trung Quốc đều thống nhất là Hai Bà tự tử ở Cẩm Khê. Việt Điện U linh viết: “Hai Bà lui giữ Cấm Khê, thua trận và cùng mất”. Hậu Hán thư quyển 24 viết: “Tháng giêng năm Kiến Vũ 19 chém Trưng Trắc, Trưng Nhị”. Hậu Hán thư quyển 22 viết: “Lưu Long đuổi đến Cấm Khê bắt được Trưng Nhị, chém hơn 1000 đầu”. Nam Việt chí viết: “Trưng vương và em gái thế.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> của Bà Trưng Nhị lập miếu thờ bà ở Xuân Đài. Miếu Giá Phú, làng Cấm Viên xưa có mộ hai ông voi. Sau thất bại ở Cấm Khê, một số tướng lĩnh vẫn còn tiếp tục cuộc chiến đấu. Tuy tiêu diệt được Hai Bà Trưng, đặt ách thống trị ở nước ta, nhưng quân Đông Hán cũng bị thiệt hại nặng nề. Sách Hậu Hán thư cho biết: “Mùa thu năm sau, Mã Viện đem quân về Kinh, quân quan cũng chết bốn, năm phần”, tức là vào khoảng hơn một vạn tên. Nhân dân Hạ Lôi, nhân dân Hát Môn lập đền thờ Hai Bà. Đền Đồng Nhân được xây muộn hơn, theo Bia “Sự tích Trưng Vương” ở đền Đồng Nhân như sau: Trên đời có những sự nghiệp kỳ lạ làm cho người ta không thể ngăn được lòng hâm mộ và xúc động. Nước Đại Nam ta từ thời Hồng Bàng đến thời Lê, trước sau trong khoảng mấy nghìn năm, có những bậc anh hùng nối tiếp nhau chiếm cứ các vùng châu thổ dựng lên các triều chính thống như bốn họ Đinh, Lý, Trần, Lê. Than ôi! Đấng trượng phu phải là như thế. Trong nữ giới mà trượng phu, chính là Hai Bà Trưng. Hai Bà là con Lạc tướng, cháu Lạc vương, vốn không phải người thường. Nhưng từ khi nước Văn Lang mất thế nước thuộc về nhà Thục, nhà Triệu, rồi đến nhà Hán lệ thuộc nước ngoài hơn 200 năm. Việc ấy không cần bàn luận. Thêm vào đó, bọn thái thú nhà Hán hoành hành bạo ngược, những bậc hào kiệt chưa ai nổi dậy. Buổi ấy trong nước có việc kỳ lạ lắm thay! Đó là Bà Trưng chị vì chồng, Bà Trưng em vì chị, xắn cánh tay, hô một tiếng, bọn thái thú bạo ngược bỏ chạy. Trong khoảng vài ngày, bình định được hơn 50 thành, oai vũ lừng khắp cõi nước Nam, thanh danh làm rung động đất Hoa Hạ. Mặc dù trí dũng như Phục Ba, mà Hai Bà vẫn ba lần đánh thắng, thanh thế làm cho người Hán bao phen ngày đêm vất vả. Đến lúc việc chẳng chiều lòng, cùng nhau xắn tay nhẩy xuống sông Hát. Trí tuệ như thế ai mà sánh kịp, tài lược như thế ai mà sánh kịp. Chị em một nhà, anh hùng muôn thưở, Hai Bà quả thực là bực anh hùng hiếm có trong nữ giới và việc làm của Hai Bà cũng khó mà có được trong nữ lưu. Các đấng trượng phu làm việc vốn không cần bàn luận thành bại, mà việc làm của Hai Bà lại càng không nên lấy bà thành bại mà luận bàn. ______________________ cô đều bị thất trận chết”. Lĩnh Nam chích quái viết: “Bà (Trưng Vương) lui giữ Cấm Khê, Viện đem quân đánh, Bà thế cô, bị bại trong trận”. Ở đền Hát Môn truyền thuyết Hai Bà chết tại trận, nên trong tế lễ mũ áo, cờ… đều kiêng mầu đen, những nơi khác thờ bà lại kiêng màu đỏ là màu máu khi bà chết tại trận..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> Nghìn đời sau, đọc trang sử cũ, khiến mọi người đều tăng thêm chính khí. Đến bản triều, Hai Bà vẫn được ghi vào từ điển. Ngoài ra miếu thờ Hai Bà đâu đâu cũng có, ấy là do uy thiêng của Hai Bà lưu truyền lại. Tại làng Đồng Nhân, huyện Thanh Trì, từ xưa có lập đền thờ ở bãi sông. Về sau sông lở, dân làng chọn được một nơi ở Võ miếu cũ, thuộc thôn Hương Viên, huyện Thọ Xương được ban cấp hơn 6 mẫu đất để lập đền làm nơi hương đèn phụng thờ. Việc ấy được vua xuống chỉ chuẩn y. Thế là Triều đình đã thể theo nguyện vọng của dân, điều đó có bằng cứ rõ rang. Còn như việc thi thể không hóa và những điều linh ứng lạ lùng thì đều là những sự truyền miệng thêm thắt. Nhân tìm được tấm bia bỏ không ở nơi đền mới, người ta cậy tôi viết bài văn, ý muốn mượn bia để truyền lại những việc đó. Tôi cũng mượn bia này để bày tỏ ý kiến giúp người xem bia hiểu cho đúng. Vậy có bài ký này(1). Năm Minh Mạng thứ 21 trong muôn vạn năm. Canh Tý (1840) trung tuần tháng năm, ngày tốt dựng bia. Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826) nguyên Đốc học Bắc Ninh, Vũ Hoán phủ, hiệu Đường Xuyên soạn. LÊ THƯỚC TRẦN HUY BÁ dịch Nghiên cứu lịch sử số 149 CON CỦA GIAO LONG GIANG THẦN Đình Hạ Tốn, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội thờ Nàng Quốc làm thành hoàng. Nguồn gốc Nàng Quốc là một huyền thoại. Truyện kể vào một dịp lễ hội Mùa xuân tại ngôi chùa trang Đông Cứu trên núi Thiên Thai (huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh), có một ngôi chùa nhỏ xây giữa một rừng đào. Từ xa xưa ngôi chùa này đều do các sư nữ trụ trì. Vào một sáng mùa xuân các sư nữ ra cửa Tam quan chợt nghe có tiếng trẻ con khóc oe oe, liền vào trình sư thày. Mấy thày trở ra đến gốc cây đào, thấy một bé gái quấn tã lót nằm đó. Nhà chùa nhờ một bà vãi phúc đức đưa đứa bé về nuôi giúp. Năm lên 5 tuổi em gái đó được sư thầy gọi họ là Đào vì coi như em được sinh ra từ gốc Đào. Lớn lên cô gái thế phát đi tu, sư thày đặt tên là Tuyết Tĩnh. Mặc dù đi tu, ăn ở khổ hạnh, nhưng Tuyết Tĩnh càng lớn càng xinh đẹp. Một hôm sư thày sai Tuyết Tĩnh cùng Diệu Hương tới nhà một người thợ khắc bản in hình. Khi qua sông Tuyết Tĩnh bảo Diệu Hương tắm, nhưng ___________________ (1). Về tấm bia thứ hai cử nhân Dương Duy Thanh soạn cũng có nội dung tương tự, nên chúng tôi không viết ra đây..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Diệu Hương không tắm, chỉ có một mình Tuyết Tĩnh khỏa thân xuống tắm. Bất chợt mây đen kéo đến, sấm chớp đùng đùng, mưa đổ xuống dữ dội, sông cuồn cuộn sóng, rồi Diệu Hương nằm trên bờ mê man bất tỉnh. Diệu Hương phải bạch với sư thày về sự việc kì lạ ở bến sông và Tuyết Tĩnh có mang với Thủy thần. Sư thày đành cho Tuyết Tĩnh hoàn tục. Rời khỏi chùa, không quê hương, không nơi nương tựa, Tuyết Tĩnh phải đi lang thang khắp nơi. Đến kỳ mãn nguyệt, khai hoa, Tuyết Tĩnh đến trang Hạ Tốn nằm trên vườn đào bên bờ sông Hồng và sinh ra một bé gái dưới gốc cây đào. Mẹ cô đặt tên cô là Nước vì nàng tắm dưới sông có mang với Thủy thần mà sinh ra cô. Tuyết Tĩnh tần tảo sớm tối nuôi con, cho đến năm Nước lên 5 tuổi, nàng gửi con vào cửa Phật, sư thầy đặt tên mới cho Nước là Quốc(1). Lớn lên, Quốc hiền lành, bạn bè quí mến, cô có tài bơi lội, thường một thuyền, một lưới và đánh được rất nhiều cá. Sống trên dòng sông Hồng, Quốc được chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh bọn lính tuần giang Trung Quốc áp bức, cướp bóc, giết hại dân mình. Nàng căm thù chúng, nung nấu mối hận thù và chí quyết tâm đánh đuổi giặc Hán. Từ đấy nàng chăm học tập võ nghệ, đọc binh thư. Có lần giặc Hán vây trang Hạ Tốn đuổi bắt Quốc, nhưng nàng đã nhẩy xuống sông lặn thật xa rồi mới ngoi lên bờ ẩn náu. Khi quay trở về thấy có chị em bị giặc Hán làm nhục phải tự tử. Ý chí đánh đuổi giặc Hán hãm hại đã thôi thúc Quốc. Cô đứng bên mộ người bạn xấu số kể tội giặc Hán, kêu gọi mọi người vùng lên chống giặc. Mọi người yên lặng lắng nghe thấy lời lẽ của cô gái rất hợp với lòng mình, nhưng vẫn còn do dự. Bà Tuyết Tĩnh nói: “Bây giờ mẹ xin theo con, con bảo làm gì để rửa nhục cho người con gái này mẹ cũng làm”. Lời nói của người mẹ đã gây nỗi xúc động trong toàn thể dân làng dự đám tang, kích động mọi người quyết chí vùng lên đánh giặc cứu nước. Bà Tuyết Tĩnh đã cùng con gái đi khắp vùng chung quanh Đa Tốn kén chọn người tài giỏi về luyện quân kén tướng. Nhưng đột nhiên bà Tuyết Tĩnh ốm nặng, mọi người vô cùng thương cảm đến bên săn sóc. Biết không qua khỏi, trước khi chết bà gắng gượng dặn mọi người: “Này, các người, các người hãy vững vàng theo con tôi, nàng Quốc chính là con của Giao Long giang thần đó!” Dứt lời bà thanh thản ra đi. Mọi người tin tưởng vào lời trối trăng của bà Tuyết Tĩnh, truyền đi tin “Giao Long thần nữ” xuất thế chiêu mộ quân đánh đuổi giặc Tô Định. Nàng Quốc còn kén chừng 200 hiệp sĩ giỏi bơi lội, xăm hình giao long lập thành ______________________ (1). Thôn Hoàng Xá, xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm cũng thờ nàng Quốc với sự tích như trên, chỉ khác ở chi tiết bà sinh ở gốc cây đầu làng Hoàng Xá và hy sinh cùng với vua Bà ở Hy Sơn (tức núi Hy Cương, đền vua Hùng)..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> đội thủy quân. Bọn xâm lược Đông Hán hoảng sợ đưa chiến thuyền theo sông Hồng đến đánh trang Hạ Tốn, bà đã chỉ huy hai đội quân thủy, bộ đánh cho giặc Hán đại bại. Được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh, nàng Quốc đưa quân bản bộ về gia nhập. Bà Trưng mến tài, phong Nàng Quốc là “Trung dũng đại tướng quân”. Bà đã theo Hai Bà đánh phá các thành trì của giặc, bao vây đánh thành Luy Lâu, Tô Định sợ hãi phải cắt râu, lột áo lủi qua lỗ chó chui chạy thoát về Trung Quốc. Khởi nghĩa thắng lợi, Nàng Quốc xin về trang Hạ Tốn đóng quân, vua bằng lòng, phong cho bà Tuyết Tĩnh mẹ nàng Quốc là Hoa Nương phu nhân, sức cho dân trang Hạ Tốn lập đền thờ. Tháng 2 năm 43, Mã Viện đưa quân sang xâm lược. Nàng Quốc luôn luôn chiến đấu bên cạnh Hai Bà. Trong trận Cẩm Khê, khi Hai Bà bị vây khốn, nàng Quốc một tay cầm đao, một tay cầm mộc đang ở thuyền nhẩy lên bộ mở đường máu hộ vệ Hai Bà rút theo đường thủy. Nhưng thế giặc mạnh, quân ta tan rã, Hai Bà tự tận. Thuyền chiến giặc do Lưu Long chỉ huy tràn tới kín mặt sông. Nàng Quốc cùng số quân ít ỏi còn lại tả xung hữu đột chém giết quân giặc và Nàng đã ngã xuống nơi chiến trường là dòng sông, nơi mà nàng đã thác sinh làm người, làm tướng đánh giặc. Hội làng Hạ Tốn thường tổ chức tế lễ, rước và có nhiều trò chơi như bơi chải, trò thủy chiến để ghi nhớ công ơn chống giặc của nàng Quốc. NÀNG TÍA Thôn Vĩnh Ninh trước tên là Vĩnh Hưng thuộc xã Vĩnh Quỳnh huyện Thanh Trì Hà Nội thờ Bạch Xà, Thổ Địa là hai vị thần có công đánh giặc Ma Lôi, Xích Quỷ đời Hùng vương và Nàng Tía, nữ tướng của Hai Bà Trưng. Nàng Tía mồ côi cả cha lẫn mẹ phải ở với cô, nàng là người xinh tươi, duyên dáng, giỏi võ nghệ. Có lần Trưng Trắc đi các nơi xem xét địa hình tới vũng Vĩnh Ninh thì thấy Nàng Tía gánh nước đi qua, vua liền cho vời vào hỏi chuyện rồi thưởng lụa, bạc, căn dặn người cô phải nuôi nấng cô cho tử tế. Khi Mã Viện đem quân sang xâm lược, Nàng Tía vừa tròn 17 tuổi, nhớ ơn nghĩa của vua, Nàng liền chiêu quân đánh giặc. Nàng cầm quân đánh giặc, đánh thắng nhiều trận. Khi Hai Bà Trưng tử trận, Nàng rút quân vào Ninh Bình tiếp tục kháng chiến. Nàng Tía mai phục quân ở cửa Tạc Khẩu (tức cửa Thần Phù). Mã Viện đem quân vào Cửu Chân (Thanh Hóa) theo đường sông Đáy (đoạn cuối sông Hát) đã bị hàng trăm thuyền nhỏ do Nàng.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> chỉ huy đổ ra đánh(1). Sau thế quân ta yếu dần, trong một trận huyết chiến ngày 13-11, thuyền của Nàng Tía bị chìm. Nàng cùng quân sĩ hy sinh ở cửa Thần Phù. Nghe tin Nàng Tía hi sinh nhân dân Vĩnh Ninh đã lập đền thờ ngay trên nền nhà cũ của Nàng. Trước cửa đình có đôi câu đối: “Giáng thế phi thường, Ma Lôi cầm chính tướng Xích Tỵ diệt ưu binh, Vĩnh hữu khoán thư tinh truyền tuấn kiệt; Hiển linh đắc dĩ, Thủy quốc mộng liên hoa, Thần phù khối phóng trận, hương từ phất miện công mộc hồng hưu”. Dịch: “Giáng thế khác thường, Ma Lôi bắt tướng giặc, Xích Tỵ trừ ưu binh, chốn đình trung rạng rỡ khoán thư, đời đời truyền dũng liệt; Hiển linh kỳ dị, Thủy quốc mộng hoa sen, Thần phù nổi gió bão, buổi tế lễ chỉnh tề, mũ áo, chốn chốn tắm ơn sâu” Và: “Thời Trinh đan sinh phù Triều Hùng, hai ngôi hiển thánh, Mộng xưa ứng triệu giúp nhà Trưng một vị anh thư?” Lễ hội: Ngày 15 tháng 3 Trong lễ hội ngoài phần lễ có tế, rước kiệu còn có nhiều trò chơi mang tính thượng võ như đánh vật, vật cù, bơi chải… diễn lại sự tích đánh giặc của các tướng Bạch Xà, Thổ Địa và Nàng Tía, và múa hát mang tính văn nghệ dân gian như hát đúm, hát trống quân. QUÁCH LÃNG – ĐINH BẠCH NƯƠNG – ĐINH TĨNH HƯƠNG Các thôn Đông Ba, Thượng Cát(2) và thôn Hạ Cát(3) (sau Hạ Cát đổi là Đại Cát) vốn xưa có chung một tên là làng Kẻ. Cả ba thôn đều thờ Quách Lãng, Đinh Bạch nương và Đinh Tĩnh nương làm Thành hoàng, nay ngôi __________________ (1). Thủy Kinh chú chép: “Tháng 10 năm Kiến Vũ 19, Mã Viện kéo quân vào quận Cửu Chân ở phía Nam, Mã Viện tiến đánh huyện Dư Phát, Cừ súy là Chu Bá bỏ quân vào rừng sâu, Mã Viện chia quân tiến đánh huyện Vô Biên là Cửu Chân đình thời Vương Mãng, lại đến huyện Cừ Phong. Tướng giặc không đầu hàng bị chém tới hơn 5.000 người. (2) Nay là xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm, Hà Nội. (3) Nay thuộc xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm, ở giữa hai thôn Thượng Cát và Hạ Cát có một bãi cát gọi là Quân thần châu (bãi vua tôi) là do Triệu Việt vương chia một phần đất đai cho Lý Phật Tử lấy bãi này làm ranh giới. Từ bãi này trở về phía Đông là của Triệu Việt vương, trở về phía Tây là của Lý Phật Tử (Phật Tử là thần)..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> đền đó vẫn còn ở thôn Thượng Cát. Quách Lãng – Đinh Bạch Nương – Đinh Tĩnh Nương là ba an hem cháu cô, họ cả hai bên nội ngoại. Mẹ Quách Lãng là chị của bố Bạch nương, Tĩnh nương. Mẹ của Bạch nương, Tĩnh nương là em của bố Quách Lãng. Cả ba người đều quê ở động Hoa Lư (Ninh Bình) và đều tinh thông võ nghệ, Quách Lãng giỏi môn giáo dài. Bạch nương, Tĩnh nương thạo nghề sông nước, giỏi thủy chiến. Tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa truyền đến Hoa Lư, ba an hem ra ứng nghĩa và đều dừng lại Thượng Cát tuyển quân, chia quân làm bộ binh và thủy quân. Nhờ có dân chúng ủng hộ thuyền bè, hai nàng dẫn thủy quân ngược sông Hồng lên Cửa Hát hội quân trước, Quách Lãng ở lại luyện quân bộ, rồi lên sau. Ba vị lập được công lớn hạ 65 thành trì, đánh đuổi Tô Định. Đất nước độc lập, Bà Trưng lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh, phong Quách Lãng làm Đô chiếu thảo sứ, phong hai nàng là Bạch Khấu công chúa, sau hai nàng lấy em Hai Bà được phong là Hoàng phi. Trưng vương giao cho ba tướng trở lại Thượng Cát xây dựng đồn lũy, Quách Lãng đóng quân trên bộ, Đinh Bạch nương, Đinh Tĩnh nương đóng thủy quân ở dưới sông Hồng. Tương truyền Quách tướng quân ham đọc binh thư và có tài sử dụng côn sắt, trăm người địch không nổi. Một hôm hai nàng tập thủy chiến, bỗng trận cuồng phong nổi lên, hai nàng rẽ nước về Thủy cung. Cuối năm 42, Mã Viện đem quân sang đánh, Quách Lãng chỉ huy quân chiến đấu dũng cảm, hy sinh tại trận(1). Nhân dân Thượng Cát, Hạ Cát và Đông Ba đều tôn Quách Lãng, Đinh Bạch Nương, Đinh Tĩnh nương làm Thành hoàng. Hàng năm lễ hội mở từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 3. Trong lễ hội, dân làng Tây Tựu, Hạ Cát đua chải trên sông Hồng, sông Nhuệ để diễn lại việc hai nàng họ Đinh luyện tập và đánh thủy chiến. Làng Thượng Cát mở hội “chạy quân” đấu vật để diễn lại ba tướng luyện quân đánh giặc. Trước đây nhân dân vùng Kẻ vẫn nói: “Chiêng làng Đống (Thu quân) Trống Hạ Trì (Tiến quân) Mõ Tây Đam (Cầm canh) Tù và Thượng Cát (Tập họp)”. _____________________ (1). Phía dưới vùng Kẻ, ở làng Bạc (nay thuộc xã Phú Thượng ở nam sông Hồng còn lưu truyền thuyết phó tướng Mã Viện là Lưu Long đã bị Thủy thần dâng nước lên nhấn chìm cả gia đình hắn. Nay còn di tích ngôi chùa làng Bạc thờ Thủy thần, thần tích cũng ghi việc đó..

<span class='text_page_counter'>(50)</span> TƯỚNG KHỎA TIÊU SƠN(1) Xuân Đỗ Hạ là một làng thuộc xã Cự Khối, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Ngày 31-5-1961, theo Quyết định số 87 CP của Chính phủ chuyển 31 xã, 2 thị trấn của huyện Gia Lâm về thành phố Hà Nội. Xuân Đỗ Hạ là tên cổ là Xuân Đỗ Trang, sau đổi là Hoa Động, tên Nôm là Đẩu Hạ, sau này mới đổi là Xuân Đỗ Hạ. Xuân Đỗ Hạ nằm trong vùng đất cổ. Theo Ngọc phả Thành hoàng làng Xuân Đỗ Hạ do Đại học sĩ Nguyễn Bính sau năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) thì Xuân Đỗ Hạ là một trang trù phú nằm bên bờ Tả ngạn sông Nhị Hà. Đình Xuân Đỗ Hạ thờ vị nữ thần cổ là Công chúa Lâu Ly Ny Nương và một vị tướng thời Hai Bà Trưng là Khỏa Tiêu Sơn. Sau khi hạ được các thành trì ở quận Giao Chỉ, trước khi tập trung đại quân đánh thành Luy Lâu, trị sở của Tô Định, ông được Hai Bà giao nhiệm vụ đưa một số quân tới Hoa Động Trang xây dựng một đồn giả nghi binh đánh lừa quân Hán. Tô Định tưởng thật điều động quân đến vây đánh thành đó, thì đại quân của Hai Bà kéo tới bao vây tấn công thành Luy Lâu. Khi bọn giặc biết là bị mắc lừa quay về cứu thành thì bị phục binh của Khỏa Tiêu Sơn đổ ra đánh giết. Quân khởi nghĩa tấn công mãnh liệt vào thành Luy Lâu, Tô Định phải lột áo bào, cắt râu, luồn qua lỗ chó chui rồi chạy thoát về Nam Hải (Trung Quốc). Chiến thắng Tô Định, Bà Trưng lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh. Vua Trưng giao cho ông đưa quân về đóng ở Hoa Động, để giữ phía Nam kinh đô Mê Linh. Nhân dân Ngọc Động trang và trong vùng đã giúp quan quân xây dựng đồn trại. Dựng xong đồn trại, ông mở tiệc khao thưởng quân sĩ và dân làng, ông hóa ở giữa bữa tiệc. Nhân dân Hoa Động nhớ ơn ông có công với dân, với nước, lập đền thờ rồi tôn ông làm Thành hoàng. Lễ hội từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 2. Lễ hội ở đình Xuân Đỗ Hạ có đặc sắc là lễ rước kiệu và lễ nghênh kiệu. Làng có kiệu long đình để rước Thánh ông, kiệu Bách cống rước Thánh bà. Trước đó một tháng làng kén chọn các thủ kiệu. Rước kiệu ông có 16 người, chia làm bốn ca, kiệu bà có 16 người chia làm hai ca. Đối với các thủ kiệu, trai tuổi từ 18 đến 25, chưa vợ; đối với gái tuổi từ 16 đến 22, chưa chồng. ___________________ (1). Các sách viết là Khỏa Ba Sơn và công chúa Lâu Ni nương, nhưng Thần tích làng Đậu Hạ, lưu lại Thư viện Khoa học xã hội viết là Khỏa Tiêu Sơn và Lâu Ly Ny nương, chúng tôi viết theo Thần phả..

<span class='text_page_counter'>(51)</span> Những người được chọn làm thủ kiệu phải ăn kiêng, giữ giới thanh tịnh. Ngày 7 và 8 tháng 2, làng tổ chức lễ “Niềm quân”, tức là lễ điểm quân, thống nhất quy cách rước, trang phục. Sáng ngày 9 lễ rước nước, gọi là lễ nghênh thủy, lấy nước ở sông Hồng xa trên 10 cây số, nhưng nhân dân vẫn đi rất đông và lễ rước nước diễn ra long trọng. Rước kiệu ở lễ hội Đỗ Xuân Hạ được coi là lễ nghi chính, vừa là lễ, vừa là hội. Cảnh rước kiệu ở đây náo nức, hào hùng. Đi đầu đám rước là những lá cờ, trước tiên là cờ Tiết, cờ Mao tượng trưng cho mệnh lệnh của vua, sự chỉ huy cũng là uy lực của thần. Tiếp đó là 5 lá cờ đuôi nheo, tượng trưng cho Ngũ hành: Kim (trắng), Mộc (xanh), Thủy (đen), Hỏa (đỏ), Thổ (vàng), rồi đến cờ Tứ linh (long, ly, qui, phượng). Các chân cờ đều có mặc áo nâu nẹp đỏ, thắt áo lại bó que, quần cắt bó, chân quấn xà cạp. Sau đó có hai người mang tấm biển đề hai chữ “Hồi ty” nghĩa là Thánh đi. Sau cờ, biển là trống cái, trống đại, chiêng. Nối sau là ngựa trắng, ngựa hồng bằng gỗ to như ngựa thật có bánh xe để đẩy, rồi tới chấp kích, bát biểu. Các quan viên mang tấm biển sơn son thếp vàng đề: “Thượng đẳng tối linh” có tàn lọng che. Theo sau biển là ba binh sĩ mang Kiếm lệnh của vua, rồi đến đội nhạc bát âm, tấu khúc lưu thủy, ngũ lôi. Sau đó là kiệu long đình của vua Thánh ông, kiệu Bách cống của Thánh bà. Trước hai kiệu có người cầm trống khẩu, đi giật lùi ở trước kiệu gõ làm hiệu lệnh. Kiệu có lúc đi chậm, có lúc đi nhanh, có lúc như bay trên không, có lúc quay tròn tạo lên khí thế vừa hùng tráng và linh thiêng trong tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng người reo hò vang trời, dạy đất khiến cho đám rước càng tưng bừng náo nhiệt. Đặc biệt là khi kiệu bay thì người trong hội đều reo hò. “Ngài đang xông trận!”, “Ngài đang xông trận!” Đám rước thần Khỏa Tiêu Sơn được rước từ Nghè Ngô nơi thần ngự về đình dự lễ hội và hưởng lễ vật dân làng dâng cúng. Nhân dân gọi đám rước này là “Phụng nghênh hồi đình”, tức là đón Thần về đình xem hội và hưởng lễ vật. Ả LÃ – NÀNG ĐÊ Các làng Phú Mỹ (xã Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội), làng Dộc Cả, tên chữ là Thượng Văn, làng Dộc Bé (tên chữ là Trung Văn). Hai thôn này cách thôn Phú Mỹ con sông Nhuệ (trước kia sông Nhuệ bị bồi lấp, nhỏ, năm 1935 mới đào rộng như ngày nay) đều thờ Ả Lã – Nàng Đê là nữ tướng của Hai Bà Trưng và Thủy Hải Long vương. Làng Kiều Mai ở vùng Diễn bên kia sông Nhuệ thờ Quốc công là em trai của Ả Lã – Nàng Đê làm Thành hoàng..

<span class='text_page_counter'>(52)</span> Ả Lã – Nàng Đê, Quốc công quê ở làng Yên Nội, tổng La Nôi cũng ở trong huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức đã mộ quân theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa, lật đổ ách thống trị của Tô Định và kháng chiến chống Mã Viện. Các làng trên đều có đình thờ các vị. Đình làng Phú Mỹ do ông Nguyễn Quang Minh đỗ cử nhân làm quan phủ đứng ra hưng công. Đời Khải Định (năm 1916) xây mở rộng, đình có kiến trúc nội công ( エ) ngoại quốc (国) nay vẫn còn nguyên vẹn. Cạnh đình là văn chỉ hàng huyện Từ Liêm xây đời Tự Đức (1848). Các làng trên mở hội vào ngày 7 đến 10 tháng giêng kỷ niệm ngày sinh của Ả Lã – Nàng Đê. Ngày 7 tháng giêng, làng Kiều Mai rước Quốc công lên thăm hai chị ở lại Phú Mỹ, ở lại múa hát, ăn uống ba ngày. Quy định này được viết trong bản Giao ước của làng Kiều Mai ngày 1 tháng giêng năm Duy Tân thứ 5 (1911) bằng chữ Hán ở chùa Lưu Bái do ông Nguyễn Quang Huynh dịch, có đoạn như sau: “Nguyên dân Phú Mỹ cùng thôn ta giao hảo, vào ngày 7 tháng giêng rước Thánh xuống Phú Mỹ, tế xong lại rước về. Khi rước xuống, những người đi rước phải được đón tiếp, ăn uống ở điểm sở. Tục này từ xưa nay vẫn được truyền lại trong thôn không ai được trái”. Bên dưới có tên những người chức sắc trong làng ký. Ngày 10 tháng giêng, dân làng Phú Mỹ lại rước Thần xuống làng Kiều Mai thăm em. Đám rước thể hiện chị em chiêu mộ quân khởi nghĩa. Ở Phú Mỹ còn có tục thi thổi xôi trắng giữa hai giáp Đông và giáp Đoài để diễn lại cảnh các tướng cho quân thổi xôi làm lương ăn ra trận. TƯỚNG TAM TRINH Làng Mai Động, xã Hoàng Văn Thụ, quận Hai Bà Trưng thờ Tam Trinh – một danh tướng trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (39-43) làm Thành hoàng. Tam Trinh là con ông Triệu Cẩn và bà Tả Thị Thành ở Long Biên (Hà Nội). Hai ông bà tu nhân tích đức, cả đời làm việc thiện, nhưng đường con cái muộn mằn, mãi đến năm 60 tuổi, ông bà mới sinh ra Tam Trinh. Tam Trinh từ bé đã thông minh dĩnh ngộ, giỏi cả văn lần võ. Lớn lên, Tam Trinh đến làng mở trường dạy học cả văn lẫn võ trên bờ sông Kim Ngưu. Cạnh trường là lò vật, sau này trở nên nổi tiếng là lò vật Mai Động. Năm nào Tam Trinh cũng mở hội thi võ, thi vật vào ngày 6 tháng giêng, đó cũng là lúc hoa mai ở Ngọc Động và cả vùng Hoàng Mai nở rộ tô thắm cho sắc xuân của trời đất. Cuối năm 39, nhận được tin Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn, Tam Trinh chiêu mộ được 3000 quân giương cao cờ khởi nghĩa đến Hát Môn yết kiến Hai Bà Trưng. Bà Trưng giao cho ông đánh phá các đồn quân Hán đóng ở Long Biên và vùng chung quanh. Đây là nơi các đô vật.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> này là tướng của ông cũng như quân sĩ thông thạo địa hình, địa vật, lại nhận mặt được cả bọn người trong nước cam tâm làm tay sai cho chúng, nên quân ông đánh đâu được đó. Khí thế quân thanh càng mạnh, trai tráng gia nhập đội nghĩa binh càng đông. Sau đó Tam Trinh đưa quân đến phối hợp với các cánh quân do các tướng lĩnh khác chỉ huy dưới quyền tổng chỉ huy của Hai Bà Trưng hạ thành Luy Lâu đánh đuổi Tô Định ra khỏi bờ cõi. Bà Trưng lên ngôi vua, giao cho tướng Tam Trinh lập đồn binh ở trang Mai Động, tiếp tục mở lò võ để kén chọn nhân tài bổ sung cho quân đội. Tam Trinh đã cung cấp hàng trăm suất đội, đội trưởng, lực sĩ cho quân đội của Hai Bà Trưng. Năm 43 Mã Viện đưa quân sang đánh báo thù, sau khi đánh thành Mê Linh bị thua Mã Viện rút quân về Lãng Bạc (miền Tiên Du – Từ Sơn ngày nay), Hai Bà đưa quân đến đánh bị thua phải rút về Cấm Khê, Mã Viện đã đưa quân đến bao vây, đánh đồn Mai Động. Quân giặc đông, khí thế hung hăng, quân của Tam Trinh lại ít lại bị tổn thất trong trận đánh ở Lãng Bạc, số còn lại thì bị thương tích, mệt mỏi. Song Tam Trinh vẫn chỉ huy quân sĩ đánh trả địch, giữ vững đồn trong nhiều ngày, đến khi thế cùng, lực kiệt, Tam Trinh phá vòng vây ra ngoài thì bị trọng thương, chạy tới Khu Đống thì hóa. Hôm đó là ngày 10 tháng hai năm 43. Nhân dân Mai Động lập đền thờ sau tôn làm Thành hoàng. Hàng năm mở hội vào ngày 6 tháng giêng. Mai Động với Hoàng Mai thờ tướng Trần Khát Chân thời Trần mở chung hội một ngày, đều rước giao hiếu. Thoạt đầu làng Hoàng Mai rước bài vị của tướng Trần Khát Chân lên hội ở đình Mai Động, rồi rước cả hai thần đi du xuân. Đám rước có ba kiệu đi trên các con đường khúc khuỷu của hai làng lên đê sông Hồng. Sau đó kiệu dừng lại ở Trại Nhãn trên đê, đợi các chàng trai đem ba chóe xuống sông Hồng lấy nước về là lễ mộc dục. Sau đó rước về làng Mai Động. Đám rước lại tiến hành vào ban đêm, đi trước đám rước là các cặp nam đóng giả nữ múa xinh tiền, sau đó là các đấu sĩ biểu diễn bài quyền trung bình tiên bằng những chiếc gậy dài tới 4 mét. Đám rước tiến về đình Mai Động, sau đó làng Hoàng Mai rước kiệu của làng mình về. Hôm sau hai làng còn tổ chức thi thả diều, thả chim, đấu vật. Ban đêm hát trống quân, hát đúm. PHƯƠNG DUNG – ĐÀO KỲ Trang Cối Giang ngày trước gồm suốt dọc đất bờ Bắc sông Đuống, sau dân cư đông đúc, ruộng đất khai khẩn nhiều, nên chia làm 12 thôn. Trong đó có 5 thôn Đông Trù, Hội Phụ (nay thuộc xã Đông Hội), Lê Xá, Lộc hà, Thị.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Thôn (nay thuộc xã Mai Lâm) huyện Đông Anh thờ Phương Dung, Đào Kỳ là hai vợ chồng và đều là tướng tài cảu Hai Bà Trưng(1). Ở trang Vĩnh Tế, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh có ông Nguyễn Trát, sức vóc to lớn, ăn khỏe, làm rất khỏe, tính tình khí khái, cương trực. Ông đi làm thuê lấy ăn, nhưng tính cương trực, không chịu luồn cúi ai, không nghĩ đến chuyện lấy vợ, sinh con. Một hôm tên cường hào họ Đặng cậy thế nhà Hán, trói người chồng vào gốc cau, đánh cho nát da chảy máu, cướp vợ người ta. Dân làng chỉ kêu khóc, không ai dám can thiệp. Ông xông vào đánh chết tên cường hào họ Đặng. Từ đó ông phải bỏ làng đi. Gặp năm đói kém, ông tụ họp dân nghèo, dân có thù với giặc Hán và cường hào đi cướp của nhà giầu chia cho dân nghèo. Sau ông khai hoang, mở trang trại bên sông, ông lấy người con gái ở Cối Giang làm vợ, trở thành hào trưởng ở Lang Tài. Ông bà sinh ba con trai là Nguyễn Tất, Nguyễn Hiển, Nguyễn Minh, sau lại sinh một gái đặt tên là Phương Dung. Nguyễn Trát căm thù giặc Hán tàn bạo, nên mộ dân nghèo, tù được tha, cùng những người bị giặc Hán, cường hào bức hại phải bỏ làng đi dạy cho võ nghệ, nên uy thế càng lớn. Tô Định lo ngại, gọi ông đến giao cho chức quan nhỏ, ông từ chối. Ba con trai cũng như Phương Dung được cha dạy võ nghệ đều trở thành người tài giỏi. Một hôm Phương Dung cùng mọi người gặt lúa thì bọn lính Hán kéo đến bắt hơn chục trai gái, trói thành xâu đưa đi. Phương Dung lập tức đuổi theo, giật roi của bọn lính Hán đánh chúng túi bụi, giải thoát cho anh chị em. Chúng phải bỏ chạy và đe trả thù. Một hôm Phương Dung theo mẹ về quê ngoại Cối Giang. Tại đây Phương Dung gặp lại Hào Kỳ, một trai tráng quê ở trang Nông Cống, huyện Lương Gian, phủ Thiệu Thiên, quận Cửu Chân (Thanh Hóa) theo cha mẹ ra Cối Giang làm ăn. Nhưng chẳng bao lâu bố mẹ qua đời, chỉ còn một mình Đào Kỳ ở trong túp lều, ngày ngày đi làm thuê kiếm ăn. Phương Dung muốn đưa Đào Kỳ về Vĩnh Tế, nhưng chàng không chịu. Nửa tháng sau bỗng người cậu đến bảo tin giặc Hán đã giết chết cha và ba anh nàng, điền sản chúng cướp hết. Mẹ Phương Dung khóc lóc thảm thiết rồi qua đời. Phương Dung nhận ông cậu họ Nguyễn là cha nuôi. Nung nấu mối thù giặc Hán, Phương Dung dạy Đào Kỳ múa kiếm, đánh côn quyền, dạy Đào Kỳ chống sào mà nhẩy xa. Hai người tập họp được vài ba chục trai ____________________ (1). Phường Phúc Xá, xưa là phường Cơ Xá châu thờ bẩy vị Thành hoàng, trong đó có Đào Kỳ..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> gái trong làng luyện tập võ nghệ cho họ chờ thời cơ trả thù. Khi nghe tin Hai Bà Trưng đang chiêu tập hào kiệt trong thiên hạ, chuẩn bị khởi nghĩa ở Mê Linh, Phương Dung, Đào Kỳ đi các nơi chiêu tập được gần 300 người rồi kéo về Mê Linh yết kiến Trưng nữ chủ, xin gia nhập đội quân khởi nghĩa. Mùa xuân năm 40 Hai Bà Trưng hội quân ở Hát Môn truyền hịch khởi nghĩa. Phương Dung, Đào Kỳ có mặt trong ngày trọng đại đó. Hai Bà giao cho Phương Dung, Đào Kỳ đem quân bản bộ đi hạ đồn trại giặc. Hầu hết thành trì dinh sở của giặc Hán ở Giao Chỉ, Cửu Chân đều lần lượt bị hạ. Sau đó dưới sự chỉ huy của Hai Bà, quân khởi nghĩa kéo đến hạ thành Luy Lâu trị sở của Thái thú Tô Định. Quân khởi nghĩa đông như kiến, nhiều như ong, vũ khí tua tủa, trống, chiêng, tù và khua dậy đất, cùng tiếng quân reo, ngựa hí vang vọng cả bầu trời Thuận Thành làm sôi sục dòng sông Thiên Đức đang lặng lờ trôi. Quân giặc từ trên thành bắn tên, lăn đá, ném lao xuống. Quân ta ghép gỗ, bện nùm rơm làm mộc chống đỡ rồi xông lên chất lửa đốt cổng thành. Quân giặc khiếp sợ chạy thục mạng dầy xéo lên nhau. Tô Định phải cắt râu, cởi áo bào chui qua lỗ chó, chạy theo đường núi về Nam Hải. Dẹp xong giặc Tô Định, bà Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh, phong thưởng cho các tướng. Phương Dung được phong tước Công chúa, Đào Kỳ được phong Trấn thủ huyện Đông Ngàn. Hai ông bà về đóng trị sở của huyện ở thành Cổ Loa, sửa sang thành Ốc, lập dinh sở, mở đường, làm cầu. Hai ông bà đều xuất thân từ nông dân, nên hết lòng giúp dân khai khẩn ruộng hoang, đào cừ, khơi nương, dẫn thủy nhập điền. Mấy năm liền, dân được mùa, cuộc sống ấm no khắp thôn xóm cất cao tiếng cười, câu hát. Cuối năm 42, vua Hán Quang Vũ sai Phục Ba tướng quân Mã Viện sang đánh báo thù. Quân Hán tập trung ở bên kia biên giới Lạng Sơn. Trưng Vương giao cho Phương Dung, Đào Kỳ đem quân lên chặn giặc ở Nam Quan, Khâu Ôn, Chi Lăng. Quân giặc tràn sang bị hai tướng đánh bại phải rút chạy về bên kia biên giới. Mã Viện là kẻ gian ngoan, xỏa quyệt, hắn cho một bộ phận ở lại nghi binh để cầm chân quân ta, rồi Mã Viện hành quân theo đường bộ, Lưu Long chỉ huy chiến thuyền hành quân ở vùng ven biển Móng Cái, Hà Cối, Tiên Yên rồi quân bộ theo đường 18, quân thủy theo vịnh Bái Tử Long, Hạ Long đổ bộ vào sông Bạch Đằng rồi đánh thọc lên Lục Đầu Giang. Phương Dung, Đào Kỳ muốn tâu vua cho mình về đánh giặc ở quê nhà, nhưng Trưng Vương không triệu hồi, muốn lưu các tướng lại để đánh chặn khi bọn giặc rút qua biên giới Lạng Sơn. Quả nhiên đúng phán đoán của Trưng Vương, hai tướng đã đánh tan tác bọn tàn binh định vượt qua biên giới..

<span class='text_page_counter'>(56)</span> Đầu năm 43, Mã Viện lại đem quân sang đánh lần thứ hai. Quân ta thắng lớn ở Cổ Loa, Mê Linh, Mã Viện phải lui về Lãng Bạc (vùng Từ Sơn, TIên Du ngày nay). Hai Bà đốc toàn lực tổng tấn công. Nhưng đánh trận địa chiếm là sở trường của quân Hán. Phó tướng Lưu Long chỉ huy thủy quân bao vây lại quân ta. Quân Mã Viện từ trong đánh ra. Quân ta bị kẹp ở giữa. Trưng Vương lệnh cho Phương Dung, Đào Kỳ mở mặt trận Bắc sông Đuống để thu hút bớt quân giặc về hướng đó. Nhờ đó Hai Bà Trưng và đại bộ phận quân đội rút về xây dựng phòng tuyến Cấm Khê. Trong khi cuộc chiến đấu dữ dội diễn ra ở Cấm Khê thì Phương Dung, Đào Kỳ vẫn mở rộng phạm vi hoạt động ở vùng Bắc sông Đuống. Vài tháng sau, hai tướng nhận được tin Trưng Vương hy sinh, Trưng Nhị nhẩy xuống sông tuẫn tiết, liền mở các cuộc tấn công vào quân giặc. Mã Viện, Lưu Long tập trung quân vây kín đội quân nhỏ bé, mệt mỏi của hai tướng. Chúng lợi dụng địa hình đồi núi, đặt phục quân rồi cho quân ra khiêu chiến. Phương Dung, Đào Kỳ mắc mưu chúng đánh phá vây mở đường máu ra. Quân Hán từ các nơi đổ ra đánh chia cắt quân của hai tướng làm nhiều mảnh. Đào Kỳ bị giặc chém vào ngang sườn, máu chảy ướt đẫm chiến bào. Tới gốc cây đa lớn, Đào Kỳ dừng ngựa hỏi bà lão quét lá đa, thì được biết chỉ còn ba dặm đường nữa là về đến thành Cổ Loa. Nhưng vết thương quá nặng, ông hét lên một tiếng, lá đa rụng rào rào xuống đất, ông mất. Phương Dung phá vòng vây chạy đến nơi thì thấy chồng đã mất, Chúa cũng đã hi sinh, quân đội không còn liền tự vẫn, hôm đó là ngày 16 tháng 8 năm Quý Mùi. Sau đó không lâu cả 5 thôn vùng Tám Cối là Hội Phụ, Đông Trù (xã Đông Hội), Lê Xá, Lộc Hà, Thị Tôn (Mai Lâm) đều ở huyện Đông Anh thờ Phương Dung, Đào Kỳ làm thành hoàng. Trong đình thờ hai tướng có đôi câu đối: “Vi lý Phục Bat hi, loan giá, lưu lâm không ấm hận Bất ly Tiên Trấn giáp Loa thành quy mã thượng từ thanh” Dịch: “Chưa bọc xác Phục Ba, sống cảnh xa loan còn vang uất hận, Chẳng rời giáp Tiên Trấn ngựa về thành Ốc vang âm thanh” Người đời sau có thơ vịnh Đào Kỳ, Phương Dung: “Sinh vi tướng, tử vi thần Vạn cổ cương thường hệ thử thân Loa địa song đôi theo nguyệt ảnh Anh hùng liệt nữ tướng quân phần” Dịch: “Sống làm tướng giỏi, chết làm thần Muôn thuở cương thường nặng tấm thân.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> Đôi nấm Loa thành trăng chiếu sáng Hào kiệt anh thư nộ tướng quân”(1) ĐÔ THỐNG – CHIÊU HIẾN – TAM LONG Làng Ngọc Động, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội có đền thờ ba ông tướng họ Đào là các ông Đô Thống, Chiêu Hiến và Tam Long là ba anh em ruột làm Thành hoàng. Theo truyền thuyết, cha mẹ ba ông vốn quê ở trấn Sơn Nam vì hiếm con đã đến cầu tự ở ngôi đền tại trại Đa Tốn, sau sinh ra ba ông. Ba ông sinh và trưởng thành ở trang Ngọc Động, sau đó trở về quê ở Sơn Nam. Khoảng đầu năm 39, ba ông trở lại Ngọc Động thăm lại ngôi đền xưa và trang ấp, nơi đã sinh ra và nuôi nấng mình trong thời thơ ấu. Vào thời đó Tô Định thái thú Giao Châu vô cùng tàn bạo tham lam, dân ta cơ cực không sao kể xiết. Ba ông nhận thấy Ngọc Động trên bến, dưới thuyền, lại có đường đi các ngả Nam, Bắc, Tây, Đông, dân cư đông đúc, lại có lòng trung hậu và đều căm thù giặc Hán liền chiêu mộ anh hùng hào kiệt, dựng cờ tụ nghĩa, xây dựng đồn lũy chống giặc. Chỉ trong một thời gian ngắn, ba ông đã tập họp được gần 500 tráng sĩ, ba ông chia ra làm hai binh chủng bộ binh và thủy binh, trang bị vũ khí, không ngừng thao luyện cho quân sĩ tinh thông các thế trận. Được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh, ba ông đến yết kiến, được Trưng nữ chủ trọng dụng giao cho về Ngọc Động chiêu mộ thêm quân chờ ngày khởi sự. Các ông mộ được 3000 quân. Ít lâu sau ba ông nhận được lệnh của Hai Bà về tế cờ khởi nghĩa ở Hát Môn. Sau lễ Tế cờ ba ông được bà Trưng Trắc giao cho đi đánh phá các huyện thành. Các ông đã lập công xuất sắc, sau đó được lệnh cùng đại quân đi hạ thành Tô Định. Sau chiến thắng bà Trưng Trắc lên ngôi vua, phong thưởng cho các tướng sĩ. Sau khi nhận phong tước, ba ông xin Trưng Vương cho về đóng quân ở đồn cũ là Ngọc Động, được nhà vua ưng thuận. Trong những năm tháng đóng quân ở Ngọc Động, ba ông đã không ngừng củng cố đồn lũy, thao luyện quân sĩ, ngoài ra còn giúp dân khai hoang mở mang đồng ruộng, mở rộng làng xóm. Khi Hán Quang Vũ cho Mã Viện sang xâm lược nước ta, ba ông đã tham gia các trận đánh ở hồ Lãng Bạc rồi về lập phòng tuyến ở Cấm Khê cầm cự với giặc gần một năm, ba ông còn tiếp tục chiến đấu, các ông đã xây dựng trận địa bên bờ Tả ngạn sông Hồng từ trang Ngọc Động đến trang Phú Viên __________________ (1). Bản dịch của Vũ Tuấn Sán.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> (xã Bồ Đề, Gia Lâm ngày nay). Quân giặc kéo đến đánh đều bị ba ông chỉ huy quân sĩ đánh cho đại bại. Mã Viện huy động đại quân đánh phá. Trong trận quyết chiến ngày 12 tháng 7 năm 43, cả ba ông đều anh dũng hy sinh. Theo Thần tích đình làng Ngọc Động thì khi ấy có đoàn rùa, rắn từ sông Hồng nổi lên rước ba ông đi. Nhân dân Ngọc Động tôn ba ông làm Thành hoàng, ông Cả và ông Ba thờ ở đình Ngọc Động, ông Hai là Chiêu Hiến thờ ở Nghè. Trong đình có đôi câu đối: “Tượng quận Dương uy nghiêm tướng lược, Bồ Tân tuẫn tiết tận thần trung” Dịch: “Quận Tượng oai hùng nhiều tài tướng lược Bến Bồ tuẫn tiết tận nghĩa trung thần Và: “Tái Bắc túc chinh trần, công cao trục Định Hồ Tây dựng nộ lãy, nghĩa trọng phù Trưng” Dịch: “Ải Bắc yên gió bụi can qua, công đầu đuổi Tô Định Hồ Tây nổi ba đào căm giận nặng nghĩa phù Trưng” Ở cạnh nghè thờ ông Chiêu Hiến, ngành khảo cổ học đào được một dùi đồng, một giáo đồng cùng một số đồ gốm thuộc nền văn hóa Đông Sơn. Thôn Đào Xuyên cùng xã Đa Tốn với Ngọc Động cũng đào được một thạp đồng. Điều đó chứng minh làng Ngọc Động cũng như cả xã Đa Tốn là một làng cổ bên bờ Tả ngạn sông Hồng. LONG VƯƠNG THỦY THẦN Thôn Thượng Thụy có tên Nôm là làng Bạc thuộc xã Phú Thượng, quận Tây Hồ có ngôi đình thờ Long Vương Thủy thần. Sở dĩ Thượng Thụy có tên là Bạc vì từ năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà cướp nước Âu Lạc, vẫn duy trì chế độ Lạc tướng cai trị dân ta, chỉ đặt ở mỗi quận một viên quan người Hán gọi là điền sứ để đôn đốc việc cống nộp. Nhà Tây Hán diệt Triệu Đà, cai trị Âu Lạc “vẫn để các Lạc tướng trị dân như cũ”, “dùng tục cũ mà cai trị” (Hậu Hán thư) mà chưa đánh thuế. Năm 23 Lưu Tú diệt Vương Mãng nhà Tây Hán lập ra nhà Đông Hán. Vua Hán Quang Vũ sai Nhâm Diên, Tích Quang sang làm Thái thú bắt đầu thu thuế ruộng, thuế muối, bắt dân ra theo phong tục, mặc quần áo Hán để đồng hóa dân ta. Các trạm thu thuế (còn gọi là bạc) mọc ở khắp nơi trong đó có trạm thu thuế ở làng Bấc trên bờ sông Hồng ngày nay. Sở dĩ chúng đặt trạm kiểm soát hàng hóa thu thuế, lập ra kho bạc ở mảnh đất gọi là Bạc vì nước ở.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> đây cõ vụng xoáy rất nguy hiểm, gọi là “Ghềnh Bạc”, “Thác Sù” thuyền bè không dám đi nhanh để thu thuế thuyền bè và người đem hàng hóa từ vùng Hà Nội qua sông Hồng sang vùng Vĩnh Phúc ngày nay. Thoạt đầu ở đây chỉ là bến đò, gọi là “Bến Bạc”, sau hàng quán mọc lên. Cư dần từ các nơi đến ở buôn bán và sản xuất chum vại, nồi niêu, dần dần thành trang ấp. Theo phán đoán của các nhà nghiên cứu Hà Nội cổ xưa thì làng Bạc xưa có lỵ sở cai trị của bọn cai trị Đông Hán từ thời Nhâm Diên, Tích Quang. Đến năm Kiến Vũ thứ 10 (34)(1), Hán Quang Vũ sai Tô Định sang làm thái thú. Tô Định là kẻ vô cùng tàn ác, tham lam và dâm ô, đến nỗi Mã Viện cũng phải nhận xét: “Tô Định giương mắt lên vì tiền”. Vì làng Bạc nằm trên bờ sông Hồng, nên nhân dân thờ Long vương Thủy thần làm thần hộ mệnh. Khi có tục thờ Thành hoàng thì tôn làm Thành hoàng thờ ở đình. Long Vương Thủy thần đã phù hộ độ trì cho dân làng Bạc làm ăn phát đạt, đông con nhiều cháu, ngăn họa trừ tai, ban phúc. Tương truyền có lần một lò nung chum vại bị cháy, gặp gió mạnh lan nhanh có nguy cơ cháy cả làng. Dân cầu khẩn Long vương Thủy thần tới giúp, lập tức gió nổi lên, mây đen vần vũ rồi một trận mưa lớn giáng xuống dập tắt đám cháy. Tên Thái thú đóng ở làng Bạc, sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại. Bản Thần tích nay lưu ở đình làng chép: “Gia đình Nghi Công là Phó tướng của Phục Ba tướng quân (Mã Viện) đóng doanh trại tại bản xã. Gia đình có hai vợ chồng và hai người con, nhà ở bên sông. Đêm 14 tháng 8, Nghi Công nằm mơ thấy một vị thần tự xưng là Long vương báo mộng sẽ bắt cả gia đình Thái thú xuống sông”, tỉnh dậy Nghi Công sai lập đền thờ. Nhưng rồi một đêm bỗng dòng sông nổi sóng, cuốn trôi cả vợ chồng cùng hai đứa con xuống sông, tàn phá dinh thự thành đống gạch vụn. Sau dân xây đình trên nền dinh đó. Sự tích chép trong Thần tích trùng hợp với mục “Lưu Long truyện” trong quyển 22, Hậu Hán thư chép: “Năm sau, Kiến Vũ thứ 16, tức năm 43 sau Công nguyên (Long) được phong làm Phù Lạc hầu, hàm Trung lang tướng, làm Phó tướng cho Phục Ba tướng quân đi đánh bọn Man di là Trưng Trắc ở Giao Chỉ, riêng Long đã phá được (quân Trưng Trắc) ở cửa sông Cấm Khê, bắt được người cầm đầu là Trưng Nhị”. Các sách của Trung Quốc viết về nhà Đông Hán khi nói về cuộc xâm lược này chỉ nhắc đến “Mã Viện dàn hơn 2000 chiếc thuyền chiến lớn nhỏ, 20000 quân tiến vào Cứu Chân đánh bọn Đô Dương là dư đảng của Trưng Trắc”, không nói về Lưu Long, mà Lưu Long là Phó tướng chỉ huy thủy quân. Phải chăng Lưu Long ở lại Giao Chỉ là Thái thú thay Tô Định như __________________ (1). Dưới nền đình đào được nhiều gạch ngói chạm hình rồng phượng….

<span class='text_page_counter'>(60)</span> trong Thần tích đình bạc viết. Cùng với bản Thần tích trên, đình làng Bạc còn giữ được bốn đạo sắc phong là: - Thiệu Trị năm thứ sáu (1846). - Tự Đức năm thứ ba (1850). - Tự Đức năm thứ 13 (1860), phong là Trung đẳng thần có công giúp dân chống cho đê khỏi vỡ. Nếu quả đúng như vậy thì đây thực là một điều lý thú trong lịch sử mà sau này, năm 1427 khi bình định xong giặc Minh, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” trong đó có những câu: “… Tát cạn nước Đông Hải, không đủ rửa hết vết nhơ Chặt hết trúc Nam Sơn, chẳng ghi đủ hết tội ác Thần, người đều căm giận Trời đất chẳng dung tha…”(1) PHÁP SƯ KHÂU ĐÀ LA Thôn Phù NInh, tên Nôm là làng Nành, thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm nằm ở giữa hai trung tâm Phật giáo Dâu và Phật Tích. Tại Phù Ninh còn có Thạch Sàng (giường đá) dấu tích của pháp sư Khâu Đà La, pháp hiệu Đà La trì người nước Thiên Trúc (Ấn Độ) đến truyền đạo Phật và đền thờ Pháp Vân. Khâu Đà La đến vùng Dâu vào khoảng năm 145 đến 180 Tây lịch, sư thường ở các hang đá, gốc cây to tu luyện, thiền định. Sư đến nhiều vùng giáo hóa đạo Phật, xây dựng chùa tháp, độ cho các tăng ni. Huyền tích về sư Khâu Đà La được chép trong “Lĩnh Nam chích quái” thế kỷ XV, cũng trong thế kỷ đó được nhà thơ Lý Tứ Tấn ghi thành văn vần, đến thế kỷ XVIII được phổ vào bài văn kệ hành: “Cổ Châu Pháp Vân bản hạnh ngữ lục” còn truyền đến ngày nay. Vào năm 168-169 sư Khâu Đà La đến ở chùa Dâu truyền đạo, hoằng pháp. Ở chùa Dâu có người con gái tên là Man nương, người làng Mèn, tên chữ là Mẫn Xá cũng vào chùa giúp việc và học đạo. Một hôm nàng nấu cháo cho các nhà sư ăn đêm tụng kinh, vì mệt, nàng ngủ quên bên hiên trai phòng. Nhà sư Khâu Đà La về phòng tăng vô tình bước qua người nàng. Nàng thụ thai. Bài hạnh kể lại như sau: Đà La thày trở về phòng Bước qua tâm phúc hư không chuyển rời Uy thiêng chịu khí bụt trời Tự nhiên cảm động hoài thai tâm tràng __________________ (1). Trích Bình Ngô đại cáo. Tr. 78 Nguyễn Trãi toàn tập. Nxb KHXH, 1986..

<span class='text_page_counter'>(61)</span> Cái thai được 4 tháng, thì ai cũng biết, ông Tu Đĩnh cha của Man nương hạch báo với Khâu Đà La. Đà La báo: “Cái hiện có như là nghịch lý, con tim trong trắng, cảnh vật cũng vậy nhưng cái nhất vi biết ứng vào là văn vật đều có duyên, ông về bảo vệ nuôi dưỡng”. Man nương có thai 14 tháng, ngày 8 tháng 4 giờ Ngọ sinh một con gái, trong phòng có mùi thơm khác thường, quang khí đầy nhà. Bài kệ hạnh như sau: “Hạ thiên mùng 8 tháng tư Ngọ thời mãn nguyệt được giờ xuất sinh Được một nhi nữ tốt lành Tường vân ngũ sắc phủ mình hào quang Tu Đĩnh nói “Sự việc hôm nay chẳng phải có tình tuy vậy người đời vẫn có thể trì trích”. Man nương lặng lẽ như không có gì xảy ra, bẩy ngày sau, nàng bế con vào trong núi trả em bé cho nhà sư. Vào trong rừng cây cối tĩnh mịch, nghe phảng phất có tiếng tụng kinh ở núi phía Tây, không hiểu lời cầu nguyện gì Khâu Đà La đón lấy đứa bé bế con ngược dòng sông Dâu lên miền Phật tích đi tới gốc cây phù dung, dân gian gọi là cây dâu, cành lá xum xuê. Khâu Đà La nói: “Ta gửi con Phật, mi giữ lấy sẽ thành Phật đạo. Cây dâu nứt thân ra, Khâu Đà La đặt đứa trẻ vào, cây dâu liền lại như cũ. Khâu Đà La và Man nương ra về, Khâu Đà La trao cho Man nương một cây xích trượng bảo rằng: “Ta cho nàng vật này, nàng về nhà. Nếu gặp năm đại hạn, lấy trượng cắm xuống đất, lấy nước cứu sinh dân”. Man nương kính cẩn lấy gậy mang về chùa. Từ đó những năm hạn hán, Man nương cắm gậy xuống, nước chảy ra cuồn cuộn, dân chúng đội ơn nàng. Sỹ vương biết chuyện cử người đến hỏi Man nương. Man nương tả lại đầu đuôi sự tích. Sỹ vương gọi Tu Đĩnh lại yêu cầu đi mời sư Khâu Đà La. Tu Đĩnh vào núi gặp Khâu Đà La ở dưới cây đại thụ nói hết sự tình. Đà La về làm lễ cầu mưa, thoáng đã có trận mưa to. Man nương sống đến ngoài 90 tuổi. Một hôm cây phù dung bị đổ trôi ra bến sông trước cửa chùa, trong cây văng vẳng tiếng nhạc, có ánh sáng rực rỡ, hương thơm ngào ngạt. Dân làng ra kéo cây không nhúc nhích, Sỹ vương cho quân ra kéo cũng không được. Đúng lúc đó bà Man nương ra sông, bà lấy dải yếm quăng ra nói: “Có phải con mẹ thì về với mẹ”. Cây phù dung trôi vào bờ, rồi lên bờ sông một cách nhẹ nhàng, khiến cho mọi người vô cùng kinh ngạc. Đêm đó Sỹ vương được một thần nhân báo mộng hãy tạc thành bốn pho tượng. Ngay hôm sau Sỹ Nhiếp sai thợ mộc của bộ Công là Đào Tư Lượng, chia gỗ làm bốn đoạn để tạc bốn pho tượng. Đoạn thứ nhất thấy một khối đá nay là Thạch Quang Phật. Người thợ mộc đem tượng ra sông tắm rửa, tay không.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> được thật làm rơi xuống sông, đêm tối thường có ánh đỏ lên trời gọi là Đằng Quốc Trung. Bốn tượng hoàn thành đều do người tạo dựng. Tượng hoàn thành chưa nhập thần được, bốn chùa cũng còn sơ sài, chưa đưa được tượng vào thì trời đại hạn. Sỹ vương mời các tăng sỹ đến làm lễ cầu đảo thì mưa rất to. Nhờ lời trong mộng Vương đặt tên bốn vị là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Ba tượng rước được, riêng tượng Pháp Vân nặng không sao rước được. Vương cho gọi thợ làm tượng đến hỏi ngọn ngành, mới biết trong tượng có hòn đá, họ làm rơi xuống sông. Vương sai ngư nhân, lặn xuống sông để tìm, nước sông có quang khí làm lóa mắt nên không dám vào gần phải ngoi lên. Vương sai dùng lưới lấy được đá, đặt vào phía trước tượng quả nhiên khiêng được. Trước sự việc lạ lùng đó Sỹ vương sai sứ giả mang hương tín và nhiều lễ vật vào rừng tìm Khâu Đà La nhưng không biết tin tức gì, chỉ thấy trên cây có bài kệ: Ôi, tuổi đời thường tám, chín mươi Bốn biển yên bình, nước nhà vui Tuổi bóng xế chiều cần nơi chốn Núi xanh mây trắng chỗ vui chơi. Làng Phù Ninh rất gần với vùng Dâu, chính nơi đây sư Khâu Đà La đã đến ở đây truyền bá đạo Phật, chắc chắn là sư phải ở đây lâu nên mới lưu lại di tích Thạch Sàng, lại có đền Pháp Vân. Thạch Sàng được nhân dân bảo quản làm nơi thờ tự pháp sư Khâu Đà La, đền Pháp Vân chắc dựng từ lâu. Khi vua Lê Hiển Tông băng hà, bà Chiêu Nghi Hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền về quê tu hành đã trùng tu Thạch sàng, đền Pháp Vân. Hai di tích đó tồn tại đến nay, điều đó minh chứng đạo Phật vào Phù Ninh rất sớm, và cũng là di tích lịch sử Phật giáo Việt Nam. PHÁP VÂN Thôn Phù Ninh, tên Nôm là làng Nành, nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm không những chỉ có Thạch sàng, di tích của nhà sư Khâu Đà La mà còn có đền Pháp Vân. Đền Pháp Vân được xây từ lâu đời. Trong đền ngoài tượng Pháp Vân, còn có ba tượng tam thế là Quá khứ, Hiện tại và Tương lai. Đền có bốn pho tượng Tứ trấn: Đông, Tây, Nam, Bắc là tượng hiếm có ở các chùa đồng bằng Bắc Bộ, có tượng 18 vị La hán như ở chùa Tây phương. Sự tích Pháp Vân như sau: “Sau khi cây dâu đổ trôi về sông Dâu, bà Man nương khi đó đã ngoài 90 tuổi, tung dải yếm ra kéo lên bờ. Sỹ Nhiếp mộng thấy thần nhân báo cắt khúc gỗ làm bốn đoạn tạc bốn pho tượng thờ, đặt tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Pháp Vân được coi là chị cả.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> trong tứ pháp. Pháp Vân được thờ chính ở chùa Dâu Pháp Vân chính là Phật Mây(1). Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện cũng là Thần, cũng là Phật. Bốn vị Phật trên là hiện thân của Thần Mây, Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Chớp là tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước của người Việt cổ mang mầu sắc nguyên thủy. Vùng Dâu xưa có đường giao thông thủy bộ thuận lợi, riêng đường thủy từ sông Dâu ra sông Thiên Đức (sông Đuống) ra Lục Đầu giang, theo sông Thái Bình về các cửa biển trong đó có cửa Đại Bàng có thành Nê Lê tức Đồ Sơn ngày nay, tương truyền các thương thuyền Ấn Độ chở thương nhân và tăng lữ vào thành Nê Lê rồi mới từ đó đi Luy Lâu. Có một điều đặc biệt mang sắc thái Việt Nam là bốn vị thần – phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tuy là siêu phàm, có mẹ là người bằng xương, bằng thịt, có tổ tiên trên trần thế rõ rang. Theo sách “Cổ Châu Phật bản hạnh” lưu truyền tại vùng Dâu mẹ của Tứ Pháp là người làng Mèn, tên chữ là Mẫn Xá, con ông Tu Định. Họ Man ở làng Mãn Xá nay vẫn còn và nhận bà Man nương là Tô tiên, hàng năm cứ vào ngày 15 tháng giêng là ngày sinh của bà đều làm lễ tế Tô, tập tục này nay vẫn duy trì. Làng Phù Ninh ở giữa vùng Dâu và Phật Tích, sư Khâu Đà La đã đến đây thuyết pháp, hẳn là sư ở lâu và gắn bó với mảnh đất này mới để lại di tích là “Thạch sàng” mà ngay ở vùng Dâu là nơi sư ở chính nay cũng không có di vật gì. Đền Pháp Vân ở Phù Ninh chắc chắn là có từ lâu, ít ra thì cũng không sau chùa Dâu là nơi thờ chính bà Pháp Vân không lâu. Đến khi vua Lê Hiển Tông băng hà, bà Hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền về quê tĩnh dưỡng tuổi già xây chùa thờ Phật, trùng tu Thạch sàng, đền Pháp Vân. Trải qua biến thiên của lịch sử, nay đền Pháp Vân vẫn còn mang dấu ấn kiến trúc thời Lê. Hàng năm làng mở hội vào ngày 8 tháng 4, trong lễ hội không thể thiếu lễ tắm tượng. LÝ NAM ĐẾ Làng Miêu Nha trước kia tên Nôm là làng Ngà, sau đổi là Do Nha, nay thuộc xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm – nơi sau khi Lý Nam Đế thua trận ở cửa sông Tô Lịch rút quân về đóng ở Đại Mỗ được nhân dân giúp đỡ. Khi ông mất nhân dân nhớ ơn lập đền thờ, sau tôn làm Thành hoàng. Trong đình còn đôi câu đối: “Cửu Đức khai cơ, văn võ toàn tài thành kiệt xuất _________________ (1). Xem Khâu Đà La..

<span class='text_page_counter'>(64)</span> Vạn xuân kiến hiệu anh hùng chung sự thượng dư thanh” Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Lịch Triều Hiến chương loại chí, Việt sử thông giám cương mục, Việt điện u linh thì quê hương Lý Bí thuộc Thái Bình, phủ Long Hưng(1). Ông là con một nhà hào tộc, có tài văn võ, làm chức Giám quân ở chuâ Cửu Đức. Thấy Thứ sử Giao Châu Tiêu Tư tàn bạo, ông liên kết với hào kiệt mấy châu để khởi nghĩa. Có người tù trưởng Châu Diên là Triệu Túc cùng con trai là Triệu Quang Phục đưa quân bản bộ tới đầu tiên, kế đó là Phạm Tu cũng là một tướng tài. Tinh Thiều là người học rộng, thông thái cũng tham gia cuộc khởi nghĩa. Sau tết Nguyên đán năm Canh Thân (540), Lý Bí để lại một số quân bí mật giữ các căn cứ ở châu Giã Năng, huyện Chu Diên, Tân Xương, Gia Ninh, còn điều động phần lớn quân về cánh rừng rậm ở làng Lưu Xá, Giang Xá, Lũng Kênh, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Hồi còn trẻ Lý Bí được Thiền sư ở chùa Linh Bảo, Giang Xá nuôi dạy mười năm, quen biết rất nhiều chùa, nay ông còn dựa vào các chùa để xây dựng căn cứ bí mật. Ông giao cho các tướng luyện tập quân sĩ, xây dựng cơ sở sản xuất vũ khí cung cấp cho nghĩa quân. Nhân dân còn giúp nghĩa quân sản xuất lương thực để tự túc một phần quân lương. Đóng quân ở Lưu Xá tuyển quân, huấn luyện quân, trang bị vũ khí trong hơn một năm, đến cuối năm Tân Dậu (541) Lý Bí tuyển thêm được 3000 quân nữa. Sau tết Nguyên đán Nhâm Tuất (542), Lý Bí tuyển quân kén tướng thông qua các hội vật. Một mặt ông tích cực chuẩn bị lương khô bằng các loại bánh để quân sĩ ăn khi ra trận. Ngày 10 tháng 3 năm Nhâm Tuất (10-1-542) ông tiến công quân Lương ở châu Giã Năng. Mới ra quân trận đầu, quân Lương đã không chống đỡ nổi. Thừa thắng Lý Bí đưa quân về bao vây phủ thành Long Biên (2). Tiêu Tư hoảng sợ bỏ cả vàng bạc châu báu chạy về Trung Quốc. Sau những ngày kinh hoàng, tháng 4 – 542, vua Lương Võ Đế sai Thứ sử Trần Hầu, Lý Tri sang đánh phản kích. Lý Bí chỉ huy tướng sĩ đập tan cuộc phản kích này, bảo toàn lãnh thổ. Tháng 4 năm Quý Hợi (543) vua Lương lại cho quân phản kích lần thứ hai. Chúng còn tập trung ở Hợp Phố, Lý Bí tập trung quân đánh lớn vào bán đảo Hợp Phố. Quân tấn công mãnh liệt, quân Lương mười phần chết bẩy, tám phần. Bọn tướng chỉ huy bị giết chết, những ___________________ (1). Về quê hương Lý Bí nay còn tranh luận. Theo Minh Tú Nghiên cứu lịch sử tháng 1 – 1991 thì quê ông ở ấp Thái Bình, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, Thái Nguyên thuộc châu Giã Năng, trấn Kinh Bắc xưa. Nguyễn Bính cũng viết trong “Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ truyền” thì vùng quê Lý Nam Đế ở châu Giã Năng. Nhưng ngọc phả đền Kim Giao, Tiên Lãng, Vĩnh Phúc cũng do Nguyễn Bính soạn lại viết quê Lý Bí ở miền đất Long Biên. (2) Phía Nam thị xã Bắc Ninh..

<span class='text_page_counter'>(65)</span> tên sống sót chạy về Trung Quốc cũng bị vua Lương giết. Vừa đánh xong quân Lương ở phía Bắc là tháng 5 năm 543, vua nước Chăm Pa đem quân ra đánh phá Châu Đức, Lý Bí phái Phạm Tu vào đánh, chỉ một trận phá tan giặc. Khởi nghĩa Lý Bí giành được toàn thắng, năm Giáp Tý (544), mùa xuân, tháng giêng, Lý Bí xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân, đặt ra trăm quan, lấy Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều đứng đầu hàng văn, Phạm Tu đứng đầu hàng võ, Triệu Quang Phục làm Tả tướng quân. Không cam chịu thất bại nhục nhã sau ba lần thất bại thảm hại, tháng 6 năm Ất Sửu (545), nhà Lương sai Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm Tư mã đem quân sang xâm lược nước Vạn Xuân. Vua Lương lại sai Thứ sử Giao Châu (có bản chép là Quảng Châu) là Tiêu Bột hội quân với Phiêu ở Giang Tây. Bột biết quân sĩ sợ đi đánh xa vì thế nói dối để giữ Phiêu ở lại. Phiêu họp các tướng lại hỏi kế, Trần Bá Tiên nói: “Giao Châu làm phản là tội do người trong tôn thất để cho (giặc cướp) gây biến loạn ở mấy châu mà trốn tránh tội chết hàng mấy năm nay. (Thứ sử) Giao Châu chỉ muốn tạm yên trước mắt, không nghĩ đến kế lớn. Đã nhận mệnh đi đánh kẻ có tội, sống chết cũng vì việc đó, há lại có thể dùng dằng không tiến để đợi giặc mạnh lên, cản trở quân ta hay sao?” Thế rồi Bá Tiên dẫn quân đi trước, Phiêu lấy Bá Tiên làm quân tiên phong. Quân Lương rất mạnh, Trần Bá Tiên lại là viên tướng có tài thao lược, tướng bách chiến, bách thắng(1). Lý Nam Đế mới khởi binh, trải qua ba lần chống quân Lương, một lần chống quân Chăm Pa, lực lượng bị tiêu hao, chưa kịp bổ sung. Quân Trần Bá Tiên kéo sang lại đông và mạnh, nên trong trận đánh ở Chu Diên, quân của Lý Nam Đế thua to. Lý Nam Đế phải rút quân về xây dựng thành lũy ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) chống nhau với Bá Tiên. Trần Bá Tiên đưa quân thiện chiến công phá thành, quân Lý không giữ nổi, thành vỡ, Đại tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế phải rút lui về giữ thành Gia Ninh (Việt Trì). Tháng giêng năm Bính Dần (546), bọn Dương Phiêu tập trung binh lực hạ thành Gia Ninh. Cuối tháng 2 năm 546 thành vỡ, vua phải chạy vào động Khuất Lão ở Phú Thọ. Tại đây vua được đồng bào các dân tộc Di, Lão ủng hộ gia nhập quân đội, cung đốn lương thực, đóng chiến thuyền. Tháng 10 năm 546, Lý Nam Đề lại kéo binh thuyền ra đóng ở hồ Điển Triệt (Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Thuyền chiến của vua đậu kín mặt hồ. Quân Lương sợ không dám tiến quân vào đánh. Trần Bá Tiên cũng hoang mang nói với: ___________________ (1). Khi Bá Tiên được triệu về dẹp Hầu Cảnh, sau đó đã diệt nhà Lương lập ra nhà Trần..

<span class='text_page_counter'>(66)</span> “Quân ta ở lâu, không có quân tiếp viện, đi sâu vào đất người, nếu như một trận mà không thắng thì còn mong gì sống. Nay nhằm lúc địch thua chạy, lòng người chưa cố kết, chính là lúc cần phải bỏ hết sức, liều chết mà giành lấy, không thể vì cớ gì đó mà ngừng lại, thời cơ sẽ qua mất”. Các tướng không ai hưởng ứng. Bỗng đêm hôm ấy, nước sông Lô đột nhiên lên cao tới bẩy thước, chảy như trút vào trong hồ. Trần Bá Tiên mừng rỡ chớp ngay lấy thời cơ để chuyển từ nguy cơ bị thất bại thành thắng, liền đem bộ thuộc theo dòng nước đánh tràn vào hồ. Vua cậy có thuyền nhiều, quân mạnh, đóng nơi hiểm yếu, không có phòng bị nên bị tan vỡ nhanh chóng đành phải lui về động Khuất Lão, giao binh quyền cho đại tướng quân Triệu Quang Phục đánh quân Lương. Tháng giêng năm Đinh Mão (547), Triệu Quang Phục chỉ huy 20.000 quân cầm cự với Trần Bá Tiên chưa phân thắng bại, vì quân Bá Tiên rất đông, lại thiện chiến, Quang Phục liệu thế không đánh được liền rút về đầm Dạ Trạch thực hiện chiến tranh du kích. Đến tháng 4 năm mậu Thìn (548), Lý Nam Đế mất ở động Khuất Lão vì nhiễm phải khí độc bị bệnh(1). Nghe tin, Triệu Quang Phục lên ngôi vua là Triệu Việt Vương. ĐẠI TƯỚNG LÝ CÔNG TUẤN Làng Trâu Tảo, huyện Gia Lâm thờ ông Lý Công Tuấn làm Thành hoàng. Ông Lý Công Tuấn quê ở làng Cổ Sở phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây cùng quê với Lý Phục Man. Ông theo cha mẹ di cư đến làng Trâu Tảo từ khi còn nhỏ. Từ nhỏ ông đã thông minh học văn, võ đều giỏi. Ông thường bênh vực kẻ yếu, trừng trị kẻ bóc lột, ức hiếp người lương thiện, được nhân dân trong vùng quý trọng. Tuy ông trừng trị kẻ ác, nhưng tính tình lại khoan dung đại độ, hiếu đễ, anh hùng. Năm ông 28 tuổi, cha mẹ đều mất, một mình ông sống ở Trâu Tảo. Lúc này không bận bịu công việc gia đình, ông đã tập họp những người cùng chí hướng, dạy võ cho họ thành lập đội dân binh đánh cướp và quân lính nhà Lương thường đến nhũng nhiễu dân làng. Nhân dân quý trọng Lý Công Tuấn, tôn làm “Ông Trưởng”. Từ đó tiếng tăm ông lừng lẫy, bọn đô hộ nhà Lương nhiều lần cho quân đến đàn áp đều bị ông chỉ huy dân làng và dân binh đánh tan, nên giặc cướp đều sợ không dám bén mảng tới. __________________ (1). Sử nhà Lương chép vua ở động Khuất Liêu bị người trong động giết, cắt tai dâng cho nhà Lương là xuyên tạc lịch sử..

<span class='text_page_counter'>(67)</span> Ông tích trữ lương thảo, mua sắm khí giới, ngựa tốt thường tiến đánh những đồn binh nhỏ, phục kích quân Lương, thanh thế ngày càng lớn. Lý Bí khởi nghĩa liền cho người đến mời ông tham gia. Lý Công Tuấn đã đưa quân sỹ đến chiến đấu dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc của Lý Nam Đế. Khi gia nhập cuộc khởi nghĩa, ông đã có hơn 2000 quân thiện chiến, được trang bị vũ khí, quân của ông chiến đấu dũng cảm và có kỷ luật. Sau khi Lý Bí lên ngôi vua, ông vẫn phục vụ dưới triều Tiền Lý Nam Đế và hy sinh trong một trận đánh không cân sức với quân Trần Bá Tiên. Thương tiếc người anh hùng cống hiến cả cuộc đời cho dân cho nước, nhân dân Trâu Tảo lập đền thờ, sau tôn ông làm Thành hoàng thờ ở đình. Cùng với Trâu Tảo còn có 37 nơi lập đền thờ và tôn ông là Thành hoàng. Ở các xã vùng Gia Lâm có lời thơ ca ngợi Lý Công Tuấn như sau: “Sinh vi danh tướng, tử vi thần, Vận đại hương yên tại xã dân Hộ quốc bảo dân thiên cổ tại Tịnh đồng sơn hải vĩnh vô nhân Tạm dịch: “Sông là tướng giỏi, chết làm thần Muôn thưở khói hương tại xã dân Giúp nước, giúp dân còn ghi đó Ơn bằng sông núi biết bao người”. NGUYỄN BẢO – NGUYỄN MINH Làng Tứ Tổng, (xưa là đơn vị xã) có năm thôn là Vạn Ngọc, Ngọc Xuyên, Tam Lạc, Nội Châu, Ngoại Châu. Vùng này xưa gọi là trang Bảo Châu. Đến năm 1961 Tứ Tổng hợp nhất với Liên Châu thành xã Tứ Liên, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội, nay là phường Tứ Liên, quận Tây Hồ thành phố Hà Nội. Làng Tứ Tổng có đình và chùa. Đình thờ hai anh em ông Nguyễn Bảo, Nguyễn Minh, chùa thờ Phật và thờ thần Ngô Văn Long, tướng của Hùng vương thứ 18 đã có công chống giặc Hồ Lư xâm lược vùng Châu Hoan (Nghệ An – Hà Tĩnh). Ông Nguyễn Bảo và ông Nguyễn Minh là an hem sinh đôi và cô em gái là Nguyễn Thị Ý (còn có tên là Hạnh) sinh ra vào thời đất nước ta thuộc nhà Lương đô hộ, quê ở trang Đồng Lục, phủ Khoái Châu, đến ở với mẹ nuôi ở Xuyên Bảo trang là tên cũ của Tam Bảo Châu. Hai ông Bảo và Minh thông minh lại có sức khỏe hơn người, đã kiên trì học cả văn lẫn võ. Chẳng bao lâu cả hai ông đều làm nghề dạy học, ông Nguyễn Bảo dạy ở Bảo Châu, ông.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> Nguyễn Minh dạy ở Nghi Tàm. Còn Nguyễn Thị Ý thì trồng dâu, chăn tằm rất giỏi. Vua Lý Nam Đế đánh đuổi Tiêu Tư lập ra nhà nước Vạn Xuân. Vừa đánh đuổi được Tiêu Tư thì Chiêm Thành sang xâm phạm bờ cõi, vua Lý Nam Đế sai tướng Phạm Tu đi đánh dẹp. Hai anh em Nguyễn Bảo, Nguyễn Minh chiêu mộ quân tình nguyện theo tướng Phạm Tu đi đánh dẹp giặc Chiêm Thánh. Phạm Tu đánh Chiêm thắng lợi khi trở về qua trang Bình Lãng ở huyện Bạch Hạc thì bị cơn bão to, cả hai ông đều hóa còn Nguyễn Thị Ý (tức Hạnh) vào một buổi trưa đang làm cỏ trên nương dâu thì bị nước lũ cuốn đi. Cư dân Tam Bảo Châu vớt được thi thể, thấy trên trán có hình chén ngọc mới chôn cất tử tế, gọi khu đó là “Mả bà Chén”. Làng Tứ Tổng nhớ công ơn hai ông Nguyễn Bảo, Nguyễn Minh với làng với nước, tôn làm Thành hoàng thờ ở đình Tứ Tổng. TRIỆU VIỆT VƯƠNG Làng Uy Nỗ nay là xã Uy Nỗ huyện Đông Anh thờ An Dương Vương và Triệu Việt Vương làm thành hoàng. Triệu Việt Vương, húy Quang Phục là con tù trưởng Triệu Túc ở vùng Chu Diên, đã đứng lên hưởng ứng sớm nhất cuộc khởi nghĩa năm Tân Dậu (541), do Lý Bí lãnh đạo, thu được thắng lợi nhanh chóng, không đầy ba tháng mà đã quét sạch lũ đô hộ nhà Lương. Tháng giêng, mùa xuân năm Giáp Tý (544), Lý Bí xưng Nam đế (vua nước Nam), đặt tên nước là Vạn Xuân (đất nước vạn mùa xuân), lấy niên hiệu là Thiên Đức, phong Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều đứng đầu hàng văn, Phạm Tu đứng đầu hàng võ, phong Triệu Quang Phục là Tả tướng quân. Năm Ất Sửu (545), nhà Lương sai các danh tướng Dương Phiêu và Trần Bá Tiên mang đại quân sang xâm lược nước ta. Vua Lý Nam Đế mang quân chống cự, bị bất lợi, lui về đóng ở động Khuất Lão rồi bị bệnh nặng. Vua trao quyền cho Tả tướng quân Triệu Quang Phục. Tả tướng quân Triệu Quang Phục không lập căn cứ ở nơi rừng núi hẻo lánh, ông đem quân về đầm Dạ Trạch giữa vùng đồng bằng đông dân trù phú. Dạ Trạch là khu đầm lầy, thuộc huyện Khoái Châu, bên quãng sông Hồng chảy ven đất Hưng Yên. Theo sử sách xưa, đầm Dạ Trạch “to rộng và sâu khôn ước lượng”, “bốn mặt bùn lầy, người ngựa không đi được, chỉ dùng thuyền độc mộc nhỏ, đẩy bằng sào, lướt trên nước và cỏ. Nếu lỡ ngã xuống nước thì bị rắn cắn chết”..

<span class='text_page_counter'>(69)</span> Dựa vào địa thế hiểm trở, ông cầm cự với giặc Lương gần ba năm. Mọi người suy tôn là Dạ Trạch vương”. Một hôm, Dạ Trạch vương thấy có rồng vàng tháo móng chân cho và bảo cài lên mũ đâu mâu. Quân giặc trong thấy, tự nhiên sợ phục. Từ khi được móng rồng, Dạ Trạch vương đánh trận nào cũng thắng, nên có câu: Long trảo chi mâu nhất chỉ uy chấn Bắc Lương Nghĩa là: Mũ đâu mâu móng rồng thẳng trỏ, oai thần rung động Bắc Lương. Năm 548, Trần Bá Tiên về phương Bắc, lưu phó tướng Dương Sàn ở lại Giao Châu, Dạ Trạch vương đem quân đánh Sàn. Sàn thua và bị giết: Triệu Quang dậy chí anh hùng Đầu đội vuốt rồng giữa trận xông pha Trong tay cầm cái kim qua Chỉ trời trời huyệt, chỉ tà tà tan Ba hồn bảy vía Dương Sàn. Người còn nước Việt, hồn hoàn bên Ngô Ba quân giận sự triệt Hồ Mấy thằng răng trắng, giết hòa sạch không Đồng bằng thây cỏ chật đồng Đứa co như dế, đứa xông như cò Bao nhiêu khí giới thằng Ngô Chất cao điệp điệp, xếp thu muôn vàn Phong trần bốn bể võ an Xe thư một mối giang san vẹn toàn… (Thiên Nam ngữ lục) Một lần nữa, nhân dân ta quét sạch bọn xâm lược nhà Lương, giành độc lập. Dạ Trạch vương xưng là Việt vương, đóng đô ở Long Biên. Bấy giờ, anh vua Lý Nam Đế là Thiên Bảo, khi Nam Đế thua, Thiên Bảo cùng người họ nhà Lý Phật Tử đem quân vào Cửu Chân. Trần Bá Tiên đuổi đánh, Thiên Bảo thua, chạy sang đất Ai Lao, thấy động Dã Năng ở đầu nguồn sông Đào Giang đất rộng màu tốt, mới đắp thành để ở, xưng là Đào Lang vương. Năm Ất Hợi (555) Đào Lang vương mất, Lý Phật Tử đem quân xuống miền Đông đánh nhau với vua không được, mới giảng hòa xin thề. Vua nghĩ tình Lý Nam Đế, mới chia địa giới ở bãi Quần thần, cho Phật tử ở phía Tây. Nên có câu: Ô-Diên chi giới lưỡng quân nghĩa tồn Nam Lý. Nghĩa là: Ô-Diên địa giới chia đôi vì chút nghĩa để còn nhà Nam Lý..

<span class='text_page_counter'>(70)</span> Sau Phật Tử cho con là Nhã Lang xin lấy con vua là Cảo nương. Tướng quân Trương Hống và Trương Hát can vua không nên thông gia với họ Lý. Vua không nghe, cho Nhã Lang ở rể. Một hôm, Nhã Lang hỏi vợ rằng: - Trước vua cha chúng ta cừu thù với nhau, nay là thông gia, cũng do lòng trời tác hợp mới được duyên lạ như thế này. Năm trước hai nước đánh nhau, vua cha binh cơ thần diệu hơn hẳn cha ta. Không hiểu cha nàng có thuật gì mà lui được quân của cha ta? Cảo nương vốn là phận đàn bà kim chỉ, làm sao hiểu được thói đời sóng gió, lật lọng, liền lấy mũ đâu mâu của cha cho chồng xem, kể rõ đầu đuôi và nói: - Vua cha Thiếp xưa nay thắng kẻ địch là nhờ có vật này. Nhã Lang ngấm ngầm thay móng rồng cùng điều tra được sự bố phòng của Triệu Việt vương và các bí mật quân sự khác rồi bảo Cảo nương: - Ta làm phò mã đã lâu, nay nhớ đến cha mẹ. Há lại có thể say tình chăn gối mà bỏ phận sớm tối ngọt bùi. Ý ta muốn định tạm về vấn an cha mẹ thì mới tỏ được chí nguyện. Chỉ ngại rằng đường xá xa xôi, đi lại vất vả, không thể sớm đi mà tối đến được. Tan thì nhiều, tụ lại thì ít, buồn đau sao kể xiết. Sau khi ta về nước, nếu có điều gì không lành xẩy ra, nàng đi theo vua cha đến nơi nào thì rắc lông ngỗng để dễ cho việc tìm kiếm của ta. Nhã Lang đem vuốt rồng đưa cho cha là Lý Phật Tử rồi bội ước kéo quân đến đánh Triệu Việt vương. Quân Lý Phật Tử đi vào đất Triệu Việt vương như vào chỗ không người vì nhà vua mất cảnh giác không phòng bị gì. Triệu Việt vương đội mũ đâu mâu ra trận, nhưng thần co đã bị tước mất, binh khí không thể phấn chấn được. Nhà vua tự biết mình không chống đỡ nổi, dắt con gái chạy về phía Nam, muốn tìm chỗ đất hiểm để trốn tránh. Quân Lý Phật Tử bám sát theo gót. Nhân đến một chốn châu phủ, nghỉ để lấy hơi, thì người tùy tùng lại báo - Quân Nam Đế đã đến rồi! Vua và tùy tùng liền chạy tiếp về phía Nam, giờ Ngọ ngày 13 tháng 8, đến làng Hư Tả, nay là thôn Giang Tả, xã Nam Toàn, huyện Nam Ninh, gặp cánh đồng nước, vua dừng quân lại dùng cơm gạo tám thơm do dân làng Hư Tả dâng đợi, dân tìm thuyền chở qua làng Bái Trạch, đóng quân một đêm ở vùng này. Hôm sau dân làng Hư Tả đưa thuyền chở vua qua cánh đồng ngập nước mênh mông qua làng Thiên Đãng rồi đến làng Vụ Ngoại, đến cửa Đại Nha thì gặp biển nghẽn đường. Quân Lý Phật Tử ba mặt đuổi đến gần kịp. Vua mới hô to lên rằng: “Hoàng Long thần vương không giúp ta sao?” Bỗng rồng vàng nổi lên chỉ vào Cảo nương mà nói: - “Chẳng phải ai đâu. Chỉ vì con gái vua là Cảo nương rắc lông ngỗng.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> dẫn đường cho địch. Đó chính là quân ác tặc, không giết còn chờ gì nữa”(1). Nhà vua quay lại vung kiếm chém con gái chìm xuống nước. Nhà vua chạy đến cửa biển Tiểu Nha, nghẽn lối lại quay trở về, nhằm phía Đông đến cửa biển Đại Nha than rằng: “Ta đến đây cùng đường rồi!” Bỗng thấy rồng vàng rẽ nước thành đường mà dẫn đi. Nhà vua đi vào nước, nước khép lại như cũ. Vua mất ngày 14 tháng 8 năm Canh Dần (570), ở ngôi vua 22 năm. Nhân dân nhớ công đức của nhà vua đánh giặc Lương đem lại nền độc lập cho dân tộc. Được tin Người tuẫn tiết, nhân dân ở Dạ Trạch nơi Người lập căn cứ chống quân Lương, nơi từng là kinh đô kháng chiến do Người lãnh đạo và những nơi Người đóng quân, đi qua như An Vĩ, Đa Hòa, Bùi Xá, Bằng Ngang, (Hưng Yên), Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hà Nội là những nơi quê hương nhà vua, nơi nhà vua đã đánh trận, những nơi được ân huệ của nhà vua đều lập đền thờ, tôn làm thành hoàng, trong đó có làng Uy Nỗ, huyện Đông Anh thờ nhà vua cùng với Vua An Dương vương. NHỊ VỊ ĐỨC THÁNH TAM GIANG Xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm có ba làng Đăm là Đăm Thượng, Đăm Giữa và Đăm Hạ. Tây Tựu có sông Nhuệ chảy qua đến Tây Đàm (tên cũ của Đàm Thượng) thì phình rộng ra thành cái đầm dài gần một cây số từ Đăm Thượng đến Đăm Giữa. Xã Tây Tựu thờ thần Bạch Hạc Tam Giang Trương Hống, Trương Hát. Theo truyền thuyết thì một người làng đánh cá lên ngã ba Hạc rước bài vị thần Tam Giang về thờ trên ngôi miếu ở bờ sông Nhuệ. Vào thời nhà Lương đô hộ nước ta, ở trang Văn Mẫu có người đàn bà nghèo, luống tuổi mà không có chồng. Tuy vậy bà là người nhân hậu, chuyên làm việc thiện. Một hôm bà ra sông tắm thì có con rắn cuốn vào người, cảm động rồi mang thai. Tới kỳ mãn nguyệt khai hoa, bà đẻ ra một cái bọc có năm trứng, nở ra bốn con trai và một con gái, bà đặt tên là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và một người con gái. Bốn chàng trai và cô gái ở vào tuổi niên thiếu thì mẹ qua đời, vì nhà nghèo anh em chỉ đủ tiền mua một cỗ áo quan không có đầu chốc rồi chờ đêm tối mấy anh em khiêng mẹ ra đồng chôn. Khiêng qua cổng làng dông tố nổi lên, mưa to gió lớn không nhìn rõ đường đi, anh em đành phải trở về nhà trời tạnh mưa ra khiêng đi an táng. Sáng hôm sau ba anh em Trương Hống ra đến nơi thì mối đã đùn lên thành ngôi mộ lớn. Mùa xuân năm 542, đại khởi nghĩa do Lí Bí lãnh đạo nổ ra, đánh đuổi _____________________ (1). Mô típ này giống Mỵ Nương..

<span class='text_page_counter'>(72)</span> Tiêu Tư giành được độc lập. Năm 545 nhà Lương cử Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược nước ta. Lý Nam Đế đem ba vạn quân ra chống giặc ở Chu Diên bị thua, Lý Nam Đế lui quân về cửa sông Tô Lịch xây dựng thành lũy chống giặc. Đại tướng Phạm Tu tử trận, Lý Nam Đế lui quân về giữ thành Gia Ninh (Việt Trì). Tháng 2 năm 547 thành Gia Ninh vỡ, Lý Nam Đế phải chạy vào động Khuất Lão, chiêu mộ thêm quân, đến tháng 10 năm 546 kéo quân ra hồ Điển Triệt thuyền đỗ đầy mặt hồ, quân Lương lo sợ. Đột nhiên nước sông Lô dâng cao, nước chẩy như rót vào hồ, Trần Bá Tiên thúc quân đánh, Lý Nam Đế không kịp phòng bị, nghĩa quân tan vỡ. Sau trận thất bại này, Lý Nam Đế giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục chỉ huy hơn hai vạn quân, còn số quân cũng lớn như thế do Lý Thiên Bảo chỉ huy đã chạy vào Cửu Chân (Thanh Hóa). Triệu Quang Phục đánh có trận thắng, trận thua, Trương Hống, Trương Hát gia nhập đạo quân này. Trải qua hơn mười năm dày công rèn luyện võ nghệ, đọc binh thư, nay các ông đem ra ứng dụng cho cuộc chiến tranh chống ngoại xâm có nhiều kết quả, khiến quân Lương phải khiếp sợ khi nhắc tới Nhị vị Trương tướng quân này. Nhưng quân chúng đông, quân ta không thắng nổi. Một đêm bỗng thấy một người con gái đi vào tự xưng là người giữ ngôi chùa ấy. Người con gái đó nói với hai viên tướng họ Trương rằng: “Nếu hai vị muốn giúp Triệu Quang Phục tiêu diệt giặc Lương chỉ có cách kéo quân về đầm Dạ Trạch ở huyện Chu Diên, đạo Sơn Nam(1) mà dùng mai phục kế”. Nói xong biến mất, Trương Hống, Trương Hát giật mình tỉnh giấc mới biết là chime bao, hai ông nghĩ rằng âu cũng là lòng trời nên mới cho thần báo mộng, hai tướng lập tức thuật lại chuyện trên với chủ tướng. Triệu Quang Phục nghe xong nói: “Ta biết vùng đó, chính ta cũng có ý định đó, chưa kịp bàn với các tướng”. Nói xong, Triệu Quang Phục quyết định đưa toàn quân bí mật hành quân về đầm Dạ Trạch. Đầm Dạ Trạch (còn gọi là bãi Mạn Trò) là một vũng đầm lầy rất rộng, cây cỏ um tùm, ở giữa có bãi đất nổi, có thể ở được. Đường đi vào bãi rất kín đáo, chỉ có dùng thuyền độc mộc nhẹ lướt trên đám cỏ nước mới tới được. Triệu Quang Phục đóng quân ở bãi nổi, chia các tướng đi đóng giữ các vị trí hiểm yếu ở chung quanh căn cứ. Ban ngày quân tắt hết khói lửa, im hơi lặng tiếng như không có người, đến đêm nghĩa quân mới kéo thuyền ra đánh úp trại quân Lương. Đại tướng Triệu Quang Phục giao cho Trương Hống, Trương Hát về xây dựng đồn trại ở vùng sông Cầu (Bắc Ninh). Hai ông xây dựng căn cứ và chuyển sang lối đánh nhỏ, đánh lẻ. Nghĩa quân dần dần khôi phục được lực lượng, gây cho địch một số thiệt hại, lấy được nhiều lương ____________________ (1). Địa danh thời Lê..

<span class='text_page_counter'>(73)</span> thực, khí giới và giữ vững được cuộc chiến đấu lâu dài. Năm Mậu Thìn (548), Lý Nam Đế mất ở động Khuất Lão, các tướng đề nghị Triệu Quang Phục lên ngôi vua. Trần Bá Tiên cho quân bao vây triệt đường tiếp tế của nghĩa quân, nhưng chính bọn này lại bị nghĩa quân tiêu diệt. Gặp lúc nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, vua Lương gọi Bá Tiên về nước để phó tướng Dương Sàn ở lại. Triệu Việt Vương cùng các tướng Trương Hống, Trương Hát… tung quân ra đánh, giết chết Dương Sàn giải phóng đất nước. Khi đó Lý Thiên Bảo chết, Lý Phật Tử nối ngôi. Năm 557 Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt vương mãi không được liền xin giảng hòa. Triệu Việt vương nhận lời cắt đất cho Lý Phật Tử, lại gả Cảo nương cho Nhã Lang và cho ở rể. Trương Hống, Trương Hát và các tướng can ngăn, Triệu Việt vương không nghe. Nhã Lang dò xét bí mật quân sự, lấy trộm vuốt rồng trên mũ đâu mâu rồi báo cho cha. Năm 571, Lý Phật Tử đem quân đánh úp Triệu Việt vương, Triệu Việt vương không phòng bị nên bị thua, bỏ kinh thành chạy, đến cửa biển Đại An cùng đường nhảy xuống biển tuẫn tiết. Ngay sau khi khuyên can Triệu Việt vương không hòa với Lý Phật Tử không được, Trương Hống, Trương Hát từ quan về ở ẩn trong vùng rừng núi, sau đó các ông về làng Diềm, tên xưa là Viêm Xá thuộc xã Hòa Long, huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh phá rừng khai hoang làm ruộng, đến nay còn di tích như “Đồng mặt gương” là các ông san ruộng phẳng như mặt gương. Giết Triệu Việt vương, Lý Phật Tử lên ngôi vua gọi là Hậu Lý Nam Đế. Phật Tử biết hai ông là người có tài vời ông ra làm quan, hai ông từ chối không chịu hợp tác với kẻ phản bội. Lý Phật Tử hai, ba lần cho người đến thúc ép hai ông về làm quan cho nhà Hậu Lý Nam Đế, hai ông liền lên Đu, Đuổm ở huyện Phú Lương, Thái Nguyên sinh sống. Sau khi Lý Phật Tử cướp ngôi nhà Triệu dân tình không phục, đất nước rối ren, Lý Phật Tử lại cho người lên Đu, Đuổm nài ép ông về làm quan, ông vẫn không chịu về. Không dụ dỗ được hai ông, Lý Phật Tử đe dọa: “Nếu không chịu ra làm quan thì hai người phải tự tử”. Trương Hống, Trương Hát vẫn giữ vững ý chí trung thành với Triệu Việt vương, không chịu cộng tác với Lý Phật Tử. Các ông thà chọn cái chết để giữ vững lòng chung thủy của mình, hai ông liền đóng một chiếc thuyền độc mộc, đục sẵn lỗ ở đáy, nhét giẻ vào rồi xuôi theo dòng sông Cầu để về hóa ở quê hương bản quán. Tới đoạn sông Như Nguyệt nơi hợp lưu với sông Cầu, sông Cà Lồ, đây còn gọi là Tam Giang, hai ông rút nút bịt đáy thuyền cho nước chảy vào, hai ông hóa. Sau khi hai ông hóa được Ngọc hoàng phong làm Long quân phó sứ cai quản dọc vùng sông Cầu. Sau khi hai ông mất, dân cư dọc sông Cầu và rất nhiều nơi thờ ông. Riêng ở Bắc Ninh hầu như các làng dọc sông Cầu như.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> làng Diềm, Phùng La Đoài, Phùng La Đông, Yên Phụ… ở Bắc Ninh, làng Mai Đỉnh ở Hiệp Hòa, Bắc Giang… các làng thuộc tổng Đan Tảo và Yên Tăng phủ Đa Phúc tỉnh Phúc Yên đều thờ hai ông làm Thành hoàng. Nhiều đình làng còn thờ cả bốn anh em ông là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy. Sau khi hai ông hóa, hai ông đã âm phù cho nhiều triều đại đánh thắng giặc xâm lược như hai vị đã phù Lê Đại Hành đánh Tống, phù Lý Thường Kiệt phá Tống trên sông Như Nguyệt. Truyền thuyết kể rằng Lý Thường Kiệt xây dựng phòng tuyến sông Cầu để đánh chặn quân Tống không cho chúng vào Thăng Long. Thái úy Lý Thường Kiệt ngủ ở đình Yên Phụ bỗng có hai ông già đi vào nói rằng: “Ta là Thánh Tam Giang Thành hoàng làng này, xin âm phù tướng quân đánh thắng giặc”. Lý Thường Kiệt làm lễ bái tạ thần rồi đem quân đánh giặc. Quân Tống kéo tới đóng ở bờ Bắc sông Như Nguyệt. Hồi đó sông Cầu chưa có đê, cây cối rậm rạp. Quân Tống vượt sông sang, quân Lý phục trong rừng và ruộng lúa tiêu diệt chúng, xác chết của chúng đầy đồng, nên mới có tên là: “Đồng bờ xác”. Quân nhà Tống do Quách Quỳ chỉ huy có hàng chục vạn quân và mấy chục vạn phu. Chúng sang ta đánh, chiến trận kéo dài cả tháng. Bỗng vào một đêm từ đền thờ Thánh Tam giang vang lên bài thơ: “Nam Quốc sơn hà, Nam đế cư Tiệt nhiên định thân tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” Dịch: Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời Cớ sao lũ giặc dám xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”. Lời thơ Thần đã kích động tướng sĩ hăng hái giết giặc lập công. Quân giặc đi bè, thuyền sang bị quân ta đánh tan rồi thừa thắng vượt sông Cầu đánh thẳng vào trại giặc. Quân Tống đại bại, bị tiêu diệt quá nửa. Quân Tống ở vào thế quẫn bách “Tiến công thì không đủ sức, Đánh lại thì lo bị đánh nữa, rút thì sợ mất thể diện của “Thiên triều”. Nắm chắc tình hình địch, Lý Thường Kiệt chủ trương “không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu” nên chủ động đặt vấn đề điều đình. Quân Tống nhận lời ngay và xin rút. Mặc dù ta cho chúng rút nhưng chúng vẫn vô cùng khiếp đảm tháo chạy sang bên kia biên giới. Đất nước trở lại thanh bình, nhờ công lao Nhị vị Tôn thần âm phù đánh thắng giặc, vua nhà Lý đã sắc phong mỹ tự và tu sửa đền thờ..

<span class='text_page_counter'>(75)</span> Đình Đăm Thượng tương truyền là do bà Nguyễn Thị Tính người làng, là con Nghiễm quận công, bà lấy vua Lê Hy Tông (1676-1680) sinh được ba con là Lê Duy Đề, tước Thái Bảo, Ích quận công; con thứ hai là Lê Duy Hựu làm Đô Tổng binh, Du Quận Công, con thứ ba là Thông Mẫu công, ốm chết năm 18 tuổi. Khi vua Lê mất, bà Nguyễn Thị Tính về quê tậu ruộng, vườn, ao, làm đình để cung tiến cho xã. Đình xây theo kiểu cung điện rất đẹp. Hàng năm Tây Tựu tổ chức lễ hội từ ngày 8 đến ngày 10 tháng ba. Lễ hội Tây Tựu có thi bơi chải là một trò độc đáo ngay trên đầm làng. Dự thi có ba giáp Thượng, Trung, Hạ. Các giáp tự đóng lấy thuyền, thuyền dài tới 15 mét, cho 24 người bơi, một người chỉ huy, một ông đồ, ông cầm cờ, ông tát nước và người cầm lái. Cuộc thi bơi chải diễn ra trong suốt ba ngày hộ mỗi ngày hai lần vào buổi sáng và buổi chiều. Bơi chải ở Tây Mỗ nổi tiếng với câu ca: “Làng Đăm có hội bơi thuyền, Có lò đánh vật, có miền trồng rau” ĐÔ THỐNG NGUYÊN SOÁI TRIỆU CHÍ THÀNH Các làng Vòng ở huyện Từ Liêm, sau đổi ra là Vọng. Khi nhà vua đặt Trạm dịch trên đường Thiên Lý ở Vọng thì gọi là Dịch Vọng. Làng Dịch Vọng Tiền có 4 thôn là Tuệ, Tăng, Miễn, Vĩ, làng Dịch Vọng Trung có 3 thôn là Hà, Thọ, Tháp, mỗi thôn có một đình. Đình làng Pháp thờ Đô thống nguyên soái Triệu Chí Thành dưới triều Triệu Việt vương. Triệu Chí Thành cùng quê với Lý Bí, tham gia cuộc khởi nghĩa của Lý Bí đánh đuổi Tiêu Tư, sau đó tham gia cuộc kháng chiến chống Trần Bá Tiên, Dương Sàn. Sau khi Lý Nam Đế thất bại ở hồ Điển Triệt, ông không theo Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử chạy vào Thanh Hóa mà ở lại chiến đấu dưới sự chỉ huy của Đại tướng Triệu Quang Phục. Sau khi về vùng Dạ Trạch cùng chủ tướng xây dựng căn cứ, đánh tan nhiều cuộc vây hãm của quân Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy, Triệu Quang Phục phái ông đem 8000 quân ra đóng ở cửa sông Tô Lịch, vùng đất các làng Vọng hiện nay để làm thế ỷ dốc cho căn cứ Dạ Trạch và căn cứ Tiên Tảo, Đan Tảo, Yên Tăng thuộc huyện Đa Phúc, tỉnh Phúc Yên nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội của hai Đại tướng Trương Hống, Trương Hát. Đây là căn cứ nằm giữa hai căn cứ lớn của Dạ Trạch vương giữ mối liên lạc giữa hai căn cứ nên Trần Bá Tiên và Dương Sàn thường đem quân tới bao vây, tấn công. Song với tài dụng binh và được nhân dân vùng sông Tô Lịch giúp sức, Triệu Chí Thanh đánh tan nhiều trận tấn công của địch, có.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> trận Dương Sàn bị ông đuổi đánh phải cướp thuyền của dân vượt sông Hồng ở bến Bạc chạy sang vùng Mê Linh ngày nay. Ông được phong chức Đô thống nguyên soái. Khi Trần Bá Tiên phải về nước dẹp loạn Hầu Cảnh, Triệu Chí Thanh được Triệu Việt vương giao cho chỉ huy một cánh quân đánh phá các đồn trại của giặc đóng ở hữu ngạn sông Hồng, làm cho quân Lương phải cố thủ không đi cứu cánh quân của Dương Sàn được. Dương Sàn đã bị giết chết tại trận. Khi đất nước sạch bóng quân thù, Lý Phật Tử đóng ở động Dã Năng, cầu cứu quân Ai Lao về đánh Triệu Việt vương để cướp ngôi vua. Triệu Chí Thành đã liên tục đánh phá vùng Thượng Cát, Hạ Cát, nay thuộc huyện Từ Liêm, nơi Lý Phật Tử đóng đại bản doanh. Lý Phật Tử đánh Triệu Việt vương không được, liền làm gian kế giảng hòa cho con trai là Nhã Lang lấy con gái Triệu Việt vương là Cảo nương, lại xin ở rể để thực hành chiến tranh gián điệp, chia rẽ nội bộ vua tôi Triệu Việt vương. Triệu Chí Thành cùng các tướng can ngăn Triệu Việt vương không được liền từ quan về vùng Dịch Vọng nơi đồn trại cũ vui thú cảnh đồng ruộng, giúp dân phát triển sản xuất, dạy dân lễ nghĩa. Khi Triệu Chí Thành mất, nhân dân làng Tháp, nơi Triệu Chí Thành đóng quân và sống sau khi từ quan lập đền thờ sau tôn làm Thành hoàng. Trải qua biết bao biến thiên của lịch sử, đình Tháp vẫn tồn tại và được nhân dân tôn sùng. LÝ PHẬT TỬ Tại Hà Nội có nhiều nơi thờ Diêm La Đại vương Lý Phật Tử (1) như đình làng Dịch Vọng (Từ Liêm), làng Hạ Yên Quyết (Từ Liêm) có miếu thờ Lý Phật Tử. Ngôi miếu của bốn làng Mễ Trì Thượng, Mễ Trì Hạ, Nhân Mỹ, Đình Thôn cũng thờ Lý Phật Tử. Vua Lý Nam Đế thua trận ở hồ Điển Triệt, trao binh quyền cho Triệu Quang Phục rồi vào động Khuất Lão ở ẩn, sau bị sơn lam chướng khí mà mất. Trong khi Triệu Quang Phục rút quân về kháng chiến ở đầm Dạ Trạch thì Lý Thiên Bảo, Lý Phật Tử đem 30000 quân chạy vào miền Tây Nghệ An, Thanh Hóa. Lý Thiên Bảo chạy lên động Dã Năng giáp nước Lào, được quân sĩ tôn làm Đào Lang vương. Năm 555 Lý Thiên Bảo chết, quân sĩ tôn ______________________ (1). Miếu thờ Lý Phật Tử ở bốn làng Mễ Trí Thượng, Mễ Trì Hạ, Nhân Mỹ, Đình Thôn Ngọc phả để ở đình Mễ Trì Thượng. Về từ Diêm La còn có Diêm La Đế Thích, nên một số nơi thờ 2 vị này có sự lầm lẫn..

<span class='text_page_counter'>(77)</span> Lý Phật tử lên làm vua. Khi Triệu Quang Phục đánh thắng quân Lương lên làm vua, năm 557 Lý Phật Tử đưa quân về nước đòi Triệu Việt vương trả nước cho Lý Nam Đế. Triệu Quang Phục dàn quân đánh lại. Hai bên đánh nhau dữ dội ở vùng Chu Diên (Tả ngạn sông Hồng) và vùng Thái Bình ngày nay. Phật Tử đánh mãi đều thua, sợ Việt vương có phép thuật lạ, tương truyền đó là vuốt rồng do Chử Đồng Tử tiên ông ban cho gài trên mũ đâu mâu, nên vờ xin hòa. Triệu Việt vương nể tình Lý Phật Tử là dòng dõi Lý Nam Đế nên cho hòa, lại cắt đất cho, không nghe lời các tướng khuyên can. Mặt khác ông thấy nhân dân phải chịu sống đau khổ dưới ách cai trị của nhà Lương, chiến tranh liên miên, nên cũng muốn hòa. Hai bên làm lễ thề “cắt đất trông coi, đời đời giao hiếu”. Triệu Quang Phục cho Lý Phật Tử phần đất từ bãi Quân thần (nay là vũng Thượng Cát, Hạ Cát, Từ Liêm, Hà Nội) về phía Tây tức là vùng Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang và Tây Bắc bây giờ. Được giảng hòa, cắt đất, Lý Phật Tử lấn tới, dời căn cứ đến thành Ô Diên (nay là Hạ Mỗ) và cầu thân cho con trai là Lý Nhã Lang, lấy Cảo nương con gái Triệu Quang Phục và lại cho ở rể. Trong mười năm trời sống với Cảo nương, Nhã Lang đã ăn cắp được vuốt rồng gài trên mũ đâu mâu của Triệu Việt vương, nắm được hầu hết bí mật quân sự của Triệu Việt vương. Mặt khác Lý Phật Tử cũng đã xây dựng được quân đội hùng mạnh, trang bị hiện đại. Trong khi đó thì Triệu Việt vương mất cảnh giác không chấn chỉnh quân đội, bạc đãi công thần, có người còn bị Triệu Việt vương nghe lời con rể xúi giục đã bị hãm hại. Việc Nhã Lang đánh tráo vuốt rồng được các sách cổ ghi lại và truyền thuyết như sau: “Một hôm Nhã Lang bảo với vợ rằng: “Trước kia vua cha chúng ta cừu thù với nhau, nay là thông gia chẳng cũng hay lắm ư? Nhưng cha nàng có thuật gì mà làm lui được quân của cha tôi?” Cảo nương không biết ý xấu của chồng, lấy mũ đâu mâu của cha cho Nhã Lang xem. Nhã Lang bèn lập mưu đổi cái móng rồng ấy, rồi bàn với Cảo nương rằng: “Tôi nghĩ ơn sâu cha mẹ nặng hơn trời đất. Vợ chồng ta yêu quý nhau không nỡ xa nhau, mong nàng hãy cho tôi tạm dứt tình về thăm cha mẹ. Nhã Lang về cùng cha bàn cách đánh úp Triệu Việt vương. Lý Phật Tử đem đại quân bao vây và tiến công Long Biên. Triệu Việt vương ỷ vào mũ đâu mâu không phòng bị cẩn thận. Khi ra trận, mũ đâu mâu (đã bị đánh tráo móng rồng) không còn hiệu nghiệm, giặc cứ tràn vào truy bức. Thế cùng, lực tận, Việt vương một mình một ngựa chạy về phía Nam. Đến cửa biển Đại Nha (còn có tên là Đại Ác) sau đổi là Đại An, bị quân của Lý Phật Tử đuổi sát. Nhã Lang bị chết trong đám loạn quân còn Cảo nương không thấy nhắc đến..

<span class='text_page_counter'>(78)</span> Sự kiện trên xảy ra vào năm 571. Hàng động trên của Lý Phật Tử làm đất nước suy yếu. Năm 589, nhà Tùy diệt nhà Trần (do Trần Bá Tiên cướp ngôi nhà Lương lập ra). Sauk hi thống nhất Trung Quốc, nhà Tùy âm mưu đặt ách đô hộ trên đất nước ta. Lý Phật Tử thần phục nhưng vẫn quản lý đất nước. Năm 602, nhà Tùy gọi Lý Phật Tử về kinh đô chầu Hoàng đế. Lý Phật Tử biết về chầu tức là đầu hàng nên chống lại, sai cháu là Lý Đại Quyền đem quân trấn giữ thành Long Biên (Nam thị xã Bắc Ninh), sai tướng Lý Phổ Đính giữ thành Ô Diên (Từ Liêm, Hà Nội), còn tự mình phòng ngự ở thành Cổ Loa, Đông Anh. Đầu năm 603, nhà Tùy sai Lưu Phương đem quân theo đường Tây Bắc tiến đánh nước ta. Lý Phật Tử chặn đánh ở Đô Long (vùng Tụ Long xưa thuộc Tuyên Quang – Hà Giang, nay thuộc Quảng Tây, Trung Quốc). Quân Lý Phật Tử thua, Lưu Phương vây thành Cổ Loa bức Lý Phật Tử đầu hàng rồi đưa về Trung Quốc. Nước ta bị nhà Tùy cai trị, tiếp đó là nhà Đường, mãi đến năm 722 Mai Thúc Loan khởi nghĩa mới đánh đuổi được bọn thống trị nhà Đường về Trung Quốc. HOÀNG THÁI HẬU PHƯƠNG DUNG Sau khi đánh bại Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử nắm quyền cai trị đất nước. Năm 603 nhà Tùy sai Lưu Phương sang đánh, Lý Phật Tử chia tướng phòng giữ. Bị vây ở Cổ Loa, Lý Phật Tử đầu hàng. Hoàng Thái Hậu Phương Dung là người đàn bà kiên trinh bất khuất. Nguyên trước kia khi Lý Phật Tử đi tuần thú đến động Hương Sơn thì gặp một người con gái có sắc đẹp lạ thường, mặt hoa da phấn, tóc đen dài, mắt sáng long lanh như nước hồ thu, liền lấy làm vợ(1). Phương Dung sinh được một con trai, năm 602 lên ba tuổi, Lưu Phương đưa quân sang đánh Lý Phật Tử. Truyền thuyết vùng Dịch Vọng, Mễ Trì kể: “Lưu Phương cho quân đánh thành Ô Diên, Long Biên, Cổ Loa, Hoàng Thái Hậu Phương Dung và Hoàng tử được các tướng hộ giá chạy lánh nạn. Một hôm bà chạy tới bờ sông Tô Lịch ngang xã Dịch Vọng ngày nay thì quân giặc đuổi tới nơi, quan quân ra sức đánh nhưng đều bị giết chết, hai mẹ con Hoàng Thái Hậu trốn vào bụi rậm, bị quân Tùy bắt được. Chúng thấy bà xinh đẹp dụ dỗ đầu hàng, bà cự tuyệt bị chúng giết chết cả hai mẹ con. Vài ngày sau khi giặc rút, dân chạy đến nơi chúng giết bà để an táng cho hai mẹ con thì mối đã lấp cao thành một cái gò. Nhân dân cho là trời thương người ______________________ (1). Ngọc phả ở Quán Đôi thôn Dịch Vọng, nay để ở chùa Dịch Vọng.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> phụ nữ kiên trinh, dũng cảm nên đã “thiên táng” và lập đền thờ gọi là Quán Đôi(1). Quán Đôi nay đã bị phá, nhân dân đem đồ tế tự đến để ở điện mẫu chùa Duệ, làng Dịch Vọng Tiền. Trong đó có bức hoành phi “Hậu Lý mẫu nghi” niên hiệu Bảo Đại, năm Giáp Tuất (1934), một tấm bia ghi chép sắc phong của vua Tự Đức năm thứ 10 (1857), năm thứ 12 (1859), năm thứ 20 (1868), Duy Tân năm thứ ba (1909). Ngọc phả(2) ghi rõ Thần hiệu: - Diêm La Thiên Tử (Lý Phật Tử) báo quốc hộ dân, anh linh hiển ứng đại vương tôn thần thượng đẳng. - Hoàng Thái Hậu Phương Dung, tặng phong Uyển Miên Phúc Ý phu huệ công chúa tôn thần. Trong văn tế “Hậu Lý Nam Đế”, Hoàng Thái Hậu Dực bảo trung hưng vị tiền thánh tử” có đoạn: “Cung duy Hoàng Thái Hậu Chính thuấn chính khí Tính nhất anh phong Mẫu nghi thiên hạ” HÙNG LÃNG CÔNG – PHU NHÂN TRƯƠNG MỴ NƯƠNG Nước ta vào thế kỷ thứ VIII trải qua hai cuộc kháng chiến chống ách đô hộ của nhà Đường do Mai Thúc Loan (722) và Phùng Hưng (767 – 791) lãnh đạo. Đất nước độc lập, Kẻ Mọc nằm ở Hữu ngạn sông Tô Lịch phía Tây kinh thành Thăng Long, nằm trên đường thiên lý Bắc – Nam, đoạn đường qua Kẻ Mọc gọi là đường “Lai kinh”(3), nên từ thời Hùng Vương, An Dương vương, Kẻ Mọc đã là một khu dân cư. Vào thờ Khúc Hạo tự xưng là Tiết Độ sứ (906 – 907), ở làng Quan Nhân vùng Kẻ Mọc có bà Trương Mỵ Nương kết duyên cùng Hùng Lãng công là con trai Hùng Diên công vốn dòng dõi Hùng vương đang giữ chức chủ tế ở huyện Vũ Tiên. Đọc Thần phả đình Quan Nhân và dự lễ hội mới hiểu Quan Nhân có rất nhiều con gái đẹp. Người đẹp từ xa xưa tiêu biểu là Thạch Bà Trương Mỵ Nương. Họ Trương đến lập nghiệp ở Quan Nhân từ lâu nên mới có đến hai ______________________ (1). Thờ hai người gọi là Quán Đôi. Ngọc phả ở Quán Đôi thôn Dịch Vọng, nay để ở chùa Dịch Vọng (3) Đường lớn đi vào kinh đô. (2).

<span class='text_page_counter'>(80)</span> bản Ngọc phả lưu ở đình, đáng trân trọng là một bản chép trên giấy trắng, còn một bản đúc bằng đồng nặng gần một tạ. Dòng họ Trương chỉ còn nhà thờ không còn gia phả. Các bản Ngọc phả đều chép: “Thuở trước ở thôn Quan Nhân, xã Nhân Mục Môn, huyện Thanh Trì có gia đình ông Trương Bồn thuộc dòng cự tộc, bà vợ là Hồ Thị Phòng sinh được một con gái đặt tên là Mỵ Nương. Nàng có nét mặt đẹp như ngọc đặt trong bình pha lê, miệng cười chúm chím như hoa phù dung nở vào sáng sớm. Sắc sảo mắt mày, nhìn qua thì như chim sa, cá lặn, dịu dàng tư thế, bước đi như trăng dạo, hoa đưa, trăm nết chu toàn, bốn đức trọn vẹn…” Vào năm 858, giặc Nam Chiếu sang xâm lược, Hùng Lãng công cùng phu nhân Trương Mỵ Nương về vùng Mọc Quan Nhân lập căn cứ chống quân Nam Chiếu. Nhân dân vùng Kẻ Mọc tham gia nghĩa quân rất đông, riêng làng Quan Nhân có 30 người. Cuộc kháng chiến chống quân Nam Chiếu kéo dài đến năm 866 mới thành công. Khi ông bà Hùng Lãng công và Trương Mỵ Nương mất, nhân dân Quan Nhân nhớ công ơn, lập đền thờ, sau đó tôn ông bà làm Thành hoàng. Đình thôn Quan Nhân xưa ở xứ Nền đình sau mới chuyển vào giữa làng. Đình xây theo kiểu chữ công ( trong một khuôn viên đẹp, có cây cảnh, hồ sen, đình rộng bảy gian, khang trang, lộng lẫy, giữa đình treo bức đại tự: “Hùng Vương ngọc điệp” Bên phải đình là phủ Dực Đức thờ riêng Thánh bà Trương Mỵ Nương. Theo truyền thuyết ở làng Quan Nhân thì trước kia dân muốn tạc tượng thờ đức Thánh Bà, làng mời nhiều thợ điêu khắc đến, nhưng có nhiều nghệ nhân tài giỏi đọc ngọc phả nhiều lần nhưng vẫn không dám nhận thi công. Làng họp bàn nhiều lần, nghệ nhân lui tới nhiều, mà không ai dám làm, họ cảm tạ dân làng và nói: “Vẻ đẹp thiên nhiên của Thánh Bà chỉ dễ dàng cảm nhận được ở trong văn chương hoặc trong trí tưởng tượng, còn nếu dùng bàn tay vụng về của chúng tôi khắc vào gỗ, trổ vào đồng thì không sao đạt tới đích toàn mĩ được”. Vì thế cho tới nay Thánh Bà chỉ có bài vị chứ không có tượng. Đình Quan Nhân đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích lịch sử. Ả ĐẠI NƯƠNG PHẠM THỊ UYỂN TƯỚNG CÔNG PHẠM MIỆN, PHẠM HUY Làng Hòa Mục, xã Trung Hòa (nay là phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội) nằm bên bờ sông Tô Lịch có điện Dục Anh và Đình Trong.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> thờ Ả Đại Nương Phạm Thị Uyển, đệ nhất phu nhân của Mai Hắc Đế cùng hai em trai Phạm Miện, Phạm Huy là hai viên dũng tướng của Bố Cái đại vương Phùng Hưng. Đình ngoài thờ hai Ả theo Bà Trưng đánh Mã Viện bị tử trận. Theo bản Thần tích đình làng Hòa Mục thì Ả Đại nương tên là Phạm Thị Uyển và hai em trai là Phạm Miện, Phạm Huy, cùng chung một bọc bào thai, kéo dài 12 tháng mới sinh. Ba chị em cùng sinh một giờ, một ngày, khi sắp sinh, trên trời có ba tiếng sấm nổ, báo hiệu sinh ba. Ba chị em là con ông Phạm Huyên, hiệu Minh Dực và bà Phùng Thị Thạo, hiệu Diệu Hoa là chị em con cô, con cậu với Phùng Hưng. Gia đình Ả Đại nương Phạm Thị Uyển quê ở huyện lỵ Thọ Xương (vùng nhà thờ Lớn Hà Nội ngày nay). Tháng giêng năm Nhâm Tuất (722), Phùng Hạp Khanh cha của Phùng Hưng tìm vào Hoan Châu (Nghệ An ngày nay) ra mắt Mai Thúc Loan. Tháng ba, đúng mùa vải chín, Phùng Hạp Khanh với tới vùng Rú Đụn, thì đúng lúc cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan lãnh đạo nổ ra. Từ căn cứ Rú Đụn (Hùng Sơn), Mai Thúc Loan đem quân giải phóng Hoan Châu. Trước khi Mai Thúc Loan tiến đánh Phủ Đô hộ của nhà Đường ở thành Tống Bình (Hà Nội ngày nay), quân sĩ và nhân dân tôn Mai Thúc Loan lên ngôi Hoàng đế, lấy vương hiệu là Mai Hắc Đế. Mai Hắc Đế chiếm được phủ thành Tống Bình đánh đuổi bọn thống trị Quang Sở Khách, lấy lại giang sơn. Phùng Hạp Khanh mến tài Mai Hắc Đế đem cháu gái là Phạm Thị Uyển, khi đó vừa tròn 18 tuổi gả cho nhà vua. Nhưng thế lực nhà Đường còn mạnh, vua Đường sai Dương Tư Húc, Quang Sở Khách đem 10 vạn quân đánh vào thành Tống Bình. Bà Phạm Thị Uyển chỉ huy quân dàn binh thuyền trên sông Tô Lịch thuộc vùng Kẻ Mọc đón đánh thủy quân Dương Tư Húc. Thế giặc mạnh, lại là quân thiện chiến, còn quân của bà đều là nông dân mới tập hợp, chưa quen chiến trận, vũ khí và chiến thuyền cũng kém xa giặc, chỉ có lòng yêu nước quyết tử bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, nên quân ta bị thua, bà cùng các tướng gieo mình xuống sông Tô Lịch, số quân còn lại theo vua Mai Hắc Đế rút vào Hoan Châu tiếp tục cuộc kháng chiến. Ngày bà tuẫn tiết là rằm tháng 7 năm Nhâm Tuất (722). Thi hài của bà trôi theo dòng sông Tô Lịch đến ngang địa phận làng Hòa Mục thì dừng lại. Nhân dân Hòa Mục vớt bà lên an táng ở bãi đất cao, gọi là Gò Cát nhô ra bên bờ sông Tô, bãi đất này còn được gọi là Hàm Rồng. Với lòng biết ơn bà, người con của thành Tống Bình đã chiến đấu dũng cảm, hy sinh thân mình cho độc lập dân tộc, nhân dân vùng Kẻ Mọc dựng điện Dục Anh thờ bà. Trên thượng điện có bức hoành phi: “Hóa quang cát linh”, nghĩa là thi hài của bà khi hóa đã hỏa táng khắp bãi Gò Cát. Cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế thất bại, nước ta lại bị nhà Đường đô hộ. Năm 767, Phùng Hưng con trưởng của Phùng Hạp Khanh và các tướng.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> nổi dậy đánh đuổi nhà Đường. Cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm, đến mãi năm Tân Mùi (791), Phùng Hưng và các tướng mới hạ được thành Tống Bình. Phùng Hưng đóng trị sở ở thành Tống Bình, hai ông Phạm Miện, Phạm Huy cũng làm quan ở phủ Tống Bình. Hai tướng Phạm Miện, Phạm Huy lúc này tuổi đã cao, rat rang Nhân Mục nơi có điện Dục Anh thờ bà chị và cũng là nơi có mộ bà thắp hương tảo mộ. Hai ông thấy phong cảnh hữu tình, lại là nơi yên nghỉ của chị mình bèn dựng hành cung để ở. Ngày 2 tháng 2, hai ông không bệnh mà mất, nhân dân các làng Mọc đưa bài vị của hai ông vào thờ ở điện Dục Anh cùng với Ả Đại nương Phạm Thị Uyển. Điện Dục Anh ở bên bờ sông Tô Lịch, nơi có mộ Ả Đại Nương được xây lại vào đời Nguyễn. Điện xây theo ba lớp: tiền tế ba gian, hậu cung ba gian, có tượng Ả Đại nương, Phạm Miện, Phạm Huy, 12 tượng mẫu, nữ tỳ. Làng Hòa Mục còn có hai ngôi đình là Đình Trong và Đình Ngoài. Đình Trong ở ven làng, hướng Tây, tam quan có bốn trụ cao, tiền có 5 gian rộng, hậu cung hai gian kiến trúc kiểu chữ Đinh (丁). Đình có tấm bia dựng năm Chính Hòa thứ 17 (1696), xây dựng lại đời Nguyễn. Nhà tiền tế, nên trên có nhiều bức cốn gỗ khắc chạm hình rồng cuốn, cá vượt vũ môn, hai bên có giải vũ Đình Trong thờ Ả Đại nương Phạm Thị Uyển và Phạm Miện, Phạm Huy. Đình Trong và điện Dục Anh còn nhiều hiện vật quý như hai cuốn Ngọc phả ghi sự tích bà Ả Đại nương và hai người em là Phạm Miện, Phạm Huy, 12 đạo sắc phong, 14 bia đá (điện Dục Anh có 6 tấm bia ghi lại việc lập điện thờ bà Ả Đại nương, chiếc kiệu từ thế kỷ 18, một chuông đồng cổ. Ở hiên bái đường Đình Trong có đôi câu đối: “Âu Lạc hạ niên Chưởng Thánh tích, Khai Nguyên thự nhật hiện Thần oai” Dịch: Nước Âu Lạc năm nào, sự tích các Thánh muôn đời chói lọi Thời Khai Nguyên ngày ấy chiến công của Thần một trận oai phong. Đình ngoài thờ hai Ả theo Bà Trưng khởi nghĩa đánh đuổi Tô Định không rõ tên, tuẫn tiết theo Hai Bà. Hàng năm lễ hội làng Hòa Mục vẫn giao hiếu với làng Giáp Nhất, xã Nhân Chính thờ Phùng Luông là con trai Phùng Hải, gọi Phùng Hưng là bác ruột. Thần phả làng Giáp Nhất cũng chép bà Phùng Thị Thạo chị ruột Phùng Hưng lấy ông Phạm Huyên sinh ra ba chị em Ả Đại nương. Năm làng Mọc mở hội vào tháng 2, cứ 5 năm mở Đại hội một lần, có bài ca: “Làng Mọc mở hội tháng hai, Rước hôm mười một, mười hai rõ ràng _____________________ (1). Niên hiệu Khai Nguyên nhà Đường.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> Nhất vui mở hội năm làng Để cho thiên hạ, phố phường vào xem… Tán vàng, quạt vải sánh bày, Đuôi nheo phấp phới, cờ bay hằng hà, Nào là hương án, long đình Phường bông, phường trống rập rình theo sau. BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG Đình Quảng Bá, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội thờ Bố Cái đại vương Phùng Hưng. Cha Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh đã theo Mai Thúc Loan (722) đánh bọn đô hộ nhà Đường cho đến khi cuộc khởi nghĩa thất bại mới quay trở về quê hương huyện Đường Lâm, thuộc Sơn Tây. Phùng Hưng có hai em ruột là Phùng Hải, Phùng Dĩnh. Phùng Hưng làm hào trưởng đất Đường Lâm, (1) ông có sức khỏe tuyệt luân. Tuy làm quan cho nhà Đường nhưng ông luôn luôn chống lại sự hà khắc của bọn đô hộ, mà tên đầu sỏ là Cao Chính Bình, một lòng bảo vệ dân. Nhưng bọn Cao Chính Bình ngày càng tàn ác, ông cùng với các em trai là Phùng Hải, Phùng Dĩnh, trong đó Phùng Hải cũng có sức khỏe đánh được hổ, vật được trâu như ông. Quê Đường Lâm của ông có một con hổ dữ thường ăn thịt nhiều trâu, bò, lợn, khi đó nó còn liều lĩnh bắt cả người ăn thịt, nó vào cả trại hươu của ông bắt hươu. Phùng Hưng quyết tâm trị cọp cứu dân, ông lần theo vết máu con hươu bị hổ bắt để tìm ra hang ổ của nó, nhưng rừng rậm bao la tìm không thấy. Ông biết là con hổ háu đói, ông bện một người bằng rơm, cho mặc quần áo như người, tay cầm chùy để ở bên đường hổ thường qua lại. Ông cũng lệnh cho nhân dân trong vùng phải rào dậu các chuồng nhốt gia súc thật kĩ và phải sẵn sàng giáo mác cung tên để có lệnh của ông thì đi đánh hổ. Hổ đi tới nơi nhìn thấy người bằng bù nhìn lập tức nhảy vào cắn xé rồi bỏ đi. Hôm sau Phùng Hưng lại cho làm một bù nhìn rơm giống y như lần trước và cũng cắm ở chỗ cũ, hổ lại nhảy vào cắn xé như hôm trước rồi bỏ đi. Cư như thế lặp đi, lặp lại đến 5-6 lần rồi hổ chán quá vì người đó không ăn thịt được nên ba ngày liền hổ ngước nhìn thấy đều bỏ đi. Phùng Hưng quyết định tự mình thay thế bù nhìn rơm để diệt hổ. Ông mặc quần áo, đội nón mê, tay cầm chùy y như bù nhìn rơm, ông còn lấy bùn đất sét bôi kín mặt mũi, chân tay để hổ không đánh hơi được. Ông đứng chờ đợi đúng canh tư thì con hổ đi tới, nó không thèm nhìn người bù nhìn rơm mà vẫn thủng thẳng bước đi. _____________________ (1). Nay là thôn Cam lam, xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây..

<span class='text_page_counter'>(84)</span> Đợi con hổ đi ngang qua mặt, ông xông ra vung chùy đánh vào cổ hổ. Hổ bị đau gầm lên dữ dội, xông vào ông, nhưng với sức mạnh phi thường ông né tránh được tất cả những cú vồ, tát của con thú dữ, mà đánh phát nào trúng phát đó, hổ bị đau gầm gào dữ dội. Dân làng nghe tiếng hổ gầm biết là Phùng Hưng đang đánh hổ liền đốt đuốc, gõ trống, mâm chậu kéo ra hỗ trợ, nhưng tới nơi thì thấy Phùng Hưng đã đứng bên con hổ đang thoi thóp. Mọi người thấy thế kêu lên: “Bố cái ơi may quá chừng!” (Bố cái là cha mẹ). Lập tức dân làng công kênh ông và khiêng hổ về. Từ đó tiếng truyền Phùng Hưng đánh chết hổ truyền đi khắp vùng, hào kiệt khắp nơi kéo đến đất Đường Lâm xin theo ông. Ông hô hào mọi người hãy đồng tâm nhất trí đánh bọn hổ lang nhà Đường xâm lược giành tự do cho dân, độc lập cho đất nước. Mọi người nhất tề hưởng ứng vì đó là nguyện vọng khao khát của toàn dân từ lâu. Phùng Hưng cùng em trai là Phùng Hải cùng các mưu sĩ như Đỗ Anh Hàn đi đến khắp các vùng kêu gọi nhân dân khởi nghĩa. Quân Đường kéo đến tấn công Đường Lâm đều bị đại bại. Năm 791 Phùng Hưng tiến quân về bao vây thành Tống Bình (Hà Nội), ông đóng quân ở làng Đỗ (Triều Khúc, Thanh Trì Hà Nội) làm đại bản doanh, sau đó chuyển về đóng đại bản doanh ở cánh rừng phía Bắc Tây hồ, nay là thôn Quảng Bá, nền doanh trại xưa nay là đình Quảng Bá. Tấm bia “Phùng Hưng đình Quảng Bá” dựng năm 1390 đời Trần đã kể sự tích đánh hổ của ông và còn ghi rõ các tướng lĩnh tham gia trước khi nổ ra cuộc khởi nghĩa có Phùng Hải, Phùng Dĩnh là hai em trai ông, ba anh em Đỗ Anh Luân, Đỗ Anh Nhi, Đỗ Anh Hàn. Bia ghi chi tiết: “Đỗ Anh Hàn nói với Phùng Hưng: “Việc ra quân sống mái với Cao Chính Bình như vậy là chư tướng đã quyết chỉ xin Đô quân (Phùng Hưng) nghĩ đến cách đánh sao cho thắng thù. Thượng sách là chia quân ra làm nhiều đạo vây hãm và tấn công phủ thành”. Phùng Hưng trả lời: “Ý ta cũng chính là như thế, bây giờ các tướng háy nghe ta cắt đặt công việc”. Tháng 4 năm Đinh Mùi (5 – 791), Phùng Hưng đưa quân về bao vây, đánh phá phủ Tống Bình mấy tháng liền. Khi mới tới, ông chọn làng Đỗ tức làng Triều Khúc, huyện Thanh Trì làm đại bản doanh. Tại đây ông tuyển chọn thêm binh lính rồi tiến đánh thành Tống Bình. Sau ông nhận thấy làng Đỗ cách xa thành, ông liền dời đại bản doanh về đóng ở phía Bắc hồ Tây. Cao Chính Bình bị vây hãm tấn công mấy tháng liền, thiếu lương, thiếu nước, thiếu cỏ cho ngựa, quân sĩ mỏi mệt ốm đau, không nghĩ gì đến đánh. Cao Chính Bình cũng lo sợ quá phát bệnh mà chết thảm, tàn quân phải rút chạy. Phùng Hưng vào thành tổ chức cai trị dân, ông bãi bỏ thuế khóa nặng nề, phu phen tạp dịch, khuyến khích nghề nông tang, buôn bán. Ông cũng không.

<span class='text_page_counter'>(85)</span> ngừng xây dựng quân đội sẵn sàng đánh quân Đường khi chúng sang xâm lược. Phùng Hưng cai trị, nhân dân yêu mến coi Phùng Hưng như bố mẹ, tôn là “Bố Cái đại vương”. Ông cai trị dân được 7 năm thì chết. Lăng mộ của Bố Cái Đại vương Phùng Hưng ở phía Tây thành Tống Bình, nay ở sát nhà máy cơ khí Long Biên, đường Giảng Võ, gần bến xe Kim Mã. Nhân dân Quảng Bá thương tiếc lập đền thờ ngay trên nền doanh trại cũ, sau tôn ông làm Thành hoàng và làm đình thờ ông(1). Duệ hiệu của Thần là: “Kế Thiên Lập cực Tế thế An Dân Bố Cái Đại vương”. Ở cửa đình có bức đại tự: “Như phụ mẫu” (Như cha mẹ). Trong đình có nhiều câu đối: “Thanh Chấn Lý Đường(2) Thuận Đức niên gian uy Bắc khấu Vận thừa Mai đế, Phong Thành Phủ lỵ Thái Nam bang” Dịch: “Rung động nhà Đường, năm Thuận Đức lừng oai kinh giặc Bắc Nối vận Vua Mai giữ Phong Thành sở trị vững Trời Nam” Và: “Vị dân phụ mẫu di đa phúc Tạo thế anh hùng bách trạc thanh” Dịch: “Cha mẹ vì dân (con) cho nhiều phúc Anh hùng mở nước tiếng lừng vang” Đình Quảng Bá đã được tu tạo thành di tích thắng cảnh. QUẢNG LỢI BẠCH MÃ THƯỢNG ĐẲNG THẦN Xa xưa vào thời nhà Hán, Tùy, Đường đô hộ nước ta, có lúc Hà Nội ngày nay có tên là Tống Bình chỉ là vùng dân cư thưa thớt nằm trên bờ Hữu ngạn sông Hồng Hà. Về mùa lũ, nước ngập mênh mông, ở đây có nhiều rừng cây như rừng bang ở Yên Thái, rừng trúc ở Nghi Tàm. Vùng đất nay là Hà Nội lại có thế Cửu long, tức là có chín rồng, lại có sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, có núi như núi Nùng(3), núi Khán Sơn(4), riêng núi Nùng nằm trên rốn rồng nên gọi là Long Đỗ. Cao Biền sang làm đô hộ phủ Tống Bình vốn là kẻ giói phép thuật tinh thông địa lý, thấy Tống Bình có thế rồng ___________________ (1). Tại Hà Nội, phường Thịnh Quang (huyện Vĩnh Thuận) và làng Triều Khúc cũng thờ ông, tôn ông làm Thành hoàng. (2) Vua nhà Đường họ Lý. (3) Núi Nùng nằm trong Cổ thành, núi Nùng ở vườn Bách thảo do Pháp đào hồ mà đắp lên. (4) Núi Khán Sơn là núi Bò Sơn ở trong một ngõ phố Đội Cấn..

<span class='text_page_counter'>(86)</span> chầu, hổ phục liền xây thành Đại La đề phòng các cuộc khởi nghĩa của dân ta. Thành đang xây, Cao Biền tỏ ra đắc ý, giữa ban ngày, Cao Biền ra cửa Đông thành chơi bỗng thấy trời đất mù mịt, ngạc nhiên thì thấy trên trời có tiếng nhã nhạc vang lừng, hương thơm ngào ngạt. Biền kinh sợ ngẩng đầu nhìn lên thì thấy một đám mâ ngũ sắc và một tiên ông râu trắng như cước tay cầm phất trần, cưỡi rồng vàng hiện ra. Biền kinh sợ nhưng chưa biết vị thần đó là ai, phải chăng là thần từ quê mẹ Trung Quốc sang phù hộ cho Cao Biền cai trị dân ta, thu vét được nhiều vàng bạc, ngọc ngà, châu báu. Đêm đó Biền mộng thấy Tiêng ông hiện trên trời lúc ban ngày nói với Biền “Ta chính là Thần Chính khí Long Đỗ vì thấy ngươi xây thành nên đến xem đó thôi!” Biền sợ toát mồ hôi, nói với bọn quan lại dưới quyền. “Ta không biết làm chính trị, để quỉ thần trêu ta, điềm tốt hay điềm gở đây!”. Có kẻ hiến kế: Đó là vượng khí nước Nam, xin tướng quân xây đền thờ, tạc tượng rồi chôn 1000 cân đồng, một nghìn cân sắt yểm thì mới trừ được hậu họa. Biền cho là diệu kế liền y lời lập đền đúc tượng giống y như người trong mộng, rồi chôn 1000 cân đồng, 1000 cân sắt để trấn yểm. Bỗng trời nổi giông tố, cây cối đổ gãy, sét nổ đùng đùng. Bao nhiêu sắt, đồng Cao Biền yểm bị bật tung thành tro bụi. Biền than “Ta phải về phương Bắc mất thôi!” Quả nhiên sau Biền phải về vì dân ta nổi dậy đánh Cao Biền nổ khắp nơi trong đó có Ả Lã (còn gọi là Bà Đề, Đề nương) mới 19 tuổi đã chiêu mộ quân đánh cao Biền suốt dọc sông Hồng từ Tống Bình lên tận Cấm Khê, Vũ Ẻn (Phú Thọ), khiến Cao Biền hao binh tổn tướng. Cao Biền bị triệu hồi về Trung Quốc rồi bị vua Tàu giết chết. Ngày 2 tháng 11 năm 1009, Lê Ngọa triều, một ông vua tàn bạo, chết, triều đình tôn Thân vệ Đại tướng quân Lý Công Uẩn lên làm vua lập ra nhà Lý. Rằm tháng 3 năm Canh Tuất (1010), Lý Công Uẩn chính thức đăng quang ngôi hoàng đế hiệu là Lý Thái Tổ. Mùa thu năm Canh Tuất (1010), vua dời đô từ Hoa Lư ra Đại La thấy rồng vàng hiện lên, đổi tên là thành Thăng Long. Một đêm Lý Thái Tổ nằm mộng thấy một ông già râu tóc bạc phơ đến trước bệ rồng nói: “Chỉ mong thánh thọ lâu dài, cơ đồ bền vững trong triều, ngoài nội lúc nào cũng yên vui no ấm thì chúng tôi cũng được hưởng hương hoa ngàn năm, chứ đâu phải vài trăm năm”. Tỉnh dậy nhà vua biết là mình dời đô ra Thăng Long là hợp ý trời, ý dân đúng như chiếu dời đô của nhà vua: “Huống gì thành Đại La kinh đô cũ của Cao vương (chỉ Cao Biền) ở vào trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam, Bắc, Đông Tây; lại tiên hướng nhìn sông dựa núi. Dân cứ khỏi chịu cảnh thống khổ ngập lụt, muôn.

<span class='text_page_counter'>(87)</span> vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời…”. Nhà vua đến tế lễ và phong thần Long Đỗ là: “Quốc đô Thăng Long Thành Hoàng Đại vương”. Khi vua Lý xây thành Thăng Long bị lở sụt, xây mãi không xong, vua đến đền Long Đỗ cầu, bỗng trong đền có một con ngựa trắng phi ra một vòng quanh thành rồi lại vào đền biến mất. Quan quân cứ theo vết chân ngựa xây thành thì không sụt lở, vững chãi. Đến triều vua Lý Thái Tông, có nước lũ rất to, bãi Thăng Long có nhiều chỗ sụt lở, nhà vua ở trong thành bỗng thấy một con ngựa trắng từ trong miếu phi ra đến tận bãi sông, dấu ngựa phi tới đâu thì phù sa lại nổi lên tới đó. Do đó nhà vua ban sắc phong cho Bạch Mã đại vương. Về thời Lý có cơn bão to, nhà cửa trong thành đổ sập, riêng có miếu thờ Bạch Mã vẫn an toàn không lay chuyển gì hết. Đến đời Lý Thánh Tông, Thần được phong là Quảng Lợi đại vương. Đền thờ Thần gọi là đền Bạch Mã ở phố Hàng Buổm(1). Đến thời nhà Trần có ba lần hỏa hoạn, nhưng chưa bao giờ cháy đến miếu thần Bạch Mã. Quan thượng tướng thái sư Trần Quang Khải có bài thờ đề ở miếu: Tích văn nhân đạo Đại vương linh Kim nhật phương tri quỉ mị kinh Hỏa bắc tam khu thiêu bất tận, Phong trần nhất trận phiến nan khuynh Chỉ huy vọng lượng tam thiên chúng Đàn áp yêu ma bách vạn binh, Nguyện trượng dư uy thanh bắc khấu Đốn linh vũ trụ lạc thăng bình Dịch: Trước vẫn nghe người ta nói Đại vương thiêng Nay mới biết bọn ma quỉ đều khiếp sợ Đại vương Lửa bốc ba lần không làm cháy được đền Gió bão một trận không làm nghiêng được Chỉ huy ba nghìn quỉ binh Đàn áp được yêu ma trăm vạn Xin nhờ uy dữ của Đại vương để dẹp giặc Bắc. Khiến cho vũ trụ được yên bình Đền Bạch Mã cho đến ngày nay vẫn còn giữa phố Hàng Buồm Hà Nội ngày đêm không dứt khói hương. ___________________ (1). Thần Bạch Mã còn được thờ ở nhiều nơi..

<span class='text_page_counter'>(88)</span> Hoàng Giáp Trần Bá Lâm (1757-1815) có đề thơ ở đền như sau: Mạch dẫn bàn long truyền thắng địa Tích lưu bạch mã trấn danh choa Cao vương vãng sự câu thần thổ Vật hoán tinh di kỷ độ thu Dịch: Mạch chuyển rồng cuốn, truyền đất đẹp Tích xưa ngựa trắng trấn danh do Cao Biền chuyện cũ đều hư ảo Vật đổi sao dời đã mấy thu. Lễ hội hàng năm tháng 2 âm lịch. Di tích được xếp hạng lịch sử văn hóa nghệ thuật ngày 12 tháng 12 năm 1986. HỒNG THÁNH TRUNG VŨ TÁ TRỊ ĐẠI VƯƠNG* Xét xử ký: Vương họ Phạm, tên là Cự Lượng. Trong thời vua Lý Thái Tông (1028-1053), ở Đô hộ phủ có nhiều việc hình án, kiện tụng đáng nghi ngờ, quan Sỹ sư (quan xử án) không thể quyết đoán được. Vua muốn lập đền thờ một vị thần có tiếng anh linh, để cho những kẻ gian tà vào lễ bái, trình bày hoặc thú nhận không dám nói sai, nói dối. Vua bèn tắm gội, trai giới lập đàn lễ cầu đức Thượng đế. Đêm hôm ấy, vua mộng thấy một sữ giả mặc áo đỏ, vâng lệnh chỉ đức Thượng đế, xuống phong cho Phạm Cự Lượng làm Minh chủ việc ngục tụng tại Đô hộ phủ. Vua hỏi sứ giả: “Cự Lượng là ai?”. Sứ giả thưa rằng: “Người ấy làm quan Thái Úy đời Lê Đại Hành, hết lòng giúp nước, công bằng, thanh liêm và thẳng thắn. Sau khi chết, Thượng đế xét, biết là một người trong sạch, không có lỗi gì nên đã bôer làm quan ở Nam tào cục; vì chửa hết trần duyên cho nên tạm xuống coi việc xử án ở nhân gian”, nói rồi biến mất. Vua thức dậy triệu các quan đến hỏi; đều tâu: “Cự Lượng thật là một người tốt, con nhà gia thế, ông là Phạm Chiêm làm Châu mục đất Vũ An giúp Ngô Tiên Chủ, có công khai quốc được phong Đồng Giáp tướng quân. Cha là Phạm Mạn giúp vua Nam Tấn, làm tham chính đô hộ, anh là Phạm Hạp giúp Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành rất có công lao, làm đến Đô thống quân hiệu. Đến Cự Lượng trước giúp Đinh, sau giúp Lê sang đánh Chiêm Thành, có công to được thăng Thái úy. Nhà ấy ba đời đều có tiếng khen”. – Vua nghe, cho là phải lắm, mới phong là Hoằng chính đại vương, sau đổi phong là Hồng thánh. Một hôm vua mộng thấy vương đội mũ miện, mặc áo bào, cầm hốt, đeo đại lạy tạ ở trước điện. Vua thức dậy cho là linh dị liền sai văn thần soạn _____________________.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> * Đền ở hộ thứ 6 (thôn Ngự sử cũ) trong thành phố Hà Nội tức là đền An Thịnh bây giờ.. văn khắc bia đá để ghi sự nghiệp của Vương. Năm Trùng hưng 1, sắc phong hai chữ “Khuông quốc”, năm thứ 4, gia phong hai chữ “Trung Vũ”. Đến năm Hưng Long 21, thêm hai chữ “Tá trị”. LÊ HỒNG NƯƠNG – LÊ QUẾ HƯƠNG Làng Nghè, tên chữ là Trung Nha, xã Nghĩa Đô, thờ Lê Hồng Nương – Lê Quế Hương làm Thành hoàng. Hai bà là con gái ông Lê Nghiêm (có tài liệu viết là Lê Đạo) và bà Nguyễn Thị Minh. Cả hai cô đều xinh đẹp, nết na thạo việc đồng áng, giỏi việc nữ công gia chánh. Đầu năm Tân Tỵ (981), nhà Tống thấy vua Đinh Tiên Hoàng mất, Đinh Toàn lên ngôi mới 6 tuổi, liền phái mấy chục vạn quân do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, chia làm ba đạo thủy bộ sang xâm lược Đại Cồ Việt. Trước họa xâm lăng, Thái hậu Dương Vân Nga thể theo nguyện vọng của quân sĩ trao áo long bào cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Lê Hoàn lên ngôi vua xưng là Đại Hành hoàng đế. Tháng 3 năm Tân Tỵ (981), Lê Đại Hành phái tướng Trần Công Tích đi tiên phong. Ông đóng quân lại ở vùng đất xã Nghĩa Đô ngày nay để phái trinh sát lên biên giới Lạng Sơn nắm tình hình địch, tuyển thêm quân, huấn luyện tân binh, tích trữ lương thảo để kéo lên Lạng Sơn chặn giặc. Hưởng ứng lời kêu gọi của tướng quân Trần Công Tích, trai gái Nghĩa Đô và dân vùng Đại La nô nức gia nhập đội quân của nhà Lê. Hồng Nương, Quế Nương cũng đến cửa quân ghi tên, Hai nàng được tướng Trần Công Tích chấp nhận, và giao cho làm “Hỏa đầu quân”. Hai nàng vốn thạo việc chợ búa, bếp núc, nên bữa nào quân lính cũng được ăn cơm nóng canh ngọt. Trước khi lên đường đi chặn giặc, tướng công Trần Công Tích tổ chức hội thi võ, bắn cung, đấu kiếm và thi cả nấu cơm trong khi đang hành quân. Hai nàng đoạt giải nhất về thi nấu cơm trên đường hành quân. Khi quân ta lên Chi Lăng chặn giặc, Lê Hồng Nương và Lê Quế Nương đảm nhận việc mua thực phẩm, nấu cơm, tiếp tế cho quân đội. Nhờ tài khéo léo mua thực phẩm chỉ huy chị em nấu cơm không để khói, không mua thức ăn nhiều một lúc, đề phòng do thám của giặc, nên giữ được bí mật trận địa, mà quân được ăn no, ăn ngon. Kết quả quân ta chém chết chủ tướng Hầu Nhân Bảo của giặc Tống, đánh tan đạo quân xâm lược của giặc. Sau chiến thắng, tướng Trần Công Tích kéo quân về đóng ở Nghĩa Đô và kết duyên với hai nàng. Nhưng tình duyên không được bao lâu, ngày 25-11 năm đó cả hai nàng cùng hóa..

<span class='text_page_counter'>(90)</span> Tướng quân Trần Công Tích tâu công trạng của hai nàng, vua Lê Đại Hành phong bốn chữ “Bình Tống hưng Lê”. Nhà vua lại phong tặng Hồng Nương là “Hoàng hậu đoan trang tôn linh công chúa”, Quế nương là “Phu nhân ý thiên tôn linh công chúa”, sai lập đền thờ ở gò Con Phượng để thờ. Khi tướng công Trần Công Tích mất cũng đưa vào thờ ở đó. Ngôi nhà của ông Lê Nghiêm trở thành đền Trung Nha thờ Hồng Nương, Quế Nương và cha mẹ hai nàng. Khi có tục thờ Thành hoàng, nhân dân thôn Nghè tôn hai nàng làm Thành hoàng. Hàng năm cứ đến ngày hội, dân bốn làng Nghè, Dâu, An Phú, Tân lại mở lễ hội. Lễ hội bao giờ cũng tổ chức hội thi thổi cơm. Nội quy thi rất ngặt, mỗi thí sinh được phát một niêu đồng, một bó mía để ăn, lấy bã đun, kéo lạt giang lấy lửa. Người nào nấu cơm nhanh, thơm dẻo thì đoạt giải..

<span class='text_page_counter'>(91)</span> PHẦN III. THỜI LÝ.

<span class='text_page_counter'>(92)</span> LÝ THÁI TỔ KHAI SÁNG TRIỀU LÝ Triều Tiền Lê đã có công lao to lớn vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước, nhưng vào những năm cuối đời Tiền Lê, Long Việt là con trưởng của Lê Đại Hành lên nối ngôi hiệu là Lê Trung Tông thì bị em là Lê Long Đĩnh giết cướp ngôi. Lê Long Đĩnh là một ông vua hung tàn, bạo ngược, sống sa đọa, không đủ tư cách và năng lực điều hành đất nước. Những hành động dã man của Lê Long Đình đối với nhân dân và các nhà sư làm cho nhân dân căm giận. Năm 1009 Lê Long Đình chết, triều đình tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Lý Công Uẩn trước tên là Diên Uẩn là người hương Cổ Pháp, nay là xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất nhà Đinh, niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 (8 tháng 3 năm 974) mẹ là Phạm Thị làm vãi ở chùa Ứng Thiên Tâm (tức Chùa Tiêu, xã Tương Giang huyện Từ Sơn). Bà được thần giao cấu rồi mang thai sinh ra Công Uẩn(1). Năm Công Uẩn lên ba tuổi, mẹ ông trao ông cho thiền sư Lý Khánh Văn, em trai thiền sư Vạn Hạnh trụ trì chùa Cổ Pháp nuôi dạy. Lý Công Uẩn học chữ, học kinh Phật từ thuở ấu thơ, ông từng làm tiểu ở chùa Quỳnh Lâm, chùa Kim Đài ở Cổ Pháp, sau đó lại về ở chùa Kiến Sơ, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Khi Lý Công Uẩn đến tuổi thiếu niên, sư Vạn Hạnh đón về chùa Thiên Tâm dậy dỗ. Công Uẩn sớm thông tuệ khác thường. Sử sách cũ còn ghi lại: “Sư Vạn Hạnh thấy khen rằng đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên, tất có thể giải quyết được mọi việc khó khăn, làm vua giỏi trong thiên hạ”. Lý Công Uẩn tính tình khẳng khái, sức khỏe phi thường. Năm ông 20 tuổi đã làm quan võ trong triều Tiền Lê, khi Lê Trung Tông bị Lê Long Đĩnh giết để cướp ngôi, quần thần đều sợ hãi chạy trốn, chỉ có Lý Công Uẩn ôm tử thi Long Việt mà khóc. Long Đĩnh khen là bề tôi trung phong làm Tứ ______________________ (1). Có thuyết cho rằng ông thân sinh ra Lý Công Uẩn nhà nghèo đi làm thuê ở chùa Tiêu Sơn (An Phong, Bắc Ninh), phải lòng một thiếu nữ rồi làm nàng có thai. Nhà sư thấy thế đuổi đi nơi khác. Hai vợ chồng đến ở khu rừng bang, mệt mỏi, nghỉ ở đó. Chồng khát nước đến chỗ giếng ở giữa rừng uống, chẳng may xảy chân chết đuối. Vợ chờ lâu đến xem thì đất đã đùn lên lấp giếng. Người phụ nữ khóc lóc một lúc rồi xin vào ngủ nhờ ở chùa Ứng Tâm (chùa Dận) gần đấy. Sư trụ trì ở chùa ấy đêm trước nằm mộng thấy Long Thần đến báo mộng: “Ngày mai dọn chùa sạch sẽ, có Hoàng đế đến”. Tỉnh dậy nhà sư sai chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ, túc trực từ sáng đến chiều chỉ thấy người đàn bà có thai xin ngủ nhờ. Được vài tháng bỗng có chuyện lạ: Một đêm khu Tam Quan của chùa sáng rực hẳn lên, hương thơm ngào ngạt lan tỏa. Nhà sư cùng bà Hộ chùa ra xem thì thấy người đàn bà ấy đã sinh một con trai, hai bàn tay có bốn chữ “Sơn hà xã tắc”. Sau đó trời bỗng nổi một trận gió lớn, mẹ chú bé chết ngay sau khi sinh con và chú bé được nhà chùa nuôi nấng. Khi 8-9 tuổi, nhà sư cho chú bé theo học sư Vạn Hạnh ở chùa Tiêu Sơn. Chú bé ấy sau này là Lý Công Uẩn..

<span class='text_page_counter'>(93)</span> tướng quân, phó chỉ huy sứ, ông làm quan có công lao, được thăng lên chức Tả thân vệ điện tiền. Lê Long Đĩnh chết, khi đó Lý Công Uẩn 35 tuổi giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ là chức võ tướng cao cấp chỉ huy quân hầu cận của triều vua Lê. Ông là người có uy tín, có thế lực trong triều, lại là người thân cận với các bậc cao tăng trong triều, nên các quan lại, tăng ni suy tôn ông lên làm vua. Song ông vẫn không nhận, sử cũ ghi rằng, chi hậu Đào Cam Mộc đã khuyên Công Uẩn lên làm vua: “…Thân vệ là người khoan thứ, nhân từ, lòng người đều qui phục. Hiện nay trăm họ quẫn bách, không chịu nổi mệnh trên. Thân vệ nhân tính đó lấy ân đức mà vỗ về thì người ta tất đua nhau về như nước chảy vào chỗ trũng, ai có thể ngăn lại được”. Tuy vậy Công Uẩn vẫn không nhận. Mãi đến khi “Việc cần kíp, sợ binh biến”, triều đình khanh sĩ họp lại suy tôn, dìu Tả Thân vệ điền tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên chính điện lạp làm Thiên tử, lên ngôi Hoàng đế. Đó là ngày 2 tháng 11 năm Kỷ Dậu (21-11-2009). Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn đại xá cho cả nước, xóa bỏ tù ngục, kiện tụng, ai có việc tranh chấp được đến tận triều đình tâu bày, vua sẽ thân phân xử. Ngày rằm tháng 3 năm Canh Tuất (1010), Lý Công Uẩn chính thức làm lễ đăng quang ngôi Thái Tổ, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Nhà vua thấy đất Hoa Lư chật hẹp, muốn dời đô. Sử cũ ghi rằng: “Mùa thu năm Canh Tuất 1010, nhà vua rời kinh đô từ thành Hoa Lư sang kinh đô lớn là Đại La của Kinh phủ. Thuyền tạm đỗ ở dưới thành có rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự, vì thế đổi là thành Thăng Long. Đổi châu Cổ Pháp là phủ Thiên Đức, thành Hoa Lư làm phủ Trường Yên”. Nhà vua đã viết chiếu dời đô ban bố khắp thiên hạ: “…Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đến các vua thời Tam Đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng của mình khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm thấy lấy làm đau xót về việc đó, không thể không dời đổi. Huống gì thành Đại La ở trung tâm bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc; tiện hình thế núi sông sau trước. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất phong phú tốt tươi..

<span class='text_page_counter'>(94)</span> Xem khắp nước Việt ta, chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời”. Ngay sau khi về thành Thăng Long, nhà vua cho xây thành, dựng cung điện. Nhà vua không chỉ coi trọng xây đắp thành lũy, dựng cung điện, mà còn xóa thuế cho dân cả nước trong ba năm, xóa bỏ thuế còn thiếu của các năm trước cho những người mồ côi, góa chồng, già yếu. Nhà vua còn phát quần áo cho tù binh bị bắt dưới thời Tiền Lê và cho về. Nhằm chấn hưng kinh tế, nhà vua xuống chiếu cho dân tha phương cầu thực trở về quê cũ khai khẩn ruộng đất làm ăn. Về đơn vị hành chính, nhà vua đổi 10 đạo thành 24 lộ. Nhằm giữ hòa hiếu với Trung Hoa, Lý Công Uẩn sai viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang kết hảo với nhà Tống. Nhà vua rất coi trọng việc giữ yên đất nước. Năm 1011, nhà vua thân chinh đi dẹp loạn, chấm dứt sự chống đối của người Cử Long (Thanh Hóa). Năm 1013, nhà vua lại thân chinh đi dẹp loạn Hà Trắc Tuấn châu mục châu Vị Long (Hà Giang). Lý Thái Tổ phong cho Thái tử Lý Phật Mã là Khai Thiên vương đi dẹp loạn trong nước, năm 1020 bình Chiêm Thành xâm phạm bờ cõi. Năm 1022 người Đại Nguyên Lịch của nhà Tống quấy rối biên giới, Lý Phật Mã cũng dẹp yên, giữ vững biên cương tổ quốc. Ngày 3 tháng 3 năm Mậu Thìn (31-3-1028), vua băng hà ở điện Long An, thọ 55 tuổi (974-1028), làm vua 19 năm (1009-1028). Thi hài của nhà vua được hỏa thiêu, trot hi hài được chôn cất ở lăng Lòng Chảo trong Thọ Lăng Thiên Đức, hương Cổ Pháp giữa rừng báng, bên dòng sông Tiêu Tương. Triều đình và nhân dân thờ Người ở Đền Đô hương Cổ Pháp, nay là xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và nhiều nơi khác. NAM QUỐC DANH CA ĐÀO THỊ MẪU Làng Phú Mỹ nay thuộc xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Phú Mỹ là một làng cổ được kiến lập từ trước thời Đinh. Phú Mỹ có nhiều di tích văn hóa trong đó có ngôi miếu cổ do Lý Thái Tổ xây thờ vua nhà Tiền Lý (Lý Nam Đế). Đình Phú Mỹ thờ Ả Lã – Nàng Đê là hai nữ tướng thời Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế và Lý Phật Tử. Làng Phú Mỹ còn có nhà thờ bà “Nam quốc danh ca Đào Thị Mẫu”. Sách Đại Việt Sử ký toàn thư chép: “Vào thời vua Lý Thái Tổ năm đầu (1010), vua Lý Thái Tổ đi kinh lí thấy cô gái là Đào Thị giỏi nghề hát, được nhiều người hâm mộ. Bà được tuyển vào cung làm cung phi, nên phàm các nữ ca sĩ đều được gọi là Đào nương, còn dân gian thì gọi là Ả Đào”. Điều này đã được lịch sử ghi nhận: “Năm Thuận.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> Thiên thứ 15 (1025), vau Lý Thái Tổ đặt chức quan tiệp cho giới ca hát (1). Cũng vào thời Lý Thái Tổ, một nữ nghệ nhân là Đào Thị hát rất hay từng được vua ban thưởng nhiều lần”(2). Ca hát, nhẩy múa vốn là những sinh hoạt văn nghệ phổ cập trong nhân dân. Hát Ả Đào đã xuất hiện. Những nghệ sĩ ca hát lúc bấy giờ thường được gọi chung là đào và kép. Trên những phù điêu thời Lý còn thấy những cảnh vũ nữ múa dâng hoa, hay cảnh nhạc công vừa múa vừa sử dụng các nhạc cụ như đánh trống, thổi sáo, gẩy đàn (Bệ đá chùa Phật tích huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh(3). Làng Phú Mỹ nay vẫn còn đền Ca công, trong đền còn tấm bia đá dựng thời Tự Đức (1847-1883) ghi: Đông Hạ giúp phương Ca Công thờ một nữ danh ca họ Vũ người làng xinh đẹp hát hay được tuyển vào cung vua. Khi về già, bà về làng dạy cho con cháu dòng họ Vũ hát ca trù, bà được vua cắm ruộng để hưởng lộc. Đến khi bà mất, dòng họ lập đền thờ, vua có sắc phong: “Nam quốc danh ca Đào Thị Mẫu”. Thời Lý, nghề hát ca trù đã phát triển mạnh, Phú Mỹ trở thành một giáo phường. Ở đình Phú Mỹ có tấm bia đá dựng năm Cảnh Hưng thứ 29 (1786) đề: “Đình môn sự lệ bi kí” cho phép giáo phường giáp Đông Hạ thuộc huyện nhà có quyền thu lệ phí khi đến biểu diễn, nhưng vì người làng thiếu tiền nạp dịch nên giáo phường không phải nộp trước cho làng 29 quan”. Nhà vua rất quan tâm đến các nghệ nhân đào hát, cắm ruộng cho các cô đào. Cho đến nay ở làng Đình Thôn vẫn có câu ca: “Ruộng làng ta thượng Cầu Đá, hạ Cầu Đông Vì cô Đào An mà cả làng mất ruộng”(4) Con cháu họ Vũ đã nối nghiệp bà danh ca Đào Thị Mẫu hát ca trù hay nổi tiếng huyện Từ Liêm, từng thành cặp đi hát ở các lễ hội các xã trong vùng La Cả, La Khê, Mỗ, Tứ Tổng… Họ thường đi thành cặp trai, gái, trai đánh đần, nữ vừa hát vừa gõ phách. Trước tháng 8 năm 1945, các làng ở huyện Từ Liêm mở hội xuân vào tháng giêng, tháng hai thường mời đào, kép họ Vũ ở Phú Mỹ đến hát thờ thần. ____________________ (1). Khâm định Việt sử. Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ. (3) Lịch sử Việt Nam tập I, Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, trang 166, xuất bản năm 1971. (4) Như vậy là ở làng Đình Thôn đã mất ruộng cho cô Đào An, chứng tỏ ở xã Mỹ Đình ngày nay không phải chỉ có cô Đào Mẫu được vua ban ruộng mà còn có cả cô Đào An, chưa rõ cô Đào An có thuộc dòng dõi cô đào Mẫu không, và cô Đào An sống vào đời vua nào. (2).

<span class='text_page_counter'>(96)</span> THẦN MIẾU ĐỒNG CỔ Sau khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, đổi tên là Thăng Long, xây dựng một nước Đại Việt thịnh trị. Năm 1020, hoàng tử Lý Phật Mã đem quân đi dẹp loạn ở phương Nam. Thái tử đi đến chân núi Khả Thanh, còn gọi là núi Đồng Cổ ở Trường Châu thì nghỉ lại bên một ngôi miếu cổ. Canh ba đêm ấy, trong cõi mung lung, Thái tử chợt thấy một dị nhân, thân cao tám thước, mày râu cứng nhọn, mặc chiến bào, tay cầm binh khí, đến trước Lý Phật Mã cúi đầu tâu rằng: “Tôi là Thần Miếu Đồng Cổ, nghe tin Thái tử sắp sang đánh Phương Nam, tôi xin theo giúp để phá giặc, lập chút công nhỏ”. Thái tử nghe nói vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy luôn. Hôm sau tiến quân đến đất Chiêm, trận ấy quả nhiên đại thắng. Khi khải hoàn về qua Trường Châu, Thái tử bèn sai quân sửa sang, lễ tạ rồi rước Thần về Kinh đô để giữ nước, hộ dân. Đang chọn đất khắp ngoại thành, chưa biết nên lập đền chỗ nào thì đến đêm, Thái tử lại thấy Thần báo mộng: “Xin lập đền ở bên hữu, trong đại thành, sau chùa Thành Thọ”. Thái tử theo lời, cho hưng công xây dựng, không bao lâu đền dựng xong. Đến khi Thái Tổ mất (1028), Thái tử lên nối ngôi, tức Thái Tông. Đêm mộng thấy thần nhân đến báo rằng “Ba vị tướng, em vua mưu làm phản, định đem giáp binh đến, xin nhà vua đề phòng!” Vua thức dậy còn chưa tin, đến sáng sớm thấy xảy ra đúng như lời Thần báo. Vua rất lấy làm lạ, xuống chiếu phong Thần làm “Thiên hạ minh chủ” gia tước Đại vương, lại phong “Vinh chủ gia tướng Đại vương Đồng Cổ”. Đến năm Trùng Hưng thứ nhất, sắc phong là “Linh ứng đại vương”. Đến năm thứ tư, gia phong hai chữ: “Chiêu cảm”. Năm Hưng Long thứ 21 gia phong hai chữ “Bảo Hựu”. Từ đó trở đi, hàng năm cứ đến ngày 4 tháng 4, vua và các quan nhất phẩm trong triều đều đến miếu Đồng Cổ làm lễ tạ thần. Khi mặt trời mọc thì làm lễ uống máu ăn thề có sự chứng giám của Thần. Các quan võ đều tuốt gươm, quan văn giơ cao tay thề: “Làm tôi bất trung, Làm con bất hiếu Thần minh chu diệt” Sau đó nhân dân mở hội kéo dài hai, ba ngày. Có đủ các trò chơi như đu tiên, bắt vịt, bắt dê, chọi gà, cờ tướng. Riêng hát chèo, tuồng thì kéo dài tới nửa tháng. Trải qua những năm tháng kháng chiến chống Pháp, ngôi miếu hầu như bị phá hủy. Năm 1955, nhân dân vùng Bưởi vớt những bộ ngai sơn son, thếp vàng, chiêng, lọ độc bình và một số đồ cúng tế từ dưới ao lên, dựng một mái ngói tạm thời để che chắn mưa nắng..

<span class='text_page_counter'>(97)</span> Năm 1960 do nhận thức chưa đúng đắn về di tích lịch sử, hễ cứ đền chùa miếu mạo là ghép chung vào hủ tục mê tín, dị đoan, nên sở Văn hóa – Thông tin Hà Nội đã đem một số đồ thờ bằng đồng, đá, gỗ đi rồi để thất lạc. Mãi đến những năm đầu thập kỷ 90, nhận thức về tín ngưỡng, về di tích lịch sử đã có đổi mới, nên dân quyên tiền tu tạo lại đền. May sao được một hiệp chợ ở Thạch Thất (Hà Tây) chuyên làm đình chùa, có ông trùm phường cho biết theo ông cha kể lại thì ông cha đã tu sửa đền Đồng Cổ, nên đến xin hưng công. Các vị cao tuổi biết đền từ trước ngày Toàn quốc kháng chiến tháng 12 – 1946 đã mô tả lại kiến trúc của đền, nên đền mới có quy mô dáng dấp gần như xưa. Đền nay cũng có Tam quan, cầu qua sông Tô Lịch có hoa viên, núi non bộ. Chính giữa miếu có gian nhất bái, nhị bái rồi tới hậu cung. May thay đồng bào còn giữ được ba cỗ ngai lớn có trên 200 năm, nay trên ngai có mũ, áo, dưới chân ngai có hia của Thần. Năm 1995 một đoàn đại biểu thôn Châu Nê, xã An Định, tỉnh Thanh Hóa – nơi có miếu Đồng Cổ mà xưa Thái tử Lý Phật Mã đã nằm mộng và đã đưa Thần về thờ ở Thăng Long ra dự lễ tế Thần Đồng Cổ đã tham khảo kiến trúc của đền để về xây lại đền ở chân núi Đồng Cổ đã bị san phẳng từ lâu. ÔNG HOÀNG LỆ MẬT Vào thời Lý Thái Tông (1028 – 1054), có một nàng công chúa được vua yêu dấu chèo thuyền du ngoạn trên sông Thiên Đức (sông Đuống). Vào một ngày êm ả bỗng sống dữ nổi lên, thuyền công chúa bị chìm, quan quân mò tìm mãi không thấy thi hài công chúa. Nhà vua xót thương cô con gái yêu quý bỏ mạng nơi sông nước làm mồi cho thuồng luồng, thủy quái, liền ban bố lệnh: “Nếu ai vớt được thi hài công chúa thì được ban tước vị và thưởng rất hậu”. Có rất nhiều võ quan, quân sỹ từng chiến đấu trên sông nước và những nhà thuyền chài giỏi bơi lội ở dọc hai bờ sông Thiên Đức và sông Hồng trổ tại lặn, ngụp để tìm thi hài công chúa. Song những cố gắng của họ trong suốt mấy ngày ròng rã đổ xuống sông, xuống biển. Duy chỉ có chàng trai họ Hoàng ở làng Lệ Mật giỏi nghề sông nước, có tài bắt rắn, lại có sức khỏe, dũng cảm, mưu trí đã xông xáo tỏng vụng nước xoáy dữ dội, ác chiến với thủy quái, giành giật thi hài công chúa từ hang ổ của Thủy quái. Được nhìn thấy thi hài của công chúa còn nguyên vẹn, chết và ngâm nước mấy ngày mà da dẻ vẫn hồng hào, như đang trong giấc ngủ, nhà vua vừa mừng vừa xót xa thương cảm. Giữ đúng lời, nhà vua ban cho chàng trai họ Hoàng chức “Thái giám nội thị tự khanh”, ban thưởng cho rất nhiều vàng bạc, lụa là cho chàng, nhưng chàng trai họ Hoàng làng Lệ Mật tạ ơn vua,.

<span class='text_page_counter'>(98)</span> không muốn hưởng sự giầu sang phú quý cho riêng bản thân mình, mà tâu xin nhà vua cho dân nghèo làng Lệ Mật và các làng xung quanh được sang phía Tây kinh thành Thăng Long khai khẩn đất hoang lập trang trị, mở mang đồng ruộng. Vua thấy chàng trai nghĩ đến dân, đến nước, việc đó lại phù hợp với chính sách khuyến nông của Triều đình nên ưng thuận. Chàng trai họ Hoàng làng Lệ Mật dẫn dân Lệ Mật và các làng xung quanh vượt sông Nhị Hà sang phía Tây kinh thành Thăng Long khai hoang lập ra 13 trang trại gọi là “Thập tam trại” (nay thuộc quận Ba Đình, Hà Nội). Chẳng bao lâu vùng đất “Thập tam trại” trở nên đông vui trù phú, cung cấp nhiều lương thực, thực phẩm và cả hoa tươi quả lạ cho kinh thành Thăng Long. Theo truyền thuyết thì sau khi “Thập tam trại” trở thành đơn vị hành chính, làm ra lúa gạo thì chàng trai họ Hoàng sung vào quân ngũ, tham gia chinh phạt Chiêm Thành xâm phạm bờ cõi và trở thành viên tướng giỏi. Nhớ ơn công đức của chàng trại họ Hoàng, khi chàng mất, nhân dân lập đền thờ, sau tôn làm Thành hoàng làng Lệ Mật (1). Làng cũng phát triển nghề bắt rắn, nuôi rắn, chế biến rượu thuốc, các loại dược liệu khác, cùng thức ăn đặc sản từ rắn. Nghề này nối tiếp từ đời nọ truyền đến đời kia và Lệ Mật trở thành làng bắt rắn, nuôi rắn, chế biến các sản phẩm từ rắn nổi tiếng nhất nước. Hội làng Lệ Mật tổ chức từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 3. Dân làng Lệ Mật và dân ở “Thập tam trại” đều trở về bái vị Thành hoàng cũng là người khai sinh ra “Thập tam trại”, người anh hùng của làng, của nước. Lễ hội Lệ Mật đặc sắc bởi các nghi thức và trò diễn như sau: - Ngày 21 tháng ba, làng tổ chức đánh bắt cá ở giếng làng lấy cá chép làm gỏi cúng thần. Tương truyền tục hèm này là khi chàng trai làng Lệ Mật trở thành viên tướng khi thắng trận ở Chiêm Thành trở về đã khao dân làng bữa gỏi cá. Nhưng đây cũng là tập tục của những làng ven sông mà buổi sơ khai sống chính bằng nghề chài lưới đánh bắt cá. Thủ tục đánh cá cũng theo nghi lễ bắt buộc diễn ra trong cảnh cờ xí rợp trời, trống chiêng dậy đất ở quanh giếng làng. Thuyền của 12 chàng trai trong làng tiến ra giếng quăng chài rồi nhẩy xuống xua cá vào trong lưới. __________________ (1). Theo Thần phả đình Cống Vị quận Ba Đình, thì Cống Vị là một trong 13 trại (Thập tam trại). Đình làng thờ ông Hoàng Phúc Trung là con ông Nguyễn Văn Quang và bà Hoàng Thị Tâm quê ở làng Lệ Mật làm Thành hoàng. Năm 16 tuổi dưới triều Lê Thái Tông làm giám quan, rất giỏi võ nghệ, có sức mạnh phi thường. Công chúa bị Thủy tề nổi sóng cướp, Hoàng Phúc Trung giao đấu với thủy tộc vớt được xác công chúa lên bờ. Vua thưởng vàng bạc lụa là không lấy chỉ xin vua co dân Lệ Mật sang khai hoang lập trang trại ở phía Tây kinh thành lập ra “Thập tam trại”. Ông mất năm Kỷ Hợi (1059 đời Lý Thánh Tông)..

<span class='text_page_counter'>(99)</span> Theo tục thì cá đánh được phải là cá chép “cá của công chúa gửi từ Hồ Tây về trong một trận nước lũ”, các con cá đó phải được đánh dấu bằng những vệt màu đỏ, vàng hoặc xanh “Đánh được cá, ông Mạnh bái phải đặt cá sống vào chiếc khay, phủ nhiễu điều đến miếu công chúa trên bờ giếng làm lễ trình. Sau khi cá được làm gỏi để tiến cúng thì cuộc đánh cá vẫn tiếp tục, những con cá đó cũng được làm gỏi để cả làng cũng hưởng. Ngày 23 chính hội làng trình diễn trò: “Chàng trai họ Hoàng đánh thủy quái cứu công chúa”. Để có được tiết mục độc đáo này, từ nhiều ngày trước đó làng đã phải chọn những chàng trai khỏe mạnh, tập múa điệu “Múa rắn”. Một chàng trai to, khỏe nhất, có đức độ, trong nhà không có tang chế đóng vai chàng trai họ Hoàng. Làng cũng chọn một thiếu nữ trẻ trung xuân sắc đóng vai công chúa. Làng kén chọn người tài giỏi làm hình nộm Thủy quái, đó là một con “mãng xà” nhưng giống như thuồng luồng sống ở dưới vực sâu ở sông Thiên Đức, là con quái vật đã nổi sóng dữ nhận chìm thuyền của công chúa, giữ thi hài công chúa. Đúng ngày 23 tháng 3 chính hội, các nghệ nhân làng Lệ Mật biểu diễn trò này tại sân đình. Vũ điệu trên là các thế võ đã được “nghệ thuật hóa” thành điệu múa vừa hùng tráng, quyết liệt thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người anh hùng, lại vừa uyển chuyển, nhịp nhàng của vũ điệu dân gian. Tiếp sau trò diễn trên lại diễn ra cuộc thi ngoạn mục mà cả nước chỉ có ở làng Lệ Mật. Đó là cuộc thi rắn to nhất, dài nhất, đẹp nhất, lạ mắt nhất. Phương thuốc và cách chữa rắn độc cắn hiệu nghiệm nhất, cùng những bình rượu tam xà, ngũ xà, thất xà ngâm với thuốc bắc và những món đặc sản được chế biến từ rắn. Phát huy truyền thống của chàng trai họ Hoàng cách ngày nay tới một nghìn năm, làng Lệ Mật duy trì nghề bắt rắn, nuôi rắn, chế biến rượu, các loại thuốc từ rắn, lấy nọc rắn phục vụ cho y học. Trong làng có hàng trăm hộ nuôi rắn, rắn độc được người Lệ Mật thuần hóa hiền lành như mèo, chó trong nhà vậy. Tại phố Việt Hưng ở đầu đường quốc lộ 1A và đầu đường quốc lộ 5 có tới hàng chục cửa hàng đặc sản rắn. Đây là làng bắt rắn, nuôi rắn, sử dụng các sản phẩm của rắn đứng hàng đầu trong nước. LÝ THÁNH TÔNG Lý Thánh Tông tên thật là Nhật Tôn, là con trưởng Lý Thái Tông. Mẹ là Kim Thiên Thái hậu họ Mai. Vua sinh ở cung Long Đức. Ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023) (năm Thiên thành thứ nhất – 1028) Nhật Tôn được tôn làm Đông cung Thái tử. Những khi vua Thái Tông đi đánh giặc thường sai ông trông coi việc nước. Sau ông được phong làm Khai Hoàng vương ở điện.

<span class='text_page_counter'>(100)</span> Long Đức. Khi vua Thái Tông bị bệnh sai ông ra coi chầu, trông coi việc nước. Ngày 1 tháng 11 năm Giáp Ngọ (1054), vua Lý Thái Tông băng hà, ông lên ngôi Hoàng đế, là vị vua thứ ba triều Lý. Khi lên ngôi, Thánh Tông khéo nối theo sự nghiệp của Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông. Năm 1054 ngay khi mới lên ngôi, nhà vua đặt quốc hiệu là Đại Việt, tỏ ý ngang hàng với Đại Tống. Nhà vua đặt niên hiệu 5 lần là: Long thụy thái bình (11/1054 – 1059); Chương thánh gia khánh (1059 – 1065); Long chương thiên tự (1066 – 1067); Thiên huống bảo tượng (1068 – 7/1069); Thần Vũ (8/1069 – 1071). Vua mộ đạo Phật, đã từng đi ở chùa, làm nhiều chùa, tháp, có lòng thương dân. Sách Việt Sử lược ghi những lời nhân đức của Thánh Tông: “Gặp tiết đại hàn, nhà vua bảo các quan tả, hữu rằng: “Trẫm ở trong thâm cung, sưởi lò than quế, mặc áo hổ cừu, thế mà khí lạnh còn ghê gớm đến thế. Huống chi những người bị giam cầm trong ngục, khổ sở vì gông cùm, ngay gian chưa định rõ, bụng không đủ cơm no, áo không kín thân thể, mỗi khi gặp cơn gió bấc thổi, há chẳng là vô tội mà chết oan ư? Trẫm rất lấy làm thương xót. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai bữa cơm cho họ”. Nhìn công chúa Động Thiên, vua bảo ngục lại: “Ta yêu con ta cũng như bậc cha mẹ trong thiên hạ yêu quí con cái họ. Trăm họ không biết gì nên tự phạm vào hành pháp, lòng ta rất xót xa. Cho nên từ nay về sau, không cứ tội nặng nhẹ, đều nhất luật khoan giảm”. Nhà vua khuyến khích phát triển nông nghiệp như cho dân khai hoang, đào kênh mương, khơi sông, đắp đê phòng lụt, ra lệnh cấm giết trâu. Năm 1056 nhà vua ban chiếu “Khuyến nông”. Khi hạn hán lụt lội, nhà vua đều miễn hoặc giảm thuế cho dân. Nghề trồng dâu, nuôi tằm phát triển, thủ công nghiệp mở mang. Về võ công, đời Lý Thánh Tông cũng có nhiều chiến công. Tháng 2 năm Kỉ Dậu (1069), Lý Thánh Tông được tin cấp báo “Chế Củ, được vua Chiêu Thành Tống Thần Tông giúp thuyền, ngựa, binh khí, đem quân xâm lấn Đại Việc đã đến gần bờ cõi”. Để bảo toàn đất nước, nhà vua nói với Thái sư Lý Đạo Thành, Thái úy Lý Thường Kiệt giao quyền nhiếp chính cho Nguyên phi Ỷ Lan với nhận xét: “Ỷ Lan là người có đức độ, tài năng, được lòng quần thần: Nguyên phi biết sắp đặt đường đi, nước bước của triều đình cũng không thua kém bất cứ bậc anh hùng danh tướng nào về mặt trí tuệ, cách dùng người. Việc cố kết lòng dân, kể cả việc bình tĩnh khi gặp khó khăn nguy hiểm”. Sau khi giao quyền nhiếp chính cho Nguyên phi Ỷ Lan, tháng 2 năm Kỉ Dậu (1069), Lý Thánh Tông và Lý Thường Kiệt làm lễ xuất quân..

<span class='text_page_counter'>(101)</span> Vua và Đại tướng Lý Thường Kiệt tiến vào kinh thành Champa (Trà Bàn) (thành Phật Thệ tức Vijaya, Bình Định). Vua Lý và Đại tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy quân đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi Đại Việt, tiến tới sát kinh thành. Vua Chiêm là Chế Củ chạy thoát. Lúc đó vua được tin báo trong nước đói khát. Vua lo không rõ Nguyên phi giải quyết thế nào, vì dân đói sẽ sinh ra trộm cướp. Nhà vua giao binh quyền cho Đại tướng Lý Thường Kiệt đem một toán quân nhỏ trở lại triều đình. Nhà vua đến châu Cự Liên (1) nay thuộc huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên thì nhà vua gặp một đoàn thuyền tải lương tiếp tế ra mặt trận đi ngược lại. Nhà vua lên bờ gặp các bô lão hỏi tình hình đất nước, thì hết thảy mọi người đều ca ngợi vua bà có tài trị quốc, an dân, dân không bị đói, mọi nơi đều hăng hái sản xuất, cuộc sống no đủ. Vua Thánh Tông nói với quân sĩ đi theo: “Nguyên phi là đàn bà mà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?”. Nhà vua lập tức quay lại chiến trường, đánh tan lực lượng quân của vua Chămpa rồi rút quân về nước, bắt quốc vương Chămpa phải cắt đất ba châu Bố Chính, Đại Chính, Ma Linh (Quảng Bình, Bắc Quảng Trị) nhường cho nhà Lý. Sau khi đánh thắng Chămpa, vua trở về cải cách hành chính, chấn hưng việc học. Năm 1070, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ, dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ. Nhà vua mộ đạo Phật, năm 1071 Nhà vua du ngoạn vùng Phật Tích viết chữ Phật dài một trượng 6 thước (khoảng 5 mét), sai khắc vào đá để ở chùa trên núi Tiên Du. Ngày 8 tháng 8 năm Nhâm Tý (1072), vua lâm bệnh nặng rồi băng hà tại điện Hội Tiên, thọ 50 tuổi. Lý Nhân Tông hiệu là Càn Đức là con trưởng của Lý Thánh Tông và Thái hậu Linh Nhân – Nguyên phi Ỷ Lan lên ngôi vua, Vua Thánh Tông được an táng ở Thọ lăng Thiên Đức, hương Cổ Pháp quê nhà. Lý Thánh Tông được thờ cúng với bẩy vua Lý ở đền Đô gọi là đền Lý Bát đế. Trong số chùa, tháp Lý Thánh Tông xây có Cảm Ứng tự, tên Nôm là Chùa Mứng ở phường Láng Hạ. Công chúa con vua Lý Thánh Tông cũng tu hành ở chùa này đến khi mất. Năm 1072 Lý Thánh Tông băng hà, nhân dân vùng Láng đã tạc tượng nhà vua và công chúa phụ thờ ở Tam Bảo, tượng nay vẫn còn.. ___________________ (1). Có sách viết là Châu Mạt Liên..

<span class='text_page_counter'>(102)</span> LINH NHÂN HOÀNG THÁI HẬU Ỷ LAN Ỷ Lan sinh ngày 3 tháng 7 năm Giáp Thân (1044) người làng Thổ Lỗi, hương Thổ Lỗi, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn Ngọc Quỳnh xã Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Ỷ Lan vốn tên là Tấm, lại có tên là Khiết, là con ông Lê Công Thiết và bà Vũ Thị Tình, cha là một vị quan nhỏ ở Tràng An, mẹ ở nhà làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm. Năm Ỷ Lan 12 tuổi thì mẹ qua đời, ông Thiết từ quan ở nhà nuôi dạy Ỷ Lan học. Nàng rất thông minh, học một biết mười, thường đem những điều đã học trong sách so sánh với cuộc sống. Ba năm sau đoạn tang mẹ, cha lấy một người phụ nữ họ Đổng làm kế mẫu. Nàng không được học nữa mà phải giúp mẹ kế công việc đồng áng, hái dâu, chăn tằm. Lý Thánh Tông, đời vua thứ ba triều Lý, đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi. Vua và hoàng hậu Thượng Dung đi cầu tự nhiều nơi nhưng không thành. Vào năm 1053, đình thần nhà Lý bàn mở hội cầu duyên ở hương Thổ Lỗi thuộc huyện Tế Giang, phủ Thuận Thành, trấn Kinh Bắc, ngày nay là thôn Ngọc Quỳnh, xã Như Quỳnh huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên. Nhà vua ra chỉ dụ các đền, chùa Keo, Dâu, Khám, Ná, Dương cũng mở hội. Trẻ già, trai gái nô nức đi hội, nhưng nàng Khiết vẫn đi hái dâu. Tiếng nhã nhạc từ đám rước vua và ở các đền chùa vọng tới, khiến tâm hồn Khiết nương hào hứng, nàng cất tiếng hát: “Tay cầm một mảnh trăng vàng, Trăm ngàn cỏ dại qui hàng tay ta Dẫu rằng bão táp mưa sa Suốt đời ta chẳng buông tha chúng mày!” * * * Khi xa giá vua đến nơi, mọi người bỏ chạy, Khiết nương vẫn say sưa hát. Vua lấy làm lạ sai quân hầu cận vời đến. Khiết nương tới trước mặt vua, sụp lạy thưa: - Hạ dân kính chúc Chúa thượng vạn thọ vô cương. Vua thấy cô gái mặc áo quần tầm thường, chứng tỏ gia cảnh nghèo nàn, nhưng cử chỉ khoan thai, ung dung, tự tin, liền hỏi: - Sao nhà ngươi không mặc đẹp đi dự hội như loa truyền? Khiết nương thưa: - Muôn tâu bệ hạ, hạ nương mẹ mất sớm, ở với mẹ kế, nhà nghèo không có quần áo đẹp, dám đâu trái lệnh vua. Vua hỏi lại: - Vậy không có quần áo đẹp, sao không ở nhà, mà lại tới hội? Khiết nương bình tĩnh thưa:.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> - Muôn tâu Thánh thượng, nếu hạ dân ở lại nhà thì phạm tội bất tuân lệnh vua. Hạ dân phải nghe dì đi hái dâu. Vì nhà hạ dân có mười nong tằm đang ăn rỗi. Nếu hạ dân đi hội, để tằm chết thì sẽ tội lớn với sinh linh, còn lớn hơn tội với vua. Hạ dân ra đây bất ngờ gặp bệ hạ, đó là nhà hạ dân có phúc lớn, chứ đâu có tội? Vua nghe lời đối đáp vừa có lý lẽ lại vừa có tình không thể bắt bẻ được. Vua truyền các quan mang quần áo, khăn, hài cho Khiết nương rồi cho nàng cùng đi ra chùa lễ Phật cầu phúc cầu duyên. Lễ hội xong, vua đưa Khiết nương về kinh thành Thăng Long, đặt tên hiệu là Ỷ Lan phu nhân tức là người con gái đẹp đứng dựa gốc lan. Nhà vua xây cung điện riêng cho Ỷ Lan, nay nằm trong khu vực phố Đường Thành và ngõ Tạm Thương. Vua mở tiệc mừng, các quan trong triều, hoàng hậu, cung phi, cung nữ đều đến dự. Vua phong Ỷ Lan là Hoàng phi. Tại cung, vua Lý Thánh Tông mời các vị cao nho đến giảng giải kinh sách cho Hoàng phi Ỷ Lan. Sẵn trí thông minh lại hiếu học, bà đã tiếp nhận tinh hoa của Nho giáo, bà cũng nghiên cứu cả Phật giáo, Lão giáo. Bà còn học, nghiên cứu phép giữ nước của các vua xưa. Ước mong của Lý Thánh Tông đã được toại nguyện, ngày 25 tháng giêng năm 1066, Hoàng phi Ỷ Lan sinh một trai, vua đặt tên là Càn Đức và phong làm Hoàng Thái tử, Ỷ Lan cũng được phong lên Thần phi. Năm 1067 Thần phi Ỷ Lan lại sinh hoàng tử là Minh nhân vương. Bà được phong là Nguyên phi, đứng đầu các phi, chỉ sau hoàng hậu. Tháng 2 năm 1069, Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành vì Chế Củ vua Chiêm được Tống Thần Tông giúp đỡ binh khí, thuyền bè để đánh Đại Việt. Vua bàn với Thái sư Lý Đạo Thành và Thái úy Lý Thường Kiệt giao cho Ỷ Lan điều khiển công việc triều chính, năm đó bà mới 25 tuổi. Vua nói với hai vị đại thần: “Ỷ Lan là người có đức độ, tài năng, được lòng quần thần. Nguyên phi biết sắp đặt đường đi nước bước của Triều đình cũng không thua kém bất cứ bậc danh tướng nào về trí tuệ, về cách dùng người. Việc cố kết lòng dân, kể cả việc bình tĩnh khi gặp khó khăn, nguy hiểm”. Nguyên phi sắp xếp lại kỉ cương trong triều, ngoài trấn, bà bắt các quan phải báo cáo đúng sự thực. Bà còn thường xuyên tới các địa phương giám sát các quan lại. Tuy giữ quyền giám quốc nhưng bà đã đoàn kết được hoàng tộc, quan lại. Trong khi thi hành các chính sách, bà luôn luôn quan tâm đến quyền lợi của dân, giảm các sự đóng góp nặng nề. Bà còn trực tiếp xử án, có chính sách khoan dung, nhân đạo. Là phụ nữ bà rất quan tâm đến chị em như bỏ tiền ra chuộc những phụ nữ bị bán, gả chồng cho họ, cho một số cung nữ nhiều tuổi về nguyên quán..

<span class='text_page_counter'>(104)</span> Bà rất kiên quyết trị tội bọn quan lại tham nhũng, đem lại sự công bằng trong pháp luật. Những vùng đói kém được bà chẩn cấp. Bà rất coi trọng phát triển sản xuất nông nghiệp, coi trọng cả lúa, mầu, cả bông, chàm, đay, dâu để chăn tằm. Bà đã nhiều lần ra lệnh cấm giết trâu bò, xử phạt rất nặng bọn giết và trộm cắp trâu bò. Trong khi đó vua Lý Thánh Tông nghe tin trong nước mất mùa, việc đánh giặc gặp khó khăn, vua kéo quân về. Đến Cự Liên nay thuộc Hưng Yên nhà vua đóng quân lại nghe ngóng thì thấy dân no đủ, mọi người đều khen ngợi vua bà. Nhà vua nói với tướng sĩ: “Nguyên phi là đàn bà mà làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng làm được việc gì hay sao?”. Vua chấn chỉnh đội ngũ lại đi đánh Chiêm Thành và đã chiến thắng, lấy được ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính. Năm 1072 vua Lý Thánh Tông băng hà, Hoàng thải tử Càn Đức mới lên 6 tuổi lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Lý Nhân Tông, Ỷ Lan được phong là Hoàng Thái phi. Trước tình thế quân Tống lăm le xâm lược Đại Việt, khi đó Ỷ Lan đã được phong là Linh Nhân Hoàng Thái hậu giữ quyền giám quốc, nhiếp chính triều đình. Bà đã bàn với Thái úy Lý Thường Kiệt dẹp mối bất hòa với Thái sư Lý Đạo Thành(1), vời Thái sư về Triều đình cùng trông coi việc nước với Linh Nhân Hoàng Thái Hậu để Lý Thường Kiệt chuyên lo việc quân. Quan quân và dân thấy hai vị đại thần đã giải hòa với nhau, cùng lo việc nước thì thấy đều vui mừng, càng thắt chặc đoàn kết chuẩn bị đánh Tống xâm lược. Quân do thám về báo là quân Tống đang tập trung binh mã, lương thảo ở ba châu Ung – Long – Khâm để đánh Đại Việt. Lý Thường Kiệt nhận thấy Ung Châu ở vị trí quan trọng vì từ Ung Châu có thể đánh vào Quảng Nguyên (Cao Bằng), Lạng Sơn, Vĩnh An (Móng Cái). Thái úy Lý Thường Kiệt đã đề xuất với Linh Nhân Hoàng Thái Hậu là: “Ngồi yên đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc”. Ỷ Lan đã chuẩn y kế sách đó và giao cho Lý Thường Kiệt, Tông Đản đem quân đánh phá ba châu Ung, Khâm, Liêm. Nhiếp chính Ỷ Lan và Thái sư Lý Đạo Thành lo hậu cần, phòng thủ đất nước để chống quân Tống sang đánh báo thù. Ngày 18-1-1076 quân ta tiến quân, sau 42 ngày chiến đấu, ngày 1-31076, quân ta phá tan ba thành, giết tướng thu binh khí, lương thực đưa về __________________ (1). Lý Đạo Thành quê ở hương Cổ Pháp, hoàng tộc nhà Lý, ông ủng hộ Thượng Dương hoàng hậu, Lý Thường Kiệt ủng hộ Nguyên phi Ỷ Lan. Lý Đạo Thành đưa Thượng Dương Thái Hậu lên chức Nhiếp chính. Khi Càn Đức lên ngôi vua thì Ỷ Lan được tôn làm Linh Nhân Thái Hậu, Lý Thường Kiệt được cất lên làm Tể chấp cầm quyền binh thì Thái Hậu Dương Thượng bị truất quyền nhiếp chính, Lý Đạo Thành bị giáng cho về coi châu Nghệ An..

<span class='text_page_counter'>(105)</span> Đại Việt. Biết trước vua Tống sẽ đưa quân sang đánh báo thù, tháng 4 năm 1076, Lý Thường Kiệt chủ động rút quân về, lập phòng tuyến sông Cầu. Hoàng Thái hậu Ỷ Lan đã đưa vua Lý Nhân Tông lên phòng tuyến sông Cầu, cùng Lý Thường Kiệt, Tông Đản chuẩn bị đánh giặc. Quân dân cả nước nức lòng. Phòng tuyến sông Cầu là một kỳ tích của Lý Thường Kiệt, là một công trình quân sự to lớn thời Lý để chặn giặc từ hướng Bắc tới. Lý Thường Kiệt còn giao cho Lý Kế Nguyên chỉ huy thủy quân phòng thủ ở Đông Bắc không cho quân Tống theo sông Bạch Đằng đánh vào đất liền. Còn đại bộ phận thủy quân do hai hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn chỉ huy đóng ở Vạn Xuân (Bắc Ninh) để cơ động ứng cứu cho bộ binh và thủy quân. Tháng 12 năm Bính Thân (1076) vua Tống sai Quách Quỳ, Triệu Tiết sang đánh Đại Việt. Quân Tống bị chặn lại ở phòng tuyến sông Cầu. Quách Quỳ liều chết đánh sang bị thất bại. Lý Thường Kiệt cho Hoằng Chân, Chiêu Văn đổ bộ sang bờ Bắc đánh phá quân Tống. Tháng 3 năm 1077 quân Tống phải rút chạy và cam chịu thất bại nhục nhã. Mất 30.000 quân, 7000 ngựa, 5 triệu lạng vàng. Sau khi đánh thắng quân Tống, bà đã cùng vua Lý Nhân Tông chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Nguyên phi Ỷ Lan rất coi trọng nghề nông, bà coi “Con trâu là đầu cơ nghiệp” nên đã hai lần ra sắc chỉ phạt tội nặng những kẻ ăn trộm trâu. Tháng 2 năm Đinh Dậu (1117), Hoàng Thái hậu Ỷ Lan ra lệnh cấm mổ trâu, nhưng vẫn không giảm. Bà ra lệnh nghiêm ngặt hơn: “người nào mổ trộm trâu, bị đánh 100 trượng, đề làm khao giáp (người phục dịch trong quân đội), vợ cũng bị đánh 80 trượng, người láng giềng biết không báo cũng bị đánh 80 trượng”. Linh Nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan cũng đi thăm nhiều vùng đất nước, giúp đỡ người nghèo. Theo thần tích ở đền Đồng Bào, xã Gia Xuyên, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương có đình, đền, chùa thờ Hoàng Thái hậu Ỷ Lan chép: “Hoàng Thái hậu đã chu cấp vàng bạc, cho xã Đồng Bào chấn hưng nghề nông, giúp đỡ người nghèo”. Bà cũng đã phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt gấm vóc. Bà đã cho xây dựng cơ sở dệt gấm vóc cho nhà vua và triều đình không mua của phương Bắc, bà khuyến khích các quan trong triều dùng hàng nội hóa, cấm nhập gấm vóc của nhà Tống. Đối với văn hóa bà đã đưa các kỹ nữ, nhạc công hát hay, múa giỏi, sáng tác các làn điệu dân ca như hát ru, trống quân, giao duyên vào biểu diễn trong triều đình. Hoàng Thái hậu Ỷ Lan cũng là người sùng đạo Phật, bà đã cho dựng 72 ngôi chùa lớn. Bà đã cùng các vị cao tăng đàm đạo về lý thuyết của đạo.

<span class='text_page_counter'>(106)</span> Phật. Năm 1096, bà đã làm cỗ chay ở chùa Khai Quốc (chùa Trấn Quốc) thết đãi các tăng ni, nghiên cứu đạo Phật du nhập vào nước ta, coi như cuốn sử của đạo Phật ở nước ta. Bà đã làm bài kệ nổi tiếng: “Sắc thị không, không thị sắc Không thị sắc, sắc thị không Sắc không giai mặc quản Phương đắc thế chân tông” Dịch nghĩa: “Sắc là không, không là sắc Không là sắc, sắc tức không Sắc không đều chẳng quản Mới được hợp chân tông”. Năm 1115, khi Lý Nhân Tông đã điều hành được đất nước, bà về hẳn quê nhà ở Ghềnh, Sủi nghỉ ngơi, nghiên cứu đạo Phật, xây dựng Thủy lâu đài tu tại gia. Hai năm sau bà qua đời vào giờ Dần, ngày 25 (Giáp Tý) tháng 7 (Mậu Thân) năm Đinh Dậu (1117) ở tuổi 74, an táng tại Thọ Lăng, phủ Thiên Đức (Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh), đặt tên thụy là Phù Thánh linh nhân Hoàng Thái hậu. THÁI ÚY LÝ THƯỜNG KIỆT Lý Thường Kiệt tên thực là Ngô Tuấn sinh năm 1019 quê ở phường Thái Hòa, thành Thăng Long(1). Lúc trẻ rất bảnh bao, tự thiến mình để tỏ ra là người có chí hướng. Ông ham đọc sách, say sưa nghiên cứu kinh thư, luyện tập võ nghệ. Dưới triều Lý Thái Tông, ông được sung chức Hoàng môn chi hậu, theo hầu Thái Tông, mấy lần thăng đến chức Đô tri ở Nội sảnh. Lý Thánh Tông phong ông làm Thái bảo, trao cho Tiết Việt. Năm Thiên hướng bảo tượng thứ hai (1059), trước việc nhà Tống viện trợ quân sự cho vua Chế Củ nước Chăm Pa để đưa quân đánh phá phía Nam nước Đại Việt, thu hút lực lượng quân sự của triều Lý, để quân Tống đánh chiếm phía Bắc. Trước tình hình đó Lý Thánh Tông thân chinh cùng đại tướng Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh phá kinh thành Chăm Pa, để phá tan liên minh quân sự này. Quân Lý đã đánh tan lực lượng quân sự của Chăm Pa, bắt được Chế Củ vua Chăm Pa, Chế Củ phải cắt ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh (Quảng Bình, bắc Quảng Trị) cho nhà Lý. ____________________ (1). Theo bài Minh năm 1647 ở chùa thôn Bắc Biên, huyện Gia Lâm, Hà Nội thì Lý Thường Kiệt quê ở phường An Xá, vốn ở trong thành Thăng Long, sau dời ra bãi sông Hồng, đổi tên là phường Cơ Xá..

<span class='text_page_counter'>(107)</span> Do công lao đó, ông được vua phong là Phụ quốc thái phó và nhận chức tiết độ các trấn xa, đồng trung thư môn hạ, Thiên tử nghĩa Phụ quốc Thượng tướng quân, Khai quốc công. Năm 1072, Lý Thánh Tông băng hà, Lý Nhân Tông mới bẩy tuổi lên ngôi, vua Tống coi đó là thời cơ đánh chiếm Đại Việt, nên tích cực chuẩn bị tuyển quân, luyện tập chiến thuật, chiến lược cho tướng sĩ, đóng chiến thuyền, tích trữ lương thảo. Đến năm 1075 thì âm mưu xâm lược nhà Tống đã biến thành hành động xâm lược cụ thể. Vua Tống tập trung binh lực, quân lương, chiến thuyền ở ba châu Ung, Khâm, Liêm để xâm lược Đại Việt. Trước nguy cơ đó, Thái úy Lý Thường Kiệt tâu với Linh Nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan ông dẹp mối bất hòa với Thái sư Lý Đạo Thành (1), triệu Thái sư từ Nghệ An về lo công việc triều đình để ông cùng Tông Đản chuyên lo về quân sự đối phó với quân Tống đang lăm le xâm lược. Linh Nhân Hoàng Thái hậu chuẩn y. Việc Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành là hai viên đại thần dẹp mối bất hòa khiến quan quân và dân Đại Việt vui mừng. Lý Thường Kiệt chủ trương tấn công giặc trước. Ông nói với Linh Nhân Hoàng Thái hậu nhiếp chính: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước chặn mũi nhọn của giặc”. Lý Thường Kiệt chủ trương đưa đại quân sang đánh phá đất Tống. Kế sách của Lý Thường Kiệt là giương Đông, kích Tây bằng cách giao cho Tông Đản chỉ huy mấy vạn thổ binh, hương binh hạ năm liên trại giặc là: Hành Sơn, Thái Bình, Vũ Bình, Thiên Long, Vạn Cổ phòng thủ vòng ngoài thành Ung Châu, buộc địch đóng ở thành Ung Châu, Khâm Châu phải đi cứu. Lý Thường Kiệt chỉ huy 60.000 quân vượt biển đánh úp phía Đông Khâm Châu, Liêm Châu rồi hội quân với Tông Đản đánh phá thành Ung Châu. Cuối tháng 9 năm Ất Mão (tháng 10 – 1075), Tông Đản chỉ huy vượt biên giới đánh phá năm liên trại trên. Bọn chỉ huy quân Tống ở ba thành Ung, Khâm, Liêm đưa quân đi cứu. Tháng 1 năm 1076, Lý Thường Kiệt chỉ huy 60.000 quân vượt biển, đến hải phận của nhà Tống, Lý Thường Kiệt chia làm hai cánh đánh Khâm Châu và Liêm Châu. Ngày 18-1-1076 quân chủ lực của Lý Thường Kiệt đánh phá Khâm Châu. Tướng Tống là Trần Vĩnh Thái, Tổng quân thành Khâm Châu phải xin hàng, các tướng lĩnh, quân sĩ bị quân ta đánh giết. Quân ta thu toàn bộ binh khí, lương thực, thuyền chiến đưa về Đại Việt. Sau đó ông đưa quân đến hỗ trợ cho cánh quân hạ thành Liêm Châu, ba ngày sau thành Liêm Châu bị hạ, tướng Tống là Lỗ Khánh Tồn chỉ huy thành Liêm Châu bị giết chết. Quân ta bao vây thành Ung Châu, Ung Châu là thành lớn, kiên cố do tướng Tô Giám chỉ huy. Ông ____________________.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> (1). Xem chú thích bài: “Linh Nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan”.. cho 1 vạn quân phục kích quân Tống đến tiếp viện ở Côn Lôn. Ngày 4 tháng giêng năm Bính Thìn (11 tháng 2 năm 1076), quân ta đánh tan 10 vạn quân địch, Trương Thủ Tiết chỉ huy cánh quân này bị giết chết. Ngày 1 tháng 3 năm 1076, sau 42 ngày ra quân, quân Đại Việt đã hạ được thành Ung Châu, tháng 4 – 1076 quân ta ca khúc khải hoàn trở về. Sau khi rút quân về nước, Lý Thường Kiệt phán đoán thế nào quân Tống cũng đưa quân sang đánh trả thù nên đã phái nhiều thám tử sang đất Tống thu thập tin tức tình báo quân sự. Do công tác tình báo tốt, Lý Thường Kiệt biết rõ nhà Tống huy động 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa, 20 vạn dân phu đã được điều động xuống các huyện phía Nam Trung Quốc giáp với nước ta. Nhà Tống cũng phái một đạo thủy binh mạnh theo đường biển vào sông Bạch Đằng, phối hợp với bộ binh đánh phá kinh thành Thăng Long và vùng châu thổ sông Hồng. Cả hai cánh quân này do Chánh tướng Quách Quỳ và phó tướng Triệu Tiết là những tướng giỏi của nhà Tống chỉ huy. Để chặn bộ binh Tống, Lý Thường Kiệt bố trí quân phòng thủ từ biên giới trở về để cản địch, đây là lực lượng dân binh người các dân tộc thiểu số. Lý Thường Kiệt biết rõ tất cả các cánh quân bộ đều phải vượt qua sông Cầu, nên ông đã xây dựng phòng tuyến sông Cầu, kéo dài từ chân núi Tam Đảo đến sông Lục Đầu. Sông Cầu được lợi dụng như một chiến hào thiên nhiên lợi hại. Ở bờ Nam là lũy đất cao vài thước như bức tường thành. Phía ngoài chiến lũy ở giáp sông được đóng vài tầng cọc tre, tạo thành một bãi chướng ngại dầy đặc. Sông sâu, thành cao, dậu đầy, tất cả hợp lại thành tuyến phòng thủ vững chắc. Các trại quân đóng phía sau chiến lũy do đích thân thái úy Lý Thường Kiệt chỉ huy. Để đối phó với cánh quân theo đường biển xâm nhập vào, Lý Thường Kiệt giao cho Lý Kế Nguyên đem thủ quân ra phòng thủ hướng Đông Bắc. Còn đại bộ phận thủy quân do hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy đóng ở Vạn Xuân (Bắc Ninh – Bắc Giang) để cơ động tiếp ứng cho cả hai cánh quân bộ và thủy. Cuối năm 1076, bộ binh và kỵ binh Tống vượt biên giới vào nước ta. Lực lượng biên phòng, thổ binh đánh chặn, song không đủ sức cản chúng. Quân Tống tràn tới bờ Bắc sông Cầu đóng trên tuyến dài 30 cây số. Quách Quỳ cho quân bắc cầu phao vượt sông để chọc thủng phòng tuyến quân ta ở bến đò Như Nguyệt, một cánh quân đã tiến về Thăng Long. Lý Thường Kiệt tổ chức phản công, quân Tống bị thiệt hại nặng nề, phải rút chạy về phía Bắc sông Cầu..

<span class='text_page_counter'>(109)</span> Quách Quỳ chờ thủy quân để hai mặt cùng đánh, nhưng thủy quân bị Lý Kế Nguyên chặn lại ở ngoài biển không vào được. Quách Quỳ cho đóng bè vượt sông, nhưng quân sang bờ Nam đều bị tiêu diệt và đầu hàng. Bị thất bại lần thứ hai, Quách Quỳ ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém”. Theo lệnh của Lý Thường Kiệt, hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn dùng 400 chiến thuyền đổ bộ vài vạn quân sang bờ Bắc, hai hoàng tử hi sinh. Lý Thường Kiệt dẫn đại quân vươt sông đánh thốc sang.\ Giữa lúc quân ta đang tung hoành trong trại giặc thì từ đền Trương Hống, Trương Hát ở bờ nam sông Như Nguyệt vang lên bài thơ thần: “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Dịch: “Sông núi nước Nam, vua Nam ở, Rành rành định phận ở sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”. Bài thơ đà kích thích tướng sĩ xông lên giết giặc. Quân Tống đại bại, bị tiêu diệt đến năm, sáu phần mười(1). Sau hơn ba tháng xâm lược nước ta, quân Tống thất bại thảm hại. Lý Thường Kiệt chủ động đặt ra vấn đề điều đình mở lối thoát cho quân Tống rút lui, nước ta cũng tránh được họa binh đao. Quách Quỳ vội vàng nhận giảng hòa rút quân. Tháng 3 năm 1077 quân Tống rút chạy hỗn loạn, giẫm đạp lên nhau mong thoát chết. Trong cuộc xâm lược này, Lý Đào sử gia Trung Quốc viết trong Tục tư trị thông giám trường biên, nhà Tống phải chi phí tốn 5.190.000 lạng vàng, quân số lúc trở về chỉ còn 23.400 lính, 3.174 ngựa. Số lính và phu chết trận và chết bệnh trên đất nước ta và trong trận tập kích thành Ung Châu lên đến con số 30 vạn(1). Năm đầu Long phù (1101), ông lại được thăng lên kiếm chức nội thị phán thủ đô áp nha, coi tất cả các việc trong ngoài điện. Đến năm thứ ba, có Lý Giác người Diễn Châu làm phản, ông đi đánh, dẹp yên. Giác trốn sang Chiêm, dụ vua Chiêm sang cướp biên giới. Năm thứ tư ông lại đi đánh Chiêm Thành và phá tan được. Năm thứ năm, ông chết, được tặng nhập nội điện đô tri kiếm hiệu Thái úy, bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công và thực ấp vạn hộ. Ông có nhiều mưu lược và có tài tướng súy, trải thờ ba triều; đánh Tống, bình Chiêm, công lao đức vọng ngày càng lớn, ______________________ (1). Theo Đại Việt sử lược..

<span class='text_page_counter'>(110)</span> (2). Trình Di, Trình Hạo, Nhị Trình di thư, trong Nhị Trình Toàn thư, Thượng Hải, Trung Hoa thư cục.. được dân yêu, đứng đầu các tước hầu. Sau khi ông chết, dân ở phường ấy thờ làm thần, cầu đảo phần nhiều linh ứng và mấy lần được các triều sắc phong. LINH LANG ĐẠI VƯƠNG Đời vua Lý Thánh Tông (1054 – 1071), ở đạo Sơn Tây, phủ Quốc Oai, huyện Từ Liêm, xã Bồng lai có một người con gái là Dương Thị Quang (còn gọi là Hiếu nương), cha mất từ năm nàng ba tuổi, mẹ nàng là Thái Bà. Sự tích này được sinh ra như sau: … Một hôm Thái bà nằm mộng thấy sao Thái Dương rơi vào trong miệng, bà sợ hãi nói lại với chồng, Nguyễn công liền nói: “Nếu quả như điều mộng ấy, tất trời cho sinh con quý, nhưng đạo trời huyền vi khó lường được họa phúc, sự thực hư trong mộng hãy để nghiệm về sau”. Được 100 ngày Thái bà quả nhiên có mang, đến kì đầy tháng sinh được một gái, sinh vào ngày 15 tháng 3 năm Quí Sửu (1013), có phong tư yểu điệu, lung linh, mặt ngọc tựa Hằng Nga, môi son má phấn, mắt phượng mày ngài, thân có mùi thơm tho. Cha mẹ rất yêu, tròn 3 tháng đặt tên là Hiếu nương. Kịp đến khi 3 tuổi ngày 5 tháng 9 năm ấy, ông bố bị bệnh mất, Thái bà làm lễ an táng ông. Lúc ấy Thái bà có một bà dì lấy chồng ở phường Thi Trai, huyện Vĩnh Thuận, phường Thi Trai sau đổi là trại Thủ Lệ. Nhà chồng dì vốn giầu có, quanh năm buôn bán tơ. Sau mẹ con Thái bà đến đó ở cùng với bà dì và buôn bán ở chợ ấy. Ở đó được hơn một năm lúc đó Hiếu nương mới 17 tuổi, một bông hoa dại mười phần xuân sắc chim sa, cá lặn, nguyệt thẹn hoa thua (công dung ngôn hạnh bốn đức vẹn toàn). Cung thiêm khóa ngọc, thực giá nghiêng thành, trời âu đã định, còn đợi giá cao chưa nối vần quan thư với ai cả. Một hôm vua Lý Thánh Tông ra ngự chơi ở ngoài thành, mọi người hội lại cùng xem. Nhà vua nhìn thấy Hiếu nương đứng xem ở bên phải lề đường, thấy nàng dung nghi rất đẹp, vua trộm nghĩ: “Đây không phải là người thường mà có được, không phải là con gái ở chốn Bồng doanh thì cũng phải là một kiều nương ở nơi làng Uyển”. Vua rất đẹp lòng sai sứ thần đến để hỏi cưới rồi thưởng Thái bà 100 dật vàng. Nhà vua rước nàng về phủ lập làm cung phi thứ chín. Vua vui lòng sai truyền lập cung ở phường Thi Trai (trại chợ) phía bắc Hồ Tây cho Thứ phi. Vua bèn chuẩn cho chỗ ấy làm phường trại Thủ Lệ. Từ đó tông đường hiển quý, làng ấp vinh quang (Bồng Lai là nơi thượng quán, Thi Trai là nơi làm cung sở)..

<span class='text_page_counter'>(111)</span> Trải khoảng ba, bốn năm thì Thái bà bị bệnh rồi mất ở phường Thi Trai. Lúc ấy cung phi tâu tạ trước vua xin về làm lễ an táng. Nhà vua ưng cho và ban vàng bạc lụa là 1000 cân sai đình thần tới giúp an táng ở nơi đất ấy (tức phường Thi Trai). Xong việc cung phi còn ở nhà cư tang chưa dám vào chầu. Được khoảng hai năm, một hôm Hiếu nương qua Hồ Tây tắm giặt để vào chầu vua, đương lúc tắm gội chợt trông thấy một con giao long từ ngoài đầm thẳng tới nơi cung phi đang tắm rồi cuốn vào mình cung phi ba vòng, rớt rãi ra đầy người và đều có mùi thơm. Được một lúc giao long buông ra, trườn tới giữa hồ phun thành đám mây ngũ sắc cuồn cuộn bay lên, rồi giao long chìm mà biến đi. Cung phi bàng hoàng sợ hãi trở gót chạy về khiếp sợ ngã lăn đến năm, sáu lần không dậy được. Lúc ấy vua sai đình thần đem xe loan rước cung phi về chầu vua. Từ lúc ấy trong bụng có mang đến 14 tháng, một hôm cung phi ngồi chơi ở Hoa viên mơ màng thấy một đại trượng phu mình cao chín thước, đầu đội mũ rồng xán lạn, mình mặc cẩm bào, đai ngọc cưỡi mây lướt gió thẳng tới chỗ cung phi ngồi mà nói rằng: “Tôi vốn là con vua Long quân, tên gọi là Hoàng Lang theo lệnh truyền ra đời thác sinh vào làm con vua”. Nói chưa dứt lời thì cung phi đã tỉnh ra. Ngày 12 tháng chạp năm Giáp Thìn, chợt thấy một trận gió to, trời đất tối mờ mịt, hương thơm phức ở chốn phòng lan, khí lành rực rỡ, gió thổi vù vù làm rung động cả trời đất, sấm chớp ầm ầm tối tăm đến 10 ngày. Đêm đó cung phi sinh được một con trai, mặt phượng, cổ rồng, hàm ém, mày hổ, hình dung cao lớn, mặt mũi khôi ngô, sau lưng có 28 ngôi sao như vẩy lên một hàng, giữa cung có sao Bắc đẩu điểm như hạt châu chia làm thất diên. Sinh được 7 ngày nhà vua cứ theo mộng đặt tên là Hoàng Lang tức ngày 20 tháng chạp. Vua sai mở yến mừng xong thưởng ban vàng bạc rồi cho cung phi đem con về cung ấp nơi sở tại (tức phường Thi Trai) ở đó khoảng 1 tháng 7 ngày. Lúc đó giặc Trình Vĩnh khởi loạn từ phương Bắc kéo sang đem nghìn vạn hùng binh xâm chiếm nước ta. Quân như sấm sét loạn động cả kinh thành thế nước nghiêng ngửa, quần thần thấy rất sợ hãi đành phải bó tay. Thư ở biên phòng báo về ngày tới 5 lần, lòng vua lo buồn bèn lập đàn trai giới cáo tế trời đất truyền trăm quan đến các đền bách thần cầu đảo (ở Bồng Lai có hai đền Thần Hưu và Yến Ninh) để âm phù giúp nước dẹp giặc yên dân. Khi lập đền cầu đảo trời đất tối tăm luôn ba ngày thì ngay đêm ấy nhà vua ngự ở cung Thái Hòa, trời đang mưa gió, nhà vua ngủ đi nghe thấy có tiếng tụng thơ bên tai mình: “Thế nước suy nguy có thánh tài Đất nước đã định khá lo thay,.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> Bằng cầu mộ được người tài ấy Trình Vĩnh hồn kinh tán chạy ngay”. Vua nghe tụng dứt lời thì tỉnh ra ngẫm nghĩ: “Mộng ấy hẳn là trời đất thánh thần cho biết bèn sai xá nhân đi khắp trong thiên hạ tìm xem các bậc anh hùng hào kiệt trong bốn biển ai có tài cao chước lạ đánh giặc cứu nước đắc lực ắt có trọng thưởng danh tước xứng đáng”. Hoàng Lang lúc ấy mới sinh được một tháng bẩy ngày nghe xá nhân đến nơi cung phủ phường Thi Trai đang nằm ở giường chợt ngồi dậy hỏi mẹ: “Xá nhân đến mộ về việc gì?” Mẹ trả lời: “Nước nhà đang có giặc Trình Vĩnh chiếm loạn cả nước, nhân dân lầm than, triều đình bó tay, thế nước gần đổ, bởi thế nhà vua sai xá nhân đi khắp thiên hạ mộ người có tài để ra giúp nước, con còn nhỏ tuổi há làm sao báo được cái nghĩa của vua cha thì hỏi làm gì?” Hoàng Lang nói với mẹ rằng: “Kíp đi gọi xá nhân lại ngay”. Cung phi nghe thấy lời nói kỳ lạ bèn sai gia thần đi mời xá nhân lại nơi cung phủ. Hoàng Lang bảo với xá nhân: “Người cấp về tâu với vua xin sửa cho một lá cờ lệnh cán dài 10 thước, voi béo khỏe một thớt đem lại cho ta thì giặc sẽ bị đánh tan, nhà vua không lo”. Xá nhân nghe thấy rất bàng hoàng vội về tâu vua. Vua rất khen sự lạ ấy. Ngay hôm ấy sai sửa lá cờ có cán dài 10 thước đem voi khỏe, quân hùng 5000 người và mộ các gia thần làng Thủ Lệ được 121 người trong đó có Lê Công Xúc và Nguyễn Công Hoàng làm tỳ tướng hành khiển và Tư Hữu có nhà ở Thủ Lệ. Các người theo hầu Tư Hữu và Hoàng Lang là Đinh Điền, Trương Ban, Nguyễn Sán, Đặng Tích và Trần Hưng, 5 người theo hầu ở bên cạnh. Lúc ấy Hoàng Lang trở mình vụt đứng dậy cao tới 9 thước, tay cầm cờ lệnh, đạp chân lên mình voi, voi quỳ xuống (nơi đó sau tục gọi là đền Voi phục). Hoàng Lang phất cờ lớn tiếng nói: “Ta là Thiên tướng”. Voi chạy như bay thẳng tới đồn giặc đánh một trận lớn. Hoàng Lang cưỡi lên mình voi phất cờ tả hữu xông tới đánh giặc. Tướng giặc Trình Vĩnh kinh hồn ngã xuống bị bắt sống chém đầu buộc vào dưới cờ, voi của giặc kinh hãi loạn phá tan chạy, quân ta đuổi chém được hơn 3000 đầu giặc, còn dư đảng đều bị bắt sống chém đầu đem về nộp vua. Giặc đã quét sạch, Hoàng Lang về triều tâu vua, vua rất mừng, hôm ấy (ngày 12 tháng 9) nhà vua mở tiệc phong thưởng tướng sĩ. Trong lúc đang yến tiệc, nhà vua ngự đề thơ: Trời kia đã định có tài minh Quét sạch phong trần dẹp giặc Trình Đức trẫm ngời ngời, trời chẳng phụ Ức năm chẳng nát thế còn vinh. Hoàng Lang cũng vịnh tụng một bài thơ rằng: Ơn trời cho xuống quét phong trần.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> Để đức từ nay ngày một tân Thế nước thăng bình vui yến ẩm Một nhà thanh thái hội vua dân Hoàng Lang đánh giặc được vài tháng, nhà vua muốn nhường ngôi cho Hoàng Lang, Hoàng Lang cố từ không nhận. Lúc ấy Hoàng Lang mắc bệnh đậu mùa, sinh được 7 tháng (nói là 11 tháng) không thuốc nào chữa được. Một hôm nhà vua ngự đến nơi cung phi chỗ Hoàng Lang nằm xem chứng chẩn đậu thấy rất khó chữa mới nói rằng: “Bệnh của con ta đến thế nào đây?” Hoàng Lang bỗng tâu lại rằng: “Tuy thác sinh vào cửa nhà vua mà vốn là con của Long Quân nơi Thủy quốc, thấy thế nước nguy nan, vâng mệnh trời thác sinh vào cửa nhà vua để ra đời mà giúp nước, nay giặc đã dẹp xong tôi lại về nơi Thủy quốc, trên Thiên đình có hạn, há dám dây dưa, kéo dài sao được!” Vua nghe nói thấy vậy nên ngay ngày hôm đó (ngày 6 tháng 2) nhà vua và văn võ bách quan bàn việc nên thưởng công lao như thế nào. Các văn võ bách quan đều tâu: “Nhờ hồng phúc đức lớn của bệ hạ kịp khi nước có giặc lớn rất nguy, Hoàng Thiên lại sai con vua Long Quân nơi Thủy quốc xuống trần mà giúp nước, giúp nguy trừ hại ấy là con của Hoàng gia, nay dám nói nên thưởng công như thế nào được. Nay không có gì quý hơn trọng thưởng là sự tôn kính, ban cố ngự lộc cho phương dân để vững thế nước thì ắt thuận lòng trời mà thần linh ý hợp, giúp đỡ muôn đời lâu dài mãi mãi”. Vua cũng khoan tâm mà theo kế ấy. Vua lại phán hỏi Hoàng Lang rằng: “Nay dù không phải con ta, nhưng một ngày là nghĩa vua tôi, nay có công lớn với nước nhà há lại không có báo đáp sao được. Vậy trẫm sai cấp ngự lộc cho nhân dân ở trên để cùng lâu dài với nước, như thế nên chăng thế nào xin cho biết rõ…” Hoàng Lang tâu rằng: “Tôi xin cho đất Bồng Lai là quê quán sinh thành của mẹ được dựng một ngôi đền để sau phụng thờ đức mẹ sinh thành cùng tôi một nơi. Còn ở đất Thi Trai là nơi sinh hóa này thôi (ngày 10 tháng 2) xin đem tôi lại nơi phiến đá là chỗ linh địa vốn trời đã định để sau hóa đi, việc đã đến rồi. Rất gấp! Nhà vua hẳn rõ còn do dự làm chậm việc!” Vua nghe nói thế liền sai trăm quan rước Hoàng Lang ra đất Thi Trai đến nơi có phiến đá, đặt Hoàng Lang ngồi vào, nhà vua ngự tới xem, văn võ trăm quan voi ngựa tới chầu đứng ở hai bên tả hữu. Lúc ấy vua lại hỏi Hoàng Lang rằng: “Nay nước nhà được yên vui trẫm cũng rất yêu mến đã có công lớn với trẫm thì nên lấy gì báo đáp đây. Lòng trẫm còn muốn thưởng hậu hơn nữa cho hậu lộc ở các nơi khác để thờ cúng nữa thì nên như thế nào?” Hoàng Lang tâu rằng: “Vua cha đã có lòng thưởng hậu như vậy tôi xin cầm lá cờ đánh giặc trước kia tung cao lên trời, cờ rơi tới đâu, nơi đó có xin lập đền thờ”. Nhà vua ưng lời, Hoàng Lang liền cầm cờ lệnh tung lên trên không, cờ tự bay đi. Voi hùng cũng phục xuống, tự nhiên Hoàng Lang gieo.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> mình vào nơi phiến đá mà hóa (phiến đá đó nay vẫn còn) biến thành rắn trắng dài hơn 10 trượng, trườn mình ngoi thẳng ra hồ Tây rồi biến đi. Bốn bề người hội lại để xem lúc ấy trời đất tối tăm, mịt mù suốt 10 ngày đêm, trên hồ sóng nổi ầm ầm vạn dặm. Rùa, cá, giao long đều nổi lên mặt nước. Vua cùng trăm quan đều khiếp sợ (ngày 10 tháng 2), lại thấy lá cờ bay đi lại bay về hạ xuống trước đền vua ngự, nhà vua lại càng kinh hãi, kíp đến hôm sau (12 tháng 2) vua truyền lệnh trăm quan cùng nhân dân Thủ Lệ xây dựng hai ngôi đền ở Thi Trai và Bồng Lai. Đền Thi Trai làm đền chính nơi hóa được chuẩn cho toàn dân Thủ Lệ được miễn trừ các binh lương tạp dịch. Dân xã Bồng Lai được chuẩn cho làm Hương nhi hộ lại truyền cho nhân dân các nơi có cờ bay đến cũng được lập đền thờ tự. Cộng lại 296 nơi. Ngày hôm ấy vua phong mỹ tự: “Thượng đẳng phúc thần vạn cổ truyền thực, hương hỏa dài lâu vô cùng”. Vua lại tặng cho phường Thi Trai 30 hốt vàng để mua lễ vật tế tự, cấp cho ruộng tế tự 36 mẫu. Phong làm Linh Lang đại vương. Vua lại truyền cho 296 nơi lập đền thờ đến kinh thành rước sắc về nơi ấp sở để thờ tự. Dân làm lễ khánh thành đền thờ đều có mưa to gió lớn trời đất tối tăm 3 ngày liền. 296 nơi đền thờ đều có rắn hoa ngũ sắc tới nằm ở chính điện giữa đền, ai nấy đều kinh sợ. Từ đó linh ứng vô cùng. Đến đời vua Trần Thái Tông (1225-1258) cất quân đánh giặc Nguyên – Mông lần thứ nhất, Hoàng Lang cũng ứng hiển để giúp nước. Khi bình định xong giặc vua phong là Bình Mộng vương làm Thượng đẳng phúc thần. Đến đời vua Trang Tông (1533-1548), nhà vua cùng quan Thái úy họ Trịnh đem quân nghĩa đánh đuổi giặc Mạc. Khi Thái úy tiến quân đánh Mạc đi qua cửa đền chợt thấy rắn hoa dài hơn 10 trượng khoanh mình nằm giữa cửa đền, đầu cất cao 3 thước, hai mắt sáng như lửa đốt, miệng phun ra mây khói huy hoàng mà tới quân sĩ của Thái úy ngoài 30.000 quân đều không dám đi qua cửa đền. Rắn hoa tự nhiên biến đi. Thái úy thực sự kì dị như vậy bèn tiến quân vào đền làm lễ mật đảo nguyện xin đường phù để đánh giặc Mạc. Sau được thành công sẽ cùng nhà nước hưởng phúc thái bình. Trong lúc đương cầu đền làm cho tối tăm như đêm, trong đền cờ trống vang động. Thái úy thấy thế rất kinh sợ thầm nghĩ: “Vận trung hưng do trời cho thần minh giúp cho thuận lợi chăng?”. Đêm ấy Thái úy lưu quân đóng lại trong đền, đến quá nửa đêm mộng thấy một người cao 9 thước đội mũ rồng, đai hương rực rỡ, đai ngọc cẩm bào chói lọi, tay cầm lá cờ lớn cưỡi trên mình voi sừng sững như cột chống trời từ ngoài đi vào cùng hơn 10 quân lính đều hùng dũng lạ kì. Thái úy bèn đứng dậy chào hỏi: “Vị quan từ đâu đến?” Bèn nói rằng: “Tôi là Hoàng Lang nghe thấy nhà Lê mở hội Trung hưng để đánh.

<span class='text_page_counter'>(115)</span> giặc Mạc làm tôi bất trung, nghe thấy quân tới đây nên đem quân tới giúp sức nhà nước”. Hai người cầm tay nhau cùng ngồi nói chuyện vui vẻ. Thái úy làm trước một bài thơ rằng: “Từ trước tới nay bậc sĩ nhân Cần lao cùng việc báo quân ân Không ngờ lại thấy tôn thần đến Ai cũng đồng tâm giúp nước nhà” Hoàng Lang cũng làm một bài thơ rằng: “Tuy nói xưa nay cũng một mà Anh hoa truyền mãi ở đôi ta Non sông dẫu nát anh hùng cốt Sinh hóa thần còn vu thửa xa.” Còn đương trò chuyện thì Thái úy chợt tỉnh, biết rằng mộng tốt nên ngay khi lúc trời vừa sáng liền làm lễ tạ rồi tiến thẳng đến địa phận xã Trấn Thương huyện Phúc Lộc đánh một trận lớn với quân Mạc. Quân Mạc đại bại tan chạy, chém được vô số. Đánh xong giặc Mạc trăm quan rước vua Trang Tông lên ngôi. Vua phong cho thần là: “Âm phù quốc hộ, Thượng đẳng phúc thần, văn cổ truyền thực, dữ quốc đẳng hưu”. VUA CỜ ĐẾ THÍCH Tại Chùa Vua ở làng Thịnh Yên, nay là Chợ Trời có ngôi chùa gọi là Chùa Vua được xây dựng từ thời Lê. Đây là một bộ phận của cung Thừa Lương. Đây là nơi vua và các đại thần nghỉ ngơi chuẩn bị ra tế Trời đất ở đàn Nam Giao (nay là nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo). Sau này chùa thờ Tam Giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo. Chùa dành riêng một gian thờ Đế Thích là ông Vua Cờ ở cõi trời. Hội Chùa Vua mở bốn ngày từ ngày 6 đến ngày 9 tháng giêng và đều có thi đấu cờ. Các danh thủ Bắc Kỳ, nhiều năm cả nước, về tranh tài vô địch. Các đấu thủ chưa vào tỷ thí cờ ở Chùa Vua thì: “Phi Chùa Vua bất thành danh thủ”. Chuyện về vua Cờ Đế Thích như sau: Xã Liêu Hạ, huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương (nay Liêu Hạ thuộc xã Tân Lập, huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên), có ngôi đền thờ Đế Thích (đền bị phá năm 1947 tiêu thổ kháng chiến). Đền không biết xây từ bao giờ, nhưng do Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn (Mạc Ngọc Liễn mất năm 1594, ông làm quan đời Mạc Mậu Hợp 1562 – 1592) sửa chữa lại. Bản triều năm Hoằng Định thứ 6 (1605), Thái tể Vinh Quốc Công lập nhà tiền đường, dựng bia, khắc bài minh. Trong văn bia nói: “Đời vua thứ ba triều Lý, năm Long Thụy.

<span class='text_page_counter'>(116)</span> thứ 2(1) hương Cổ Liêu có người tên là Trương Ba, ba đời làm điều lành, hay uống rượu, đánh cờ rất cao, khắp nước không ai có thể đối địch được, bèn sang Trung Quốc gặp ông già tên là Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Hai người kết bạn dắt về hương Cổ Liêu, cùng ở trong một cái am nhỏ trong khoảng 7 năm trời. Một hôm Trương ba bảo Kỵ Như rằng: “Nước cờ chúng ta ở hạ giới này không ai dám đấu, nghe nói trên trời có Đế Thích đánh cờ cao lắm, hôm nào gặp được cùng nhau đấu trí xem sao?”. Được mấy hôm hai người đang đánh cờ, thấy một ông già gầy còm, áo rách, nón nan chống gậy đi đến, bảo hai người rằng: “Tôi ở phương xa, nghe nói ở đây đánh cờ vui lắm, cũng muốn thử tài một ván chơi. Kỵ Như đẩy bàn cờ bảo Trương Ba đấu cờ với ông già ấy, mới đi được năm, ba nước, Trương Ba không thể nào đối địch được, liền chắp tay hỏi rằng: “Tiên ông ở đâu đến đây? Nước cờ rất cao, xin Tiên ông cho biết họ tên, để chúng tôi được vâng lời dạy bảo”. Ông già cũng chắp tay hồi lâu, nói: “Nhà tôi ở Thượng giới, cung trời thứ 33, tôi là Đế Thích đây”. Hai người nghe nói rất sợ hãi, đều sụp lạy năm lạy rồi dâng mía ngọt và chuối tiêu. Đế Thích Thiên vương cảm lòng thành, lấy ba thứ hương trong tay áo là trầm hương, đàn hương và giáng hương trao cho và dặn bảo rằng: “Sau này nếu có tai nạn gì, nên đốt hương này, tôi sẽ đến cứu”. Nói rồi cưỡi mây bay lên trời. Hai người đem những thứ hương ấy cất vào chỗ kín đáo. Lâu ngày hai người bị bệnh mất, người nhà nhớ lại việc này, bèn lấy hương đốt. Được chốc lát thì Đế Thích giáng lâm, triệu các quan tam phủ công đồng hoàn hồn cho thêm đẹp dạ. Hai người được sống lại, bèn lập đền miếu phụng thờ Đế Thích cùng các quan Tam phủ trấn giữ phương càn hương Cổ Liêu, người trong hương hàng năm theo thời tiết đem hương hoa trai khiết phụng thờ cầu đảo có phần linh ứng. Đến nay ba xã Liêu Hạ, Như Thị và Thổ Cốc theo lễ Kỳ phước. Vinh Quốc Công bị bệnh, sai người đến đền kỳ đảo, liền được khỏi bệnh, nhân đấy sửa sang điện mở miếu để tạ phúc lành. (Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn).. BÀ TỔ NGHỀ GIẤY YÊN THÁI Làng Yên Thái nằm ở Bưởi, bên bờ Hồ Tây là trung tâm của nghề làm giấy, nên có câu ca: “Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ” Và: ______________________.

<span class='text_page_counter'>(117)</span> (1). Long Thụy tức Long Thụy – Thái Bình (1054 – 1058) niên hiệu thứ ba của Lý Thánh Tông.. “Cầu Vuông một tháng bốn phiên Để em xeo giấy, bút nghiên cho chàng”. Xưa có chợ Cầu Vuông có 10 gian thì 9 gian họp chợ, một gian thờ Bà Cô tổ. Bà Cô tổ nghề làm giấy gió. Truyền thuyết cho hay: Vào thời kỳ sơ khai của nghề giấy không phải ở làng vùng Bưởi trong đó có làng Yên Thái mà ở làng Yên Quyết, tục gọi là làng Cót, nên xưa còn gọi là Giấy Cót. Làng Cót làm giấy cao cấp nhất, nguyên liệu làm giấy là vỏ cây dó, cây dướng, cây du, chủ yếu là câu dó. Những cây này mọc nhiều ở vùng rừng núi Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang. Nơi tập trung các nguyên liệu cho nghề giấy trên là Vũ Yển, tỉnh Phú Thọ, nay còn truyền lại những câu ca: “Sông Thao nước đục người đen, Ai lên Vũ Yển thì quên đường về!” Hoặc: “Ai ơi mua dó khó lòng, Không đi lên Ẻn thì mong nỗi gì!” Kỹ nghệ làm giấy rất công phu, đầu tiên phải đưa vỏ cây trên đun cách thủy, sau đó phải cạo màng vỏ đen bên ngoài, rồi giã bằng cối đá. Công việc này rất nặng nhọc, đến nay ở Yên Thái còn truyền những câu ca: “Giã nay rồi lại giã mai Đôi chân tê mỏi, dó ơi, vì mày!” Giã dó quả là công việc vất vả, phải giã những mảnh vỏ cây dầy cứng kia nhuyễn như bùn loãng. Sau đó lại phải bào nhỏ cây mò ngâm vào nước, tạo thành một thứ nước nhớt kết dính, lại phải nấu bằng nước giếng của làng Yên Thái, đó là thức nước giếng đặc biệt, cả làng Yên Thái xưa ăn nước giếng này và sử dụng trong quá trình làm ra tờ giấy đều dùng nước ở giếng này. Cho đến nay ở Yên Thái vẫn còn truyền tụng bài ca: “Ai ơi đứng lại mà trông, Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa Kìa giếng Yên Thái như kia Giếng sâu chín trượng, nước thì trong xanh”. Giã thành bột xong mới đến đoạn xeo giấy, tráng bột thành những tờ mỏng, rồi phơi, ép, bao công đoạn mới thành tờ giấy. Làng Cót làm giấy cao cấp dùng trong cung đình viết các chiếu chỉ của vua, các bản sắc phong cho các thần, thư từ, công văn ngoại giao… nên chỉ sử dụng nguyên liệu hạng nhất. Còn nguyên liệu các hạng 2, 3, 4 thì các làng khác mua về làm giấy khác..

<span class='text_page_counter'>(118)</span> Ở làng Yên Thái có một cô gái họ Vũ đẹp người đẹp nết nhưng kén chọn mãi, sau lấy một chàng trai ở làng Cót. Từ đó trai gái làng Cót, làng Yên Thái mới có giao hảo, nhiều cuộc tình duyên nẩy nở. Sau vì nàng không có con, lại không thích sống gò bó ở nhà chồng, bà bỏ làng Cót về làng Yên Thái. Bà giúp mọi người làm giấy theo kỹ nghệ tiên tiến của người làng Cót. Nhờ đó dân làng Yên Thái sống chính bằng nghề làm giấy. Bà không có con, nên mọi người ở Yên Thái đều gọi bà là mẹ. Các đời sau nhớ ơn bà lập ban thờ ở chợ Vuông với dòng chữ “Bạn nghệ tử thần” tức là đền thờ bà Thánh của nghề nhà. Bài ca sau đây nói lên niềm tự hào: “Người ta buôn vạn bán ngàn Em đây làm giấy cơ hàn vẫn tươi Dám xin ai đó chớ cười Vì em làm giấy cho người viết thơ” Đền Bà Cô tổ đến nay vẫn không ngừng nghi ngút khói hương. HẬU THỔ PHU NHÂN Làng Yên Lãng có tên Nôm là Láng, có ba thôn là Láng Thượng, Láng Trung, Láng Hạ thuộc tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận, phủ Thuận Thiên, kinh thành Thăng Long. Vào thời Trần, Láng thuộc Toán Viên phường (phường Tỏi), là một trong 61 phường Thăng Long thời Trần. Yên Lãng có nhiều di tích, đặc biệt là chùa Láng thờ Pháp sư Từ Đạo Hạnh, chùa Nền thờ ông Từ Vinh, bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh, chùa Thưa (lộ thiên) thờ Từ Thị Lan, chị gái Từ Đạo Hạnh. Lại có chùa Mứng, chùa Miễu thờ Phật. Cả ba thôn còn có chung một ngôi đình thờ Hậu Thổ phu nhân làm Thành Hoàng. Hậu Thổ phu nhân còn có tên là “Úng Thiên hóa dục nguyên trung hậu thổ địa kỳ nguyên quân”. Theo truyện Báo Cực: Nguyên quân tức là thần cõi nước Nam. Ngày xưa khi vua Lý Thánh Tông vào đánh Chiêm Thành (1069) đến cửa Hoan bỗng bị mưa, gió lớn, sóng nổi dữ dội, thuyền vua bị tròng trành rất nguy. Đang lúc nhà vua lo sợ, bàng hoàng, chợt thấy một người con gái ước chừng 20 tuổi, mặt tươi như hoa đào, mày đậm như lá liễu, mắt sáng như sao, cười như hoa nở, áo trắng, quần xanh, ăn mặc giản dị đến nói với vua rằng “Tôi là “tinh” cõi đất nước Nam thác sinh ở chốn mây nước đã lâu chờ thời đợi dịp, nay được gặp bệ hạ thật là thỏa nguyện bình sinh. Bệ hạ đi chuyến này xin cố chóng được toàn thắng, tôi tuy là thân bồ liễu, cũng xin theo góp sức nhỏ. Đến ngày khải hoàn tôi lại xin đợi ở đây để bái yết”. Nói rồi biến luôn. Vua tỉnh dậy vừa sợ, vừa mừng nói chuyện với quần thần. Có vị tăng thống là Huệ Lâm tâu rằng: “Thần nói thác sinh vào cây ở chốn mây nước, nay xin cho tìm ở cây hoặc có linh nghiệm”. Vua liền cho.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> người lên tìm khắp trên bờ dưới bãi, được một khúc gỗ rất giống hình người, mầu sắc khuôn khổ trông y như người trong mộng đã thấy. Vua liền đặt hiệu là Hậu Thổ phu nhân, sai đặt lên bàn, để trong thuyền ngự. Bỗng nhiên gió lặng, sóng yên, thuyền đi rất nhẹ nhàng. Đến Chiêm Thành, trận đánh như có thần giúp, quân ta thắng to. Đến hôm khải hoàn, thuyền nhà vua về tới bến cũ đậu lại. Vua sai lập miếu thờ tại đây, liền thấy mưa gió lại nổi to. Huệ Lâm tâu rằng: “Xin nhà vua cho rước về thờ ở Kinh đô”. Vua bằng lòng, cơn mưa gió liền tan. Về đến kinh đô, vua sai chọn đất lập đền thờ ở làng An Lãng. Đền rất thiêng, ai có ý nhạo báng, liền bị tai vạ. Đến thời vua Lý Anh Tông trời đại hạn, quần thần xin lập đàn ở Nam Giao để tế trời tôn Nguyên quân làm chủ đàn. Nguyên quân liền báo mộng cho vua biết: “Bản bộ có Câu Mang thần quân chuyên việc làm mưa”. Vua mừng, bàn định: “Lễ Hậu Tắc phối với trời, Hậu Thổ phối với đất, lập đàn ở Nam Giao cầu đảo, quả nhiên được trận mưa to”. Vua hạ lệnh rằng: Dưới Hậu Thổ phu nhân có Câu Mang thần quân coi về mùa xuân. Từ nay phàm làm lễ mùa xuân rồi phải đem con trâu bằng đất để dưới đền thờ”. Năm Trùng Hưng thứ nhất, sắc phong: “Hậu Thổ thần địa kỳ nguyên quân”. Năm thứ tư gia phong hai chữ “Nguyên trung”. Năm Hưng Long thứ 21 gia phong bốn chữ “Ứng Thiên hóa dục”. VŨ PHỤC Đền thờ Chiêu Nghi phù vận đại vương và Thuận Chính Phương Dung công chúa, hai phường Yên Thái và Bái An huyện Quảng Đức (1) cùng phụng sự. Tương truyền thần là vợ chồng Vũ Phục, người triều nhà Lý. Vũ Phục tên chữ là Phúc Thiện, người hương Minh Đạo, lộ Quốc Oai (2) làm nghề bán dầu. Lúc ấy vua nhà Lý bị đau mắt, thuộc chữa không khỏi. Nghe nói núi Vân Mộng, huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam có Quỷ Cốc tiên sinh nói: “Trong quẻ này hình như có tướng vua chúa, vì bệ hạ định kinh đô, xếp đặt lại ví trí kinh thành, nên nước vỡ vào phương Kiền (3) làm cho sức soi sáng của con mắt bị thương tổn; nếu biết trấn yểm sẽ có thể giữ được yên lành”. Lúc ấy nước sông Cái chảy xoáy, sắp vỡ thành Thăng Long phòng bị sang hộ khó có thể cứu được. Nhà vua bèn sai xá nhân tắm gội trai khiết, đến ngã ba sông, cầu đảo thần Thổ địa, thần Hà bà và tiên cung. Xá nhân đêm nằm mộng thấy thần nhân hình dung rất kỳ dị, nghi vệ rất trang nghiêm, bảo rằng: “Sáng sớm ngày nào đó, hễ thấy người nào đến bến sông này trước nhất, thì nên theo ý muốn của người ta, mà tiếp đãi một cách đầy đủ rồi quẳng người ấy xuống sông và phong cho làm thần, lập miếu thờ tự, mới có thể trấn áp ____________________ (1). Nay là quận Ba Đình, Hà Nội..

<span class='text_page_counter'>(120)</span> (2) (3). Tỉnh Sơn Tây cũ. Phương Kiền là phương Tây Bắc.. được”. Xá nhân tỉnh dậy về triều tâu bày, nhà vua rất lấy làm than thở nghi ngờ, liền sai xá nhân theo nhật kỳ đi đón. Ngày hôm ấy trời vừa mới sáng, quả nhiên thấy hai vợ chồng Vũ Phục gánh dầu từ hương Minh Bảo đi đến. Xá nhân đón mời lưu lại rồi phi ngựa về kinh tâu bày, nhà vua có ý xót thương ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Nên theo lời nói của Thần đem tình thật bảo người ta, không nên ức hiếp”. Bèn sai người đem việc ấy nói cho Vũ Phục biết và yên ủi rằng: “Từ việc đến nay ai mà không biết, nhưng chết đi cần để lại danh tiếng cho đời sau. Ngày trước nhà Vũ Vương có bệnh, Chu Công lập đàn cầu khấn xin được chết thay, đời sau khen Chu Công là người trung. Ông bà không nên quyến luyến sống nơi ngõ hẹp, hang cùng, mà nên cố sức làm bậc tôn thần sau khi đã mất. Phù hộ thánh quân giữ vững ngôi báu, ngàn năm hương khói phụng thờ, để tiếng thơm trung nghĩa mãi đời sau. Như thế cũng chẳng đẹp đẽ lắm sao?”. Vũ Phục khẳng khái nhận lời. Sứ giả hỏi: “Bình nhật ông bà thích thứ gì hơn cả?”. Vũ Phục nói: “Đồ gà mái nấu cơm nếp”. Sứ giả bảo sửa soạn và nên ăn no. Khi ăn xong, Vũ Phục ngựa mặt lên trời khấn rằng: “Vợ chồng già này bỏ mình theo nước, trời cao có thấu xin chứng giám cho”. Liền đó tự gieo mình xuống nước, lúc ấy là ngày 30 tháng 11. Từ đấy dòng sông phẳng lặng, nước lớn rút dần, bệnh tình nhà vua cũng được khỏi hẳn. Nhân đấy lập miếu thờ và sắc phong là Chiêu Ứng phù vận đại vương và Thuận Chính Phương Dung công chúa. Đình làng Yên Thái có đôi câu đối: “Bạch Hạc tâm đầu lưu Thánh tích, Thăng Long thành giác kỷ thân công” Dịch: “Bạch Hạc, sông Đầu còn dấu tích Thánh Thăng Long thành góc chép công hầu” Và: “Đức mau dân đem công trịch hiệp Danh hư vĩnh thế quốc gia phong” Dịch: “Đức thành yêu dân vợ chồng cùng hợp sức Tiếng thơm muôn thuở, nước nhà phong” Lễ nghi phẩm vật rất là trọng thể. Lễ hội ở làng Yên Thái (tên Nôm là làng Cả) từ ngày 10 đến 20 tháng 4. Khi tế, chủ tế phải là tiên chỉ của làng. Bồi tế, phụ tế phải là các vị có chức sắc trong làng..

<span class='text_page_counter'>(121)</span> Đám rước của làng Yên Thái bắt đầu từ xóm Cầu, sau qua xóm Giữa, xóm Cộng, ra đường cái quan rồi lại trở về đình. Đình Yên Thái được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa năm 1994. THÁI ÚY TRUNG TUỆ VŨ LƯỢNG CÔNG Xã Võng Thị và xã Trích Sài, gần Hồ Tây có đền thờ Thái úy Trung tuệ Vũ lượng công Mục Thận. Xét sử và truyện: ông họ Mục, tên là Thận, làm nghề đánh cá. Trong thời vua Lý Nhân Tông (1092-1127) quan Thái sư Lê Văn Thịnh, nuôi được một tên gia nô người nước Đại Lý (nay là Vân Nam) có thuật lạ: đọc thần chú xong, biến thành hổ báo. Văn Thịnh cố dỗ để dạy mình thuật ấy, học được thuật rồi, liền lập mưu giết tên gia nô và định dùng thuật hại vua để cướp ngôi. Bấy giờ vua Nhân Tông ngự ra Hồ Tây xem đánh cá, thuyền vua đang bơi trong hồ, bỗng thấy mâu mù nổi lên phủ kín rồi nghe có tiếng mái chèo đến gần, trong đám mây mù trông thấy có con hổ lớn nhe nanh, giương vuốt chực hại người. Nhân Tông hoảng sợ, bối rối. Lúc ấy Mục Công ngồi thuyền đánh cá ở gần, nhìn kỹ thấy thế nói: “Việc gấp lắm rồi” liền quăng lưới chụp vào thuyền kia bắt được con hổ và nhận ra Lê Văn Thịnh. Thái Tông giận, sai lấy dây xích xích lại bỏ vào cũi rồi đầy lên Thao Giang. Vua khen Mục Công đã có công cứu vua cất làm Đô úy và sau thăng tới Phụ quốc tướng quân. Khi mất, tặng chức Thái úy. Vua sai dựng đền, tạc tượng thờ. Đền rất thiêng, có một con rắn to ở trong hốc cột bên đền, cứ ngày rằm, mùng một lại ra nằm dưới chân tượng, nhân dân vào lễ qua lại như thường, chỉ có người nào bẩn thỉu mà vào thì bị rắn cắn. Tối đến rắn lại vào trong hốc cột. Tới nay, dân làng sửa sang ngôi đền đẹp thêm và thờ ông làm Phúc thần. Năm Trùng Hưng thứ tư, sắc phong là Trung tuệ công, năm Hưng Long thứ 21 gia phong hai chữ Vũ lượng. PHÁP SƯ LÊ ĐẠI ĐIÊN Chùa Duệ, tên chữ là Quang Khải thiền tự, giáp Khánh Duệ, thôn Tiền, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, tương truyền được xây từ đời Lý Nhân Tông (1072 – 1182), là nơi tu hành của Pháp sư Đại Điên cũng là nơi thờ ông. Pháp sư Đại Điên tên thật là Lê Nghĩa, con ông Lê Hưng và bà Nguyễn Thị Phan, người trang Dịch Vọng. Năm Đại Điên 18 tuổi, cả cha mẹ đều mất..

<span class='text_page_counter'>(122)</span> Lê Nghĩa là người chí hiếu, không lấy vợ, biến nhà mình thành chùa thờ Phật đêm ngày cầu siêu cho cha mẹ. Sau đó Đại Điên đến chùa Thánh Chúa học vị pháp sư thông hiểu pháp thuật, cùng học với Từ Vinh quê ở làng Yên Lãng. Học được ba năm cả hai người đều tinh thông pháp thuật. Từ Vinh học được phép tàng hình, có thể biến hòa thành bất cứ người nào, thành bất cứ con vật nào. Từ Vinh học tiếp ở trường Phật giáo cao cấp Bạch Liên (nay là chùa Liên Phái). Ông thi đỗ được phong chức Tăng quan đô sát là một chức quan lớn trong triều đình. Từ Vinh biến thành Diên Thành hầu chung chăn gối với nàng hầu yêu của Diên Thành hầu, việc lộ ra, Diên Thành hầu biết đây không phải là người thường liền nhờ Đại Điên, được nhà vua ban chức Quốc sư ra tay trừ khử. Khi Đại Điên nghe Diên Thành hầu kể chuyện liền đưa cho Diên Thành hầu sợi chỉ ngũ sắc dặn nàng hầu lừa lúc gian tế đến thì buộc ngang lưng, lại sai người hầu rắc gio trước cửa và dặn nếu thấy vết chân đi vào phòng nàng hầu thì đóng cửa lại, dán bùa. Bọn chúng làm y lời. Từ Vinh không hay biết gì. Đến khi Đại Điên đến, Từ Vinh nghe tiếng động, biến thành con gián, bay ra, mới biết khắp nơi đều có bùa chú. Từ Vinh liền chui vào khe vách. Đại Điên soi đuốc tìm mãi không thấy, sau thấy một sợi chỉ ngũ sắc thò ra, bị Đại Điên bắt được. Từ Vinh xin với Đại Điên mình là đồng triều, đồng đạo tha cho. Đại Điên thấy tài hai người ngang nhau, Từ Vinh bị bắt vì có bùa, phải giết trừ hậu họa, liền bóp chết. Khi cái xác gián rơi xuống đất thì hóa thành Từ Vinh đã chết. Đại Điên bảo Diên Thành hầu sai người vứt xác Từ Vinh xuống sông Tô Lịch. Con trai Từ Vinh là Từ Đạo Hạnh quyết chí trả thù đã cùng Nguyễn Minh Không, Dương Không Lộ sang Thiên Trúc học đạo. Học được phép thuật rồi Từ Đạo Hạnh trở về kinh thành trả thù cho cha. Đạo Hạnh đến Bắc Hoàng cung, đến ngã ba sông Cót, ném xích trượng xuống nước. Giữa dòng nước chảy xuôi gậy từ từ trôi ngược, Từ Đạo Hạnh đuổi theo cây gậy đến cầu Tây Dương thì dừng lại. Chàng tàng hình vào nhà Đại Điên. Đại Điên đang nói chuyện với số đông quan khách, Từ Đạo Hạnh hiện nguyên hình, bảo Đại Điên: - Đại Điên, mày có biết tao là ai không. Tao là Từ Đạo Hạnh, con Từ Vinh. Mày giết chết cha tao, tao phải giết lại mày. Pháp thuật của Từ Đạo Hạnh cao cường, nên chỉ một gậy của Từ Đạo Hạnh, Đại Điên đã chết, chỉ kịp nói: - Hỡi Từ Đạo Hạnh, tao sẽ giết mày! Bốn năm sau, vua Lý không có con, định nuôi con nuôi, có viên quan vận chuyên sứ Thanh Hóa về báo tin có đứa bé ba tuổi, tự xưng là Giác Hoàng,.

<span class='text_page_counter'>(123)</span> con của vua, việc trong triều, ngoài nội cái gì cũng biết. Vua cho đón về cung. Giác Hoàng tâu vua dựng một đàn tràng mời thày về làm lễ bẩy ngày đêm nó sẽ có cách đầu thai làm con vua. Tin đó đến tai Từ Đạo Hạnh. Ông biết đó là kẻ thù của mình, liền nhờ chị ruột tới kinh tới đàn tràng dắt lên vái, mỗi phương một cái. Quả nhiên ba ngày sau Giác Hoàng bị bệnh nặng, nguy kịch, liền tâu vua tội đó do Từ Đạo Hạnh gây ra. Vua ra lệnh bắt Từ Đạo Hạnh để chém. Từ Đạo Hạnh nhờ Sùng Hiền hầu cứu. Để đổi lại Từ Đạo Hạnh sẽ đầu thai làm con Sùng Hiền hầu, vì Sùng Hiền hầu là em ruột vua, vua không có con trai thì con Sùng Hiền hầu sẽ kế vị. Nhờ đó Từ Đạo Hạnh thoát chết. Sau đầu thai vào nhà Sùng Hiền hầu và trở thành vua Lý Thần Tông. Lại nói Pháp sư Đại Điên bị chết ngày 7 tháng 3, thi thể được chôn ngay ở Chùa Duệ. Chùa Duệ xây trên khu đất hình con rồng vàng, ba gian hậu cung cao hơn hẳn các khu khác, trong hậu cung có mộ của Pháp sư Đại Điên. Trong chùa có tượng Phật và tượng của Pháp sư Đại Điên to bằng người thật, ngồi trong khám. Pháp sư Đại Điên còn lại ba sắc phong của Gia Long năm thứ 9 (1810) gia phong Trí Huệ đại vương, một đạo của Duy Tân, một đạo của Khải Định. Chùa có nhiều hiện vật quý như chuông, khánh… Bộ Văn hóa xếp hạng Di tích lịch sử năm 1989. QUỐC SƯ TỪ ĐẠO HẠNH Đạo Hạnh Thiền sư họ Từ, xưa có tên là Lộ, là con ông Từ Vinh, một người có nhiều pháp thuật là chức Đô sát ngạch Tăng quan thời Lý. Từ Vinh lấy bà Tăng Thị Loan, người làng Láng, sinh ra Từ Đạo Hạnh. Từ Đạo Hạnh có cốt cách tiên phật, lúc còn trẻ hay chơi bời phóng túng, nhưng có chí lớn. Đạo Hạnh kết bạn với một nhà nho tên là Phi Sin, một đạo sĩ tên là Lê Toàn Nghĩa, một người đàn hát tên là Phan Ất. Từ Đạo Hạnh có thói quen ngày đánh đàn, thổi sáo, đá cầu, đêm mới đọc sách, nên thường bị cha mắng là kẻ dông dài, chơi bời. Một đêm cha lén vào dòm trong phòng thấy bên ngọn đèn tàn, sách vở bày la liệt. Đạo Hạnh ngồi tựa án ngủ gật, tay vẫn còn cầm quyển sách. Từ đấy biết con chăm học, cha không lấy làm lo. Sau Đạo Hạnh thi khoa Bạch Liên đỗ thứ nhất nhưng không chịu ra làm quan, chỉ ngày đêm nghĩ cách phục thù cho cha. Nguyên trước đây Đô sách Tăng Quan vốn là người cương trực, em vua Lý Nhân Tông là Diên Thành hầu ghen ghét mưu với pháp sư Đại Điên dùng bùa giết chết, vứt xác xuống sông Tô Lịch. Xác trôi đến cầu Tây.

<span class='text_page_counter'>(124)</span> Dương, trước nhà Diên Thành hầu dừng lại suốt ngày không trôi đi. Hầu sợ báo cho Đại Điên biết. Điên tới nơi, nói to lên rằng: “Người tu hành không được giận mãn kiếp, nên biết: sống chỉ là một trường đùa bỡn, chết mới thành đạo Bồ Đề”. Nói dứt lời, cái xác trôi đi,đến xứ Hàm Rồng thuộc xã Nhân Mục thì dừng lại. Người làng thấy thiêng mới dựng miếu, đắp tượng để thờ. Hàng năm cứ đến ngày 10 tháng giêng là ngày giỗ, tại đền có tế lễ. Khi đó thế lực của Diên Thành hầu rất lớn, Đạo Hạnh đưa mẹ đi lánh nạn. Thánh phả ở chùa Bi(1) chép: “…Lén đi về trấn Sơn Nam, Tây Chân huyện đó, Chân Đàm xã đây Gửi thân nương chốn am mây Mẹ con mừng rỡ đến đây trụ trì Sửa sang phong cảnh chùa Bi Tòa vàng rực rỡ vừng kỳ thanh ư”. Đạo Hạnh kết bạn với Không Lộ thiền sư tu ở chùa Không Lộ (huyện Giao Thủy, Nam Định) và Giác Hải Thiền sư ở chùa Phúc Lâm (Giao Thủy). Đạo Hạnh tu hành đã có pháp thuật liền trở về Láng lúc nào cũng nghĩ đến hận thù mà chưa có kế gì. Một hôm rình Đại Điên đi ra đường, Đạo Hạnh toan dùng pháp thuật cầm gậy xông đến đánh, chợt nghe trên không có tiếng thét: “Không được, thôi ngay đi!”. Đạo Hạnh liền bỏ gậy trở về, trong lòng buồn bực đau xót, định sang nước Ấn Độ ở Tây Thiên để học thuật lạ về đánh Đại Điên. Đạo Hạnh bèn cùng Không Lộ, Giác Hải cùng đi đến nước Sỉ Man. Đi được rất nhiều ngày, vượt qua muôn vàn khó khăn. Sau thấy đường đi ngày càng hiểm trở định quay về. Bỗng thấy một cụ già chèo chiếc thuyền nhỏ đến bên sông. Ba người cùng đến hỏi cụ già rằng: - Thưa cụ đây sang Tây Thiên còn xa không? Cụ già đáp: - Đường núi hiểm trở đi bộ không được, tôi có chiếc thuyền này có thể chở giúp các ông sang, lại có cái gậy cho các ông cầm, cứ chỉ thẳng về phía Tây thì sẽ đến ngay. Nói xong cụ già đọc câu kệ rằng: Đạo lý đương nhiên lô cộng hành Đa công viện học, chí thành danh Uông dương van phái, lao hà thiệp Chỉ nhật Hoàng giang đô Thánh sinh(2) ______________________ (1). Sau đổi là chùa Nam Chân, nay thuộc xã Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, nơi có thời gian Từ Đạo Hạnh tu hành ở đó. (2) Dịch: Đạo lý nên theo cùng một đường đi Khen ông chịu đi học xa, chí muốn nên danh.

<span class='text_page_counter'>(125)</span> Mênh mông môn phái, không cần lặn lội khó nhọc Rồi nay mai ở Hoàng Giang, sẽ thấy Thánh sinh ra.. Đọc xong câu kệ thì thuyền đã ghé bến Tây Thiên, Đạo Hạnh ở lại giữ thuyền, Không Lộ, Giác Hải lên bờ đi học trước. Học được phép thuyền, hai người trở về nước. Đạo Hạnh giữ thuyền ba ngày không thấy tin tức bạn, tự nhiên ông thấy một bà cụ đi đến, Đạo Hạnh vái chào rồi hỏi: - Cụ có thấy hai người lên học đạo không? Cụ già nói: - Hai người đã học được nhiều phép mầu của ta mà đã trở về nước rồi. Đạo Hạnh bèn vái lạy và kể cho bà cụ biết: ba người cùng đi học đạo, thực đáng buồn vì hai người bạn nỡ bỏ mình đi về trước. Bà cụ nghe nói liền sai Đạo Hạnh gánh hai thùng nước về nhà rồi bà cụ dạy cho mọi phép thiêng lại trao cho phép rút đất và lời Thần chú Đà ni. Đạo Hạnh giận hai bạn phụ mình, mới đọc một câu thần chú. Không Lộ và Giác Hải đang đi đường bị lời thần chú đau bụng quá, phải ngồi nghỉ. Đạo Hạnh lại dùng phép rút đất tiến về phía trước ẩn vào một bụi rậm ở xã Ngải Cầu thuộc huyện Từ Liêm hóa mình làm con hổ xông ra gầm thét coi rất ghê sợ. Hai người bèn nhìn nhau lấy làm kinh lạ. Bề ngoài tuy lấy làm lạ, nhưng vì đã có phép thiêng sáng suốt, phân biệt thực hư cho nên biết ngay là Đạo Hạnh hóa hình, mới nói rằng: - Ngươi muốn biết kiếp sau, ta sẽ nói cho mà nghe! Đạo Hạnh tỉnh ngộ hiện nguyên hình, bao hai bạn rằng: - Chúng ta cùng học đạo của đức Thế Tôn, nhưng tôi còn vướng trần duyên sau này sẽ lại ra thế gian ở ngôi nhân chủ, lúc đó sẽ không tránh khỏi bệnh nạn, các anh có duyên với ta, xin cứu cho. Thế rồi bỏ mối hận cũ, ba người cùng thuyền pháp thuật: xuống nước, lên không, bắt rồng hổ phải hàng phục, xuất quỉ nhập thần không ai lường được. Đạo Hạnh được nhường làm anh cả rồi đến Không Lộ, còn Giác Hải là em thứ ba. Chỗ gặp nhau nay gọi là Cầu Báo. Không Lộ, Giác Hải về chùa Giao Thủy, Đạo Hạnh trở về chùa Bi, thì thân mẫu đã qua đời, Thiền sư về tu ở chùa Thiên Phúc, Thạch Thất (Sơn Tây). Trước chùa có hai cây thông cổ người ta thường gọi là cây rồng. Đạo Hạnh hàng ngày trông vào cây mà đọc chú: “Đại bi tâm Đà ni la” đọc tới ức vạn lần. Cây thông rơi dần từng cành rồi cả hai cây đều mất hết. Đạo Hạnh biết mình đã thông cả lục trí có thể báo thù được cho cha, mới về làng An Lãng. Một buổi ra cầu An Quyết ở sông Tô Lịch, ném cái gậy xuống sông gậy đứng dựng trên mặt nước chạy ngược dòng như bay. Đến cầu Tây Dương thì dừng lại. Đạo Hạnh mừng nói: “Phép của ta hơn hẳn Đại Điên rồi!” Liền xông vào nhà Đại Điên, Điên trông thấy bảo rằng:.

<span class='text_page_counter'>(126)</span> - Ngươi không nhớ việc trước à? Đạo Hạnh trông lên không chẳng thấy gì, mới đánh chết Đại Điên đem quăng xác xuống sông Tô Lịch để trả lại thù trước. Thù đã trả xong, mối tục đã lụy lắng, Đạo Hạnh mới đi chơi khắp các rừng sâu để cầu ấn quyết. Nghe nói Cao tăng Trí Huyền ở Thái Bình tu rất đắc đạo mới thân đến yết kiến, hỏi về “chân tâm”. Nghe giải thích, Đạo Hạnh hiểu “chân tâm” mới trở về chùa Thiên Phúc, huyện Thạch Thất tu đạo và luyện phép như trước. Từ đó pháp thuật ngày càng cao, lòng thiền ngày càng chín, khiến được các chim, các thú đến đầy trước mặt để sai bảo. Dân ở trong vùng hễ có tật bệnh đến xin bùa dấu đều được khỏi luôn. Ngoài việc tu, Thiền sư còn dạy dân trò múa rối (ổi lỗi) (1), nên dân gọi Thiền sư là Thày, ngọn núi Phật Tích (Sài Sơn) mà Thiền sư tĩnh lại cũng gọi là núi Thày. Bấy giờ vua Lý Nhân Tông (1072-1127) không có con trai, cầu tự mãi cũng không được, em Nhân Tông là Sùng Hiền hầu bèn mời Đạo Hạnh đến nhà cầu tự cho mình, để sau con mình sẽ được lập làm Thái tử. Đạo Hạnh xin đầu thai để trả ơn. Bấy giờ Sùng Hiền hầu phu nhân đang nằm trong phòng bỗng thấy Đạo Hạnh hiện hình ở trong thùng nước, Phu nhân kinh hãi nói với hầu. Hầu biết ý, mật báo phu nhân rằng: - Thấy hình ở trong nước là chân nhân đã nhập thai rồi, đừng sợ! Thế rồi phu nhân có mang. Đạo Hạnh khi từ biệt ra về có dặn rằng: - Đến ngày phu nhân sinh đẻ xin báo cho biết ngay. Đến ngày sinh, phu nhân khó đẻ, Sùng Hiền hầu nói: “Phải kíp báo cho cao tăng biết”. Đạo Hạnh được tin họp các đồ đệ báo tin mình phải thác sinh làm vua nhân gian. Nói xong lên động tiên đập đầu vào vách đá, nện chân lên bàn đá rồi hóa. Nay vết chân, vết đầu trên đá vẫn còn in. Đó là ngày 7 tháng 3 năm Hội tường đại khánh thứ ba (1112) Đạo Hạnh từ cõi Nát Bàn về cõi đời khác sinh làm con trai Sùng Hiền hầu. Vua Lý Nhân Tông đưa vào cung nuôi rồi lập làm Hoàng thái tử. Nhân Tông mất, Thái tử lên nối ngôi là vua Thần Tông. ______________________ (1). Múa rối có những lời chúc ba giới nông, công, thương: “… Làm ruộng lúa tốt Nuôi tằm tốt tơ Buôn bán tốt bạc, tốt tiền … Được mùa đấu gạo ba tiền Binh cường, quốc phú khỏe nên tựa đài Kinh thành cầu phúc, phúc lai.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> Mừng làng, làng được thọ dài khang ninh”.. Năm Bính Thìn (1136) Thần Tông đã 21 tuôi bỗng phát bệnh, mọc đầy lông biến hình như con hổ. Không Lộ và Giác Hải nghe tin biết là đúng với lời trước liền đặt ra câu ca dao cho trẻ con hát: “Tập tầm vông, Thái tử mọc lông có ông Nguyễn Minh Không chữa được!” Câu hát truyền đi triều đình sai sứ đến chùa Giao Thủy đón Minh Không về kinh đô chữa bệnh: Không Lộ và Giác Hải thổi một niêu cơm rất nhỏ mời quan quân ăn. Quan quân rất đông người ăn mãi không hết. Không Lộ, Giác Hải xuống thuyền bảo quan quân nghỉ sáng mai đi. Ai nấy nằm ngủ yên giấc, sư dùng phép thuyền không phải chèo lái phút chốc đến kinh thành Thăng Long. Không Lộ và Giác Hải dùng phép thuật chữa bệnh cho Thần Tông. Vua khỏi bệnh, lông, vuốt rụng hết thân thể lại như xưa. Tương truyền Lý Thần Tông lên ngôi vua cho xây chùa Láng để thờ Từ Đạo Hạnh. Chùa có tên chữ là Chiêu Thiền tự, là thắng cảnh nổi tiếng của kinh thành Thăng Long. Chùa Láng cso quy mô to, nguy nga, tráng lệ. Đường vào chùa có hai hàng cây muỗm đại thụ vài trăm tuổi, xưa còn có cây thông nghìn tuổi, sân chùa có lầu bát giác, hậu cung có tượng Từ Đạo Hạnh bằng mây tre đan rất tinh xảo, có giá trị nghệ thuật cao. Từ thế kỷ thứ XIX đã có thi nhân làm bài thơ ca ngợi: “Đệ nhất tùng lâm có phải không? Có ai cho vãi hỏi thăm thày Ngai vàng hai kiếp rồi đâu tá? Trơ trọi thông già đứng réo mây” Xưa hội Láng là hội đông vui nổi tiếng của kinh thành Thăng Long, ca dao cổ còn ghi: “Nhớ ngày mùng bẩy tháng ba, Trở về hội Láng, trở ra chùa Thày” Hội Láng mở không theo định kỳ hàng năm, năm nào đời sống của nhân dân khá giả mới mở hội. Hội Láng không riêng của ba làng Láng, mà nhiều làng như An Hoa, Mọc… cũng tham gia. Xưa mở hội có tục rước Từ Đạo Hạnh từ chùa Láng sang thăm mẹ ở chùa Hoa Lăng, thăm cha ở làng Mọc. Lệ rước không đi trên cầu vì hèm cha bị chết trôi sông mà rước kiệu lội qua sông Tô Lịch ở cuối làng An Hòa, chỗ này sau mang tên là Ngõ Đỡ, tức là nơi đỡ kiệu từ dưới sông lên. Hội có rất nhiều trò vui, nhưng không thể thiếu trò múa rối. LÝ TRIỀU QUỐC SƯ Sau khi cha là Từ Vinh bị sư Đại Điên dùng pháp thuật đánh chết, Từ Đạo Hạnh đưa mẹ về ẩn náu ở trấn Sơn Nam. Tại đây ông kết bạn với các.

<span class='text_page_counter'>(128)</span> Thiền sư Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ, cả hai người đều làm nghề chài lưới bỏ đi tu. Ba người kết bạn làm anh em: Từ Đạo Hạnh là anh cả, Dương Không Lộ là thứ hai, Nguyễn Minh Không là thứ ba. Vượt qua biết bao khó khăn, hiểm trở ba người đến được nước Tây Trúc học đạo. Phật Tổ hóa thân làm ông lái đò độ cho Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không trước. Sau khi đắc đạo, hai người về nước trước, Từ Đạo Hạnh gặp bà cụ lái đò là Bồ Tát hóa thân được Phật Tổ sai đến đón và độ cho Từ Đạo Hạnh phép thần thông. Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không bấm độn biết trước Từ Đạo Hạnh về trước, hóa làm hổ đón đường dọa mình. Quả nhiên Từ Đạo Hạnh hóa làm hổ từ trong bụi rậm nhẩy ra dọa hai người. Nguyễn Minh Không nói: “Thôi đừng đùa cợt chi nhau, Muốn làm kiếp ấy thì sau được làm!” Nhờ phép thần thông, Từ Đạo Hạnh biết kiếp sau mình sẽ hóa hổ, liền nhờ Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không giúp mình: - Nếu sau này, anh mắc họa thì hai em giúp cho. Từ Đạo Hạnh trở về dùng pháp thuật đánh chết Đại Điên. Sau đó vì nghiệp chướng, Từ Đạo Hạnh hóa thân vào làm con Sùng Hiền hầu là em ruột vua. Vì vua không có con trai, con Sùng Hiền hầu kế vị làm vua. Sau đó Từ Đạo Hạnh vào gặp mặt Sùng Hiền hầu phu nhân rồi ran gay. Khi đó phu nhân Sùng Hiền hầu đang tắm, nhìn xuống bể nước thấy bóng một đứa trẻ. Từ Đạo Hạnh dặn Sùng Hiền hầu, khi nào phu nhân đau đẻ thì báo cho biết. Khi phu nhân Sùng Hiền hầu trở dạ, Sùng Hiền hầu cho người đến báo. Từ Đạo Hạnh đang thuyết pháp ở hang núi Sài Sơn, nhận được tin liền ngồi đó hóa. Cùng lúc đó thì phu nhân Sùng Hiền hầu sinh con trai, Sùng Hiền hầu đặt tên là Dương Hoán. Năm 20 tuổi Dương Hoán lên làm vua, niên hiệu là Lý Thần Tông. Được ba năm nhà vua bị bệnh kỳ lạ, khắp mình mọc lông lá mầu vàng có vằn đen, các móng tay, chân thành vuốt. Suốt ngày đêm gầm thét, triều đình lo sợ, yết bảng mời các danh sư về chữa. Nguyễn Minh Không biết được Từ Đạo Hạnh hóa thân làm vua Lý Thần Tông bị nạn, liền dạy trẻ chăn trâu hát: Tập tầm vông Có ông Nguyễn Minh Không Chữa cho vua khỏi hóa Tạp tầm vá Muốn chữa vua khỏi hóa Phải đón Nguyễn Minh Không Viên đại thần nghe được, liền về triều báo cho triều đình biết, lập tức sai một viên võ quan đem 500 quân đi trên 10 chiếc thuyền lớn về miền biển triệu Nguyễn Minh Không..

<span class='text_page_counter'>(129)</span> Nguyễn Minh Không sau khi chia tay hai anh về tu ở một ngôi chùa nhỏ, lấy pháp hiệu là Giác Hải. Gặp năm mất mùa, Giác Hải đi qua xã An Vẽ thấy đồng lúc bị hạn nắng, lúa khô héo. Thiền sư bảo mọi người đan cho nhà sư một đôi sọt lớn, ngoài phết giấy. Thiền sư ra sông gánh nước tưới tràn trề về cả cánh đồng. Khi quân sĩ đến chùa thì Nguyễn Minh Không đanh tụng kinh trưa. Thiền sư mời quân lính ở lại ăn cơm, rồi sai chú tiểu thổi một niêu cơm, mổ một con chim sẻ đãi quan quân. Lạ thay, 500 quân ăn no nê mà cơm, thức ăn không hết. Ăn xong thiền sư bảo họ về thuyền nghỉ. Nhưng kỳ lạ là khi họ mở mắt đã thấy thuyền đậu ở bến Thăng Long. Nhà vua vào cung thấy các thày thuốc, pháp sư ngồi dày đặc, có vẻ coi thường thiền sư. Nguyễn Minh Không rút từ trong túi ra chiếc đinh đóng sâu vào cột khoảng một tấc, rồi nói: “Ai tay không rút được cái đinh này thì chữa khỏi bệnh cho thiên tử”. Bọn họ đều rút thử, không được, Thiền sư rút nhẹ nhàng. Sau đó đi vào trong điện, khi đó Lý Thần Tông đang nằm ngửa, xung quanh có hàng chục nội thị giữ tay chân, thỉnh thoảng lại gầm lên giẫy dụa. Minh Không nhìn vào vua nói lớn: - Còn nhớ cố nhân nữa không? Được làm con trời giầu có bốn biển mà cũng không thoát khỏi nghiệp báo ư? Nhà vua có vẻ sợ, nằm im. Nguyễn Minh Không sai đặt chiếc vạc lớn đổ dầu và thuốc vào đun sôi sùng sục, cho tay vào khoắng đều, rồi múc dầu sôi trong vạc tắm cho vua. Dội đến đâu, lông lá trôi đến đấy, da dẻ vua lại trắng trẻo như xưa. Nhà vua khỏi bệnh, triều đình cắt đất phong thưởng nhưng Thiền sư không nhận mà nói: - Bần tăng vì lời hứa với người bạn cũ, chứ không phải vì phú quý. Nhà vua cho lập một tịnh xá ở gần chùa Báo Thiên để khi Thiền sư lên Kinh đô thì nghỉ. Nhà vua phong Thiền sư là Quốc sư: Khi Quốc sư Minh Không qua đời, Triều đình lấy tịnh xá làm nơi thờ Quốc sư gọi là đền Lý triều quốc sư. Trong đền có tượng Quốc sư Nguyễn Minh Không, tượng vua Lý Thần Tông, tượng công chúa và nhiều quan to thời Lý. NGỌC HOA CÔNG CHÚA Sau chiến thắng quân Tống ở ba châu Ung, Khâm, Liêm và phòng tuyến sông Cầu, nhà Tống chưa dám tính đến việc xâm lược Đại Việt. Đề phòng quân Chiêm Thành quấy rối phía Nam, vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) cử Đôn Quốc công Thái úy Lý Thường Kiệt vào trị nhậm vùng Thanh Hóa để gìn giữ biên cương phía Nam, đồng thời nếu biên giới phía Bắc bị đe dọa thì Thái úy cũng có mặt nhanh chóng..

<span class='text_page_counter'>(130)</span> Lý Thường Kiệt trị nhậm Thanh Hóa 19 năm “Trong tỏ khoan minh, ngoài thì ân huệ. Sai dân chỉ cốt dân vui lòng làm việc, vì đó mà dân được nhờ. Đem bụng khoan thử cứu dân, lấy lòng nhân ái yên dân, vì đó mà dânh kính phục”. Năm 1103, Chiêm Thành xâm phạm biên giới phía Nam. Vua triệu quan Thái úy Lý Thường Kiệt về triều để bàn định kế hoạch chinh phạt quân Chiêm. Được tin quan Thái úy về triều nhận lệnh nhà vua đi chinh phục phương Nam, ông thợ mộc già ở trang Đại Bi (sau đổi là Đại Yên) là một trong “Thập tam trại” do chàng trai họ Hoàng có công vớt được thi thể công chúa ở sông Thiên Đức được vua ban cho đất phía Tây kinh thành lập ra. Cụ thợ mộc già vốn là bạn cũ của quan Thái úy thuở thiếu thời ở đất Thăng Long và đã cùng xông pha nơi trận mạc với Thái úy, dắt cháu gái mới chín tuổi đến phủ đệ của Thái úy ở phường Thái Hòa (phía Bắc vườn Bách Thảo) nói với Thái úy: - Trình Đôn Quốc công Thái úy, đây là cháu nội tôi, tên là Ngọc Hoa vốn quê gốc ở Thanh Hóa đã được hưởng ân huệ của Thái úy, nay gia đình cháu cũng đến ở phường Thái Hòa với tôi đến thỉnh cầu Thái úy một việc. Mặc dù đã 19 năm xa cách nhưng Thái úy vẫn nhận ra người bạn đồng hương, người đã cùng chinh chiến với mình, bèn vồn vã mời hai ông cháu vào phòng khách. Cụ già thợ mộc nói ngay vào mục đích của mình: - Cha cháu là Trần Ngọc Tường chuyến này cũng theo Thái úy vào chinh chiến phương Nam. Cháu nằng nặc đòi theo cha ra trận. Tôi và cha cháu khuyên giải làm sao cũng không được, dám xin Thái úy nể tình thân thích từ xưa, cho cháu được ra trận. Quan Thái úy Đôn Quốc công nghe người bạn già nói và nhìn gương mặt thanh tú nhưng kiên quyết, cặp mắt sắc sảo lanh lợi của cô gái thì biết cô bé là người quả cảm, mưu trí nhưng vẫn hỏi: - Cháu có biết chiến trường là nơi chết choc đầu rơi máu chảy không. Việc ra trận là bổn phận người lớn chúng ta, còn các cháu phải lo tránh giặc và học để giúp ích cho đời… Đôn Thái úy cũng không ngờ mình vừa dứt lời thì bé Trần Ngọc Hoa đã dõng dạc trả lời: - Thưa quan Thái úy, nếu giặc tràn vào thì chúng đâu có tha trẻ con. Vì thế không kể già, trẻ, lớn, bé đều phải đánh giặc, xin Thái úy cho cháu được ra trận. Trước quyết tâm của hai ông cháu, quan Thái úy đành chấp nhận cô bé vào quân ngũ. Hai ông cháu vội vàng vái tạ Đôn Quốc công rồi về chuẩn bị. Ngọc Hoa cắt tóc ngắn, mặc giả trai đến quân doanh. Cô cũng được phát quân phục, khi hành quân nếu mệt mỏi được ưu tiên cưỡi ngựa. Vốn là con.

<span class='text_page_counter'>(131)</span> nhà nghèo, lam lũ từ nhỏ, quen chịu đựng gian khổ, nên trên đường hành quân hàng nghìn dặm, cô vẫn theo kịp đoàn quân. Tới gần vùng đất giặc đóng quân, Đôn Thái úy ra lệnh hạ trại cử trinh sát đi. Nhưng giặc canh phòng nghiêm, tất cả đàn ông không thể đến gần doanh trại giặc được. Ngọc Hoa hiến kế với Đôn Thái úy, mình sẽ đóng vai đứa trẻ nhà nghèo đi bán thuốc lào, trầu cau để đột nhập vào các đồn trại giặc thám thính. Thái úy thấy không còn cách nào khác, vả lại cô gái đề ra kế hoạch trên, tất có đầy đủ trí dũng vượt qua những khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, nên chấp nhận. Với nụ cười có duyên, lời chào mời khéo léo của cô làm cho giặc tin cô là cô gái nghèo khổ, chỉ biết bán được nhiều hàng, không biết gì đến việc quân cơ, mà chúng thì đang thiếu thốn đủ thứ, nên để mặc cho cô gái đi lại tự do hết trại này đến trại khác. Cô chẳng những chỉ khéo mồm chào mời khách mua hàng mà còn nhí nhảnh pha trò, nên cô đến trại lính nào là ở đó rộn lên tiếng cười. Với sự thông minh và trí nhớ tuyệt vời của mình, cô đã ghi vào tấm bản đồ vùng đất địch đóng quân những chấm son đỏ là nơi tướng giặc đóng, nơi chữ thập đỏ là trại lính, nơi vòng tròn đỏ là kho lương, kho thuốc đạn, chuồng nhốt voi, ngựa. Cô vẽ cả những con hào sâu quân giặc mới đào, bên trên phủ cây cỏ nên đứng xa nhìn vào không thấy gì, bên kia bờ hào phái trong trại giặc có quân mai phục. Vị tướng tiên phong có được tấm bản đồ quân sự đầy đủ chi tiết vị trí đóng quân của giặc rất vui mừng liền trình lên Đôn Quốc công Thái úy. Thái úy xem xong vỗ tay khen ngợi cô nữ trinh sát nhỏ tuổi. Ông vui vì mình đã không nhìn lầm người, thầm cảm ơn ông bạn thợ mộc già đã tiến cử với ông một chiến sĩ trinh sát xuất sắc và cảm ơn tướng Trần Ngọc Tường đã sinh ra cho quân đội một chiến sĩ mưu trí khôn ngoan dũng cảm. Trên cơ sở tấm bản đồ đó, Thái úy Đôn Quốc công Lý Thường Kiệt đã họp các tướng giao nhiệm vụ rồi định ngày giờ xuất quân. Ngọa Hoa được Thái úy khen ngợi và giao cho nhiệm vụ dẫn đường cho cánh quân tiên phong. Ngọc Hoa lại đề xuất một ý kiến mà Thái úy cũng phải khen là diệu kế. Đó là vào lúc lặn mặt trời, trước khi xuất quân một giờ (1) Ngọc Hoa sẽ đem thuộc lào, trầu cau tẩm thuốc mê đến bán và mời bọn lính, và gây hoang mang trong hàng ngũ giặc. Thái úy đã chấp nhận cho Ngọc Hoa thực hiện ý định trên. Sẩm tối hôm đó, cũng như mọi ngày, Ngọc Hoa đem cái rổ đựng trầu thuốc đến trại giặc. Vừa nhìn thấy cô gái xuất hiện là bọn lính chen chúc nhau nhận trầu cau, thuốc lào, trong bọn chúng có đứa trả tiền, có đứa không trả, cô vẫn vui vẻ. Tuy _______________________ (1). Giờ tính theo 12 con giáp, 1 giờ bằng 2 giờ hiện nay.

<span class='text_page_counter'>(132)</span> nhiên có một điều mà bọn lính không nhận ra là vừa bán hết hàng cô về ngay mà không nấn ná trò chuyện với bọn lính như mọi khi. Vừa ra khỏi trại giặc, Ngọc Hoa phát tín hiệu cho quân ta xuất kích, rồi cô tới gốc cây đa cách trại giặc chừng hai tầm mũi tên đợi cánh quân tiên phong. Ngọc Hoa tuy nhỏ tuổi, nhưng khi xung trận cô cũng nhanh nhẹn và linh hoạt như một chiến binh thực thụ. Trận này quân ta đại thắng, giết hàng ngàn tên giặc, số còn lại tháo chạy về bên kia biên giới, thu lại bờ cõi. Trên đường khải hoàn trở về, Ngọc Hoa không bệnh mà hóa. Quan Thái úy cho phép tướng quân Trần Ngọc Tường đưa thi hài Ngọc Hoa về an táng tại Đại Bi. Thái úy tâu lên nhà vua công trạng của Trần Ngọc Hoa, vua sắc phong thần hiệu cho Ngọc Hoa là “Ngọc Hoa công chúa”, cho dân Đại Bi lập đền thờ, sau đó tôn Ngọc Hoa làm Thành hoàng. Đình làng Đại Yên thờ Ngọc hoa công chúa ở giữa làng, đình quay về hướng Tây, nhìn sang núi Cung và núi Cột Cờ. Trong đình có tượng Ngọc Hoa công chúa và nhiều câu đối như: “Tuế ký Long phù hách tán Ma na tặc, Sắc tuyên phong các vinh diệu Đại Bi khu” Dịch: “Tuổi chép thưở Lòng phù(1) dẹp tan giặc Ma na Sắc truyền phượng các vinh diệu cho khu Đại Bi(2) TỪ HOA CÔNG CHÚA – QUỲNH HOA CÔNG CHÚA Chùa Kim Liên làng Nghi Tàm, xã Quảng An, quận Tây Hồ có ngôi chùa Kim Liên thờ Phật và thờ cả công chúa Từ Hoa, con vua Lý Thần Tông (1128 – 1138) và tiểu thư Quỳnh Hoa đời vua Lê Thánh Tông cũng được phong công chúa(3). Làng Nghi Tàm xưa trước thời Lý chưa có tên là Nghi Tàm, không có nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Đến khi công chúa Từ Hoa, con vua Lý Thần Tông xin vua cha cho đem một số cung nữ ra ở một doi đất nhỏ nhô ra Hồ Tây giống như hình con rùa đang bò xuống Hồ Tây uống nước. Công chúa và các cung nữ đã truyền nghề cho dân làng nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Vì làng trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa nên đổi tên là Nghi _______________________ (1). Niên hiệu vua Lý Nhân Tông 1101 – 1109 Tên cũ của xã Đại Yên. (3) Công chúa Quỳnh Hoa cùng chồng là Liễu Nghi được tôn làm Thành Hoàng làng Nghi Tàm. Công chúa Quỳnh Hoa còn được thờ ở chùa Kim Liên. (2).

<span class='text_page_counter'>(133)</span> Tàm, thuộc phủ Ứng Thiên, kinh thành Thăng Long. Công chúa Từ Hoa được suy tôn là bà Chúa Tàm. Trải qua đời Lý đến đời Trần, đổi tên Nghi Tàm là phường Tích Ma, nhưng nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa vẫn phát triển. Nông dân sống về nghề tằm tang là chính, chung quanh cung của công chúa Từ Hoa xưa là ruộng trồng dâu xanh ngắt. Cả làng Nghi Tàm trở thành trại tằm tang lớn. Nhưng tới cuối thời Trần thời Hồ, nghề tằm tang ở Nghi Tàm ngày càng đình đốn. Khi giặc Minh sang xâm lược chúng đốt phá xóm làng, khung cửi, nghề tằm chỉ còn thoi thóp. Đến thời Lê đất nước được độc lập nhưng nghề tằm tơ ở Nghi Tàm chưa được phục hồi. Đời Lê Nhân Tông (1443 – 1459), năm Thái Hòa Nguyên niên (1443) dựng chùa mang tên là chùa Đại Bi. Đến đời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1493) có tiểu thư Quỳnh Hoa là con gái ông Trần Vĩ, có chồng là Liễu Nghi đỗ Tiến sĩ, làm Tri phủ phủ Hà Trung (Thanh Hóa), vì có công đánh Chiêm Thành được thăng Tri phủ phủ Thuận Thiên, kinh thành Thăng Long. Quỳnh Hoa khi ở với chồng ở phủ Hà Trung làm nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, là một nghệ nhân nổi tiếng trong làng dệt được vua triệu vào cung dạy cung nữ chăn tằm, dệt lụa. Hai vợ chồng làm trong cung vua và phủ Thuận Thiên vài năm thì tâu xin nhà vua cho cáo quan về ở phường Nghi Tàm. Tiểu thư Quỳnh Hoa xin cho mình được đem các cung nữ tự nguyện rời cung sống cuộc đời dân dã ở làng Nghi Tàm, được vua chuẩn tấu. Từ đó Liễu Nghi mở trường dạy học, còn Quỳnh Hoa và các cung nữ tiếp tục sự nghiệp của công chúa Từ Hoa để lại. Liễu Nghi đã đem kiến thức uyên bác của mình dậy dỗ đám học trò ở Nghi Tàm và những vùng xung quanh. Nhiều người đỗ đạt cao trở thành nhân tài của đất nước. Khi Liễu Nghi qua đời, Quỳnh Hoa đến tu ở chùa Đại Bi. Tuy tu hành nơi cửa Phật nhưng Quỳnh Hoa vẫn trông coi nghề tằm tang, truyền nghề cho nhân dân. Khi Quỳnh Hoa mất, nhân dân Nghi Tàm tôn Liễu Nghi và Quỳnh Hoa là những người có công với dân, với nước làm Thành hoàng. Quỳnh Hoa còn được suy tôn làm bà chúa nghề tằm tang ở phường Nghi Tàm và được thờ ở chùa cùng với công chúa Từ Hoa. Quỳnh Hoa tuy qua đời, nhưng các cung nữ và nhân dân Nghi Tàm đã đưa nghề tằm tang, dệt lụa ở Nghi Tàm trở thành nghề chính và nổi tiếng ở đất kinh kì. Chùa Kim Liên được trùng tu nhiều lần. Tấm bia dựng năm Thái Hòa nguyên niên (1443) chép chùa có tên là Đại Bi, được xây lại vào thời vua Lê Nhân Tông. Chùa đã được làm lại, sửa chữa nhiều lần vào những năm Dương Hòa thứ 5, triều Lê Thần Tông (1639) lại sửa. Năm 1736, Chúa.

<span class='text_page_counter'>(134)</span> Trịnh Giang sai Phan Huy Đình và Nguyễn Khắc Tuân đem gỗ từ chùa Báo Lâm về sửa chữa lại, đổi tên là chùa Kim Liên, tạc tượng Trịnh Giang thờ ở chùa. Thời Tây Sơn, năm Quang Trung thứ 5 (1792) chùa được xây lại, trên thượng lương chùa Thượng và thượng lương chùa Hạ ghi niên hiệu triều Tây Sơn. Chùa còn có chuông đúc đời vua Cảnh Thịnh. Hai tấm bia ghi niên hiệu Quang Trung năm thứ 5, có bia ghi: “Tháng Trung thu năm Nhâm Tý, dân cả phường chữa lại ngôi chùa và làm thêm nhà tiền đường”. Chùa nay còn 47 pho tượng trong đó có 35 pho tượng Phật. Ở chùa Thượng có hai pho tượng công chúa đặt trong hai khám. Ở khám lớn tượng cao hơn mặc áo trắng là công chúa Từ Hoa, còn pho tượng vị công chúa mặc áo đỏ (Quỳnh Hoa được phong là công chúa) là công chúa Quỳnh Hoa. Cả hai công chúa đều được phong là bà Chúa nghề tằm ở phường Nghi Tàm. Vào thời Nguyễn, chùa cũng được sửa chữa. Năm 1987 bộ Văn hóa trùng tu lại chùa, nhưng vẫn giữ được kiến trúc thời Tây Sơn. Chùa được bộ Văn Hóa – Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử kiến trúc nghệ thuật ngày 26 – 4 – 1962. CỐNG LỄ - CÁ LỄ Đình làng Hồ Khẩu ở số nhà 20 phố Yên Thái, nay thuộc quận Ba Đình, thành phố Hà Nội thờ hai anh em sinh đôi là Cống Lễ và Cá Lễ là hai nhân vật thời Lý Thần Tông (niên hiệu Thuận Thiên 1128 – 1132) có công dẹp giặc ở vùng Bạch Hạc. Khi Cá Lễ xông pha nơi trận mạc thì vợ chàng là Thủy Tinh công chúa bị chết đuối (thực ra là công chúa trở về Thủy Quốc). Đánh thắng giặc, khải hoàn trở về triều, Cống Lễ được vua phong là Dực Thánh tướng công có đền thờ riêng ở phía Bắc ven hồ. Cá Lễ được phong làm Vệ quốc tướng quân. Chàng thương nhớ vợ là công chúa Thủy Tinh, xin vua cho lập đền thờ Thủy Tinh công chúa, nay ở số nhà 12 phố Yên Thái. Khi Cá Lễ qua đời, nhân dân cũng đưa ông vào thờ chung với công chúa. Đến khi có tục thờ Thành hoàng, dân Yên Thái tôn hai ông bà làm Thành hoàng. Lễ hội đình Hà Khẩu tổ chức vào ngày hóa của Cá Lễ ngày 14 tháng 2. Ngoài phần lễ hội có trò bơi cạn diễn lại việc Cá Lễ cùng dân làng Hồ Khẩu tìm kiếm thi thể Thủy Tinh công chúa. Số người dự trò có 36 người là trai chưa vợ, gái chưa chồng. Khi vào diễn trò chia làm ba tốp, mỗi tốp 12 người, mỗi người cầm một bơi chèo làm động tác chèo thuyền. Có một người lĩnh xướng cho 35 người kia cùng hát, hát theo thể thơ lục bát ca ngợi công lao đánh giặc của anh em Cống Lễ, Cá Lễ. Người lĩnh xướng chỉ hát hai chữ đầu của một câu thì sau đó cả ba tốp thay nhau vừa hát vừa làm động tác chèo thuyền..

<span class='text_page_counter'>(135)</span> THÁI PHÓ TÔ HIẾN THÀNH Trước tháng 8 – 1945 tại Văn Hiến đường làng Hạ Mỗ có Văn Hiến đường thờ Khổng Tử, lại có Võ đường chỉ thờ Trần Hưng Đạo, Tô Hiến Thành cũng được đưa vào thờ ở đây. Việc làng Hạ Mỗ thờ Tô Hiến Thành, một nhà nho uyên bác, một nhà chính sự tài giỏi là một sự đánh giá công lao của ông. Lúc còn nhỏ, ông có tài thao lược văn võ, trí dũng đều giỏi. Đầu đời Lý Anh Tông, ông làm Thái phó, dự coi việc binh. Năm Đại định thứ hai (1141), có người thầy bói là Thân Lợi làm phản, tiếm xưng Nam Bình vương bị Đỗ Anh Vũ đánh thua chạy lên Lạng Châu, ông mang quân đuổi theo, bắt Lợi cho vào cũi giải về kinh sư. Hồi đầu thời Lý, miếu thờ chung Chu Công, Khổng Tử, tháng 12 – 1166 Tô Hiến Thành xin vua Lý lập miếu riêng thờ cúng Khổng Tử, vua y cho lập miếu Khổng Tử ở phía Nam thành Thăng Long. Đó là việc làm sáng suốt của Tô Hiến Thành muốn lấy giáo lý của Khổng Mạnh làm nền tảng cho đạo lý ở nước ta để góp phần ổn định xã hội. Năm Đại định thứ 20 (1159), Ngưu Hống và Ai Lao làm phản, ông vâng lệnh đi đánh, bắt được người, ngựa, trâu voi nhiều vô kể cùng vàng bạc châu báu, ông được thăng Thái úy. Thái phó và Thái úy ngang hàng với nhau, Thái úy chỉ huy quân đội, Thái phó trông coi công việc chính trị của việc quân và đảm nhận việc kinh thành, xã hội trong nước. Năm Đại định thứ 21 ông đi tuyển dân binh hạng khỏe sung vào quân đội. Năm Đại định thứ 22 (1161), ông làm đô tướng lĩnh 20.000 quân đi tuần miền Tây – Nam và các vùng ven biển. Vua thân đi tiễn đến cửa Đại An mới quay về. Năm Chính Long Báo ứng thứ 5 (1167), ông đánh Chiêm Thành, người Chiêm xin hòa, ông mới đem quân về. Bấy giờ Đỗ Anh Vũ đã chết, ông đương việc nước, cầm chính quyền, rèn binh kén tướng, giảng trận pháp, bắt tập cưỡi ngựa, bắn cung, việc quân đội, việc biên phòng nhất nhất được chấn chỉnh. Năm Thiên cảm chí bảo thứ 2 (1175), vua lại lập Long Cán làm Thái tử, cho ông chức Nhập nội kiểm hiệu Thái phó, bình chương quân quốc trọng sự, tước vương, giúp thái tử. Ngày vua đau, ông sai ẵm thái tử ra coi chính. Đến khi bệnh nặng, vua có để tờ chiếu lại dặn ông giúp thái tử, mọi công việc quốc gia đều giao cho xử đoán. Bà Thái hậu họ Lê muốn dựng Thái tử cũ là Long Xưởng(1) mới đem vàng bạc hối lộ cho vợ ông là họ Lã. Ông bảo: “Ta là bậc đại thần chịu mệnh vua ký thác cho ấu chúa, nay nhận hối lộ mà bỏ người nọ, lập người kia còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng?”. Thái hậu lại triệu ông vào dụ dỗ đủ trăm đường. Ông thưa: “Làm ______________________.

<span class='text_page_counter'>(136)</span> (1). Long Xưởng là con cả vì có tội nên trước đã lập thái tử sau bị truất bỏ làm dân thường.. việc bất nghĩa mà được giầu sang, người trung thần nghĩa sĩ đâu lại muốn thế! Huống lời nói của Tiên đế vẫn còn văng vẳng bên tai, há lại không biết việc của Y Doãn(1), Hoắc Quang(2) ngày trước hay sao? Tôi không dám vâng lời”. Việc phải thôi. Đến khi Cao Tông lên ngôi, tôn làm Thái úy cho coi cầm quân, ông nghiêm hiệu lệnh, rõ thưởng phạt, trong nước đều mến phục. Năm Trinh phù thứ tư (1179) ông bị bệnh, có tham tri chính sự là Vũ Tán Đường đêm ngày hầu bên cạnh, còn gián nghị đại phu Trần Trung Tá không ở đấy. Thái hậu đến thăm hỏi: “Nếu ông có mệnh hệ nào thì ai kế ông?” Ông đáp: “Đã có Trung Tá”. Tính công bằng, trung trực như thế thái hậu rất khen ngợi. Tới khi ông chết, vua giảm bữa ăn ba ngày, nghỉ chầu ba hôm. Ông là quan đầu triều, nhận trọng trách hết lòng hết sức, khéo xử trong khi biến cố, dù sóng đánh đập lay chuyển mà cột đá vẫn trơ trơ không dời, cuối cùng khiến cho trên yên, dưới thuần, thực không thẹn với phong thái bậc đại thần đời xưa. Tô Hiến Thành đúng là bậc nhà nho quân tử: “Uy vũ bất năng khuất, phú quí bất năng dâm”.. _____________________ (1) (2). Bề tôi của Thành Thang, phò lập vua bé là Thái Giáp. Bề tôi Hán Vũ đế phò lập vua bé là Chiêu đế..

<span class='text_page_counter'>(137)</span> PHẦN IV. THỜI TRẦN.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> THÁI SƯ TRẦN THỦ ĐỘ LINH TỪ QUỐC MẪU TRẦN THỊ DUNG Chùa Cầu Đông ở phố Hàng Đường thờ Phật và thờ Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ và cháu Trần Lý là một hào kiệt nổi tiếng được Trần Lý yêu quý như con đẻ. Thủ Độ là người tài giỏi can trường, thông minh, tháo vát, sức địch muôn người. Có lần đi thuyền trên biển tìm luồng cá gặp một đàn cá mập rất hung dữ đuổi theo, mọi người trên thuyền sợ hãi. Thủ Độ trỏ con cá đầu đàn quát: - Lũ quân Thủy tề kia, không được hỗn, mi không biết ai đứng trên thuyền đất ư? Nói rồi liền lấy pháo hiệu Ngư phủ ném xuống biển, đàn cá hoảng sợ chạy mất. Trần Lý có con gái yêu là Trần Thị Dung, Thái tử Sam nhà Lý chạy loạn đến nương nhờ ở nhà Trần Lý, sau Trần Lý gả Trần Thị Dung cho Thái tử Sam. Việc đó làm cho Trần Thủ Độ tức tối. Trần Thị Dung vốn có tình ý với Trần Thủ Độ nên vẫn lén lút gặp Trần Thủ Độ. Say đó Trần Lý cùng các con là Trần Tự Khánh, Trần Thừa đem quân vào triều hỗ trợ cho Thái tử Sam lên ngôi. Đoàn Thượng cùng bú sữa một mẹ với Thái tử Sam rút về Hồng Châu chống lại quân Trần. Khi Cao Tông chết, Thái tử Sam lên ngôi tức là Lý Huệ Tông, vua phong Trần Thị Dung làm Nguyên phi. Sau vua và Trần Thị Dung lén đến quân doanh của Trần Thủ Độ. Tới nơi vua phong Trần Thị Dung là Thuận Trinh phu nhân. Vua Lý Huệ Tông và Trần Thị Dung sinh ra công chúa Thuận Thiên và công chúa Chiêu Thánh. Sau Huệ Tông phát điên, bệnh tình ngày càng trầm trọng. Trần Tự Khánh, Trần Thừa nắm hết công việc triều chính. Trần Tự Khánh chết, Trần Thủ Độ được phong Điện tiền chỉ huy sứ tri thành nội ngoại chư quân sự. Thủ Độ ép Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Chiêu Thánh khi đó mới 9 tuổi, cho Huệ Tông rat u ở chùa Chân Giáo và chùa Một Cột. Những người đến thăm vua đều bị Trần Thủ Độ cho người theo dõi rồi giết chết. Trần Thủ Độ vẫn lén lúc vào cung gặp hoàng hậu Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ bố trí cho Trần Cảnh khi đó mới lên tám vào hầu vua Lý Chiêu Hoàng. Một hôm Trần Cảnh bê nước cho Lý Chiêu Hoàng, Lý Chiêu Hoàng trêu té nước vào Trần Cảnh. Trần Thủ Độ liền viết sắc dụ Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi vua cho Trần Cảnh đọc cho các quan nghe. Quan Trung thư lại mở ra đọc. Lời sắc có đoạn: “Từ xưa nước Việt đã có đế vương trị thiên hạ. Nhà Lý ta nối nghiệp 200 năm. Tám đời vua trước công nghiệp rõ ràng. Đến cha ta là Thượng hoàng.

<span class='text_page_counter'>(139)</span> Huệ Tông có bệnh, không người nối dõi, thế nước nguy nan. Trẫm nhận minh chiếu lên ngôi, phận gái làm vua, từ xưa đến nay chưa cso chuyện ấy. Là nữ chúa, đức tài vốn thiếu. Giặc cướp như ong, thiếu người giúp rập, làm thế nào giữ nổi ngôi vua? Dậy sớm thức khuya, trẫm vẫn thấy cáng đáng không nổi: May sao gặp được Trần Cảnh, duyên trời đưa đến, há chẳng là việc đáng mừng sao? Trần Cảnh phẩm chất vẹn tròn, thông minh sáng suốt, phong độ hiền nhân quân tử ngời sáng ra chung quanh. Nếu giữ ngôi vua thay trẫm thì có thể sánh những ông vua có huân nghiệp lớn ở đời nay vậy. Nay trẫm nhường ngôi cho chồng, để thuận lòng trời, thuận lòng thiên hạ. Mong thần dân đồng lòng hết sức, gắng giúp việc nước để hưởng phúc thái bình, đừng phụ lòng trẫm!” Sắc đọc xong, Trần Thủ Độ hỏi: - Chủ kiến của các quan ra sao? Triều đình đành cúi rạp tung hô vạn tuế, vạn tuế. Ngày hôm sau Trần Thủ Độ tâu với Thượng hoàng và vua giáng Hậu Huệ xuống làm công chúa Thiên Cực rồi gả cho mình. Sau đó Trần Thủ Độ đến chùa ép Huệ Tông thắt cổ tự tử. Trần Thủ Độ tìm cách diệt các hoàng thân nhà Lý, giết hại nhiều tôn thất nhà Lý, còn bắt họ Lý đổi thành họ Nguyễn. Trần Thủ Độ chấn hưng nông nghiệp, khơi sông đắp đê, khuyến khích việc tằm tang, mở khóa thi Thái học sinh. Vua 19 tuổi đã điều hành việc nước, Trần Thủ Độ thấy Chiêu Thánh vẫn không có con, trong khi đó Thuận Thiên lấy Trần Liễu đã có mang 3 tháng. Trần Thủ Độ bắt Trần Liễu nhường vợ mình cho Thái Tông. Việc này làm cho Trần Liễu và vua Thái Tông đều bất bình. Trần Liễu chống lại bị thua phải đến thuyền Thái Tông xin hàng. Thái Tông bất bình bỏ Kinh đô đi Đông Triều, sau Trần Thủ Độ ép vua phải về Thăng Long. Trần Thủ Độ được phong chức Thái sư Thống quốc quyền hành rất lớn. Độ đem quân dẹp Nguyễn Nộn ở Bắc Giang rồi lại dùng Nguyễn Nộn dẹp Đoàn Thượng ở Hồng Châu. Trần Thủ Độ sát hại tôn thất nhà Lý, vua không bằng lòng cho là tàn ác, nhưng vẫn phải theo. Công chúa Thiên Cực, vợ Trần Thủ Độ, oai trùm ba cung, sáu viện. Trần Thủ Độ hết lòng lo cho nhà Trần, yêu công chúa Thiên Cực nhưng cũng rất nghiêm. Có lần công chúa Thiên Cực khi đó đã được tôn là Linh Từ Quốc mẫu bị lính canh không cho vào cung cấm, bà mách Trần Thủ Độ, trị tội lính canh. Trần Thủ Độ không trị tội mà còn khen ngợi người lính canh, lại thưởng cho hai lạng vàng. Mấy người muốn nhờ thế Thiên Cực xin xỏ chức vụ đều không được Thủ Độ chấp nhận, có người nhờ Thiên Cực xin cho chức Xã trưởng, Thủ Độ bằng lòng, nhưng cho chặt một ngón tay. Từ đó không ai dám xin xỏ nhờ vả gì..

<span class='text_page_counter'>(140)</span> Tháng 8 năm Đinh Tỵ (10/9 đến 10/10/1257), Trại chủ Quy Hóa Hà Khuất đến xin vào. Vua và Thái sư Trần Thủ Độ cho vào, nhưng cả hai lần đều bắt giam sứ giả, và sai Trần Quốc Tuấn đem quân lên giữ Quy Hóa (Lào Cai). Ngày 12 tháng chạp (17 tháng 1 – 1258), quân Nguyên Mông tràn đến Bình Lệ Nguyên, quân ta không cản được giặc, vua Trần ra lệnh phá cầu Phủ Lỗ, rút về Thăng Long. Quân giặc uy hiếp Thăng Long, vua và Thái sư Trần Thủ Độ quyết định dời khỏi Thăng Long về hạ lưu sông Nhị Hà. Trong ngày triều đình và nhân dân rút khỏi kinh thành Thăng Long, Tể tướng Trần Nhật Hiệu bỏ chạy. Linh Từ Quốc mẫu thấy đám thị tỳ kêu khóc, bà bình tĩnh gọi các quan Thượng phẩm phong ngự giao cho mỗi người phải hướng dẫn các phu nhân, hoàng tử, công chúa, thị nữ lần lượt ra bến Đông Bộ Đầu nhận thuyền đi lánh nạn. Bà đích thân đứng trước đầu thuyền truyền cho quan gọi tên các hoàng tử, công chúa thị nữ lần lượt xuống thuyền. Lại nói Tể tướng Trần Nhật Hiệu chạy vội vàng không kịp đem theo Quốc tỷ, quan giữ ấn liền giấu ở điện Đại Minh, chỉ mang ấn Nội mật đi theo. Khi thuyền của triều đình về đến sông Xích Đằng (sông Hồng đoạn huyện Kim Động, Thị xã Hưng Yên, Tiên Lữ), nhà vua đến thuyền Thái úy Trần Nhật Hiệu hỏi kế chống giặc. Thái úy hoảng sợ đến nỗi không nói nên lời, lấy tay chấm xuống nước viết hai chữ “Nhập Tống”. Vua liền đến thuyền Trần Thủ Độ, vua hỏi: - Thế giặc mạnh lắm, khó bề chống nổi, Trần Nhật Hiệu xui ta Nhập Tống. Trần Thủ Độ thét lớn: - Nước Nam này không còn ai nữa sao? Kinh đỗ dẫu mất nhưng nhiều trang ấp vẫn còn. Nước non này không ai chịu để giặc làm gì thì làm đâu. Vua nói: - Nhiều vị đại thần khác cũng xui ta hàng giặc để cứu cho đất nước khỏi bị tàn phá, sinh linh khỏi điêu đứng. Trần Thủ Độ gắt: - Bệ hạ hàng giặc, trước hết háy chém đầu thần đi đã. Vua cầm tay Trần Thủ Độ tỏ ý tuyệt đối tin tưởng, Thủ Độ cũng vội vàng tâu lại, vì cảm thấy câu trả lời của mình vừa rồi quá nóng nảy: - Đầu Thủ Độ này chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng có lo gì. Trong khi Trần Thủ Độ, cùng các tướng Lê Phụ Trần, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật quyết chiến với giặc, thì Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung đảm đương việc hậu cần gồm binh khí, lương thực, quân trang cho quân lính. Bà cho lập Kho lương ở trên bờ sông Hồng thuộc Khoái Châu, sau được gọi là “Mễ Sở” tức kho gạo. Bà huy động lương thực.

<span class='text_page_counter'>(141)</span> trong dân, giao cho dân giữ kho, khi cần dân xay giã rồi giao cho quân đội. bà cũng lo đủ vũ khí, thuyền bè. Nhờ đó quân ta “Thực túc binh cường”. Linh Từ Quốc mẫu còn cho những người thân tín đi Trường Yên (Ninh Bình), đi Thanh Hóa chuẩn bị sẵn cơ sở, binh lương để khi cần thiết thì di chuyển Triều đình từ song Thiên Mạc về đó. Nhờ đó vua cùng Trần Thủ Độ, Lê Phụ Trần và các tướng yên tâm đánh giặc. Quân Nguyên – Mông đóng ở Thăng Long nhưng bị dân binh tập kích phải đóng ở ven sông. Chúng đi cướp lương thực cũng không được vì dân đem cất giấu, tổ chức dân binh đánh trả. Lê Phụ Trần tâu vua đem quân đánh vào đại quân giặc ở Đông Bộ Đầu, Trần Thủ Độ vào Thanh Hóa lấy thêm quân. Vua theo kế của Trần Quốc Tuấn sai đem thuyền hỏng, bện bù nhìn bà la liệt trên sông Xích Đằng, cờ cắm la liệt khắp nơi, lại sai quân đốt lửa ở các trại quân, làm như các bếp quân đội đang nấu ăn cho hàng vạn quân để nghi binh. Trong khi đó thì Lê Phụ Trần, Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dư bí mật hành quân về Đông Bộ Đầu. Quân Nguyên thua chạy khỏi Đông Bộ Đầu. Trên đường rút chạy lại bị bẩy anh em họ Lỗ, Hà Đặc, Hà Chương, Phùng Lộc Hộ, Hà Bổng đổ ra đánh giết, Kinh thành Thăng Long được giải phóng, đất nước Đại Việt sạch bóng giặc Nguyên – Mông. Khi Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu trở về già, hai người vẫn yêu quý nhau đằm thắm. Linh Từ lâm bệnh, Trần Thủ Độ luôn luôn túc trực ở bên giường chăm lo thuốc thang. Linh Từ Quốc mẫu mất, an táng ở huyện Ngự Thiên(1) phủ Thiên Trường. Lăng của Quốc mẫu được Thủ Độ cho xây từ khi bà mới lâm bệnh. Ông vuốt mắt cho bà. Từ đó đi đâu ông cũng đem theo bức truyền thần của bà. Ông mất năm Thiệu Long thứ 7 (1264), đời Trần Thánh Tông. Ông giữ chức Tể tướng, được tặng Thượng phụ Thái sư, tước Trung Vũ Đại vương. Khi ông mất được táng ở huyện Ngự Thiên cùng với Linh Từ Quốc mẫu, ở địa phận xã Phù Ngự. Nơi an táng có hổ đá, voi đá, ngựa đá, dơi đá, chim đá và bình phong bằng đá. Chỗ đất ấy rộng đến 2 mẫu, cây cối um tùm. Về Từ điển trước vẫn liệt vào hạng Thượng đẳng thần, các quan phủ huyện đến kinh tế. Hồi đầu niên hiệu Chiêu Hòa (1680-1705), địa phương lấy cớ phải cung đốn khổ sở, làm tờ khai xin bỏ Từ điển đi, chỉ lấy 9 mẫu ruộng Triều trước cho để cúng tế. Triều đình chuẩn cho, từ đó anh linh cũng kém. Trần Thủ Độ, Linh Từ Quốc mẫu tuy đem ngôi vua từ nhà Lý về họ Trần, làm nhiều điều thất đức với tôn thất nhà Lý nhưng lại có công lập nên nhà Trần, đã ba lần đánh thắng Nguyên – Mông, xây dựng đất nước giầu _______________________ (1). Huyện Ngự Thiên tức huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình, quê hương thứ hai của nhà Trần..

<span class='text_page_counter'>(142)</span> mạnh, nên được rất nhiều nơi thờ, trong đó có chùa Cầu Đông ở phố Hàng Đường. AN SINH VƯƠNG TRẦN LIỄU Chùa Vua ở làng Thịnh Yên nay là phố Chùa Vua (khu vực chợ Trời), quận Hai Bà Trưng, nguyên là điện Thừa Lương, là nơi vua và các ông Hoàng, bà Chúa, các quan đại thần triều Lê đến tế ở đàn Nam Giao (nay là khu vực nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo) vào nghỉ chân, sau đó chuyển thành Chùa. Chùa thờ Phật, nhưng còn thờ Đế Thích Thiên vương, Mẫu Liễu Hạnh và Trần Liễu thân phụ Trần Hưng Đạo. Sự tích Trần Liễu như sau: Trần Liễu sinh vào thời Lý (1211), là anh ruột vua đầu của triều Trần là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông (1218 – 1277). Bà Trần Thị Dung là người con gái xinh đẹp, mưu lược được Thái tử Sam nhà Lý chọn làm vợ. Khi vua Lý Cao Tông qua đời, thì Thái tử Sam lên ngôi tức Lý Huệ Tông. Bà Dung được phong làm Nguyên phi vào năm 1217, sau đó bà được phong làm Hoàng hậu. Bà Dung có hai con gái là công chúa Thuận Thiên sinh năm 1216 lấy Trần Liễu, còn công chúa thứ hai là Chiêu Thánh lấy Trần Cảnh. Trần Cảnh không có con, khi đó công chúa Thuận Thiên vợ Trần Liễu có mang, đã bị Thái sư Trần Thủ Độ ép lấy Trần Cảnh, buộc Trần Liễu phải nhường vợ cho em. Trần Liễu căm tức đã chiêu mộ quân sĩ, lấy Phúng Tá Chu làm quân sư tiến đánh Trần Thủ Độ ở kinh sư. Nhờ Hoàng Thái hậu Trần Thị Dung dàn xếp nên công việc ổn thỏa. Sau đó Trần Liễu bị Trần Thủ Độ đánh bại, Trần Liễu phải đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá đến thuyền vua đầu hàng. Thái Tông cũng bất mãn về việc Trần Thủ Độ giáng Chiêu Thánh xuống làm công chúa, đưa Thuận Thiên có mang ba tháng lên làm Hoàng hậu. Vua Thái Tông bất mãn, đang đêm trốn khỏi kinh thành lên núi Yên Tử ở với Quốc sư Phù Vân. Sáng hôm sau Trần Thủ Độ đem quần thần đi đón ngự giá về Kinh đô. Vua Thái Tông bảo: “Trẫm còn thơ bé chưa kham gánh được sự kí thác nặng nề. Phụ hoàng đã vội lìa bỏ trẫm sớm mất chỗ nương tựa. Bây giờ không muốn ở ngôi vua làm nhục xã tắc”. Thủ Độ hai, ba lần nài nỉ không được liền bảo mọi người: “Phàm Hoàng thượng ở đâu thì triều đình ở đó”. Bèn làm biểu, xin dọn trong hang núi làm chỗ thiết triều, hay tin ấy Quốc sư vội xua tay nói với vua: “Xin bệ hạ mau hồi loan đừng để làm hại đệ tử ở nơi rừng núi”. Trần Thái Tông liền về kinh. Về phía Trần Thủ Độ khi biết hai anh em hòa nhau liền đến thẳng truyền ngự rút gươm quát: “Giết tên bất nghĩa”. Vua Thái Tông giấu Trần Liễu ở trong thuyền bảo Thủ Độ: “Phụng Kiền vương (chức nhà Lý ban cho Trần.

<span class='text_page_counter'>(143)</span> Liễu) đến hàng đó thôi!” Trần Thủ Độ vẫn đòi giết Trần Liễu, vua Thái Tông hòa giải mãi mới xong. Trần Liễu được vua Trần Thái Tông phong tước, cấp đất cho, song Trần Liễu vẫn căm Trần Thái Tông cướp vợ mình. Có lần Trần Liễu bảo Quốc Tuấn rằng: “Sau này nếu con không vì ta mà lấy lại thiên hạ thì ta sẽ không sao nhắm mắt được khi nằm xuống đất”. Vì lẽ đó nên ngay khi Quốc Tuấn còn nhỏ, Trần Liễu đã kén những người tài giỏi trong nước để dậy cho Quốc Tuấn học cả văn lẫn võ. Quốc Tuấn đã không theo ý cha mà vẫn một lòng trung quân ái quốc để tiếng thơm ngàn thu. Vào những năm 1929 – 1930, chùa Vua là nơi đồng chí Nguyễn Phong Sắc, ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ẩn náu. Vào năm 1940 đến năm 1946, Chùa Vua là nơi tu hành của nhà sư Hoàng Đình Điều là con trai Hoàng Đình Kinh thủ lĩnh chống Pháp ở Lạng Sơn. Hoàng Đình Kinh là cha nuôi Trương Văn Thám, nên Thám đổi là Hoàng Hoa Thám, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Hoàng Đình Điều là em nuôi Hoàng Hoa Thám nhưng cũng là vị tướng xuất sắc của Hoàng Hoa Thám. Ngày 10-4-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm chùa, Chủ tịch đã nói với bà Lê Thị Hiền, trông coi chùa “Bà trông nom giúp chùa cho cẩn thận đừng để mất gì”. Chùa Vua được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa. Chùa mở hội từ mùng 6 đến mùng 9 tháng giêng, ngày 9 là ngày các đấu thủ cao cở ở Hà Nội và các tỉnh thi đấu tranh ngôi quán quân. HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN Trần Quốc Tuấn là con An Sinh vương Trần Liễu, tương truyền là Thanh Sơn đồng tử giáng sinh, một đêm phu nhân của Trần Liễu nằm mộng thấy một đồng tử áo xanh chui vào bụng mình, có mang rồi sinh ra ông. Ông vốn thông minh hơn người, dung mạo hùng vĩ, có người coi tướng nói rằng: “Người này ngày sau có tài kinh bang tế thế”. Trần Quốc Tuấn được cha đón nhiều thày giỏi văn, võ về dạy, ông là người thông minh nên học đâu nhớ đó, chẳng bao lâu ông đã thấu hiểu mọi kinh nghĩa, văn thơ cổ kim. Ông cũng đọc hết các binh pháp của Tôn Tử, Ngô Khởi, ông còn rút ra những bài học bổ ích cả về thành công và thất bại đối với những chiến dịch lớn của Trung Quốc. Trần Quốc Tuấn đặc biệt coi trọng phương pháp xây dựng quân đội ít nhưng tinh, lấy ít thắng nhiều phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. Năm 1236, quân Nguyên Mông đánh chiếm Thành Đô, Hán Khẩu của Trung Quốc, thì ngay sau đó vua Tống vội vàng sai sứ sang phong cho vua.

<span class='text_page_counter'>(144)</span> Trần là An Nam quốc vương. Song triều đình nhà Trần hiểu rõ kẻ thù của Đại Việt là Mông – Thát chứ không phải là nhà Tống, kẻ đang thua trận nên đã tích cực chuẩn bị kháng chiến trên toàn diện. Từ năm 1240 trở đi quân Nguyên – Mông đánh chiếm nước Nga rộng lớn rồi đánh cả châu Âu, tràn sang Trung Á. Cả châu Âu và Tòa thánh La Mã khiếp sợ và đều cam chịu làm nô lệ cho đế chế Mông – Thát. Để uy hiếp mặt Tây – Nam của Nam Tống, từ năm 1252, Hốt Tất Liệt (Qubilai, Khubilai) được lệnh của chúa Mông Cổ đánh chiếm Vân Nam của Trung Quốc. Năm 1253, Hốt Tất Liệt và tướng U Ti ang kha đai (Nguyên sử chép là Ngột Lương Hợp Thai). Vua nước Đại Lý ở Vân Nam là Đoàn Hưng Trí bỏ trốn sau bị bắt đã đầu hàng Mông Cổ. Năm 1254 vua Đại Lý Đoàn Hưng Trí tuyển mộ 20.000 quân là người Bạc Thoán (Lô Lô, còn gọi là người Di) giúp quân Mông Cổ chinh phục các nước khác ở Tây Nam Trung Quốc và lăm le xâm lược Đại Việt. Đến năm 1256 toàn bộ tỉnh Vân Nam đã bị quân Nguyên – Mông chia làm quận huyện. Năm 1257, chúa Mông Cổ Mông Kha cất quân đánh Tống theo bốn mặt trong đó có một mặt do cánh quân của Ngột Lương Hợp Thai từ nước Đại Lý được vua Đại Lý là Đoàn Hưng Trí đưa 20.000 quân đi tiên phong đưa số quân lên 50.000 tên đánh chiếm Đại Việt rồi từ Đại Việt đánh ngược lên châu Ung (nay là Nam Ninh tỉnh Quảng Tây), châu Quế (Quế Lâm, Quảng Tây) rồi tiến lên phía Bắc gặp ba cánh quân mở cuộc tổng tấn công vào Ngạc Châu. Tháng 9 năm 1257 sứ của Ngột Lương Hợp Thai từ nước Đại Lý tới trước cửa ải Quy Hóa(1) xin vào. Chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất cho chạy trạm về triều là có sứ Mông Cổ xin vào. Triều đình cho sứ vào, nhưng tới kinh thành Thăng Long là bị bắt tống vào ngục tối. Tháng 10 – 1257, Ngột Lương Hợp Thai lại cho sứ sang, và lần này nhà vua cũng cho vào để rồi đến kinh thành Thăng Long lại bị tống giam vào ngục. Ngay lập tức vua Trần và Thái sư Trần Thủ Độ chưa biết chọn vị tướng nào để đi biên giới chặn giặc thì Trần Quốc Tuấn lúc đó khoảng 24 – 25 tuổi tình nguyện xin đi. Ông được nhà vua giao ấn tiên phong đưa quân lên Quy Hóa bày trận. Vua Trần cũng chuẩn bị kháng chiến từ lâu nên ngay lập tức điều động quân đội lên lập trận địa chặn giặc ở phía Nam Bạch Hạc và ở Bình Lệ Nguyên. Tháng 12 năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai không ngờ là Đại Việt đã bắt sứ, một điều chưa từng xẩy ra với quân Nguyên – Mông vì hễ quân Nguyên_____________________ (1). Quy Hóa thời Trần gồm châu Thủy Vĩ (Lào Cai), Văn Chấn, Văn Bàn, Trấn Yên, Yên Lập. Trại chủ Quy Hóa đóng gần biên giới có thể ở phố Lu bên Tả ngạn hoặc ở động Cam Đường bên Hữu ngạn thuộc huyện Bảo Thắng ngày nay..

<span class='text_page_counter'>(145)</span> Mông phái sứ đi thì nước đó chỉ có đầu hàng, vậy mà Đại Việt là một nước nhỏ dám chống lại, nên Ngột Lương Hợp Thai cho sứ sang đồng thời cũng cho 50.000 vạn quân vượt biên giới vào Đại Việt. Sử không ghi quân Nguyên – Mông vào Đại Việt bằng đường nào, nhưng từ Vân Nam sang Đại Việt chỉ có hai đường, một là theo hữu ngạn sông Thao qua vùng Cam Đường, Võ Lao, Văn Bàn, Trấn Yên rồi xuống Hạ Hòa phủ Hưng Hóa rồi tới Bạch Hạc. Cũng có khả năng chúng đi theo đường Hà Giang qua Tuyên Quang, Đoan Hùng rồi về Bạch Hạc nhưng đường này xa hơn, khó đi hơn. Trong khi đó thì tướng tiên phong Trần Quốc Tuấn cũng bầy trận đánh địch, quân địch bị chặn lại, nhưng chúng vẫn tiến được. Trần Quốc Tuấn thấy rõ với lực lượng ít ỏi của mình không thể đánh tiêu diệt chúng được mà cần phải rút lui. Nhưng phải rút một cách an toàn để bảo toàn lực lượng đánh trận lớn ở nam Bạch Hạc và ở Bình Lệ Nguyên do chính vua Trần chỉ huy, ông liền bố trí trận địa. Ngột Lương Hợp Thai phát hiện lực lượng quân Trần mỏng, hắn tung toàn bộ lực lượng bủa vây toan bắt sống vị tướng trẻ. Nhưng Trần Quốc Tuấn bố trí trận địa làm như chuẩn bị đánh lớn, nhưng khi tên tướng Nguyên – Mông hùng hổ tung quân vào thì đó chỉ là một trận địa giả, còn Trần Quốc Tuấn thì đã đưa toàn bộ quân đội rút lui an toàn. Tên tướng Nguyên chưa từng bị thua trận nào nay bị lừa tức đến hộc máu mồm. Trần Quốc Tuấn đã đưa toàn bộ quân lui về phía sau và bố trí nhiều trận địa đánh chặn tiêu hao địch khiến cho chúng bị thương vong nặng nề. Chúng còn bị các đội dân binh do Hà Bổng, một người ở châu Quy Hóa đánh nhiều trận lớn khiến cho quân giặc đi không an toàn, đóng quân không yên. Tuy vậy, với lực lượng 50.000 quân, Ngột Lương Hợp Thai vẫn tiến được xuống phía nam, nhưng rồi chúng lại bị đội dân binh do Phùng Lộc Hộ chỉ huy, do bẩy an hem họ Lỗ chặn đánh quyết liệt. Vừa tới Bạch Hạc nhìn sang bên kia sông đã thấy trận đại chặn đánh do vua Trần thân chỉ huy. Thế giặc mạnh, phòng tuyến phía nam Bạch Hạc vỡ, vua Trần lui về phòng tuyến thứ hai là Bình Lệ Nguyên ở ngang vùng Phủ Lỗ hiện nay. Phòng tuyến này cũng nhanh chóng bị quân Nguyên – Mông chục thủng, vua Trần rút quân về Thăng Long. Do có kế sách từ trước, Trần Thủ Độ đã đưa triều đình và dân cư 61 phưởng của kinh thành Thăng Long, thực hiện “vườn không nhà trống”, kinh thành không còn bóng người, không một chút lương thực, và đi đâu cũng bị dân binh tập kích. Khi Ngột Lương Hợp Thai vào trong thành chỉ thấy mấy tên sứ giả bị trói trong ngục, có tên đã gần chết đói, Ngột Lương Hợp Thai sợ không dám đóng quân ở trong thành mà phải đóng ở Đông Bộ Đầu trên sông Hồng. Quân Nguyên không có lương, không đuổi được vua Trần, lại luôn luôn bị đánh nên vô cùng hoang mang..

<span class='text_page_counter'>(146)</span> Nắm thời cơ đó ngày 24 tháng chạp năm Nguyên phong thứ bẩy (29-11258), vua Trần Thái Tông cùng Thái tử Hoảng chỉ huy thủy quân từ sông Trường Giang, Xích Đằng đánh ngược lên, các cánh quân bộ cũng hợp đồng tác chiến, giặc bị thua to, chúng phải rút chạy theo hai đường, một đường qua Lạng Giang lên Lạng Sơn, một đường qua Tam Dương, Bạch Hạc rồi lại chia làm hai đường, một theo đường sông Thao ngược lên Quy Hóa, một lên đường Tuyên Quang, Hà Giang rồi vượt biên giới. Đám tàn quân chạy tới Tam Dương, Bạch Hạc bị quân triều đình đuổi theo phía sau, phía trước thì bị dân binh Phùng Lộc Hộ chặn đánh. Cánh quân rút theo đường Quy Hóa thì phía sau cũng bị quân triều đình đuổi theo, phía trước thì bị dân binh do Hà Bổng chỉ huy chặn đánh, giặc bị chết quá nhiều. Ngột Lương Hợp Thai chạy về đến Nguyên triều vẫn chưa hết khiếp đảm, sử Nguyên phải thừa nhận: “Khi quân đánh Đại Việt về tới Ngạc Châu, đám tàn quân của Ngột Lương Hợp Thai chỉ còn có 5.000 người”. Ba mươi năm sau đế quốc Nguyên – Mông đã rất hùng mạnh lại lăm le xâm lược Đại Việt. Để đối phó với cuộc xâm lược này, tháng 11-1282, Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đã triệu tập các vương hầu, tướng lĩnh họp hội nghị ở bến Bình Than bàn kế đánh giặc. Thượng hoàng, vua và các quan văn võ đều nhất trí với kế sách đánh giặc của Trần Quốc Tuấn. Thượng tượng Thái sư Trần Quang Khải tâu vua xin nhường quyền Tiết chế thống lĩnh binh mã các đạo cho Trần Quốc Tuấn. Khi trở về kinh thành Thăng Long, vua Trần Nhân Tông đã làm lễ trao ấn kiếm Tiết chế cho Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Ngay sau khi nhận trọng trách tổng chỉ huy đánh giặc Mông Thát, Quốc công Tiết chế đã điều động các tướng đi phòng thủ các vị trí xung yếu. Ông cử thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản lên giữ ải phía Bắc, điều Chiêu Minh vương Trần Nhật Duật đi Nghệ An chặn đánh Toa Đô… Giữa tháng 12-1284, Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn đóng đại bản doanh ở Vạn Kiếp được tin cấp báo từ biên ải về là 500.000 quân Nguyên – Mông do Thái tử Trấn Nam vương Thoát Hoan chỉ huy đã xuất phát tiến về biên giới nước ta. Quốc công Tiết chế sai người về kinh cấp báo và phái thêm các tướng Lê Phụ Trần, Nguyễn Khoái lên biên giới tăng cường cho các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản. Chính trong giờ phút lâm nguy của Tổ quốc, vua Trần Nhân Tông chuẩn y lời tâu của Quốc công Tiết chế, triệu tập bô lão trong cả nước về dự yến tiệc ở điện Diên Hồng để hỏi kế sách đánh giặc. Sau khi các bô lão nghe nhà vua báo tin Thoát Hoan chỉ huy 50 vạn quân đang tiến vào biên giới, đồng thời 10 vạn quân Toa Đô cũng từ Chiêm Thành đang tiến ra để tấn công Đại.

<span class='text_page_counter'>(147)</span> Việt từ hai phía, thế giặc rất mạnh, vậy ta nên hòa hay nên đánh. Các bô lão trăm nghìn người như một nhất tề hô “đánh”. Sau cuộc họp lịch sử đó, Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn phái Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải đưa quân vào Nghệ An tiếp ứng cho Chiêu Minh vương Trần Nhật Duật. Quốc công Tiết chế thì thân dẫn đại quân ngược lên biên giới phía Bắc cự địch. Ngày 27 tháng giêng 1285 đại quân địch trên hướng Đông Bắc tiến vào Lộc Bình (Lạng Sơn). Tại cửa ải Nội Bàng, Hưng Đạo vương, Phạm Ngũ Lão cùng các tướng chiến đấu quyết liệt với giặc. Vua Trần cũng dẫn quân Thánh dực và hơn 1.000 chiến thuyền lên tăng viện. Quân Nguyên – Mông bị tổn thất nặng nề, song chúng vẫn chọc thủng được phòng tuyến Nội Bàng. Vua Trần rút về Thăng Long, Trần Hưng Đạo cùng các tướng lùi về giữ Vạn Kiếp. Phòng tuyến Vạn Kiếp bị quân Thoát Hoan chọc thủng, ngày 14-21285, quân ta rút khỏi Vạn Kiếp về giữ kinh thành Thăng Long. Trong khi đó triều đình theo kế hoạch từ trước xuống thuyền xuôi theo sông Hồng về bãi Đà Mạc, Đông Kết, Tây Kết, Chương Dương (Khoái Châu, Hưng Yên), nhân dân cũng rút khỏi kinh thành, thực hiện vườn không, nhà trống. Chiếm được Vạn Kiếp, Thoát Hoan ngược theo sông Lục Đầu vào sông Đuống rồi ra sông Hồng chiếm kinh thành Thăng Long. Bọn xâm lược vào thành chỉ có thành không, sợ bị quân ta tập kích, Thoát Hoan phải đóng quân ở bờ Bắc sông Hồng. Mấy ngày sau Thoát Hoan cho Hữu thừa Khoan Triệt, Vạn hộ Mang Cổ Đài, Vạn hộ Bốt la Đáp Cáp nhĩ chỉ huy quân bộ, Tả thừa Lý Hằng, Vạn hộ Ô Mã Nhi chỉ huy quân thủy theo sông Hồng đuổi theo vua Trần. Vua cùng triều đình rút về sông Hoàng Giang giao cho Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng ở lại chặn giặc ở bãi Đà Mạc (sau đổi là bãi Mạn Trù). Hôm ấy là ngày Nhâm Thìn, tháng giêng năm Ất Dậu (24-2-1285), tướng chỉ huy của ta là Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng (1) chiến đấu rất quyết liệt, nhưng giặc đông, quân ta ít, không đương nổi, Trần Bình Trọng bị giặc bắt, chúng muốn dụ dỗ ông làm tay sai cho chúng, mời ông ăn uống ông từ chối. Giặc hỏi ông: “Có muốn làm vương đất Bắc không?”, ông khảng khái trả lời: “Thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc!”. Chúng đã giết ông. Ngày 3 tháng 2 âm lịch (10-3-1285), quân ta giao chiến với giặc ở sông Đại Hoàng (đoạn sông Hồng chảy qua huyện Lý Nhân, Hà Nam). Thế giặc mạnh, quân ta phải rút lui. Giữa lúc quân ta gặp khó khăn như vậy thì Trần Kiện là tôn thất được lệnh đem 10.000 quân, Lê Trắc đem gần 10.000 vào Thanh Hóa đánh Toa Đô thì hai tên này đầu hàng giặc đánh vào sau lưng _________________________ (1). Ông vốn dòng dõi vua Lê Đại Hành quê ở tỉnh Hà Nam, lấy công chúa Thụy Bảo con vua Trần Thái Tông, có công nên được ban quốc tính..

<span class='text_page_counter'>(148)</span> Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật, gây tổn thất lớn cho quân ta. Trần Quốc Tuấn phải lập tức phái Phạm Ngũ Lão vào Thanh Hóa phối hợp với Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật phá giặc. Tháng 4-1285 quân giặc bắt đầu quẫn bách, Quốc công Tiết chế lại nhanh chóng vào Thanh Hóa cùng vua Trần và Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải hoạch địch kế hoạch tấn công giặc. Theo kế hoạch thì Quốc công Tiết chế cùng Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật và các tướng sĩ sẽ vượt biển ra Bắc tới cửa Ba Lạt, cánh quân này sẽ chia làm hai: Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, Chiêu Minh vương Trần Nhật Duật có nhiệm vụ tiêu diệt các đồn binh trên hai bờ sông Hồng như Giang Khẩu, Tây Kết, Hàm Tử và các trại thủy quân trước khi Toa Đô tới cửa Hàm Tử. Quốc công Tiết chế tiêu diệt đại đồn A Lỗ ở ngã ba sông Luộc – sông Hồng (ở đầu huyện Tiên Lữ tới cuối Phố Hiến), sau đó qua các lộ phía Đông tới Vạn Kiếp để đánh phía sườn và phía sau quân Thoát Hoan từ Thăng Long rút chạy qua. Vua Trần ở lại Thanh Hóa cầm cự với Toa Đô, khi Toa Đô tiến ra Bắc thì đuổi theo chặn đường rút của chúng theo đường sông Hồng ra biển. Thực hiện kế hoạch trên, tháng 4 năm Ất Dậu (từ 6-5 đến 4-6-1285), các tướng cho chiến thuyền vượt qua vùng kiểm soát của Toa Đô ở vùng biển Thanh Hóa ra Bắc. Ngay lập tức Hưng Đạo vương tấn công đại đồn A Lỗ, tướng giặc là Vạn hộ Lưu Thế Anh phải tháo chạy. Cũng trong tháng 4 Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải hạ hàng loạt đồn trại giặc hai bên bờ sông Hồng, Chiêu Thành vương (không rõ tên), Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản và tướng Nguyễn Khoái đánh quân Nguyên – Mông ở đồn Tây Kết, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đánh tan quân Nguyên – Mông ở cửa Hàm Tử. Ngày 15 tháng 5 năm Ất Dậu (19-6-1285), hai vua từ Thanh Hóa về đến Long Hưng (Thái Bình) bái yết lăng mộ tổ tiên nhà Trần. Ngày 17 tháng 5 (21-6-1285), Toa Đô – Ô Mã Nhi theo đường biển qua cửa Ba Lạt vào sông Hồng tiến lên sông Thiên Mạc (khúc sông Hồng từ thị xã Hưng Yên lên huyện Khoái Châu), lập tức vua Trần dẫn quân thủy đuổi theo. Ba ngày sau, ngày 20 tháng 5 (24-6-1285) quân Trần đại phá quân Toa Đô. Đến Đại Mang, bộ tướng Nguyên là Tổng quản Trương Hiển ra hàng. Hôm đó quân ta lại đến đánh tan quân Nguyên vừa mới tái chiếm Tây Kết. Tướng Toa Đô bị chém đầu, Ô Mã Nhi và Vạn hộ Lưu Khuê liều chết mở vòng vây ở hạ lưu chạy thoát được ra biển. Tiểu Lý đi thuyền phía sau thấy khó thoát đâm cổ tự tử. Sau khi phá tan quân giặc ở Hàm Tử, vua Trần dẫn các tướng tiến ra Thăng Long, đánh bại Thái tử Trần Nam vương Thoát Hoan ở bến Chương Dương Độ (phía trên cầu Long Biên). Bọn chúng phải chia làm hai đường.

<span class='text_page_counter'>(149)</span> thủy bộ, đường thủy theo sông Lục Đầu qua Vạn Kiếp ra sông Bạch Đằng thoát ra biển, đường bộ chạy theo hướng Đông Bắc qua ải Nội Bàng. Nhưng số phận của bọn xâm lược đã được định đoạt, bọn theo đường thủy bị Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn đánh cho tan tác, bọn rút theo đường bộ thì bị Phạm Ngũ Lão tiêu diệt chỉ còn một đám tàn quân chạy thoát về Trung Quốc. Trong ngày ca khúc khải hoàn tại kinh thành Thăng Long, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải đã làm bài thơ: “Đoạt sáo Chương Dương Độ Cầm hồ Hàm Tử quan Thái bình tu chí lực Vạn cổ thử giang sơn” Sau hai trận đem quân đánh Đại Việt đều bị thất bại thảm hại, vua Nguyên Hốt Tất Liệt vô cùng tức giận, nhưng thế chưa thể đánh ngay được nên đành cho sứ sang để thăm dò. Về phía nước Đại Việt sau hai lần chiến thắng lừng lẫy vẫn không chểnh mảng việc xây dựng quân đội, chấn hưng kinh tế, thắt chặt mối đoàn kết toàn dân. Đối với nhà Nguyên, triều đình không có quan hệ ngoại giao nào và vẫn giam giữ năm vạn tù binh, tháng 2-1286, triều đình hạ lệnh tha chúng. Tuy Đại Việt đã thả tù binh, nhưng vua Nguyên Hốt Tất Liệt vẫn tích cực chuẩn bị xâm lược Đại Việt, đã lệnh cho Thái tử Thoát Hoan, A Lý Hải Nha huy động quân thủy, bộ, quân kỵ, đóng chiến thuyền, tập trung ngựa. Vua Nguyên cũng phong cho tên phản bội Trần Ích Tắc làm An Nam quốc vương, các tên Trần Tú Hoãn được phong làm Nghĩa công, Trần Văn Lộng làm Tuyên phủ sứ Quy Hóa, Lại Ích Khuy làm An phủ lộ sứ Đà Giang sẽ theo quân Nguyên về đánh Đại Việt. Năm được ý đồ của giặc, vua Trần lại cử Trần Quốc Tuấn làm Quốc công Tiết chế, thống đốc mọi việc mộ quân, điều quân, chế tạo binh khí, đóng chiến thuyền của các vương hầu, tôn thất. Ông cũng diễn tập quân sự, đắp kè đá ở cửa sông Bạch Đằng, bố trí các tướng giỏi trấn giữ những nơi hiểm yếu từ cửa biển Vạn Ninh (Móng Cái) tới cửa sông Bạch Đằng. Nhà vua hỏi Trần Quốc Tuấn: “Năm nay thế giặc như thế nào?”. Ông trả lời: “Nếu năm nay quân giặc lại sang thì quân ta đã quen đánh dẹp, mà quân họ thì ngại đi xa, vả chi sự thất bại của những tên Hằng, tên Quán còn làm chúng khiếp sợ, chúng không có lòng muốn đánh. Cứ tôi xem xét thì nhất định phá được giặc”. Ngày 11-10 năm 1287, 50 vạn quân Nguyên – Mông do Trấn Nam vương Thoát Hoan, Bình Chương Áo Lỗ Xích theo đường Quảng Tây vào Lộc Bình, còn Trịnh Bằng Phi theo đường Chi Lăng tiến vào biên giới Đông bắc.

<span class='text_page_counter'>(150)</span> nước ta. Đạo quân Vân Nam do Ái Lỗ chỉ huy vào biên giới Tây Bắc nước ta rồi xuôi theo sông Hồng tiến xuống Bạch Hạc. Đạo quân thủy theo đường biển Vạn Ninh, đi ven biển vào cửa Bạch Đằng để tiến vào Vạn Kiếp. Thủy quân địch đến Mũi Ngọc lại chia làm hai cánh, một cánh có 15.000 quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy, một cánh mấy vạn quân đi cùng với 500 thuyền lương do Trương Văn Hổ chỉ huy. Cả ba cánh quân hẹn đợi ở Vạn Kiếp. Ngày 25 tháng 12 năm 1287, hai cánh quân bộ tiến qua biên giới. Lần này Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương không đánh chúng quyết liệt ngay ở biên giới mà giao cho các tướng đánh chặn quyết liệt. Hướng Tây bắc do Chiêu Minh vương Trần Nhật Duật chỉ huy đã đánh 18 trận lớn trong đó có trận ở Nam Bạch Hạc diễn ra vào ngày 6 tháng 11 âm lịch là lớn nhất. Đạo quân của Trịnh Bằng Phi đi theo đường Chi Lăng xuống phải giao chiến với quân ta 17 trận. Đạo quân của Thoát Hoan bị quân ta chặn đánh ở cửa ải Nữ Nhi và nhiều nơi khác. Đạo quân thủy cánh do Ô Mã nhi và Phàn Tiếp cũng bị Trần Khánh Dư chặn đánh từ Ngọc Sơn, Vạn Ninh, Đa Mỗ, Vân Đồn, An Bang nên tiến rất chậm. Còn 500 thuyền lương của Trương Văn Hổ đi sau không theo kịp cánh quân vài vạn quân. Tuy vậy Trần Khánh Dư cũng không hoàn thành nhiệm vụ của chiến dịch đề ra là tiêu diệt quân Ô Mã Nhi, chúng tới được cửa sông Bạch Đằng. Kết quả là chỉ trừ cánh quân ở hướng Tây bắc không đến hội quân ở Vạn Kiếp được, còn quân của Thoát Hoan, Bằng Phi, Ô Mã Nhi đều hội quân được ở Vạn Kiếp, nhưng chúng bị quân ta tấn công dữ dội và lâm vào cảnh thiếu lương, đi cướp không được vì nhân dân thực hiện “Vườn không nhà trống”. Khi vào đến thành Vạn Kiếp thì chỉ có thành không. Thoát Hoan sợ bị đánh nên đóng trong các thành gỗ rải rác chung quanh Vạn Kiếp. Ngày 23 tháng chạp âm lịch (27-1-1288), Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích để lại một lực lượng nhỏ giữ Vạn Kiếp, còn đem đại quân tiến xuống Thăng Long. Ngày 26 tháng chạp (30-1-1288), quân ta do Nguyễn Thức chỉ huy chặn đánh quân giặc ở cửa Đại Than, quân giặc thua, nhưng quân ta cũng rút. Đại quân Thoát Hoan qua sông Đuống tiến xuống sông Hồng, lại đóng quân ở phía Bắc (ngang thị trấn Gia Lâm). Trong khi Thoát Hoan chuẩn bị đánh Thăng Long thì Trần Khánh Dư đã đánh thắng Trương Văn Hổ cướp được 500 thuyền lương, Trương Văn Hổ đi thuyền nhẹ trốn thoát. Tại cửa ải Nội Bàng, 5.000 hậu quân Thoát Hoan cũng bị tiêu diệt, chỉ có 60 tên quân kỵ chạy thoát. Tên Việt gian Lê Trắc chạy thoát qua biên giới. Ngày 29 tháng chạp âm lịch (2-2-1288), Thoát Hoan chỉ huy quân vượt sông Hồng đánh vào Thăng Long nhưng chỉ có thành không, vội vàng phải rút quân. Thoát Hoan cho Ô Mã Nhi và các tướng khác chia làm hai cánh.

<span class='text_page_counter'>(151)</span> thủy bộ đuổi theo vua Trần, Ô Mã Nhi lớn tiếng đe: “Ngươi chạy lên trời, ta theo lên trời, người chạy xuống đất ta theo xuống đất, người lặn xuống nước ta theo xuống nước”. Quân Thoát Hoan đánh vào đồn Cảm Nam, A Bát Xích đánh vào cửa Hàm Tử. Nhưng trên đường hành quân, cả quân thủy lẫn quân bộ của giặc đều bị dân binh chặn đánh tiêu hao lực lượng và chúng cũng bị đói ăn không cướp được lương thực. Ô Mã Nhi đuổi theo đến Phố Hiến thì vua Trần đã rút tới cửa Hải Thị, khi chúng đến Hải Thị thì vua và triều đình đã rút ra biển an toàn. Quân Nguyên – Mông đốt phá hàng trăm làng mạc, tàn sát hàng ngàn dân thường, phá lăng mộ vua Trần ở Hưng Long (chúng chỉ phá được phần kiến trúc trên mặt đất). Trong khi đó vua Trần rút vào Thanh Hóa rồi bất thần tiến ra Đồ Sơn nơi Quốc Công Tiết chế đã cho Phạm Ngũ Lão ra xây dựng căn cứ từ trước. Quân Nguyên – Mông đã phải sớm từ bỏ ý định đuổi theo vua Trần vì không có lương ăn, Ô Mã nhi theo lệnh của Thoát Hoan phải liều chết lọt qua các phòng tuyến của quân Trần từ Thăng Long theo sông Lục Đầu, qua Vạn Kiếp ra sông Bạch Đằng để ra biển tìm 500 thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi lênh đênh trên biển cả tháng không tìm thấy, đành lại phải liều chết quay về. Quân Nguyên – Mông đã khốn đốn vì đói, vì dịch bệnh nên Thoát Hoan tính kế rút quân về nước. Ngày 2 tháng 2 âm lịch (5-31288), Thoát Hoan, Áo Lỗ Xích đem quân rút tới Vạn Kiếp, Thoát Hoan lại phải cho quân đi tìm Trương Văn Hổ và Ô Mã Nhi. Ngày 19-2 âm lịch (223-1288), Ô Mã Nhi lẻn vào cửa sông Bạch Đằng lại bị quân ta chặn đánh. Thoát Hoan bắt buộc phải rút quân thật nhanh, và chia làm hai đường: Thoát Hoan, Áo Lỗ Xích, A Bát Xích đi đường bộ, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đi theo đường sông Bạch Đằng, có Trịnh Bằng Phi đi trên bộ hộ tống, nhưng hắn chỉ đi tới Đông Triều thì bị nghẽn đường phải quay lại để rút theo đường bộ cùng Thoát Hoan. Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo đã phán đoán ý đồ của giặc nên đã bố trí trận địa cọc trên sông Bạch Đằng và cho quân mai phục ở những nơi hiểm yếu, lại cho quân đánh nhử, đánh chặn để “điều” quân Nguyên tới trận địa cọc đúng vào ngày, giờ thủy triều rút để chiến thuyền của chúng đâm vào cọc. Ngày 7 tháng 3 âm lịch giặc buộc phải cho chiến thuyền đi vào sông Bạch Đằng, sáng ngày 8-3 nước thủy triều rút, quân ta không giả thua nữa mà đánh thật mạnh. Trận đánh lớn nhất ở sông Bạch Đằng diễn ra vào mờ sáng ngày 8 tháng 3 âm lịch (9-4-1288). Khi thuyền chiến giặc đi ngang qua núi Tràng Kênh thì Hoàng thân Trần Quốc Bảo chỉ huy quân triều đình và dân binh đánh mạnh, quân ta đuổi theo bắn tên lửa vào những chiếc thuyền nhẹ chất đầy cỏ khô, diêm tiêu cho lao vào thuyền giặc, khi đó nước thủy.

<span class='text_page_counter'>(152)</span> triều đang rút, thuận gió nên chiến thuyền giặc bị cháy, thuyền của chúng lại xích liền vào nhau nên không sao di động nhanh chóng được. Phàn Tiếp phải liều chết đánh lên bộ chiếm lấy núi cao để khống chế quân ta nhưng hắn vừa lên bờ đã bị quân ta vây chặt. Thuyền giặc vừa tới cửa sông Chanh thì tướng Nguyễn Khoái đánh mạnh, tướng Phạm Ngũ Lão dẫn quân đánh giáp lá cà. Hai vua Trần cũng từ Đồ Sơn tới vùng rừng núi Quảng Yên trước đó ít ngày cũng từ phía sông Đá Bạc đánh vào phía sau quân giặc buộc chúng phải cho chiến thuyền vào sông Chanh nơi quân ta bố trí trận địa cọc. Do quân ta nắm vững thủy triều, lại “khéo điều giặc” nên đúng vào lúc thủy triều rút để lộ hàng nghìn cọc lim bịt sắt tua tủa chĩa mũi vào thuyền giặc. Khi đó quân giặc chỉ biết kêu la vì phía sau vua Trần đánh tới, các chiến thuyền đi sau đều bị thiêu cháy, hai bên bờ thì tên nỏ bắn xuống như mưa, tên nào liều chết bơi vào bờ nếu không chết đuối thì cũng bị quân Trần giết chết. Trong trận này 500-600 chiến thuyền, 60.000 quân bị chết hết. Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ bị bắt sống. Vạn hộ Trương Ngọc bị chém tại trận, Phàn Tiếp bị trọng thương ở trên bờ cố liều chết chạy xuống thuyền cũng bị quân ta bắt sống. Trong khi đó trên đường bộ, số phận bọn giặc cũng bi đát không kém gì, mặc dù bọn Tích Đô Nhi đã rút chạy Chi Lăng, Khâu Ôn để nghi binh, còn Thoát Hoan, Áo Lỗ Xích, A Bát Xích thì rút chạy theo cửa Đại Bàng, nhưng cả hai đều bị quân ta chặn đánh ác liệt, Thoát Hoan phải chạy lên Lộc Bình rồi mới dám vượt biên giới, Vạn hộ Lưu Thế Anh, Đáp Lạt Xích chết tại trận, Tiết Văn Anh bị bắt. Ba lần vua Mông Thát đưa quân sang xâm lược đều bị thất bại thảm hại, đều bị vị tướng thiên tài Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đánh cho đại bại. Triều đình Nguyên – Mông vô cùng uất ức nhưng đành cam chịu. Đầu năm 1300, Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn lâm bệnh tại phủ đệ riêng ở Vạn Kiếp. Vạn Kiếp là tên của hai làng: đó là làng Vạn Yên tên Nôm là Kiếp và Dược Sơn (nơi trồng cây thuốc để chữa bệnh cho quân sĩ của Hưng Đạo vương) tên Nôm là làng Bạc. Hương Vạn Kiếp thuộc lộ Lạng Giang thời Trần, thời Nguyên xã Vạn Yên thuộc tổng Trạm Điền, xã Dược Sơn (làng Bạc) thuộc tổng Chi Ngai, huyện Chí Linh, nay đều thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Vạn Kiếp là đất được phong của Hưng Đạo Đại vương và là phủ đệ, là căn cứ kháng chiến của Hưng Đạo Đại vương trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba..

<span class='text_page_counter'>(153)</span> Khi Quốc công Tiết chế ốm nặng, vua Trần Anh Tông chế ngự đến thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Vương trả lời: “Đại khái nó cậy trường trận thì ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản (binh) chế trường (trận) là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cần thắng nhanh thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét, quyền biến như đánh cờ vậy, tùy thời, tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại khoan thư sức dân làm kế rễ sâu, bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Ngày 10 tháng 8 âm lịch năm 1300, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, Hương Vạn Kiếp lập đền thờ ông. Tại Hà Nội có nhiều nơi thờ ông trong đó có đền Ngọc Sơn ở giữa hồ Hoàn Kiếm, tại đây có tượng thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Hàng năm cứ đến ngày 20 tháng tám âm lịch, nhân dân Hà Nội lại làm lễ tướng nhớ người anh hùng dân tộc. ĐỘC CƯỚC – NGUYỆT LÃNG – TRUNG QUỐC ĐẠI VƯƠNG Đình làng Đông Ngọc, tên nôm là làng Vẽ, huyện Từ Liêm, nay thuộc quận Tây Hồ thờ các vị thần: - Độc Cước tiên ông - Nguyện Lãng Đương Cảnh Thành hoàng - Trung Quốc Đại vương(1) Tương truyền ở xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây, có người tên là Chu Hưng, vợ là Võ Thị Hồng. Gặp buổi khó khăn thóc cao gạo kém, hai người phải tha phương cầu thực. Họ đến trọ ở chùa Tiêu Sơn, xã Tiêu Sơn, huyện An Phú, phủ Từ Sơn. Hai người chăm chỉ đèn nhang, quét dọn chùa chỉ mong sao có mụn con trai nối dõi tông đường. vài tháng Võ Thị có mang, đủ ngày tháng đẻ ra một cái đầu không tay chân, khóc vang như sấm. Vợ chồng sợ hãi cho là quái thai đem bỏ đi. Một tháng sau lại có mang đến ngày đến tháng lại đẻ ra cục thịt không có tay chân mắt mũi, họ lại đem bỏ đi. Sau đó lại có mang lần thứ ba và đến giờ Mão ngày mùng 4 tháng giêng năm Giáp Ngọ đẻ ra một đứa con trai dáng mạo dữ tợn, trên đầu có một cái sừng, trong mình có bẩy cái lông mọc dài. Vợ chồng sợ hãi đem bỏ đi. Hôm đó trời nổi cơn mưa gió, sấm sét nổi dữ dội, cậu bé bỗng nhiên dài thành 10 trượng, một tiếng sét đánh tách cậu bé thành hai nửa, mỗi ______________________ (1). Đình làng Vẽ còn thờ Lê Khôi, có nhắc đến trong cuốn sách này, còn thờ Thổ thần, nhưng thần tích không rõ ràng..

<span class='text_page_counter'>(154)</span> mảnh có nửa người, một tay, một chân, một mắt. Một nửa người bay lên trời là đại tướng âm binh, một nửa tìm về sống với bố mẹ. Lớn lên cậu được đặt tên là Văn Minh, có công dẹp loạn Ngũ Hồ ở phương Bắc, trấn áp ma quỉ ở phương Nam, thường qua lại các vùng Ái Châu, Kinh Bắc, Từ Liêm, khi hóa thì rất thiêng, các nơi đều lập đền thờ. Vùng Ái châu có nhiều đền thờ nhất, song đền thờ chính ở xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Đạo Sĩ, phủ thủy đều thờ Ngài, ma quỉ thì sợ oai Ngài. Triều Lý cầu đảo ở đền thờ Ngài rất linh ứng. Vào đời Lý Thánh Tông, giặc Chiêm Thành vào quấy phá nước ta, Vua Lý Thánh Tông phải thân chinh dẹp giặc. Khi đi qua địa phận xã Tiên Sơn trời bỗng đổ mưa, bốn bề tối tăm mù mịt, nhà vua cho dừng chân ở chùa Trường Liên và chùa Tiên Sơn. Đến đêm vẫn nằm mơ thấy một vị thần hình dáng kì quái chỉ có nửa người một tay một chân, chỉ huy âm binh đến quì trước mặt nhà vua tâu rằng: “Thần là thần Độc Cước ở chùa Tiên Sơn quản lĩnh tất cả âm binh ở thiên đình và âm phò tế độ”. Nhà vua tỉnh dậy biết là thần rất anh linh ra lệnh cho ba quân mật đảo. Sau khi đánh lui quân Chiêm Thành nhà vua sai dựng miếu thờ cúng, gia phong là Thượng đẳng phúc thần. Đến thời Trần Thái Tông ở xã Tiêu Sơn, huyện An Phú, Phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc có một người vốn dòng dõi thi thư là Lê Cự, vợ là Đặng Thị Cầu là người một lòng trung nghĩa, chất phác. Kể từ tam đại nhà ông chỉ làm điều phúc đức, chưa hề làm hại người và vật, lại rất chăm lo việc cúng tế rất là thành kính. Thấy ông là người có đức độ trung thực, dân địa phương bầu ông làm thủ từ giữ việc đèn nhang ở chùa Trường Liên thờ Độc Cước. Hồi ấy vợ chồng ông đã ngoại tứ tuần mà không có con trai, một hôm ông nằm mơ thấy trong chùa hào quang sáng rực rỡ, một vị thần sáng láng như vàng ngự trên tòa sen, hai bên tả hữu có nhiều người hầu. Có lệnh truyền cho vị Long thần đem hai tiểu đồng xuống đầu thai là con họ Lê ở xã Tiêu Sơn, huyện An Phú. Long thần dạ ran rồi trao hai tiểu đồng cho ông. Khi ông hỏi tên thì vị Long Thần trả lời một người tên là Nguyệt Lãng, một người là Trung Quốc rồi trao cho ông. Ông chợt tỉnh biết là chiêm bao. Từ đó Đặng Thị có mang, đền giờ Dần ngày mùng 7 tháng giêng đẻ ra một bọc có hai con trai. Khi đẻ hương thơm bay ngào ngạt, nhớ lời trong mộng ông đặt tên con là Nguyệt Lãng, Trung Quốc. Nguyệt Lãng và Trung Quốc hay ăn chóng lớn, không bệnh tật, học hành thông minh tấn tới. Nghe tin một quốc lão, pháp hiệu là Tinh Quán Tiên sinh ở Xích Đằng, phủ Khoái Châu, đạo Sơn Nam tinh thông về thiên văn, địa lý bói toán, và thuật phù thủy trong nước không ai sánh kịp, hai ông liền đến thụ giáo. Do bẩm tính thông minh, hiếu học, hai anh em học vài năm đã học.

<span class='text_page_counter'>(155)</span> hết phép thuật của thầy. Hai ông xin phép về thăm quê, chẳng may bố mẹ đều ốm nặng và qui tiên. Lo tang ma cho cha mẹ xong, dân làng lại cử hai an hem ông giữ đền Độc Cước. Đêm đêm hai ông mơ thấy thần Độc Cước đến chơi kết nghĩa là anh em. Hai ông đắc đạo được dân tôn là Thần sư. Hồi đó ở châu Xích Đằng bị nạn hỏa tai nghiêm trọng, vua Trần Thái Tông phải thân về lập đàn tế, nhưng không dập hẳn được, riêng xã Phán Thủy vẫn cháy dữ dội. Vua Thái Tông than: “Đời Hán Quang Vũ xưa ở Hoằng Nông cũng bị họa tai, Lưu Côn chỉ là một viên thái thú, mà còn làm cho trở chiều gió dập tắt lửa huống chi ta là vua một nước thân hành đến trị lửa mà lửa không tắt, chả hóa ra đức độ của ta không bằng Lưu Côn ư?” Nhà vua bèn dừng xe ở Phán Thủy yết bảng lên rằng: Ai có tài dập hỏa tai thì ta sẽ phong tước và ban cho cả xã này làm hương hỏa mai sau. Bấy giờ, nhiều phù thủy cao tay đến mà không dập tắt nổi hỏa hoạn. Trung Quốc, Nguyệt Lãng nghe được tin ấy rất lấy làm lạ tự hỏi: “Thầy của ta trừ được muôn ngàn ma quỉ chẳng lẽ không trừ được hỏa tai?” Hai ông đến yết kiến thầy thì hóa ra thầy đã tạ thế. Hai ông là lễ cúng tế thầy xong liền đến yết kiến Trần Thái Tông. Đêm trước nhà vua và dân xã Phán Thủy đều mơ thấy có người xưng là sứ giả nhà trời báo rằng: “Ngày mai có hai vị quan lớn đến, hai vị thần này là phúc thần xã Phán Thủy, Hoàng thiên đã quyết định như vậy, hai vị này đến thì hỏa tai sẽ bị dập tắt”. Ngày hôm sau hai ông đến, Thái Tông và nhân dân Phán Thủy tiếp đãi rất hậu. hai ông bèn lập đàn cầu đảo Độc Cước thần vương. Đang hành lễ thì có một cơn gió thổi tới, một vị Thần cao hơn 10 thước, nửa mặt, nửa thân, một chân, một tay đứng ở trên đàn. Hai ông cầm cờ lệnh đọc một đạo thần chú, tự nhiên có rồng và kì lân đến phun nước vào lửa dập tắt ngay hỏa hoạn. Từ đo dân không bị hỏa tai và rất yên ổn làm ăn. Thấy Thần Độc Cước anh linh, vua bèn phán truyền cho dân Phán Thủy lập đền thờ ngài tại xã. Vua mời hai ông Nguyệt Lãng và Trung Quốc đến thử tài. Vua ông tỏ ra là bậc văn võ toàn tài, thông minh xuất chúng. Vua truyền đón hai ông về Thăng Long, nhưng dân Phán Thủy kêu với vua cho hai ông ở lại để họ yên ổn làm ăn. Nhà vua bèn miễn phu phen tạp dịch cho xã Phán Thủy và cho ông anh là Nguyệt Lãng ở lại với dân Phán Thủy, còn cho ông Trung Quốc về kinh ban cho quyền cao chức trọng. Nhân dân Phán Thủy cảm phục ân đức cao sâu trời bể, họ gọi là Nguyệt Lãng là Đương Cảnh Thành hoàng. Hồi đó giặc Mông Cổ sang xâm lược, nhà vua phải tạm lánh ra Đông Bộ Đầu. Hai ông hiệp lực với Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, phá quân Mông Cổ, rước vua trở lại kinh thành. Vua phong hai ông là Đốc Lĩnh quản xuất các đạo binh mã. Sau đó nhà Nguyên sai Ô Mã Nhi và Nguyễn Bá Linh (phạm Nhan bị bắt đem chém cứ chém rụng đầu nọ nó lạ mọc đầu kia) sang.

<span class='text_page_counter'>(156)</span> đánh nước ta. Nhà vua lấy làm lo. Hưng Đạo vương cùng hai ông phụng mệnh đánh một trận lớn ở sông Lục Đầu bắt sống được Ô Mã Nhi. Hai ông tâu lập đàn cúng Độc Cước Thần vương giúp nhà vua chém Bá Linh, Bá Linh chết hẳn. Quân Nguyên bị thua kéo quân về nước, từ đó thiên hạ thái bình, hai ông được phong tước đại vương. Hai ông lạy tạ vua rước sắc về Phán Thủy mở tiệc mừng rất trọng thể. Từ đó hai ông cùng dân sống cuộc đời yên vui vô sự. Hai ông khuyên dân làm ruộng trồng dâu, làm việc thiện, trừ việc ác. Trong 34 năm gắn bó với Phán Thủy hai ông rất nặng nghĩa, nặng tình có nhiều công đức lớn đối với dân. Một hôm đang ngồi hội họp với dân làng ở khu Cái Lạp, bỗng nhiên có dải lụa điều từ trên trời rủ xuống bàn tiệc của hai ông, hai ông cùng hóa, chỉ còn áo mũ để lại cõi trần mà thôi. Nhà vua sai quan về làng làm lế tế bái, gia phong là Thượng đẳng phúc thần. Những điều cần ghi nhớ: - Dân xã phải kiêng húy 4 chữ Nguyệt Lãng, Trung Quốc, ngày hành lễ cấm dùng mầu hồng, mầu tía. - Ngày 4 tháng giêng là ngày sinh của Độc Cước, ngày mùng 7 tháng giêng là ngày sinh của hai ông Nguyệt Lãng, Trung Quốc. - Lễ vật dùng một mâm thịt sống, một mâm thịt chín. Hát và đánh cờ. Mở hội từ mùng một đến mùng mười tháng giêng. - Mùng ba tháng chạp là ngày hóa của hai ông. Lễ vật dùng lợn, gà, rượu, xôi, bánh dầy. Có một mâm thịt sống để dâng cúng Độc Cước Thần vương. THƯỢNG TƯỚNG QUÂN PHẠM NGŨ LÃO Phạm Ngũ Lão là một danh tướng thời Trần có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông (thứ hai và thứ ba) và chống Chiêm Thành, Ai Lao xâm phạm bờ cõi cũng như chống nội loạn. Đền chính thờ Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão ở xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên là quê hương ông và rất nhiều tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ, dọc sông Hồng, sông Bạch Đằng, Bắc Giang, Lạng Sơn… có đền miếu thờ ông. Tại Hà Nội có đền thờ ông cũng mang tên là đền Phù Ủng ở phố Lý Quốc Sư. Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, châu Thượng Hồng, nay là xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông nhà nghèo, mồ côi cha mẹ, ở với mẹ nuôi. Ông là người có chí tự lập, hàng ngày cố gắng làm lụng công việc đồng áng, đan sọt để lấy tiền phụng dưỡng mẹ nuôi nay đã già yếu. Năm 1280 giặc Nguyên – Mông lăm le xâm lược Đại Việt, Phạm Ngũ Lão càng gắng công luyện tập võ nghệ để chờ thời cơ đánh giặc cứu nước,.

<span class='text_page_counter'>(157)</span> cứu dân. Ông không những chỉ luyện tập võ nghệ, múa giáo, bắn cung tên, ông còn đọc, nghiên cứu binh thư của các danh tướng ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc để am hiểu cách xây dựng quân đội, cách luyện quân, các thế trận. Vào khoảng năm 1283, vua Nguyên – Mông cho xây dựng nhiều đồn trại ở bên kia biên giới nước ta, lập căn cứ ở cửa biển Khâm Châu, đóng chiến thuyền, diễn tập quân sự để tấn công Đại Việt lần thứ hai thì Phạm Ngũ Lão càng gắng sức luyện tập võ nghệ và đọc binh thư. Một hôm ông ngồi đan sọt bên đường làng thì Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trẩy quân qua. Quân lính đi trước dẹp đường. Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi xếp bằng tròn đan sọt. Quân lính thét không tránh, liền lấy giáo đâm vào đùi, ông vẫn ngồi yên. Hưng Đạo vương thấy sự lạ liền xuống voi đến trước mặt chàng trai hỏi họ, tên, chí hướng. Phạm Ngũ Lạo tạ lỗi với Quốc công Tiết chế vì mình mãi nghĩ đến một thế trận nên không biết Đức Ông trẩy quân qua. Hưng Đạo vương sai người lấy thuốc đắp vết thương cho chàng trai Phù Ủng. Chợt Quốc Công nhìn thấy trong sọt có một quyển sách, liền hỏi: - Tráng sĩ đọc sách gì, cho ta xem qua được không? Phạm Ngũ Lão kính cẩn dâng sách lên, Hưng Đạo vương nhìn thấy trang đầu ghi dòng chữ: “Dùng binh cốt chọn quân tinh nhuệ, không cần nhiều”. Trang sau có bài thơ Tự thuật: “Hoành giáo giang sơn, cáp kỷ thu Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu, Nam nhi vi liễu công danh trái Tụ thính nhân gian thuyết Vũ Hầu(1) Dịch: Vung giáo non sông trải mấy thu Ba quân tựa cọp nuốt trôi trâu Trai chưa trả nợ công danh được Còn thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu. Hưng Đạo vương mến tài đưa về quân doanh, giao cho ông luyện quân. Ông luyện quân rất có kỷ luật và thiết thực phục vụ trực tiếp cho chiến đấu. Khi luyện quân phải vượt qua đầm lầy, núi cao, ông đều tự mình đi trước. Ông thương yêu tướng sĩ như anh em, con cháu. Những người vì luyện tập, chiến đấu bị thương, hy sinh ông thực lòng thương xót chăm lo cho bản thân họ, nhắc các tướng dưới quyền chăm sóc gia đình họ. Ông còn bày trò vật cù (còn gọi là đánh cầu) cho quân lính đi giải trí. _______________________ (1). Gia Cát Lượng thời Tam Quốc..

<span class='text_page_counter'>(158)</span> Phạm Ngũ Lão là người con chí hiếu với mẹ nuôi. Những khi rảnh việc quân, ông thường về thăm mẹ, được ban thưởng lụa là, thuốc quý đều đem về biếu mẹ. Trước họa xâm lăng ngày càng đến gần, Hưng Đạo vương điều động quân về duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu. Tháng giêng năm 1285, 50 vạn quân Nguyên – Mông kéo vào nước ta từ ba hướng Đông, Bắc và Tây Bắc. Chúng phối hợp với đạo quân 10 vạn người của Toa Đô đã đánh Chiêm Thành từ trước, đánh ra. Ngày 27 tháng 1-1285, Hưng Đạo vương và Phạm Ngũ Lão giao chiến quyết liệt với giặc ở Vạn Kiếp. Sau khi gây tổn thất nặng nề cho địch, quân ra rút về Thăng Long rồi Triều đình, quân đội cùng nhân dân rút khỏi kinh thành Thăng Long, xuống sông Xích Đằng và sông Hoàng Giang (đoạn sông Hồng chảy qua thị xã Hưng Yên, Thái Bình). Sau đó Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo giao cho Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật vào Hoan Châu đánh chặn Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra; giao cho Phạm Ngũ Lão đem một cánh quân thủy, bộ ra đóng ở Vạn Kiếp để uy hiếp phía sau quân giặc. Nhưng Trần Kiện nắm trong tay 10.000 quân đóng ở Hoan Châu đã đầu hàng giặc đem quân tấn công vào hậu quân của Trần Quang Khải gâ cho quân của Thượng tướng thiệt hại nặng nề. Vì vậy Phạm Ngũ Lão được lệnh của Quốc công Tiết chế gấp rút về Trường Yên (Ninh Bình) hộ tống vua Trần rút về Thanh Hóa. Sau đó ông lại theo Trần Quang Khải về đóng quân ở Vạn Kiếp. Tháng 5 – 1285, vua Trần cùng Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải tấn công quân Nguyên – Mông trên sông Hồng ở đoạn Khoái Châu thì Trần Hưng Đạo lại cử Phạm Ngũ Lão lên tăng cường cho mặt trận biên giới phía Bắc. Khi quân Thoát Hoan rút chạy đến biên giới, Phạm Ngũ Lão chỉ huy quân đánh chặn ở Chi Lăng, Pha Lũy, Nam Quan, Lộc Bình. Ngày 6 tháng 6 năm Ất Dậu (9-7-1285), kinh thành Thăng Long được giải phóng, Triều đình trở lại Thăng Long. Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương đã gả Quận chúa Anh Nguyên cho Phạm Ngũ Lão. Lễ cưới quận chúa vừa xong, Phạm Ngũ Lão lại cùng các tướng lên Lạng Sơn. Tháng 10 – 1287 Trấn Nam vương Thoát Hoan lại xâm lược Đại Việt. Đầu tháng 1 – 1288, Thoát Hoan đánh chiếm Chí Linh, Phả Lại rồi tấn công Thăng Long. Trần Hưng Đạo giao cho phó tướng Trần Khánh Dư đánh chiếm đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ thu 70 vạn thạch lương. Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão hộ tống triều đình dời khỏi kinh thành Thăng Long về Thiên Trường. Sau đó lại từ Thiên Trường bí mật luồn về.

<span class='text_page_counter'>(159)</span> đóng quân ở Đồ Sơn, còn Trần Hưng Đạo về đóng đại bản doanh ở Trúc Động nghiên cứu trận địa phục kích quân giặc trên sông Bạch Đằng. Đúng như phán đoán của Quốc công Tiết chế, giặc bị phản công, lại hết lương thực nên phải rút quân theo hai hướng đường bộ và đường thủy qua sông Bạch Đằng. Phạm Ngũ Lão cũng đã điều tra và đem quân bao vây đàn tràng của tên pháp sư phạm Nhan (Nguyễn Bá Linh) bắt chém đầu, sau đó lại cùng Nguyễn Chế Nghĩa hạ thành Chí Linh, rồi cấp tốc trở về đại bản doanh của Trần Hưng Đạo ở Do Lễ chuẩn bị cho trận địa cọc trên sông Bạch Đằng. Do quân ta nghi binh, bố trí trận địa giả tính toán giờ nước thủy triều lên xuống chính xác nên ngày 7 tháng 3 (8-4-1288), thủy quân Nguyên – Mông buộc phải đi vào trận địa cọc trên sông Bạch Đằng. Sáng ngày 8 – 3 âm lịch (9-41288) trận phục kích nổi tiếng trên sông Bạch Đằng đã diễn ra, phá tan 600 thuyền chiến giặc, giết, bắt sống 60.000 tên giặc. Đất nước được thanh bình, nhưng họa xâm lăng chưa hết, Phạm Ngũ Lão vẫn tích cực luyện quân. Tháng 5 năm Canh Dần (1290), vua Trần Nhân Tông cử Phạm Ngũ Lão chỉ huy hữu vệ quân Thánh Dực. Tháng 8 năm Giáp Ngọ, Anh Tông năm Hưng Long thứ hai (1294), Phạm Ngũ Lão theo Thượng hoàng đánh Ai Lao, ông đã giải vây cho Trung Thành vương, được vua khen, tặng Kim phù. Năm Đinh Dậu (1297), quân Ai Lao đem hơn 100 thớt voi xâm phạm vào sông Chàng Long(1), Phạm Ngũ Lão đánh tan giặc, thu lại bờ cõi. Ông được vua ban Vân phù. Tháng 10 năm Mậu Tuất (tháng 6-1298), Phạm Ngũ lão được tiến phong Kim Ngưu Đại tướng quân ở Hữu vệ. Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (12-1330), Quốc công Trần Hưng Đạo mất, Phạm Ngũ Lão làm thơ viếng rất xúc động. Sau đó Phạm Ngũ Lão còn vâng lệnh nhà vua đi đánh Chiêm Thành, Ai Lao xâm phạm bờ cõi vào các năm 1301, 1312, và dẹp nội loạn. Ngày 1 tháng 11 năm Canh Thìn (Đại Khánh năm thứ 7, 1320), Phạm Ngũ Lão mất tại phủ đệ của vua ban ở vường cau trong vườn, thọ 66 tuổi. Vua phong Thược đẳng Phúc thần. Vua nghỉ chầu 5 ngày, đó là ân điển đặc biệt được ghi vào Tự điển. Thượng hoàng Trần Anh Tông có bài viếng: “Bạc phạt Xiêm, Lào chiếu tráng du Đương thời danh tướng hãn vi trù Thành công chi tại năng đông giục Bất phụ cao ngâu sỉ Vũ Hầu. _________________________ (1). Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú viết là sông Bao Long..

<span class='text_page_counter'>(160)</span> Dịch: Dẹp giặc Lào, Xiêm có tướng tài Võ thần mấy kẻ được chen vai Dưới cờ một dạ nên công lớn Gia Cát trời Nam lại có hai Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: “Tôi từng thấy các bậc danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch. Phạm Điện súy thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, không chỉ chuyên về nghề võ, thế mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không ai vượt qua nổi các ông”. Phan Huy Chú có “lời án” trong Lịch triều Hiến chương lại chí: “Phạm Ngũ Lão có tài múa giáo, làm thơ, lập nhiều công to, trước sau giữ trọn danh dự, tiếng tăm rõ rệt. Tóm lại đều không hổ thẹn là bậc nguyên thần”. Khi ông mất nhân dân Phù Ủng và ở rất nhiều nơi ông đánh trận, luyện quân, ban ân huệ cho nhân dân đều lập đền thờ ông. Tại Hà Nội có đền thờ ông ở phố Lý Quốc Sư. CÔNG CHÚA TÚC TRINH Chùa Thánh Quang, làng Yên Nội xã Liên Mạc huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội, chùa thờ Phật và thờ công chúa Trần Túc Trinh. Trần Túc Trinh là công chúa thứ tư của vua Trần Thánh Tông (1258 – 1278). Là công chúa ở nơi cao sang quyền quý, sống trong nhung lụa, hàng chục kẻ hầu người hạ. Tuy vậy công chúa Túc Trinh lại rất gần gũi với nông dân, những khi nhàn rỗi công chúa thường cùng thị nữ ra ngoại thành Thăng Long du ngoạn. Nơi công chúa thường du ngoạn là phía Tây bắc kinh thành Thăng Long, thấy nông dân lam lũ, công chúa rất thương và thường giúp đỡ. Sau khi chiến thắng giặc Nguyên – Mông, triều đình đã có chính sách, đầu tư tiền bạc đắp đê, trị thủy và khai khẩn ruộng hoang. Tháng 10 năm Ất Sửu (1265), vua Trần Thánh Tông xuống chiếu cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần được phép chiêu tập dân nghèo ly tán khai khẩn đất hoang lập trang ấp. Mục đích của triều đình là làm ra nhiều thóc gạo và các sản vật nông nghiệp khác để dân no đủ, có dự trữ quốc gia phòng chiến tranh, thiên tai. Công chúa Túc Trinh là con gái thứ tư của vua Trần Thánh Tông vâng chiếu của vua cha đến vùng sâu là Kẻ Noi, bỏ tiền bạc chiêu tập dân nghèo tứ tán đến chu cấp cho họ mua trâu bò, nông cụ, thóc giống, lương thực, làm nhà để khai hoang mở mang đồng ruộng, lập trang ấp mới. Thoạt đầu, công chúa lập ra xóm Vườn, về sau dân cư đến đông gọi là thôn Viên..

<span class='text_page_counter'>(161)</span> Túc Trinh công chúa không lấy chồng, làm nhà ở khu vườn Dinh ở với Dân. Khi dân thôn Viên đã yên nghiệp là ăn, công chúa lại chiêu tập dân phiêu tán lập ra trại Noi, nay là làng Cổ Nhuế. Công chúa Túc Trinh lại lập ra làng Yên Nội. Riêng ở làng Noi, tức Cổ Nhuế, công chúa đã tổ chức khai hoang được 400 mẫu. Tương truyền trước khi mất, công chúa còn để lại 81 mẫu làm ruộng công cho thôn Viên để chia luân phiên cho trai đinh trong làng mỗi người 3 sào, sau dân đông thì mỗi người 2 sào. Còn công chúa tổ chức khai hoang được 250 mẫu. Công chúa Túc Trinh xây chùa ở làng Viên, tên chữ là Anh Linh tự và chùa Thánh Quan ở làng Yên Nội. Công chúa Túc Trinh tu ở chùa Thánh Quan. Sau khi công chúa Túc Trinh mất, dân làng chôn ở xứ đồng. Đống Mả quan còn gọi là Mả Trại, thôn Viên Mộ đắp thành gò rất to, bên dưới xây gạch cuốn bảo vệ cho quan và quách. Những làng Viên, Nội (Cổ Nhuế), Yên Nội đều lập đền thờ. Cho đến nay vẫn còn đền thờ bà Chúa ở làng Viên. Còn lại bài ca bằng chữ Nôm làm từ thời vua Khải Định (1916 – 1925) trong đó có đoạn: “Chúa phụng chiếu khai hoang lập ấp. Mộ nhân dân chiêu tập thành gia. Thổ điền quần cấp mỗi nhà. Đội công đức Chúa biết là đến đâu…”. Trước năm 1945 ở thôn Viên vẫn còn 81 mẫu ruộng cong do bà Chúa để lại, hàng năm chia cho trai đinh từ 18 tuổi trở lên, mỗi người được 2 sào. Ở chùa Thánh Quan cũng có ban thờ, có tượng công chúa, nay còn ba đạo sắc phong của các đời vua Thành Thái (1889), Duy Tân (1909). Chùa Thánh Quan còn một di vật quý, đó là chiếc chuông đồng được đúc lại đời Tự Đức, triều Nguyễn năm 1875, đã khắc toàn văn di chúc của công chúa Túc Trinh trước khi viên tịch. “Vua thứ tư triều Trần, nước Việt, công chúa Túc Trinh đúc hồng chuông, nặng bốn trăm cân để ở hương Từ Liêm, chùa Thánh Quang… thiết nghĩ ta đây: Suốt đời chẳng trồng quả tốt Nay sinh chẳng sửa duyên lành Lo đã chịu là hữu thân Tôi lại gặp là vô hậu Mắt dẫu chưa nhắm Tình thời đã thương Cho nên phải chia ruộng đất cho nô tỳ và cả anh em trong họ. Ai cũng phải giữ gìn phần mộ cùng với quý vật của Tam Bảo….

<span class='text_page_counter'>(162)</span> Vì cớ ấy: Ta ghi lời dặn lúc còn sống Thay làm chúc thư sau khi chết Khắc ở chuông này Truyền để đời sau Trên nhờ phép thường của Nhà nước Dưới mang lòng thuận của anh em Nếu trái lời trong chuông Khó tránh khỏi bị pháp luật. Từ nay: Ruộng đất chia cấp cho hương hỏa nô tỳ cấy sinh sông và ruộng đất hiến làm của tam bảo đã có phân biệt. Nếu trong nô chúng có người không chịu phụng sự hương hỏa, lại tự tiện xâm chiếm ruộng đất của Tam bảo thì nô chúng phải cùng nhau tố cáo lên triều đình luận tội. Nếu an hem nhà ta cậy thế chiếm đoạt ruộng đất của Tam bảo, trễ nải việc hương hỏa thì nô chúng phải cùng nhau tố cáo lên triều đình luận tội. Ghi chú (trong chuông): Nguyên chuông cũ (đúc từ đời Trần) bị phá mất không biết duyên cớ và từ năm nào. Nhân dân địa phương cho đúc chuông mới, đồng ba trăm cân, thiếc tám cân, vàng hai mươi tám phân, lời văn y như chuông cũ treo ở Tam Quan. Tự Đức Ất Hợi (1875), tháng 2, đúc thành quả chuông, khắc bài văn chuông làm ghi”. PHÒ MÃ ĐÔ ÚY AN NGHĨA ĐẠI VƯƠNG – NGUYỆT HOA CÔNG CHÚA Làng Kiêu Kỵ, xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm thờ Phò Mã Đô úy An Nghĩa Đại vương và Nguyệt Hoa công chúa làm Thành hoàng. Vào thời Trần, ở trang Trại Bái, huyện An Định, phủ Thiệu Thiên, Thanh Hóa, có ông Đinh Thiện do cuộc sống khó khăn đã dời đến ấp Mỹ Long, xã Cối Xuyên, huyện Trường Tân, Hải Dương(1) làm ăn sinh sống. Tại đây, Đinh Thiện đổi làm họ Nguyễn và kết duyên cùng với bà Hoàng Thị Nguyên. Ông bà sinh ra Nguyễn Chế Nghĩa vào năm Thiệu Long thứ 7 (1265). Nguyễn Chế Nghĩa là người thiên tư anh tuấn, có chí lớn từ thưở ấu thơ, giỏi cả văn lẫn võ. Ngay từ khi niên thiếu ông đã có bài thơ tự thuật, đầy nghĩa khí: “Đã là một đấng trượng phu, Phải đem chí lớn, đền bù non sông, ______________________ (1). Nay là xã Nghĩa Hưng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương..

<span class='text_page_counter'>(163)</span> Lưu đời hai chữ Nghĩa – Trung Để cho tên tuổi gắn cùng nước non. Về võ ông thông thạo thập bát ban võ nghệ, sử dụng được nhiều binh khí, có biệt tài đánh côn, dân gian gọi là đánh thó. Năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284), khi đó ông vừa 20 tuổi, vua Nguyên – Mông sai Thái tử Thoát Hoan đem quân xâm lược Đại Việt lần thứ 2 (1285), Nguyễn Chế Nghĩa xin đầu quân đánh giặc. Ông đã vượt qua tất cả các cuộc tỷ thí võ nghệ cũng như phép dùng binh. Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương khen: “Người chẳng kém gì Phạm Ngũ Lão, ta lại thêm một tướng tài”, cho ông làm tướng tiên phong. Khi giặc Nguyên – Mông vượt biên giới, Quốc công Tiết chế phong ông làm Đại tướng giao cờ lệnh cùng Đại tướng Phạm Ngũ Lão đem 3000 quân chặn giặc từ ải Nội Bàng, ải Nữ Nhi (Bắc Giang) đến Kỳ Cấp (Lạng Sơn). Ông đã nghênh chiến với Trịnh Bằng Phi, Áo Xích Lỗ là hai tướng vào loại hiệt kiệt của Nguyên – Mông. Ông một mình một ngựa, một thương lao thẳng vào quân giặc mà chém giết. Ông gây nỗi kinh hoàng và đem cái chết đến cho bọn xâm lược. Chúng khiếp sợ, gọi ông là Thần tướng. Sau đó Nguyễn Chế Nghĩa được lệnh rút về Lộ Hương tham gia những trận đánh không cho giặc tiến nhanh về kinh thành Thăng Long. Khi vua Trần rút Triều đình và nhân dân khỏi kinh thành thực hiện kế hoạch “vườn không, nhà trống”, ông được Quốc công Tiết chế giao cho ở lại tổ chức dân binh hoạt động ở vùng sau lưng giặc. Ban ngày ông lãnh đạo nhân dân chống địch giết hại nhân dân, cướp bóc của dân. Ban đêm ông đem quân tập kích vào trại giặc. Ông thiết lập mặt trận bí mật từ làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm đến Cư Xá Hải Dương để chặn giặc không cho chúng đánh sang Lộ Hồng. Ông chỉ huy trận phục kích giặc ở cánh đồng lầy cạnh rừng đay thôn Kiêu Kỵ, diệt 300 tên giặc, không một tên nào sống sót chạy về kinh thành Thăng Long. Khi quân ta chuẩn bị tổng phản công, ông được lệnh của Quốc công Tiết chế phối hợp với quân của Trung Thành vương (không rõ tên) diệt đồn Giang Khẩu ở ngoại thành Thăng Long. Ông cùng tướng Trần Nhật Duật chỉ huy đội quân thủy, quân bộ phục kích giặc trên sông Thiên Đức (sông Đuống) truy diệt quân địch, giết hàng nghìn tên. Kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2, Nguyễn Chế Nghĩa được vua Trần phong chức U Khổng Bắc tướng quân. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ ba (1287 – 1288), Quốc công Tiết chế phong ông làm Chánh tướng tiên phong, cùng hai ông Hùng Thăng và Huyền Du làm phó tướng tiên phong. Ông mang quân đóng ở Yên Hưng (Quảng Yên, Quảng Ninh ngày nay), rồi lại mang quân lên cửa ải Nội Bàng, chém chết tướng giặc là Trương Quân..

<span class='text_page_counter'>(164)</span> Khi biết Thoát Hoan chạy theo đường núi, không chạy theo đường sông Bạch Đằng, vua sai ba ông lên giữ ải Nam Quan, Chi Lăng đánh lui Trương Bằng Phi, Áo Xích Lỗ. Sau đó ông còn đánh trên 20 trận nữa. Tiếp đó ông nhận được lệnh đưa quân về chặn giặc ở Vạn Kiếp, Lục Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 và thứ 3, Nguyễn Chế Nghĩa được vua Trần phong chức Đại tướng quân, được cử đi giữ các cửa ải ở Lạng Sơn 6 năm liền. Ông lập các đồn trại dọc biên giới, tiễu trừ giặc cướp, thổ phỉ. Ông còn thành lập các đội dân binh, giúp họ khẩn hoang làm ruộng để tự túc lương thực, giao cho các thổ hào tin cậy quản lý. Các đội dân binh này đã cùng quân Triều đình bảo vệ vững chắc vùng biên cương. Vùng biên ải được bình yên, ông được nhà vua triệu về triều ban tước Nghĩa Xuyên công và lần lượt tới các chức vụ Đô úy, Thái úy. Ông đi sứ Nguyên ba lần vào các năm Nhâm Tý (1302), Tân Dậu (1321), Tân Mùi (1331). Nguyễn Chế Nghĩa được nhà vua và triều đình quý trọng, vua Trần gả công chúa Nguyệt Hoa cho ông và phong chức Phò mã Đô úy. Ông bà sinh được một trai là Công tử Sùng phúc. Nguyễn Chế Nghĩa làm quan trải bốn triều vua: Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiển Tông. Ông đã lần lượt giữ các chức Nhập nội thị Thái úy, Thái tể Nghĩa Xuyên công, có thời gian đứng đầu ban võ, có lúc kiêm chức Lễ bộ Thượng thư. Đến cuối đời Trần Minh Tông, triều đình nhiễu nhương, vua ham chơi bời, không lo đến quốc sự, bọn gian thần nhũng loạn. Nguyễn Chế Nghĩa khuyên vua không được liền cáo quan về nghỉ ở đất Cối Xuyên quê hương ông và ở Kiêu Kỵ là đất vua ban cho ông làm Thái ấp. Tại Cối Xuyên, ông giúp dân mở mang nghề nông, mở chợ Cối Xuyên, lập giáo phường dậy võ cho thanh niên. Tại Kiêu Kỵ đất nhà vua phong cho ông Thái ấp, ông cũng khuyến khích nông dân mở mang đồng ruộng, phát triển nghề tằm tang, bảo vệ đê sông Hồng. Ông cũng lập quán Ninh Kiều làm nơi thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên, nơi ngâm họa thơ văn. Ông còn làm gương và khuyến khích dân giữ vững thuần phong mỹ tục. Khi vua Trần Hiển Tông mất, Dụ Tông lên ngôi, khi đã củng cố được địa vị rồi, Dụ Tông trả thù ông vì ông là một trong ba người phản đối Dụ Tông lên ngôi vua, đã sai bọn võ sĩ phục kích chém chết ông ở quán Ninh Kiều, xã Kiêu Kỵ, năm đó ông đã 76 tuổi. Mặc dù vậy nhưng với công lao hiển hách và đức cao vọng trọng của ông, Triều đình vẫn phải cử bộ Lễ về tổ chức tang lễ theo nghi thức Vương giả và phong thần là An Nghĩa Đại vương. Nhân dân làng Kiêu Kỵ lập đền thờ An Nghĩa Đại vương, công chúa Nguyệt Hoa và Công tử Sùng Phúc..

<span class='text_page_counter'>(165)</span> Công tử Sùng Phúc cùng với mẹ là công chúa Nguyệt Hoa còn dựng chùa thờ Phật ở cạnh đền An Nghĩa Đại vương. Sau chùa này được mang tên là Sùng Phúc Tự. Khi công chúa Nguyệt Hoa và công tử Sùng Phúc mất cũng được nhân dân Kiêu Kỵ đưa vào thờ ở đền, ở đình Kiêu Kỵ. Theo thống kê thì An Nghĩa Đại vương, Nguyệt Hoa công chúa được phong 87 đạo sắc (nay chỉ còn giữ được 32 đạo sắc, còn 55 đạo đã mất từ lâu), trong đó đời vua Lê Thần Tông 30 đạo, đời vua Lê Huyền Tông 7 đạo, đời vua Lê Gia Tông 8 đạo, đời Lê Dụ Tông 9 đạo, đời Lê Hiển Tông 10 đạo, đời vua Quang Trung 11 đạo, đời vua Cảnh Thịnh 12 đạo. Lễ hội: ngày 8 tháng giêng, ngày 27 đến 29 tháng 8. Văn tế Xuân, mùng 8 tháng giêng như sau: “Tam vị Đại vương Tối linh – Tôn thần, Vị tiền tiết kim vì Xuân tế, tất lễ, lễ giã. Cung duy: Đại Vương Trần triều Nhập nội, Thái úy, Phò Mã, Đô úy, An Nghĩa Đại vương, phù vận, phả hóa, hoành hưu, tế thế, hiển đức, phong công, an dân hộ quốc, địch nghị, dũng mãnh, trợ uy, uy linh Dực thánh, thần trí, phù quốc, an biên, vệ xã, phu đạt, bật thánh, dương linh, phả trạch thần mô, thánh toán, vĩ lược, thông tuệ, uyên tiềm, cương nghị, tế trị, tán chính, khai cơ, tuấn vọng, gia tích, thuần hỗ, hùng tài, vĩ liệt, hoành hưu, diên hi, tế mỹ, đốc hậu. Hoàng triều gia tặng: Tuấn lương, Dực bao – Trung hưng tôn thần. Nguyệt Hoa công chúa, Trang thuận, trinh thục, cẩn tiết, phương dung, nhu từ, ý đức, từ thuận, đoan trang, thiên hạnh, trang nhất, trinh tiết, diêm thục, hiền đức, cẩn hạnh, đôn phác, chiêu tắc, thuận đạo, quỳnh anh, uy nghi, trang chỉnh, chai mị, khuê phạm, khổn nghi, lệnh thục, cẩm hạnh, ôn từ, nhã thuận, hiền đức, chính minh, vi ý, thù tư, diệu chất, nhu hòa, trang ý, nhu từ, thục thận. Hoàng Triều gia tặng: Thục diệu, Dực bảo, Trung hưng tôn thần. Hoàng thái tử Phối, Trợ dân, diễn khánh, tuy lộc, an dân, hộ vật, triệu mưu, tá tích, địch nạn, tế quốc, hồng ân, minh trí, dũng lược, ninh dân, trợ trị, thùy hưu, anh tài, đốc hựu, phụ quốc, hưng trị, phù binh, hưu vĩ, sùng phúc, anh đạt, dực vận, khuông quốc, hoàng liệt, linh sảng, khoát đạt, uy vũ, thông minh, nhân trí, hùng lược, trạc linh, khuông độ, hiển bí, phu cảm, phả hộ khoan nhân, thiệu hưu, dương liệt, dụ khánh. Hoàng Triều gia tặng: Tuấn lương, Dực bảo Trung hưng tôn thần. Cung duy: Đại vương, anh đặc, tư cao, thần minh, trụ xuất, vũ giai, kiến tiết, hiển quán, tủng quốc, vọng ư, long trì, hứa anh, văn định, tảo hài, thần cung,.

<span class='text_page_counter'>(166)</span> hương ư, chạc phất, kì lân, diên giáng, lệnh côn, long hổ, hùng khoa, cự thất, tụ chung, cự thạch, lực khả, bạt sơn, chưởng thượng, kim ô, cơ thần, vãn nhật, chấn phương, tuy phong, vận cù, cù khảm địa uyển, uy nghi bật bật, tướng dư linh như tại, kính chi, cảm hốt ư diệc lâm, thích sơ, húy xạ, đinh điện chỉ, vị tương ư hữu bật, nguyện giám, đan thành, tỉ đào, trù mật. Kính dĩ: Nguyễn – Trần nội ngoại, tiên tổ liệt vị, Tiên sư hộ nghiệp, liệt vị, đồng lai giám cách. Phục duy thượng hưởng. lương Cụm di tích trên được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích Lịch sử năm 1996. Ngày 3 – 2 – 2001, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh về xã Kiêu Kỵ đã trồng cây đa ở đền Đại tướng quân Nguyễn Chế Nghĩa (nay đồng chí Nông Đức Mạnh là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam). CHÂU NƯƠNG Thời Trần, ông Lý Quỳnh, người làng Cổ Pháp nay thuộc tỉnh Bắc Ninh giữ chức Điền Hộ binh lương trông coi các kho quân lương của quân đội ở kinh thành Thăng Long, ông lấy vợ người làng Giảng Võ. Hai ông bà sinh được một gái đặt tên là Lý Thị Châu, nên gọi là Châu Nương. Châu Nương là người con gái đẹp người, đẹp nết, học giỏi nổi tiếng ở phường Bích Câu. Châu Nương thường giúp cha việc sổ sách xuất, nhập lương thực. Nàng còn học được cả cách phân loại lương thực tốt xấu, phương pháp bảo quản lương thực chống ẩm mốc, mối mọt. Nàng còn học được ở cha – quan Điền Hộ binh lương đức tính ngay thẳng không tơ hào một chút của công. Năm 1258, giặc Nguyên – Mông xâm lược Đại Việt lần thứ nhất, Thái sư Trần Thủ Độ và phu nhân của ông – bà Trần Thị Dung đảm nhận việc Hậu cần của Triều đình, quyết định sơ tán hết quan quân, nhân dân cùng toàn bộ lương thực khỏi kinh thành Thăng Long. Quan Điền Hộ binh lương Lý Quỳnh đã đôn đốc quân coi các quân lương di chuyển hết khỏi kinh thành, khiến Thăng Long trở thành một thành trống rỗng. Chiến thắng giặc Nguyên – Mông, nàng theo cha trở về kinh thành Thăng Long và tiếp tục giúp cha việc sổ sách. Năm nàng 18 tuổi thì cha mất, chờ mãn tang cha, nàng kết duyên cùng một vị quan họ Trần, tước Thái bảo, làm Đốc bộ ở Hoan Châu (Nghệ An – Hà Tĩnh). Nàng theo chồng vào Hoan Châu giúp chồng lo việc quân lương. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ hai (1285), một cánh quân của Toa Đô chỉ huy vượt biển đánh Chiêm Thành rồi từ đó đánh ra Hoan Châu tạo thành hai gọng kìm đánh vào quân đội Đại Việt. Sau đó lại.

<span class='text_page_counter'>(167)</span> theo đường biển vào cửa Ba Lạt theo sông Hồng đánh thọc vào Nam kinh thành Thăng Long. Trên đường hành quân, một mục tiêu quan trọng của giặc là cướp lương thực, thực phẩm để nuôi quân. Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn phái Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật vào chi viện thì lại bị Trần Kiện nắm trong tay 10.000 quân, đầu hàng giặc đánh vào sau lưng. Như vậy là cả Hoan Châu, Ái Châu đều bị quân giặc uy hiếp từ ba phía Bắc, Nam và phía Đông. Tại Hoan Châu, Trần Thái Bảo đem quân chống giặc. Thế giặc mạnh, chúng chiếm được thành ở phủ Hưng Nguyên, ông phải rút quân về Diễn Châu củng cố lực lượng. Trong khi chồng lo chiến đấu ở chiến trường thì Châu Nương đốc thúc quân sĩ và nhân dân chuyển hết các kho lương, quân nhu, khí giới vào vùng rừng núi, đặt quân canh gác cẩn mật. Vì thế quân giặc không cướp được một hạt lương, còn quân ta vẫn được cung cấp lương thực, khí giới đầy đủ. Quân sỹ tôn Châu Nương là “Tướng Bà”. Được Châu Nương lo chu tất về hậu cần, quan Thái Bảo yên tâm đánh giặc, ông cho quân bí mật luồn vào phía Nam rồi hai cánh quân đánh kẹp lại. Quân giặc bị bất ngờ lại thiếu lương thực nên phải rút về Đèo Ngang (Quảng Bình). Tin quân Trần thắng trận báo về hành cung của vua đóng ở sông Hoàng Giang, nhà vua khen ngợi hai vợ chồng quan Thái Bảo. Vua triệu về Kinh, phong cho Trần Thái Bảo chức Tiền quân Duệ thánh chỉ huy đạo quân bảo vệ nhà vua và kinh đô. Châu Nương được vua tín nhiệm giao cho Tổng quản các kho quân lương ở phủ Phụng Thiên. Năm 1288 quân Nguyên – Mông sang đánh báo thù rửa nhục sau hai trận đại bại. Vua Trần và Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương lại quyết định đưa Triều đình, quan quân, nhân dân ra khỏi Thăng Long như hai lần trước. Tiền quân Duệ Thánh Lãnh trách nhiệm đánh chặn giặc trên sông Hồng để Triều đình rút lui. Châu Nương chỉ huy việc di chuyển các kho quân lương ở phủ Phụng Thiên, dời khỏi kinh thành. Thế giặc mạnh, Tiền quân Duệ Thánh hy sinh. Nghe tin Châu Nương khóc lóc thảm thiết, nhưng bà nén đau thương chia quân đánh chặn giặc để di chuyển nốt số lương thực còn lại. Quân giặc tràn vào, bà chống cự đến cùng, rồi dùng chiếc khăn hồng thắt cổ tự vẫn. Khi Châu Nương vừa ngã xuống thì chiếc khăn hồng bay lên trời, bay về trang Giảng Võ quê hương bà. Quân Nguyên – Mông tràn vào thì một con rắn lớn trong kho lao ra, phun phì phì vào lũ giặc, khiến chúng hoảng hốt tháo chạy. Sau khi đất nước giải phóng, vua Trần phong tặng Châu Nương chức “Quân quản quốc khố công chúa” (Bà Chúa giữ kho của Quốc gia)..

<span class='text_page_counter'>(168)</span> Dân làng Giảng Võ lập đền thờ bà, sau tôn bà làm Thành hoàng, xây đình thờ bà. Đình Giảng Võ(1) ở cửa đình đắp bức hoành phi: “Trần Lý phương danh”. Trong đình có bức hoành phi: “Nữ trung anh kiệt” và đôi câu đối: “Tài chính túc cung quân, khổn nội mệnh văn thiên tử chiếu – Âm mưu năng thoái lỗ, quốc trung danh chấn nữ thần quyền”. Dịch: Của cải đủ nuôi quân, khăn yếm ra tay vâng chiếu chỉ - Hồn thiêng còn đuổi giặc, non sông vang dậy tiếng nữ hào”. BẢO HOA CÔNG CHÚA Tháng 12 năm 1287, vua Nguyên – Mông phát động cuộc chiến tranh lần thứ ba đánh Đại Việt. Riêng cánh quân do Thoát Hoan chỉ huy tới Lộc Châu thì chia làm hai cánh đi theo hai hướng phía Đông và phía Tây. Cánh quân phía Đông do đích thân Thoát Hoan chỉ huy, cánh quân phía Tây do Đột La Hợp Đáp Nhĩ là tên tướng đã chỉ huy cánh quân phía Tây trong cuộc chiến tranh lần thứ hai chỉ huy. Cánh quân phía Tây đã vấp phải quân Trần án ngữ từ biên giới và đặc biệt là ở cửa ải Chi Lăng, Hãm Sa, Từ Trúc. Quân Nguyên – Mông phải giao tranh với quân Trần tới 17 trận. Tiếc rằng sử không ghi chép lại các trận đánh đó, hoặc sử có ghi, nhưng đã bị quân Minh lấy đi khi xâm lược nước ta. Chỉ có truyền thuyết kể lại là Công chúa Bảo Hoa là con gái Thượng hoàng Trần Thánh Tông, em gái vua Trần Nhân Tông đã cầm quân đánh giặc ở Khâu Ôn. Công chúa Bảo Hoa là người văn võ đều tinh thông. Riêng văn thơ, công chúa thường xướng họa với nhiều tao nhân, mặc khách, đề vịnh ở các nơi danh lam thắng cảnh. Theo Thần tích ở Đền thờ công chúa ở phường Xã Đàn(1), quận Đống Đa, thành phố Hà Nội còn chép bài thơ Vịnh cảnh của Công chúa như sau: “Nguyệt lãng phong thanh, tửu chính khô Đa tình tận ẩm, bách đa hồ Thiều quang dĩ chiếu doanh dinh lạc Ngũ phúc lai lâm diệc thư đồ”. Dịch: “Gió mát trăng trong, rượu cạn khô Đa tình uống hết cả trăm hồ ______________________ (1) (2). Năm 1947 giặc Pháp đốt phá đình, nay nhân dân mới xây lại. Nơi đây cũng là cung riêng của Công chúa..

<span class='text_page_counter'>(169)</span> Thiều quang tỏa chiếu nhà vui sáng Đây hẳn đường đêm ngũ phúc cho”. Ngay từ khi giặc còn ở ngoài cõi, công chúa đã xin với Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông là cha và vua Trần Nhân Tông là anh ruột xin đem quân lên biên giới chống giặc. Trước quyết tâm của công chúa, Thượng hoàng và vua Trần đã chấp nhận. Công chúa chỉ huy quân đánh giặc lập được nhiều chiến công. Chiến thắng giặc, công chúa hồi triều, được Thượng hoàng Trần Thánh Tông khen ngợi: “Con là con gái mà đánh giặc giỏi” và phong tước hiệu là “Bảo Hoa công chúa đại vương”. Khi công chúa mất, nhân dân Xã Đàn thờ công chúa ở ngay cung sở cũ. UY CÔNG Đình làng Nhật Tân và đình làng An Trì (Yên Phụ) (1) thời Uy Đô còn gọi là Uy Linh Lang làm Thành hoàng. Nhật Tân xưa tên là phường Nhật Chiêu, thuộc tổng Thượng, huyện Vĩnh Thuận, kinh thành Thăng Long. Năm 1915 mới đổi thành xã thuộc huyện Hoàn Long, Hà Đông, năm 1942 thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội, nay thuộc xã Nhật Tân quận Tây Hồ. Làng làm nghề trồng hoa, cây cảnh, nổi tiếng là đào Nhật Tân. Mùa xuân năm 1789, ngay sau khi chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung đã sai Đô đốc Tuyết phóng ngựa trạm từ kinh thành Thăng Long đưa một cành đào Nhật Tân vào Phú Xuân tặng hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Tương truyền vào thời Trần, có một cung nữ của Hoàng hậu Minh Đức vợ vua Trần Thánh Tông đi thuyền ra đặt dưới gốc hai cây gạo ở thôn Bắc làng Nhật Chiêu một cái thúng trong đó có một quái thai do Hoàng hậu Minh Đức sinh ra. Đến đêm, dân Nhật Chiêu thấy hào quan tỏa ra từ cái thúng và tiếng khóc thấu đến tận cung vua. Vua Trần Thánh Tông và Hoàng hậu Minh Đức sai người ra xem thấy một đứa trẻ là con trai khôi ngô tuấn tú, khác hẳn người thường liền rước về cung đặt tên là Uy Đô. Uy Đô càng lớn càng tuấn tú, khôi ngô, từ thuở còn trẻ thơ đã say mê cung kiếm, thường bày trận cùng các cung nữ, thị tì đánh trận. Nhà vua đón thày dạy võ, dạy văn cho Uy Công. Chẳng bao lâu Uy Công thành thạo 18 ban võ nghệ, binh thư đều thuộc. Đến đời Trần Nhân Tông, quân Nguyên – Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai (1285), Uy Công mộ quân ứng nghĩa dưới cờ của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương. Ông lập được nhiều chiến công nên được nhà vua phong là Dâm Đàm Đại vương..

<span class='text_page_counter'>(170)</span> Uy Công về dựng phủ đệ ở Nhật Tân. Sau ông bị bệnh mất, dân Nhật Chiêu thờ ông ở phủ đệ, sau tôn ông làm Thành hoàng thờ ở đình, tồn tại cho đến ngày nay. Đình An Trì (Yên Phụ - nay là số nhà 66, Phó Đức Chính) cũng thờ ông làm Thành hoàng. Tại dưới gốc hai cây gạo ở thôn Bắc, xã Nhật Tân còn có ngôi miếu gọi là Miếu cung, thờ người cung nữ đã đặt cái thúng có Hoàng tử khi đó gọi là “quái thai” ở đó. Miếu này mới bị phá cách đây vài năm. ÔNG TỔ NGHỀ GỐM SỨ BÁT TRÀNG Làng Bát Tràng, nay thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, nằm bên Tả ngạn sông Hồng vốn là một làng nghề nổi tiếng nghề gốm, sứ. Làng Bát Tràng thành lập vào thời Trần, cuối thế kỷ XIV, do một số người làm thợ gốm, sứ từ Vĩnh Ninh Trường (Thanh Hóa) ra lập làng gốm sứ Bồ Tát (Bồ Xuyên, Ninh Bình) ra lập nghiệp nghề gốm sứ. Sau đó có một số người từ Bồ Cát, đứng đầu là ông Nguyễn Minh Tràng, một người thợ gốm, sứ tài hoa, có đầu óc tổ chức cao ra Bát Tràng lập nghiệp. Bát Tràng ban đầu có tên là phường Bách Thổ, sau đổi là Bá Tràng. Đến thời Lê đổi là Bát Tràng. Xã phát triển thành hai thôn là thôn Bát Tràng và thôn Giang Cao. Nghề gốm sứ Bát Tràng nhanh chóng phát triển sang các xã Kim Lam, Đa Tốn, của Gia Lâm và Văn Đức của Văn Giang. Làng gốm sứ Bát Tràng sản xuất ra gạch, ngói. Gạch cũng có nhiều thứ như gạch chỉ để xây, gạch vuông để lát nền nhà, lát sân, lát đường. Ngói có ngói ta, ngói ống, ngói mũi dài, ngói tráng men có nhiều mầu sắc để lợp các cung đình, đền đài, lăng miếu. Bát Tràng sản xuất rất nhiều chum vại nồi gốm. Đồ sứ có rất nhiều loại bát đĩa, bát hương, bình, chóe, lọ cắm hoa, chậu, đôn, đồ chơi. Khi ông Nguyễn Minh Tràng mất, nhân dân nhớ ơn lập đền thờ, sau tôn làm Thành hoàng thờ ở đình. Nghề gốm ở Bát Tràng ngày càng phát triển không những chỉ sử dụng ở trong nước, ở khắp miền xuôi đến miền núi, từ thường dân đến cung đình, mà còn xuất đi nhiều nước trên thế giới. Đến nay qua hiện vật còn lại ta được biết các nghệ nhân tài ba như Nguyễn Phong Lai, Bùi Nghĩa, Hoàng Lưu, Bùi Huệ, Bùi Thị Đỗ là tác giả của nhiều cây đèn sứ, niên hiệu Diên Thanh thứ 3, đời Mạc Mậu Hợp (1580), Đỗ Xuân Vi tác giả của bộ cây đèn và lư hương, niên hiệu Hưng Trí thứ 3 (1590). Bùi Đào, tác giả chân đèn niên hiệu Hoằng Định thứ 2 (1602), Vũ Xuân tác giả cây đèn năm 1613, Bùi Hác, tác giả cây đèn năm 1619, Đỗ Phủ tác giả cây đèn niên hiệu Hoằng.

<span class='text_page_counter'>(171)</span> Định (1601 – 1619). Men rạn Bát Tràng được chế tác trước từ đầu thế kỷ 18, trước cả men rạn của Trung Quốc. Đồ gốm sứ Bát Tràng từ lâu đã đi vào ca dao, dân ca, vào lời ru của dân tộc Việt ở đồng bằng Bắc Bộ: Trên trời có đám mây xanh Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng Ước gì anh lấy được nàng Để anh mua gạch Bát Tràng về xây Xây dọc rồi lại xây ngang Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân. THÀY CHU VĂN AN Chu Văn An tên hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, hiệu là Văn Trinh. Ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) dưới triều vua Trần Thánh Tông ở xóm Văn, làng Quang, huyện Thanh Đàn, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Mẹ của Chu Văn An là Lê Thị Chiên người làng Quang. Mẹ ông là người có công sinh, dưỡng dục, giáo dục, đào tạo từ thuở ban đầu để sau này trở thành người thày xuất sắc, mẫu mực, một người thẳng thắn, cương trực, uy vũ không khuất phục. Thuở thơ ấu, Chu Văn An đã nổi tiếng thông minh, thần đồng, sớm bộc lộ các đức tính ham học, ham hiểu biết, thanh liêm, cương trực. Ông không làm điêu gì xấu dù là nhỏ, luôn luôn noi gương sáng của các bậc thánh hiền. Ông có chí hướng mở trường học dạy văn, dạy đạo làm người để đào tạo nhân tài cho đất nước ngay từ khi trẻ tuổi còn đi học. Ông dựng một ngôi trường ở gò đất trên cánh đồng giữa làng Quang Liệt với làng Cung Hoàng trên bờ sông Tô Lịch (nay là xã Huỳnh Cung, huyện Thanh Trì). Chu Văn An nổi tiếng là người thày tận tụy với nghề nghiệp, hết lòng thương yêu học trò. Đối với học trò từ thiếu niên đền người cao tuổi ông đều quan tâm dạy dỗ. Ngay cả những người đã đỗ đạt cao đã ra làm quan vẫn thường đến trường lắng nghe thầy bình văn, giảng sách. Ông còn quan tâm dạy đạo đức cho học trò. Tiếng tăm thày Chu Văn An nổi tiếng (1), học trò của ông rất đông, có tới trên 3.000 người. Nhiều học trò của ông trở thành những người đỗ đạt khoa, làm quan to, có tài, có đức trở thành rường cột của Nhà nước _______________________ (1). Đăng khoa lục soạn năm 1779 bổ sung Chu Văn An và Phạm Sư Mạnh ở phần “Bổ di” đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) nhưng không nói rõ khoa nào. Các sách khác như “Lịch triều hiến chương loại chí”, “Phượng Sơn từ chí lược” đều không nói, không viết việc ông đi thi..

<span class='text_page_counter'>(172)</span> như Phạm Sư Mạnh, người huyện Giáp Sơn, tỉnh Hải Dương làm quan đến chức Nhập nội hành khiển tri khu mật viện sự (đứng sau Tể tướng); Lê Quát người huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa làm quan đến chức Bộc xạ (đứng sau tướng quốc). Tương truyền khi Chu Văn An dạy học ở trường Cung Hoàng, hàng ngày có một chàng thiếu niên khôi ngô tuấn tú, nghe giảng rất chăm, không hề vắng buổi nào, nhưng không ai rõ lai lịch chàng thiếu niên ấy ở đâu. Chu Văn An cho người đi dò xét thì thiếu niên đó cứ đến đền Cung Hoàng là biến mất, nên Chu Văn An biết đó là Thủy thần. Năm đó trời hạn hán, Chu Văn An nói với người học trò đó: “Năm nay trời hạn hán, lúa ngô chết hết, dân tình cơ cực rất thương tâm, ta tìm phương cứu vớt nhưng không có cách nào, con có cách nào giúp cho”. Đây là việc cực kỳ khó khăn vì việc nắng mưa là do Thiên đình định đoạt, người nào trái lệnh sẽ bị khép vào tội chết, nhưng chàng học trò đó đã từng được nghe thầy giảng giải về lòng nhân đạo, đạo đức con người là phải nghĩ đến người khác, cảm phục đức độ thầy chàng thà chết làm theo lời thầy để cứu sinh linh. Hôm sau chàng mài mực vào nghiên, dúng bút vào vẩy lên trời đọc thần chú, lập tức mây đen kéo đến, mưa sầm sập chỉ khác là nước mầu đen. Bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai, nghiên rơi xuống cánh đồng làng Vĩnh Quỳnh biến thành đầm, vì nước mầu đen nên gọi là Đầm Mực. Nông dân vui mừng được cứu sống, Chu Văn An cũng rất vui nhưng không thấy người học trò đó đâu, Chu Văn An sai người đi tìm thì thấy xác một con thuồng luồng chết nổi trên đầm Cung Hoàng, biết đó là hiện thân của người học trò yêu, Chu Văn An sai vớt lên, an táng chu đáo, dân lập miếu thờ. Vào khoảng năm Khai thái (1324 – 1329) vua Trần Minh Tông vời ông ra giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám trông coi việc chọn lựa nhân tài trong nước và dạy Thái tử Vượng học. Ông trông coi Quốc Tử Giám vài năm thì năm 1329, Trần Minh Tông nhường ngôi cho Thái tử Vượng khi đó mới 11 tuổi, trị vì 12 năm thì mất. Chu Văn An là thày dạy Trần Hiển Tông. Các quan đại phu đều tôn vinh ông là thày, mặc dù có người không học ông… Hoàng thân Trần Nguyên Đán giữ chức Tư Đồ (Tể tướng) có thơ ca ngợi ông: “Hải hải hồi lan, tục tái thuần, Thượng tương sơn dấu dác tư nhân… … Hoa xuân chỉ thọ thuy y tri, Thanh Sắc Sào Do tác nội thần”. Dịch: Bể học xoay chiều sóng, phong tục trở lại thuần hậu,.

<span class='text_page_counter'>(173)</span> Trường lớn trong nước được thày dạy có đạo đức lớn như Bắc Đẩu, Thái Sơn… Vua Nghiêu Thuấn chỉ rủ áo an nhàn mà nước được thịnh trị, Phương chi lại được ân sĩ Sào Phủ, Hứa Do nội việc, nội thần… Song triều đình nhà Trần ngày càng suy đốn, thối nát, vua ham chơi hoang dâm vô độ, quan lại tham nhũng, dân tình cơ cực lầm than, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra. Từ vua Trần Dụ Tông trở đi càng suy đốn, thế nước càng nguy nan. Trước thảm họa đó, một số quan thanh liêm đau lòng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, song không dám can ngăn vua và bọn quyền thần lộng hành, xiểm nịnh. Chu Văn An làm sớ dâng vua kể tội bọn tham nhũng, khuyên vua bớt ăn chơi xa xỉ, lo cho dân cho nước và xin vua chém bẩy tên nịnh thần, hồi đó gọi là “Sớ Thất trảm”. Nhà vua không khiển trách cũng không trả lời. Chu Văn An từ quan về quê dạy học ở ngôi trường cũ. Được ít lâu ông đi chu du khắp nơi. Khi tới Chí Linh thấy núi Phượng Hoàng là nơi sơn thủy hữu tình, non xanh nước biếc, rừng thông bát ngát, đá núi lô xô, suối chảy rì rào. Vào thời đó triều đình đã cho xây điện Tử Cực, điện Lưu Quang, lưng núi có chùa Lệ Kỳ, có động Huyền Vân, chân núi có suối Miết Trì. Chu Văn An yêu cảnh núi Phượng Hoàng đã làm bài thơ: “Vạn Điệp thanh sơn thóc họa bình Tà dương đảo quái bán khê minh Thúy la kinh lý vô nhân đạo Sơn hạc để yên thới thất thanh” Dịch: Muôn lớp núi xanh bình phong vẽ Bóng chiều chiếu xế sáng nửa khe Lối xanh rì dây leo không ai đi đến Hạc núi trong mây thỉnh thoảng một tiếng kêu Yêu quí núi Phượng Hoàng, Chu Văn An liền đến đây làm lều ở ẩn. Tiếng rằng ở ẩn nhưng ông vẫn mở trường dạy học và làm nghề làm thuốc chữa bệnh. Tiếng tăm ông thày có biệt danh là Tiều Ẩn về mở trường dạy học ở núi Phượng Hoàng đã có nhiều người đến học, đặc biệt là người đến chữa bệnh càng đông. Hễ có việc trọng đại của quốc gia vua lại vời ông về bàn việc. Vào triều xong ông lại về ngay Phượng Hoàng, quà vua ban cho ông chia đều cho dân xung quanh. Năm 1369 Trần Dụ Tông viết chiếu nhường ngôi cho con nuôi người anh là Dương Nhật Lễ, Nhật Lễ mưu toan đổi triều đình họ Trần thành họ Dương đã bị Trần Phủ con thứ ba Trần Minh Tông, em Trần Dụ Tông cùng Trần.

<span class='text_page_counter'>(174)</span> Nguyên Đán dấy quân đánh giết Dương Nhật Lễ rồi lên làm vua lấy hiệu là Trần Nghệ Tông (1370). Nghe tin, Chu Văn An chống gậy về mừng, nhà vua giữ lại giao cho trọng trách trong triều, song Chu Văn An cố từ trở lại Chí Linh. Tháng 11 năm Canh Tuất (1370) niên hiệu Thiệu Khánh thứ nhất, Chu Văn An mất, thọ 78 tuổi. Vua Trần Nghệ Tông sai quan về tế, tặng tước hiệu là Văn Trinh công và ban tên thụy là Khang Triết. Nhân dân và học trò làm nhà ở bên mộ và hàng năm đều đến tế. Sau đó di tích bị tàn phá mãi đến năm 1786 và 1840 mới được làm lại sau đó lại bị tàn phá vì chiến tranh. Chu Văn An không những là nhà sư phạm có tài, có đức đào tạo cho đất nước nhiều nhân tài, làm quan thì thanh liêm, chính trực, dũng cảm vạch cái sai của vua quan. Ông là nhà thơ để lại nhiều tác phẩm như “Tứ thư thuyết ước”, “Tiều ẩn quốc âm” nhưng đều bị quân Minh đốt nay chỉ còn 12 bài chép trong Toàn Việt thi lục. Chu Văn An còn là nhà nghiên cứu, viết sách và thực hành về Y học. Sách Y học còn lại “Y học yếu giải” trong quyển “Thanh Trì Quang Liệt Chu thi di thư” gồm quyển thượng, quyển trung, quyển hạ. Tỉnh hội Y học Hải Dương đã xuất bản quyển Chu Văn An và Y học yếu giải năm 1977. Sự nghiệp về sư phạm, đạo đức của Chu Văn An được người xưa đánh giá rất cao như Ngô Sĩ Liên trong lời bài chép ở Đại Việt sử ký toàn thư không ngớt lời ca ngợi: “Người sau nghìn năm nghe nói phong thái ông, há kẻ điêu ngoa không thành liêm chính, kẻ hèn nhát không tự lập sao?”. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục từng viết về ông: “Dâng sớ xin chém bọn nịnh thần làm rung động cả trong triều ngoài quận rồi cáo quan trả mũ áo về nhà, không chịu tước lộc bó buộc, vua chúa phải tôn trọng, công khanh phải kính phục, đấy là bậc thanh cao nhất”. Phan Huy Chút viết: “Chu Văn Trinh học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng được đương thời suy tôn, thời sau ngưỡng mộ. Tìm trong làng nho của nước Việt ta từ trước đến nay chỉ có mình ông”. Chu Văn An không những được thờ ở làng Thịnh Liệt quê ông, ở núi Phượng Hoàng, Chí Linh – nơi ông ở ẩn, mà ông còn được đưa vào thờ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. NGUYỄN TRUNG NGẠN Phố Mã Mây, quận Hoàn Kiếm, có đền thờ Nguyễn Trung Ngạn là một vị quan hết lòng vì nước, thương dân. Ông sinh năm 1289, thưở nhỏ tên là Cốt, tự là Bang Trực, hiệu là Tử Y và Giới Hiên, quê ở làng Thổ Hoàng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên..

<span class='text_page_counter'>(175)</span> Từ nhỏ Nguyễn Trung Ngạn nổi tiếng thần đồng, thời Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long năm thứ 13 (Giáp Thìn – 1314). Năm 16 tuổi ông đỗ Hoàng giáp. Tháng 3 – 1314, Minh Tông lên ngôi, ông cùng Phạm Ngộ sang sứ Nguyên để báo tin và dâng cống. Năm Đại Khánh thứ 8 (1321), ông làm Ngự sử. Năm 1324 sứ Nguyên là Mã Hợp Mưu không chịu xuống ngựa ở khu vực cấm, ông lấy lý lẽ bắt bẻ, sứ Nguyên phải xuống ngựa bưng chiếu thư vào. Sau vì trái ý vua, ông phải đổi ra châu Yên Lãng. Năm 1326 ông đổi làm An phủ sứ Thanh Hóa. Năm Khai Thái thứ 6 (1329), Hiến Tông lên nối ngôi, ông theo Thượng hoàng đi đánh Ngưu Hống. Năm Khai Hựu thứ tư (1332) ông được phong phó Nội sử viện nội mật coi việc ở viện Thẩm hình, nhưng vẫn kiêm An phủ sứ Thanh Hóa. Ông dựng nhà Binh doãn sứ, xử kiện công minh, không thiên lệch, không có ai can lạm. Năm Khai Hựu thứ 9 (1337), ông làm An phủ sứ Nghệ An kiêm coi việc ở Quốc sử. Khi ở thành Nghệ An dinh trấn thủ đóng ở núi Lam Thành (này thuộc xã Hương Phú) thuộc huyện Hưng Nguyên, bên kia sông Lam là phố Phù Thạch, Nguyễn Trung Ngạn đã cảm hứng làm bài thơ Qua Phù Thạch như sau: “Trào sinh, trào lạc đông tây thủy, Vân thượng, vân khai thượng hạ san. Ngư đĩnh phù trầm, yên cảnh ngoại, Tăng gia ẩn ước họa đồ gian”. Dịch: “Nước triều lên xuống phía đông tây Mây mù tan hợp chung quanh núi Cảnh khói thuyền chài trôi lơ lửng Nhà chùa ẩn hiện như tranh họa” Trong các năm 1301, 1307, 1310, 1320, 1333, năm thì đại hạn, năm lũ lụt, sâu bệnh tàn phá mùa màng, mất mùa, dân lâm vào cảnh đói kém. Nhà nước trích thóc trong kho chẩn cấp cho dân, nhưng thóc ít, người đói và thiếu ăn thì đông, nên giải quyết không được là bao. Nguyễn Trung Ngạn xin với nhà vua cho lập kho thóc công để chẩn cấp cho dân nghèo những khi mất mùa, đói kém. Hình thức tích trữ lương thực của kho nghĩa thương là của Nhà nước một phần, phần còn lại của dân đóng góp theo đầu mẫu. Những năm được mùa thì thóc đó luân chuyển, bán thóc cũ, nhập thóc mới. Giá thóc lên cao thì nhà nước đưa thóc dự trữ ra bán để bình ổn giá cả, không cho điền chủ và thương nhân nâng giá. Khi mất mùa, đói kém thì đem thóc đó chẩn cấp cho dân đói, dân thiếu ăn. Vì ý nghĩa nhân đạo như vậy, nên gọi là quỹ nghĩa thương..

<span class='text_page_counter'>(176)</span> Nhà vua chuẩn tấu theo lời tâu trên và giao cho ông làm Tào vận sứ lộ ở huyện Khoái Châu, trấn Sơn Nam để chẩn cấp cho dân đói. Năm Khai Hựu thứ 12 (1340), ông làm Đại doãn ở kinh sư. Năm Thiệu Phong thứ 12 (1355) thăng Kinh lược sứ trấn Lạng Giang, Đại Hành khiển, Thượng thư hữu bật kiêm cả Viện khu mật, thăng Đại học sĩ hầu ở tòa Kính Diên trụ quốc, Khai huyện Bá tước Thân Quận công. Nguyễn Trung Ngạn làm quan trải năm triều vua, ông mất năm 1370, thọ 81 tuổi, tên ông được ghi trong chính sử. Ông là nhà chính trị, nhà ngoại giao xuất sắc, ông còn là nhà luật học, nhà sử học, nhà thơ. Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” bình luận về thơ của ông như sau: “Lời thơ hào mại, phóng khoáng, có khí phách và cốt cách Đỗ Lãng (Đỗ Phủ) của nước Đại Đường phương Bắc kính trọng. Ngoài ra còn những câu thơ hay nhiều không kể xiết. Thơ tứ tuyệt lại càng hay, không kém gì thơ thời Thịnh Đường”. Tập “Giới Hiên thi tập” của ông được Lê Quý Đôn sao lục 84 bài trong “Toàn Việt thi lục”, đây là tập thơ tác giả làm khi đi sứ Trung Quốc cùng với Phạm Ngộ. Lời thơ thể hiện lòng yêu mến thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, yêu hòa bình. Ông còn là tác giả bài văn bia trên đá “Ma nhai kể công” là một áng văn đẹp, một kiệt tác thời Trần. Tác phẩm của ông có “Bắc hành tạp lục” (viết chung với Phạm Ngộ), cùng với Trương Hán Siêu soạn “Hoàng triều đại điển” và bộ Hình luật thư, ông làm ra Thực lục. Nguyễn Trung Ngạn làm bài thơ tự phụ rằng: “Giới Hiên tiên sinh lang miếu khí Diệu linh dĩ hữu thôn ngưu chí Niên phương thập nhị thái học sinh Tài năng thập lục sung đình chí Nhịp thập hựu tứ nhập gián quan, Nhịp thập hựu lục Yên kinh sứ”. Dịch: Giới Hiên tiên sinh tài lang miếu Có chí nuốt trâu từ niên thiếu, Tuổi mới mười hai Thái học sinh Vừa đến mười sáu dự thi Đình Hai mươi bốn tuổi làm quan Gián Hai mươi sáu tuổi sứ Yên kinh Ông hai lần sung chức hựu sảnh (nội mật viện). Đến đời Dụ Tông ông tham gia triều chính, giữ trọn tiếng tốt, không phụ là bậc nho giả, thọ hơn 80 tuổi..

<span class='text_page_counter'>(177)</span> Ngoài xã Thổ Hoàng quê hương ông có đền thờ ông, ông còn được thờ ở nhiều nơi, và nhiều thành phố lấy tên ông đặt cho đường phố, trường học..

<span class='text_page_counter'>(178)</span> PHẦN V. THỜI HẬU LÊ.

<span class='text_page_counter'>(179)</span> LÊ THÁI TỔ Lê Lợi người làng Lam Sơn, huyện Lương Giang, Thanh Hóa. Tiên tổ đời đời là hào trưởng một phương. Ông nội vua tên là Dinh, tính khí khoan nhân yêu mọi người, có hơn 1000 gia nhân. Cha vua là Khoáng nối theo nghiệp nhà, các vùng xung quanh đều kính phục. Khoáng đẻ được ba con, Vương là con út. Khi sinh có mùi hương thơm lạ bay khắp làng. Đến lúc lớn có đức độ hơn người, đi như rồng, bước đi như hổ, người có kiến thức biết là kẻ phi thường. Khi còn là phụ đạo ở Khả Lam có đêm bắt được gươm thần, ấn báu. Bất giờ đang lúc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, vua nương náu đợi thời. Đến khi quân Minh sang xâm lược, đặt nước ta thành quận huyện, vua mới quyết chí khôi phục, hạ mình tìm người; các bậc hào kiệt đều theo về cả. Ngày 2 tháng giêng năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng các đồng sự trong đó có Nguyễn Trãi, Lê Thận, Trần Nguyên Hãn, Lưu Nhân Chú, Phạm Văn Xảo… khởi nghĩa ở Lam Sơn. Song quân Minh đông đến trên 40.000 tên, voi ngựa hàng trăm con đến vây đánh. Bình Định Vương không địch nổi phải mở đường máu rút lui. Bình Định Vương lien kết với Ai Lao trở lại Lam Sơn tìm kế hoãn binh với các tướng Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ.Tháng 5-1418, quân Minh lại đánh Lam Sơn, Lê Lợi bỏ Lam Sơn rút về Lạc Thủy, đặt phục binh chém chết hơn 3000 giặc. Nhưng sau quân Minh lại đánh úp vào sau lưng bắt vợ con các tướng sĩ. Nhà vua và các tướng phải nương náu ở núi Chí Linh, ba tháng liền phải ăn rau dại, măng rừng. Giặc lui, Bình Định Vương lại trở về núi Lam Sơn xây dựng đồn trại. Tháng 10 - 1420, biết quân Minh đến đánh, vua đặt phục binh giết, bắt sống giặc nhiều vô kể. Ngày 20 - 11 - 1421, Trần Trí đem hơn 10.000 quân đánh trại Ba Lãm, vua chia quân phục các ngả, quân ta đánh Trần Trí đại bại. Nhưng vua Ai Lao bội ước, đem 50.000 quân, 100 thớt voi, đánh úp nghĩa quân, vua tự làm tướng phản công chém chết hơn 10.000 tên. Tháng 2 – 1422, quân Minh, quân Ai Lao tiến đánh nghĩa quân, vua lại phải thu quân về Chí Linh, đói, phải giết cả voi, ngựa cho quân ăn. Ngày 20 - 9 -1424, tướng Lê Chích hiến kế cho Bình Định Vương đánh chiếm Nghệ An, sau đó tiến vào thu phục Thuận Hóa, Tân Bình. Tháng 9 – 1426, vua sai các tướng đem hai đạo quân ra Bắc. Các tướng đóng quân ở Khoái Châu (Hưng Yên), Bắc Giang, Lạng Giang và tiến đánh Đông Đô. Tháng 10 – 1426, vua Minh sai Trần Hiệp, Mã Anh đem 50.000 quân, 5000 kỵ binh sang cứu viện tới Đông Đô cùng Vương Thông đem 10 vạn.

<span class='text_page_counter'>(180)</span> quân tiến đánh quân ta ở Cổ Sở (Đan Phượng, Hà Tây). Quân ta đặt phục binh phá tan quân Minh ở Ninh Kiều, Tốt Động. Nhận được tin thắng trận, vua ra đóng ở Lũng Giang (sông Đáy), rồi tiến thẳng ra đóng ở Phù Liệt, Thanh Trì, Hà Nội. Hào kiệt, nhân dân các lộ tình nguyện theo vua. Vua chia các lộ, trấn ở Đông Đô làm 4 đạo, đặt quan văn võ trong triều, ngoài đạo… Vua vây thành Đông Đô, Nguyễn Trãi viết nhiều thư địch vận gửi cho các tướng giặc khuyên chúng nên ra hàng. Cùng đường, Vương Thông vờ xin giảng hòa để chờ viện binh. Vua và Nguyễn Trãi cùng bộ tham mưu về đóng ở chùa Bồ Đề, Gia Lâm sai các tướng bao vây chặt các thành Điêu Điêu (Gia Lâm), Tam Tầng (Bắc Giang), Cổ Lộng (Nam Định), Chí Linh (Hải Dương), đặc biệt là bao vây chặt Đông Quan, đưa quân lên biên giới Lạng Sơn để đón đánh quân cứu viện. Mùa xuân năm 1427 chỉ huy quân Minh ở thành Nghệ An là Thái Phúc ra hàng. Chuẩn bị đánh quân cứu viện và các thành Điêu Điêu, Tam Giang, vây chặt Đông Đô, vua tăng thưởng cho nhiều quan văn, tướng võ như Nguyễn Trãi, Lê Chích, Lê Sát, Lê Vấn, Lưu Nhân Chú… Liễu Thăng đưa 10 vạn quân từ Quảng Tây, Mộc Thạnh đưa 5 vạn quân từ Vân Nam sang. Quân ta phục kích từ các ải ở biên giới và phục binh lớn ở Chi Lăng chém chết Liễu Thăng và nhiều tướng giặc, nhưng Thôi Tụ vẫn đưa được quân xuống Xương Giang (phía trên thị xã Bắc Giang). Nhưng Thôi Tụ không biết thành Tam Giang đã bị quân ta chiếm, Thôi Tụ phải đóng quân ngoài cánh đồng. Thôi Tụ xin hòa, quân ra không cho. Trận chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang có ý nghĩa rất lớn có quyết định thắng lợi cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thế kỷ thứ XV do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo. Quân Mộc Thạnh tiến đến ải Lê Hoa nghe tin Liễu Thăng bị giết, Thôi Tụ bị đại bại, Vương Thông bị bao vây chặt ở Đông Quan thì đóng quân lại biên giới không dám sang. Quân giặc ở quanh Chí Linh, Tây Đô, Cổ Lộng được vua giải vây sau khi Vương Thông phải cùng vua lập đàn thề ở Nam Đông Đô, vua cho Vương Thông rút quân về nước. Bắt đầu từ ngày 29 - 12 - 1427, quân Minh bắt đầu rút, ngày 3 - 1 - 1428, nước ta sạch bóng quân thù. Ngày 15 tháng 4 - 1428, Bình Định Vương lên ngôi vua tại điện Kính Thiên, xưng là “Thuận Thiên Thừa vận Duệ anh văn vũ đại vương” đặt tên nước là Đại Việt. Vua sai Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”, đây là áng thiên cổ hung văn, bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam với những câu hùng tráng: “Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Cõi bờ sông núi đã riêng.

<span class='text_page_counter'>(181)</span> Phong tục Bắc - Nam cũng khác Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Mà hào kiệt không bao giờ thiếu”. Vua ban chiếu xóa thuế cho dân, chiêu mộ dân ly tán, khuyến khích dân khai hoang phục hóa, dựng lại xóm làng bị chiến tranh tàn phá, nhưng vẫn không xao nhãng việc quân. Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Thuận Thiên năm thứ 8, vua băng hà, thọ 49 tuổi, an tang tại Lam Sơn.. NHẬP NỘI TƯ MÃ LÊ KHÔI Làng Vẽ tức làng Đông Ngạc là một trong ba làng cổ ở Bắc Hồ Tây. Làng có ngôi đình nổi tiếng, xây dựng từ năm 1635 thờ ba vị là Lê Khôi, cháu vua Lê Thái Tổ, danh tướng nhà Lê, Thiên Thần Độc Cước tiên ông và Thổ thần Chiêu Hoa làm Thành hoàng. Lê Khôi, người làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên (Thanh Hóa) là con anh thứ hai của Lê Thái Tổ, sinh ra có dáng lạ, người thanh nhã, trọng hậu, ít nói cười. Dân quanh vùng đều biết tiếng. Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), ông hưởng ứng khởi nghĩa, mình đeo bên tả túi tên, bên hữu túi cung theo vua ra trận, công lao rực rỡ. Trận đánh ở Khả Lưu, ông cùng bọn Lê Sát lên trước vây đánh phá tan quân Minh, bắt sống đô đốc Chu Kiệt, chém tướng tiên phong Hoàng Thành, bắt tướng giặc nhiều không kể xiết. Mùa xuân năm Đinh Mùi (1427), ông cùng Phạm Vấn đem vài nghìn binh giúp bọn Lê Sát đánh tan Thôi Tụ, Hoàng Phúc ở Xương Giang, bắt sống Tụ, Phúc và mấy vạn quân địch, dẹp yên giặc Minh, khôi phục lại Đông Đô. Vì có công, ông được phong Kỳ lân hộ vệ Thượng tướng quân, tổng quản hành quân, Nhập Nội thiếu úy, sau lại thăng Tư mã, đeo Kim phù rất hiển vinh. Năm thứ ba Thuận Thiên, vua thấy nước nhà mới định, miền người Man chưa theo, đất Châu Hóa lại giáp nước Chiêm, muốn ủy thác cho một chức quan trọng yếu trấn thủ, mới sai ông cầm quân tới trấn. Khi đến, ông bãi trạm gác, bỏ sự xét hỏi nghiêm ngặt, chỉ chăm chiêu mộ những dân ly tán, khuyên bảo làm ruộng, trồng dâu, huấn luyện quân sĩ, giữ vững bờ cõi, chính sự nghiêm mà có tín, nên được dân kính yêu. Đường biên ngày một yên ổn, người Chiêm sợ uy, mến nghĩa. Dân ở biên giới có nhiều người bị bắt, ông đều đãi tử tế cho về. Mỗi khi có công sứ sang, thường thường hỏi.

<span class='text_page_counter'>(182)</span> thăm ông có được bình yên không. Đức vọng của ông vang lừng đến các di dịch là thế. Năm ấy có giặc Thạch Lâm ở trấn Thái Nguyên là bọn Bế Khắc Thiệu, Nông Đức Thái giữ đất, gây hấn. Khi thư trận đưa đến, vua thân đi đánh, sai trung sứ đi triệu ông từ Châu Hóa về và tiến lên Thái Nguyên hợp binh đánh giặc. Ông quả nhiên bắt được bọn Thiệu, Thái, hát khúc khải hoàn về Kinh. Ông đã kinh lý ở ngoài mà còn bảo vệ ở trong, nên vau càng trọng, cho là có thể giao phó những việc to tát, thưởng cho ông Kim phù và áo bào. Năm thứ sáu, Quý Sửu (1433),một hôm vua vời ông vào điện để bàn việc lập Thái tử(1). Tháng 8 năm ấy dựng con thứ là Nguyên Long làm Thái tử nối nghiệp lớn sau đó vua xa giá về Lam Kinh. Tháng 12 (năm 1434) thì mất. Thái Tông lên ngôi. Ông là người họ thân lại có đức vọng đã lâu. Trong việc giúp đỡ vua mới về việc binh nhung, việc nước, ông bày được nhiều kế hoạch. Năm Thiệu Bình thứ tư (1437), vua cho ông làm Nhập Nội tư mã, Tham tri chính sự coi việc quân các vệ. Năm thứ sáu, ông theo vua đi đánh Ai Lao, bắt được tướng Man là Đào Mông. Năm đầu Đại Bảo (1440), ông lại theo vua đi đánh ở Châu Thuận(2). Năm thứ hai, tù trưởng Man là Nghiễm ra hàng. Vua đem quân trở về, định công lao, tiến phong ông Nhập Nội đô đốc, cho tham dự việc triều chính, việc to, việc nhỏ đều hỏi ở ông rồi mới quyết định. Sau vì có việc, ông bị cách chức, lui về an nhàn ở nhà riêng. Năm Thái Hòa đời Nhân Tông (1443), vua nhớ đến ông là bề tôi đứng đầu có công cũ, lại triệu cho ông làm Nhập Nội thiếu úy mọi việc trong phủ (đốc trấn Nghệ An). Lúc mới đến, các sĩ phu, dân chúng đứng chật hai bên đường trông đón và giơ tay đến trán mừng và reo lên: “Chúng tôi mong ông lâu rồi ! Ngày nay trời mới giáng phúc cho dân tôi đấy ư?” Sau khi ông ở trấn vài năm, chính sự công bình, việc kiện cáo đâu vào đấy, mùa được, dân khỏe. Tiếng ca tụng công đức ông nghe khắp các đường ngõ. Năm thứ hai, vua Chiêm là Bí Cai đốc quân trong nước đến cướp thành Châu Hóa, năm thứ ba lại cướp thành An Dương thuộc Châu Hóa. Khi thư ở biên thùy báo cấp, Lê Nhân Tông sai bọn Tư đồ Lê Thận, Đô đốc Lê Xý đem binh đi đánh, lại sai ông thống suất quân trấn đi tăng viện. Các quân hăng hái cố sức, một tiếng trống đánh phá tan được giặc. Nghe tin thắng ________________________ (1). Lúc bấy giờ Lê Thái Tổ mới quyết định bỏ Tư Tề là con trưởng để lập con thứ hai là Nguyên Long làm Thái tử. (2). Tức là Châu Thuận thuộc phủ Gia Hưng, Hưng Hóa đời Lê đã có nhưng không thấy chép trong Dư Địa chí. Châu Thuận vì quá rộng nên đời Lê Trung Hưng chia làm ba châu: Mai Châu, Sơn La, Tuần Giáo (Theo Phương Đình địa chí).

<span class='text_page_counter'>(183)</span> trận, vua tiến phong ông Nhập nội tham dự triều chính, vẫn lưu trấn ở Nghệ An, vì sắp có việc đi đánh Chiêm. Năm thứ tư có việc bọn Đô đốc Lê Khả đem đại binh đi đánh phương Nam, ông đem binh bản bộ tiến trước, xong phá tan đồn quân ở trên ải, vượt Ly Giang đến cửa biển Thi Nại rồi vượt biển đến đất giặc. Tướng giặc biết là quân của ông, gọi sang hỏi: “Có phải ông Tư Mã đấy chăng?”. Ông liền bỏ mũ trụ ra để chúng nhìn thấy mặt. Giặc đều xuống ngựa, sụp lạy, mang biếu sản vật. Ông đánh đến đâu, giặc tan đến đó. Sau đó lại đánh thành Đồ Bàn, bắt được Chúa là Bí Cai rồi rửa giáp thu quân về. Vừa mới báo tiệp thì dọc đường ông bệnh nặng rồi mất ở chân núi Long Ngâm cửa biển Nam Giới (Hà Tĩnh). Lúc đó tướng sĩ kêu gào dậy đất. Nghe tin buồn, vua thương xót, bãi triều ba ngày, sắc cho quan Hữu Tư đi thăm điếu tặng phong Nhập nội Đô đốc, tên thụy là Trung Hiên. Sau truy tặng Nhập nội kiểm hiệu tư không bình chương sự, đổi tên thụy là Vũ Mục Công. Sau khi an tang ông, dân Châu Hoan nhờ đức chính của ông mới dựng miếu ngay tại nơi ông mất để thờ. Những khi gặp hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh, dân địa phương đến miếu cầu đều ứng nghiệm. Năm Quang Thuận thứ tư (1463), con trai ông là Lê Cảnh Du, làm Nhập nội hành khiển tâu xin vua lập bia ở Nam Giới để ghi việc. Lê Thánh Tông sai Thượng thư Nguyễn Như Đổ soạn văn để khắc. Ít lâu sau lại tiến phong tước Vương, nên gọi là miếu Chiêu Trưng Vương. Vể sau quan Hữu Tư thấy miếu gần bờ biển, song gió bất thường, mới tâu xin dời miếu về xã Trào Khẩu, huyện Hưng Nguyên, khí thiêng của ông lẫm liệt như khi còn sống vậy. Nhận được tin ông hy sinh vì nước, nhân dân lang Vẽ làm đền thờ ông, sau tôn ông làm Thành Hoàng. Đình Đông Ngạc được bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử ngày 23-7-1993. BẢN CẢNH THÀNH HOÀNG ĐÀO DUY TRINH Theo Thần phả đình làng Cự Khối, và truyên thuyết trong dân gian, gia phả họ Đào ở làng Thổ Khối, họ Đào ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng đều nhất quán viễn tổ là Đào Duy Trinh. Nhân dân làng Thổ Khối cũng gọi mộ viễn tổ họ Đào là Đào Duy Trinh là lăng Thành hoàng. Ông viễn tổ họ Đào làng Thổ Khối cũng là Thành hoàng làng Cự Khối. Lịch sử hình thành làng Thổ Khối cũng nói, vào thế kỷ 15, 16 có một người họ Đào có công che chở Lê Thái Tổ qua sông thoát nạn được vua cho phép chiêu dân khai hoang lập ấp, nay là ấp Thổ Khối. Sau được dân tôn làm Thành hoàng..

<span class='text_page_counter'>(184)</span> Bản Thần tích các vị thần đình làng Thổ Khối bị rách nát không đọc được, chỉ biết đình Thổ Khối thờ nhiều vị làm Thành hoàng trong đó có Đào Thành hoàng, không ghi rõ tên. Đầu năm 2002, ban khánh tiết đình làng Thổ Khối tổ chức buổi gặp mặt với chi họ Đào ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, ban lien lạc họ Đào tại Hà Nội, cùng nhiều người, họ Đào ở các xã trong huyện Gia Lâm đã họp mặt thắp hương mộ Viễn tổ Đào Duy Trinh, mà nhân dân Thổ Khối gọi là lăng Thành hoàng, sau đó mọi người về đình tế Tổ. Mọi người đều xác định cụ Viễn tổ họ Đào có mộ ở làng Thổ Khối, nhân dân gọi là lăng Thành hoàng chính là Thành hoàng làng Thổ Khối Đào Duy Trinh, là Viễn tổ dòng họ Đào ở Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, ở thành phố Hồ Chí Minh và nhiều nơi khác. Sự kiện trên cũng được Đại Việt Sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử, Lam Sơn Thực lục và cả sử của nhà Minh đều chép: “Ngày 21-11-1426, Lê Lợi đóng đại bản doanh ở Tây Phù Liệt (huyện Thanh Trì),sau đó dời sang Đông Phù Liệt cũng thuộc huyện Thanh Trì để tiếp tục chỉ huy vây hãm thành Đông Quan. Đại Việt Sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên viết tiếp: “Năm Đinh Mùi (1427), mùa xuân, tháng giêng, vua tiến quân sang bờ Bắc sông Lô(1) đối lũy với thành Đông Quan (Thăng Long). Sách Lam Sơn Thực lục chép: “Khi Lê Lợi và nghĩa quân ra đóng ở Bồ Đề (2) thì hào kiệt ở vùng Kinh lộ cùng với nhân dân các phủ huyện, các tù trưởng ở biên trấn đều tấp nập đến cửa dinh tình nguyện đầu quân”. Trong số người tình nguyện đầu quân đó có ông Đào Duy Trinh đã nhiều lần chèo thuyền cho Bình Định Vương Lê Lợi từ dinh Bồ Đề bên huyện Gia Lâm sang thành Đông Quan quan sát giặc. Có lần ông dũng cảm cứu được nhà vua khi bị phục binh của giặc đuổi. Kháng chiến thắng lợi, vua Lê Thái Tổ phong đất cho Đào Duy Trinh ở vùng ven sông Hồng, cách bến Bồ Đề khoảng 4 - 5 dặm. Đào Duy Trinh lấy tên ấp là Thổ Khối để giữ lấy tên làng quê cũ ở làng Thổ Khối, tổng Trung Bản, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Hiện nay làng Thổ Khối ở Thanh Hóa vẫn còn, tên nôm là làng Đoàn, nay thuộc xã Hà Ninh, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, làng có nhiều cụm dân cư họ Đào, cụm nhỏ có dăm hộ, cụm lớn có hàng trăm hộ. Việc cấp đất phong cũng phù hợp với chính sử: “Nhà Lê sử dụng một phần ruộng đất ban cấp cho quí tộc, quan lại làm lộc điền”. Lộc điền là một thứ đặc quyền dành riêng cho quý tộc, tôn thất và một số quan lại cao cấp. ________________________ (1). Sông Lô đây là sông Hồng từ Bạch Hạc trở xuống, tên gọi sông Hồng thời thuộc Minh. Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn viết rõ: “…Bồ Đề ở thôn Phú Hựu, xã Phú Viên, huyện Gia Lâm, nay là xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm”. (2).

<span class='text_page_counter'>(185)</span> “Lịch sử các làng cho thấy nhiều làng ở Bắc bộ ngày nay được thành lập từ thế kỉ thứ XV. Người có công đứng da chiêu dân khẩn hoang lập làng thường được dân suy tôn làm Tiên công và được thờ làm Thành hoàng. Nhiều làng còn có tục lệ mở hội mùa để ghi nhớ công lao khai sang của các vị Tiên công”. Làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm mở hội vào ngày 5 tháng giêng, đúng ngày kỵ của Tổ Đào Duy Trinh. Làng rước 6 kiệu của 6 Thành hoàng. Kiệu của Tổ Đào Duy Trinh rước đi đầu, hẳn là vi Tổ có công với nước, quan lại cao cấp được phong đất, còn 5 vị khác do Tổ mời đến tôn làm Thành hoàng. Đình Thổ Khối được xây dựng từ lâu đời, đến nay chưa rõ năm xây dựng, căn cứ vào các sắc phong cho Thành hoàng niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 2 (1730) thì đình phải có trước đó từ lâu. Đình Thổ Khối đã qua nhiều lần tu sửa, đó là vào các năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785), Minh Mạng thứ 3 (1822), Minh Mạng thứ 18 (1837). Trong đình có nhiều hiện vật quý như bia đá, sắc phong 6 cỗ kiệu, nhiều đổ tế tự, hoành phi câu đối như: “Thổ Khối thiên niên chung tú khí Nhĩ Hà nhất đới dẫn văn lan” Dịch: “Thổ Khối ngàn năm tiếng thơm mãi Sông Hồng một dải dẫn tới làng văn minh” Đình còn giữ được 78 đạo sắc phong, trong đó sắc phong cho Đào Thành hoàng là 12 đạo, sớm nhất là đạo năm Vĩnh Khánh thứ 2 (10-12-1730), một đạo của vua Quang Trung, một đạo của vua Cảnh Thịnh. HOÀNG THÁI HẬU QUANG THỰC NGÔ THỊ NGỌC DAO Chùa Huy Văn vốn ở làng Huy Văn, huyện Hoàn Long, kinh thành Thăng Long, nay nằm trong ngõ Văn Chương, phố Tôn Đức Thắng (Hàng Bột cũ). Chùa lập từ thời Lê Thánh Tông (1434 - 1442). Đây là nơi Hoàng hậu ghen ghét phi tần của Lê Thái Tông là Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao khi nàng có mang bị đày ở đó. Ngô Thị Ngọc Dao là con Tư lương quốc sư công thần Ngô Từ. Ngô Từ là con Ngô Kinh là gia thần của Tuyên tổ(1), người làng Đông Bảng, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Cha bà có công trong việc cung cấp quân lương được phong chức Thái __________________________ (1). Tức Tuyên tổ Phúc hoàng để là Khoáng, cha của Lê Lợi.

<span class='text_page_counter'>(186)</span> Bảo. Chị gái của Ngọc Dao tên là Xuân vào hầu vua Thái Tông ở hậu cung. Ngô Thị Ngọc Dao năm 16 tuổi theo chị vào làm nội doanh, nhà vua trông thấy cho gọi vào làm cung tần. Hồi đó, có vế đối minh họa: “Sinh ư Ngô, ấu trưởng tại Đinh Thập lục tuế, mẫu nghi thành nội trị” Nghĩa là: “Sinh ra ở họ Ngô lúc nhỏ, họ Đinh nuôi lớn, Đến mười sáu tuổi thì được tuyển vào cung” Tháng 6 năm Đại Bảo thứ nhất, sắc phong làm Tiệp dư ở cung Khánh Phương. Bà thường cầu tự, có mang, bị Hoàng Thái hậu ghen ghét đày ra chủa Huy Văn. Trước ngày sinh bà mộng thấy mình lên Thiên đình, Thượng đế sai một tiên đồng xuống làm con trai bà. Tiên đồng dung dằng chưa chịu đi ngay. Thượng đế giận, cầm cái hốt ngọc đánh vào trán chảy cả máu. Bà giật mình tỉnh dạy thì sinh ra Hoàng tử Tư Thành trên trán cũng hằn vết sẹo như trong mộng. Khi Lạng Giang Vương làm phản giết vua Nhân Tông (con trai Thái Tông), các đại thần do Nguyễn Xí đứng đầu truất bỏ Nghi Dân đưa Lê Tư Hoàng lên ngôi vua, lấy hiệu là Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông tôn mẹ làm Quang Thục Hoàng Thái Hậu và cho sửa chùa Huy Văn làm nơi kỷ niệm sinh ra mình. Nhà vua còn dựng Biệt điện Dục Khánh có nghĩa là chung đúc nên nhiều sự tốt lành. Vua còn cất nhắc cậu ruột là Ngô Hễ, Ngô Lan làm chức Kiếm điện. Năm thứ 27 (1496), Hoàng Thái hậu cùng vua về Tây Kinh rồi mắc bệnh lỵ. Vua cùng Thái tử hầu hạ cơm nước không lúc nào rời. Vua thường tự nếm trước rồi mới dâng mời, và trong thì lễ cáo tong miếu, ngoài thì cầu khấn các thần. Ngày 26 tháng 2, Thái hậu mất ở điện Thừa hoa, thọ 76 tuổi, nhà vua vô cùng thương xót. Mọi việc khâm liệm và phạn hàm đều do nhà vua tự làm. Vua lại tự làm bài điếu văn tế để tỏ long đau xót của người con chí hiếu. Vua truy tôn là Quang Thục Hoàng Thái Hậu. Lê Thánh Tông cho đúc chuông, tạc tượng Thái hậu thờ ngay tại điện Dục Khánh. Về sau loạn lạc, tượng, chuông đều bị mất. Mãi đến khoảng năm Vĩnh Trị thứ 3 - 4 (1678-1679) vị sư trụ trì chùa Huy Văn mới đứng ra quyên giáo thập phương đúc chuông, đắp tượng Hoàng Thái hậu. Hiện nay trong chùa có tượng của Quang Thục Hoàng Thái Hậu, tượng vua Lê Thánh Tông, tượng của Hoàng Lạc Hoàng Thái Hậu, vợ vua Lê Thánh Tông. TRƯỜNG LẠC HOÀNG THÁI HẬU.

<span class='text_page_counter'>(187)</span> Huy Gia Hoàng Thái hậu họ Nguyễn, húy là Huyên, người ở gia trang Gia Miêu ngoại, huyện Tống Sơn, là con gái thứ hai của ông Nguyễn Đức Trung được tặng hàm Thái úy Trình Quốc công. Tháng 7 năm Quang Thuận thứ nhất (1460) được tuyển vào cung, phong là Sùng Nghi (1) ở cung Vĩnh Ninh. Bà được vua yêu quý nhất trong số các cung nhân. Lúc này nhà vua chưa sinh được Thái tử, bà Quang Thục Hoàng Thái hậu sai ông Đức Trung cầu đảo ở am Từ Công núi Phật Tích. Bà bèn chiêm bao đến trước Thượng đế, xin Thượng đế ban cho có con nối ngôi. Thượng đế phán rằng: “Cho Thiên Lộc xuống làm con họ Nguyễn” rồi bế tới đưa cho. Nhân đó bà tỉnh dậy. Không bao lâu bà có mang. Thái hậu lại sai ông Đức Trung ra cầu đảo ở am Từ Công. Khi mới làm lễ thì có hòn đá rơi xuống trước mặt. Ông Đức Trung cho là lạ, nhặt lấy, rồi sai thợ tạo một pho tượng, bỏ hòn đá vào trong. Lại làm riêng một cái am để thờ và giấu kín việc này. Đến kì mãn nguyệt khai hoa, bà lại nằm mộng thấy rồng vàng từ trên trời hiện xuống, bay vào nơi bà ở. Trong chốc lát bà sinh Hoàng tử, đó là vua Hiển Tông. Ba năm sau được lập làm Hoàng Thái tử. Năm Hồng Đức thứ nhất (1470) tấn phong bà làm Quý phi; bà càng được hưởng ơn vua nhiều hơn. Nhà vua mấy lần muốn lập bà làm Hoàng hậu nhưng thấy rằng dòng họ nhà bà có thế mạnh, sợ rằng các tần thiếp không ai dám gần vua nữa, nên lại thôi. Năm thứ 28 (1497) vua Thánh Tông mất, vua Hiển Tông lên nối ngôi, tôn bà làm Hoàng Thái hậu, để ở điện Trường Lạc và phụng dưỡng rất chu đáo. Năm Cảnh Thống thứ 3 (1500) trùng tu chùa Thiên Phúc (2) ban hiệu cho am Từ Công là am Hiện thụy, dựng bia, sai Nguyễn Bảo soạn bài văn để ghi lại sự việc đó, ấy là theo lời di chúc của ông Nguyễn Đức Trung. Năm thứ 7 (1504), vua Hiển Tông mất, vua Túc Tông lên nối ngôi, tôn Thái hậu lên Thái hoàng Thái hậu. Vua Túc Tông mất, không có con nối ngôi, nội thần là Nguyễn Nhữ Vi và Kinh vi họ Nguyễn muốn lập vua Uy Mục. Thái hậu cho rằng đó là con người tỳ thiếp, không thể nối Đại thống được, nhân đó đòi lập Lã Côi Vương. Nhữ Vi vờ theo lệnh, lừa Thái hậu ra đón Lã Côi Vương, Thái hậu tin là thực. Khi đi rồi, Nhữ Vi vào đóng các cửa thành lại gọi các công khanh đại thần vào, giơ di chúc của vua Trác Tông ra, lập Uy Mục làm vua. Thái hậu bèn dừng lại quay trở vào cung, không bằng lòng. Ngày 22 tháng 3 năm Đoan Khánh thứ nhất (1505) vua Uy Mục sai người hầu ngầm giết Thái hậu. Sau bà được dâng tên thụy là Huy Gia Tình Mục Ôn cung Nhu Thuận Thái hoàng Thái hậu. Lập điện Quang Mỹ ở _______________________ (1). Sùng nghi: bậc thứ ba trong chin bậc cung tần, dưới loại phi, Lịch triều Hiến chương loại chí, tập II (2) Chùa Thiên Phúc là chùa Thày ở xã Sài Sơn, Hà Tây.

<span class='text_page_counter'>(188)</span> phường Lê Viên thuộc huyện Quảng Đức để phụng thờ tổ tiên của bà. Tại chùa Huy Văn ngoài tượng của Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, tượng vua Lê Thánh Tông, có tượng của Bà. BÀ CHÚA DỆT LĨNH Cuối thế kỷ thứ XV, vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) chuẩn theo lời tâu cung phi Phan Thị Ngọc Đô muốn đưa một số nô tỳ dời khỏi cung ra ở làng Trích Sài ở phía Tây hồ Tây thành lập Thiên Niên trang. Cung phi Phan Thị Ngọc Đô xây dựng Thiên Niên trang ở làng Trích Sài, nơi có ngôi chùa cổ có tên là Bát Tháp, là nơi tu hành của nhị vị công chúa thời Lý Nam Đế. Theo văn bia chùa còn để lại đến nay thì chùa được xây dựng từ thời Lý Nam Đế (Tiền Lý 544 - 548). Hai công chúa tu ở chùa học pháp thuật trừ yêu quái làm hại dân ở vùng ven hồ Tây. Hai công chúa xây dựng tám cây tháp trên gò, đối diện núi Ngũ Nhạc, nay cả gò bát tháp, núi Ngũ nhạc đều lở xuống hồ Tây. Trừ xong yêu quái, hai công chúa qua đời, được nhân dân đưa vào thờ trong chùa. Từ khi Thiên Niên trang của Phan Thị Ngọc Đô thành lập bà đã khôi phục cho nghề dệt lĩnh ở Trích Sài mà từ năm 1407, quân Minh sang xâm lược đã phá tan xóm làng, phá hết khung cửi, đồ nghề. Mất công cụ sản xuất, nhân dân phải sống bằng nghề kiếm cá ở hồ Tây. Nay bà cung phi bỏ hàng trăm lạng vàng giúp dân mua khung cửi, đồ nghề để khôi phục nghề cổ truyền. Bà cũng thuê ông già họ Lý giỏi nghề dệt lĩnh dạy nghề cho các nô tỳ và trai gái trong làng Trích Sài. Chùa Bát Tháp lâu đời đã dột nát, bà liền bỏ tiền bạc ra sửa chữa rồi đổi tên thành Thiên Niên tự. Do trai gái trong làng Trích Sài cùng chung học nghề, múa hát với nô tỳ, nên một số nô tỳ có tình cảm với các trai làng, bà Cung phi cho họ thành gia thất với các trai làng. Bà cung phi có một con với vua Lê Thánh Tông, nhưng không may cả hai mẹ con đều lâm bệnh nặng. Trước khi mất, bà di chúc lại cho các nô tỳ được lấy các trai làng, giao toàn bộ ruộng đất lại cho dân làng Trích Sài, căn dặn nhân dân chấn hưng nghề dệt lĩnh, gấm. Nhân dân Trích Sài và các tỳ nữ ghi nhớ công ơn của bà cung phi Phan Thị Ngọc Đô đã tôn bà là “Bà Chúa dệt lĩnh” và lập miếu thờ. Hàng năm đến ngày rằm tháng giêng, nhân dân Trích Sài lại mở hội ở chùa Thiên Niên và ở miếu tưởng nhớ hai vị công chúa thời Lý Nam Đế và Cung phi Phan Thị Ngọc Đô. Trong bài văn tế bà chúa dệt lĩnh có những lời ca ngợi: “Nhờ đức Thiên Tôn dạy nết cửi canh.

<span class='text_page_counter'>(189)</span> Chân đà tay dệt đã nhanh Văn chương có chữ rành rành bởi ai? Việc Cung chức tiền tài đủ vẻ Dạy nữ cung vốn nghệ cho tường…” Vào triều Lê Chiêu Tông (1516 - 1522) và triều Lê Cung Hoàng (1522 1527), các vua Lê ươn hèn, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Các triều thần nhà Lê phát động cuộc chiến tranh “Phù Lê diet Mạc”, chiến tranh liên miên chùa bị đổ nát. Vào triều Mạc Mậu Hợp (1562 - 1592), Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn đã đứng ra sủa chữa chùa Thiên Niên, cúng 5 mẫu ruộng vào chùa. Đến đời Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709), chùa được tu sửa, tô tượng Phật, đắp tượng Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn. Nghề dệt lĩnh cũng phát triển, đến thời Tây Sơn, Nguyễn Huy Lượng ca ngợi trong bài phú Tây Hô như sau: “…Liên bờ kia bay tơ biếc phất phơ Theo oanh ghẹo hai phường dệt gấm..” Năm Thành Thái thứ 5 (1893), nhân dân sửa chùa tô tượng Phật, nay chùa còn 7 tấm bia đá, 10 đôi câu đối. TÚ UYÊN - GIÁNG KIỀU Phường Bích Câu ở phía Tây Nam thành Thăng Long, thuộc huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên trong đô thành Thăng Long vào thời Lý là một thắng cảnh ở kinh thành Thăng Long. Bích Câu là ngòi nước xanh biếc, như ngọc bích chảy từ núi Nùng xuống Thủ Lệ rồi đổ vào hồ Tảo Liên, còn gọi là hồ Phượng Trì tức hồ con Phượng, thuông thôn An Minh, tổng An Thành, huyện Vĩnh Thuận, kinh thành Thăng Long. Hồ Tảo Liên rộng mênh mông, nước trong suốt, có hoa sen trắng nở vào mùa hè, nên có tên là Tảo Liên. Vùng hồ này chính là đầu nguồn sông Kim Ngưu. Giữa hồ có cái gò Kim Quy. Vua Lý Thái Tổ xây ở đó chùa Đắc Quốc, đến đời Lê Thánh Tông đổi là chùa An Quốc. Vào đời Hồng Đức có một người học trò họ Trần, tên là Tú Uyên, tự là Vưu Ban. Vốn con nhà phúc hậu, cha là quan huyện, có âm đức, khi về già mới sinh ra Tú Uyên. Tú Uyên thiên tư dĩnh ngộ, năm vừa tròn một tuổi đã thích sách vở, lên 6 tuổi đã hiểu luật làm thơ, được cha mẹ yêu quý, cho là kỳ đồng. Khi lên mười tuổi, Tú Uyên theo học Lương tiên sinh, nhân thấy gò Kim Quy cảnh đẹp dựng một ngôi nhà tranh đọc sách, ngâm thơ. ____________________________ (1) Phường Trích Sài và phường Bái An..

<span class='text_page_counter'>(190)</span> Năm Tú Uyên 15 tuổi thì cha mẹ đều qua đời, nhà nghèo, Tú Uyên phải nhờ người chu cấp ăn học. Tú Uyên đã thong minh lại ham học, không lúc nào rời quyển sach, chàng hạ bút thành thơ, văn. Văn của chàng lưu loát, khúc chiết, đầy đủ cả ý tứ, câu chữ và niêm luật không ai có thể thêm bớt chữ nào được. Tú Uyên tuy nhà nghèo nhưng tính tình phóng túng, hào hiệp thường dẫn bạn bè đi thăm thú những nơi danh lam cổ tích, đến đâu cũng ngâm vịnh, để thơ nhiều không kể xiết. Thơ của Tú Uyên ca ngợi cảnh núi sông mây gió, trăng hoa, ca ngợi người đẹp, cùng nhân tình thế thái, không tin vào thần tiên, thường có những bài thơ bài bác như bài Bất tín thần tiên: Lưu thủy phù vân lưỡng diễu mang Bất trì hà xứ thị tiên hương? Hư truyền Bồng Đảo càn khôn biệt, Lãng tựu Đào Nguyên nhật nguyệt trường? Sở quán bác từ hoàn mộng huyện, Thiên Thai, Lạc Phổ tổng hoang đường. Đương niên Tần Hán thành hà sự, Cô trủng, han lăng chỉ tịch đương. Dịch: Nước chảy lại mây đùn mờ mịt Cảnh thần tiên ai biết nơi nao? Non Bồng trời đất thế nào? Nguồn Đào ngày tháng cớ sao lại dài? Chỗ quán Sở đền đài mơ mộng, Bến Thiên Thai chuyện cũng hoang đường. Hán Tần một kiếp tang thương Mồ trơ gác bong tịch dương trên cồn. Năm Giáp Thìn (1484), có vị sư ở chùa Ngọc Hồ(1), mở hội Vô Già. Thiên hạ đi xem rất đông. Tú Uyên cùng bạn bè cũng đi xem hội, xem chán, cùng nhau dừng lại dưới gốc cây um tùm. Chợt một chiếc lá bay đến, chàng nhặt lên xem thì thấy đó là một bài thơ, viết theo lối chữ Triện lời lẽ bí hiểm. Tú Uyên không hiểu nổi, chỉ nhớ bốn câu cuối như sau: Liễu lục đào hồng tam nguyệt thiên Thanh loan phi hạ Phạm hoa liên Lam kiều lộ ngoại nhân như nghĩ Thường thức thần tiên tại nhã tiền. Dịch nghĩa: Tháng ba liễu thắm đào tươi _______________________ (1). Chùa Ngọc Hồ ở thôn Ba Ngô, nay là chùa Tiên Tích phố Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa..

<span class='text_page_counter'>(191)</span> Xe loan bay xuống cạnh nơi Cửa Già Cầu Lam Động khách đi qua Tiên ngay trước mặt, người đà biết chưa? Xem xong, Tú Uyên ngẫm nghĩ “Ta vốn là chủ soái làng thơ, gặp địch thủ thì đối lại, nhưng bào thơ này ai làm, tiếc là không gặp được người làm bài thơ đó. Đúng lúc đó thì một đoàn 5 – 6 cô gái từ trong chùa Ngọc Hồ đi ra, các cô gái đều sắc nước hương trời, trong đó có một cô trạc 16 – 17 tuổi, long mày lá liễu, má hoa đào, áo xiêm chải chuốt. Tú Uyên liếc nhìn thấy cốt cách như ngọc, da dẻ trắng ngần, sắc đẹp nghiêng nước, nghiêng thành chàng càng quyến luyến. Người đẹp cũng liếc mắt đưa tình khiến lòng chàng xao xuyến. Hai bên đối thoại trò chuyện, ý hợp tâm đầu, bất giác mặt trời đã xế, ngậm giương non đoài, người xem hội đã đâu về đó, hai người mới quyến luyến chia tay. Chàng đi theo, vừa đi vừa ngâm: “Tinh thần dưới nguyệt nơi nào hiện?” Nàng quay lại đọc: “Sắc tướng trước mặt, vốn là không?” Ngâm xong thì biến mất. Tú Uyên trở về quán sinh ốm tương tư, bỏ cả ăn uống học hành, chỉ làm thơ nhớ đến nàng. Người bạn họ Hà khuyên chàng đến đền Bạch Mã xin quẻ. Chàng vốn không tin thần tiên, nhưng vì mong gặp người đẹp liền đến đền Bạch Mã xin thẻ. Cảnh ấy là điềm “Mượn gió đi thuyền”. Lời tán rằng: “Muốn nên việc nhọc nhằn tâm lực Chờ hoa khai lại đợi phong tình Nên ra sức nhờ ông trời xanh Trông xuân riêng có một cành thắm tươi” Đêm hôm ấy vào cuối canh ba, chàng mộng thấy một ông già mặc áo hoa, đội mũ nhà tu, cầm cái hốt vàng đứng ở giữa sang gọi rằng: - Chàng mê sắc kia, ngày mai ta đợi chàng ở hàng tranh và ở bến Đông Tân, ta sẽ đưa chàng một tin rất tốt. Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, chàng đến bến Đông Tân tìm không thấy gì, vừa định quay về thì gặp một ông già tay cầm bức truyền thần, chàng vội đi đến hỏi thì ra đó là một bức tranh tố nữ. Chàng cầm bức tranh lên xem thì đúng là hình dáng người con gái mình đã gặp ở chùa Ngọc Hồ. Chàng thích lắm, khẩn khoản xin mua, rồi cuộn lại đem về phòng văn treo lên bức vách cạnh chỗ ngồi. Chàng làm thơ ca ngợi, có 2 câu kết: “Bao giờ làn sóng mùa thu, Gió đưa trước mắt đến cho bạn tình?” Mỗi bữa chàng đặt hai cái bát, hai đôi đũa khấn rồi mới ăn. Một bữa làm thơ ca ngợi tố nữ xong, chàng nhìn mỹ nhân trong tranh mà phàn nàn:.

<span class='text_page_counter'>(192)</span> - Tôi từ nhỏ cô đơn, bần hàn, cần cù học tập trong nhà chưa có người nội trợ, dưới nhà thiếu người sai khiến. Từ khi gặp nàng đến nay, tình hoài muôn trạng, nếu nàng không nghĩ đến người tình thì thôi, nhưng người tình vẫn nghĩ đến nàng thì sao? Thuốc nào chữa được? Sao lại lạnh lùng đến thế, chỉ để cho ai ôm mối phiền muộn, Chàng nói xong thấy má phấn trong tranh đỏ bừng như có ý thẹn. Chàng tuy rất bất ngờ nhưng trong bụng cho đó là một mối nhân duyên, làm liền một lúc bốn bài thơ. Câu kết bài nào cũng mong người trong tranh là người thực như hai câu kết ở bài thứ nhất: “Nếu thương đến nỗi buồn tênh, Sao không hiển hiện chân tình ra cho?” Một hôm chàng đi học sớm, đến trưa về nhà đã thấy trên bàn bày sẵn một mâm cơm, của ngon vật lạ nhiều không thiếu thứ gì. Nhìn tranh tố nữ thì thấy các tram cài lên mái đầu hơi sai đi một chút. Chàng vừa ăn, vừa ngắm bức tranh, bảo mỹ nhân rằng: - Có phải nàng thương Vương tôn mà cho ăn không? Từ đó chàng đi học về đến nhà lại thấy mâm cơm tươm tất. Một hôm chàng giả cách đi học, bất chợt nửa đường quay về, thấy mỹ nhân ở trong tranh bước ra đi xuống bếp. Chàng đột ngột đảy cửa bước vào kêu to: - Nương tử, nương tử, đội ơn chiếu cố nhiều nay mới được bái tạ. Nàng se sẽ thưa: - Thiếp đã lạc vào nhà chàng, đâu dám không vâng lệnh. Chàng hỏi họ tên, nàng đáp: - Thiếp là tiên nữ ở Nam nhạc, tên là Hà Giáng Kiều. Trước nhân gặp gỡ nay phải xuống trần gian cũng là do duyên cũ cùng chàng lại kết nghĩa để đền bù cái nợ chưa trả hết. Nàng cũng nhận mình là người ở chùa Ngọc Hồ đã gửi thư cho chàng Tú Uyên, Giáng Kiều thề thốt cúng nhau kết nghĩa trăm năm. Nàng còn hóa phép biến lều tranh thành lâu đài nguy nga, tráng lệ, tiệc có đủ món sơn hào hải vị, hoa trái thơm tho dưới trần không có để mở hội với quần tiên. Các tiên đến dự đại yến ca hát vui chơi chúc mừng hạnh phúc của hai người. Khi các tiên đi khỏi thì cảnh đền đài tráng lệ, tiệc tùng không còn vẫn là túp lều tranh như xưa. Hàng ngày hai vợ chồng xướng họa thơ phú rất là tâm đắc. Vợ chồng ở với nhau thấm thoát đã ba năm, nhưng rồi chàng uống rượu bỏ cả học hành thơ phú, suốt ngày say sưa, nói năng lảm nhảm. Nàng khuyên can, chàng lấy roi đánh nàng. Nàng giận bỏ đi. Tú Uyên tỉnh rượu, thấy mất vợ thì vô cùng hối hận, khóc than, cả ngày không ăn uống, chỉ làm thơ thương nhớ vợ hiền. Có ngày chàng làm liền bài.

<span class='text_page_counter'>(193)</span> thơ dài tỏ ý ăn năn, thương nhớ nàng. Chàng đã toan tự tử thì Giáng Kiều trở về, chàng hối hận hứa từ nay sẽ không uống rượu. Một năm sau hai người sinh một con trai đặt tên là Trân. Giáng Kiều thuyết phục Tú Uyên học đạo tiên và truyền phép màu cho, nàng trao bí quyết pháp thuật. Chẳng bao lâu Tú Uyên nhân việc đã qua biết việc sắp đến, thong lẽ huyền diệu đến chỗ nhiệm màu, hàng long, phục hổ, biết việc thiên cơ, rút đất cưỡi mây. Một hôm mây sà xuống sân nhà có con hạc trắng ngậm lá thư, chàng cùng Giáng Hương, con là Trân cưỡi hạc không biết là đi đâu. Sau đó người đời sau dựng quán Bích Câu để tưởng nhớ đến Tú Uyên, Giáng Kiều và truyền tụng mãi câu chuyện tình thần kỳ bên dòng nước biếc. ĐINH DỰ - ĐƯỜNG HOA CÔNG CHÚA Xưa đời Lê Thái Tổ nước Việt, trong vùng đất thuộc Long Biên ở nước ta, có đạo Thanh Hoa, phủ Trường Yên, huyện Thu Khang (do đời sau đổi tên), người động Hoa Lư, họ Đinh, tên Lễ, tổ tiên được phong chức, nối nghiệp nhà, phối hợp cùng người trong quận, theo Lê Thái Tổ, khởi nghĩa Lam Sơn, chống đánh Vương Thông có đến trong khoảng mười năm, ở miền ven biển. Ông lấy vợ họ Trần, tên là Minh Châu truyền đời thi lễ, dòng dõi trâm anh, cũng đáng xứng đôi ngang bậc. Ngày ấy Đinh tướng công đến phủ Hà Trung, ở đạo Thanh Hoa huyện Nga Sơn, thấy một động giữa biển gọi là động Bích Đào, người đương thời gọi là động Thần Tiên. Ông vào tận giữa động xem rồi ngồi trước cửa động, bèn nhập vào cõi mộng. Chợt ông thấy hai cụ già, ngồi dưới gốc cây, đánh cờ đang cười. Một ông cụ cho biết vốn ở điện Thừa Hoa, hiệu là Đông Phương Sóc, ngày nay vẫn thường xuống biển, lên cung tiên. Vị tiên nói: “Nhà của ngươi có đức về sau, được đất sẽ sinh quý tử. Trời đã định rồi, sẽ gặp gỡ tiên trên biển”, nói xong liền bay lên mây. Đinh Lễ tỉnh mộng, liền ứng khẩu một bài thơ: Trên biển thần tiên chuyện lạ thường, Bích đào trong động cảnh hoang lương. Đất trời bỗng gặp Đông Phương Sóc Mây nước trăng già, tuổi Giáng Hương Trống đá gió kêu lay nguyệt sớm, Muối sa khê mặn ngọt thu sương Người đời vì có Thiên Thai mộng, Nào biết Thiên Thai cũng hí trường. Ngay hôm ấy ông cùng quân lính trở về đền sở. Lúc này Thái Tổ sai ông đem quân đi tuần các đạo phía Bắc để đối phó với quân Minh. Ông tiến quân đến phủ Từ Sơn, huyện Đông Ngàn, trang Lỗ Khê, thấy đây là nơi phong cảnh hữu tình, lại có tiếng đàn hòa tiếng hát, quả là một nơi thắng cảnh..

<span class='text_page_counter'>(194)</span> Ngay hôm đó truyền cho nhân dân và quân lính lập đồn trại. Được vài tháng vợ là Trần Thị, đêm nằm chợt thấy một con rắn xanh từ đất chui vào áo rồi quấn quanh người. Khi hết sợ, bình tĩnh lại thì nàng Minh Châu thấy mình có mang. Ngày mồng 6 tháng 4 năm Quý Tỵ, sinh được một con trai, thiên thể tư mạo khác thường. Đinh Công cho là được đất, sinh người, đặt tên cho là Dự, nuôi đứa bé, trnong lòng rất tin tưởng. Thượng tuần tháng giêng mùa xuân ấy, lại thấy Thái Tổ sai sứ mang thư đến, sai ông đánh giặc Minh ở Lạng Sơn, bèn hội quân lại đánh một trận lớn chưa phân thắng bại, sau đó ông quay về các đạo phía Bắc, ở trang Lỗ Khê. Ngày qua tháng lại chàng Dự đã 12 tuổi thiên tư dĩnh ngộ, học vấn tinh thong, cầm kỳ thi họa, ca xướng các nghề đều hay, khó ai địch được. Được ngày đi tìm nơi các giáo phường đàn hát, đi về phủ Thuận An, xuôi dòng đến cảnh chùa Thiên Thai liền đến chiêm ngưỡng. Chàng gặp người đẹp thanh sắc tuyệt hảo, gương mặt chim sa cá lặn, dáng vẻ hoa nhường nguyệt thẹn. Đinh Dự hỏi: - Nàng từ đâu tới để có cuộc hội ngộ hôm nay ! Cô gái đáp rằng là tiên trên bề Đường Hoa, người động Nga Sơn, Thanh Hoa, nhân nhàn rỗi lấy chuyện dạy chín điều hát cho các giáo phường làm nghề. Đinh Dự nói them rằng: - Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, nay người cốt hòa cái đức của trời, dạy dân trăm họ của ta hòa hợp ở dưới trần, tấm lòng vì lễ nghĩa phía bắc, dạy đàn hát cũng là việc với ta vậy. Do đó cùng Đường Hoa kết làm vợ chồng, vu quy về Lỗ Khê, lập giáo phường dạy hát. Lúc này Thái Tổ lại cho sứ đem thư lại, bảo rằng: “Quân Minh rất đông, chia đường kéo đến, chẳng lẽ kế cùng lực hết, bó tay hay sao”. Thái Tổ lo mà sinh ốm, phải gọi Đinh Lễ về gấp Thanh Hoa, cùng quần thần bàn kế tiến công. Không ngờ giữa đường Đinh Lễ và vợ là Minh Châu đều mang bệnh mà chết. Đinh Dự cùng binh sĩ rước về quê cũ, chọn đất tốt chôn cất. Sau đó, vợ chồng đều đến nơi trú quân của Thái Tổ tâu rằng: “Cha mẹ thần theo số trời đã mất, tự xin đàn hát để nhà vua khỏi bệnh, ngủ được”. Thái Tổ lại đánh giặc Minh, bình định được, lên ngôi hoàng đế. Vua nhớ đến công thần nghĩa sĩ, liền chỉ vợ chồng Đinh Dự về kinh ăn tiệc, ban thưởng quan tước. Lúc này Đường Hoa nói với tước Vương họ Đinh, chồng mình rằng: Thiếp vốn do Trời Đất sinh thành, biến hóa vô thường, khí thiêng chưa tắt vẫn thích đến nơi tiên, gồm coi tam lược, biến hóa duyên lành, chu du thiên hạ, đủ nam bắc tây đông, để dạy cho mọi người biết hết thế giới, lưu truyền danh thơm muôn đời. Đã đến năm tháng mãn hạn ở cõi trần, xin lạy tạ vương phu để về trời..

<span class='text_page_counter'>(195)</span> Liền khẩu chiếm một bài thơ: Cõi trần về tấu chín tầng mây Báo nghĩa vua, từng cửa thành này… Trọng tiết, sinh thần, Người đời chớ cho là đã hết Chỉ thương giáo phường hiền Đọc xong, bay lên mây mà đi, biến mất. Lúc này, chồng là Đinh Dự nghĩ đến tình của phu nhân, đã đem mất về trời, liền bái tạ Đức vua, ứng khẩu một bài thơ: Ơn vua mấy kiếp dám đâu quên, Trung hiếu đôi bên khó vẹn tuyền. Hạc về, hoa biểu nghìn năm trọn, Tấm lòng đành gửi lại Hoàng Thiên. Đọc xong, ngửa mặt lên trời rằng: “Biết làm sao được, cùng một nhẽ mà thôi !”. Đinh Dự liền đập đầu vào mũ trụ, biến thành một con rắn xanh to và dài, bò quanh mũ trụ rồi đi… Vương quả là giữ trọn tiết vợ chồng, bề rôi trung nghĩa, cùng hóa với nàng Đường Hoa một ngày, đó là ngày mười ba tháng một. Thái Tổ có thơ rằng: Cổ miếu bên đường, đảo tiếp trời, Trung thần báo quốc, nhớ khôn nguôi. Ai bảo được trung thì mất hiếu, Được trung mà hiếu vẫn gồm hai… Ngày hôm đó, vua truyền hịch khắp nước Nam, tất cả giáo phường lên kinh thành đón chữ vua ban, về giáo phường lập đền thờ. Vua hứa sẽ ban chiếu xuống các nơi trong nước Nam, hàng năm đến mùa xuân thì mở hội cầu phúc, lại ban tiền cho các giáo phường để nhang đơm chúng theo lệ đã định. Đến đời vua Thánh Tông, lục xem sự tích công thần để ca vịnh: “Vua có đạo, thần tiết nghĩa. Vua sang, tôi hay”, lại nghĩ đến anh hiền kỳ khí của ông, gia phong cho Đinh Dự là Thanh Xà Đại Vương, phong Mãn Đường Hoa làm công chúa, chuẩn cho giáo phường Lỗ Khê, đạo Kinh Bắc, lập từ điển để thờ một bản. Một lệ: Ngày sinh ngày mất cấm bốn tên kỵ húy là: Lễ, Châu, Dự, Hoa… Một ngày tiệc vào ngày sinh mồng 6 tháng tư, lễ vật làm cỗ dung trâu, bò, xôi và rượu. Một ngày tiệc vào ngày mất (hóa) 13 tháng 11, lễ dung, phía trên là cỗ chay, bên dưới là lợn đen, xôi, rượu. Hồng Đức năm thứ bảy, tháng Mạnh Xuân (tháng giêng) ngày tốt. Thần, Đông các Đại học sĩ Đào Cử soạn hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ.

<span class='text_page_counter'>(196)</span> sáu trung thu (tháng 8) quan thiếu khanh coi Bách Linh Điện, thần là Nguyễn Hiền chép lại bản chính. Tháng tư niên hiệu Bảo Đại thứ mười một Ngọc Liên Khai sao lại. (NGÔ VĂN PHÚ dịch) Chú giải 1. Đào Cử: Quê làng Thuần Thái, huyện Siêu Loại (Bắc Ninh), 18 tuổi đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất (1466). Năm Quang Thuận thứ 7 lại đỗ khoa hoành từ quan đến thượng thư. Được dự sửa tập “Thiên Nam dư hạ tập” của vua Lê Thánh Tông. 2. Nguyễn Hiền: Không rõ quê quán, nếu là Nguyễn Danh Hiền thì quê ở làng Thượng Yên huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718) năm Vĩnh Thịnh thứ 14. Bản thành tích này chép là Đào Cử soạn vào năm Hồng Đức thứ 7 tức là triều Lê Thánh Tông. Như vậy có những cái sai là: a) Câu đầu “Việt tích Lê Thái Tổ thời…” lẽ ra phải chép là “Bản triều Lê Thái Tổ thời…”. b) Đoạn cuối viết: “Đãi chí Thánh Tông hoàng đế…,” vua đang sống làm gì có miếu hiệu? c) Nhiều câu thơ không đâu vào đâu “…Lộ kính cổ miếu…” là cái gì? d) Bài thơ của Đinh Lễ đề động Bích Đào là ngụy tạo. Bích Đào là nơi Từ Thức gặp Giáng Hương vào khoảng năm Khai Thái (1324 - 1329) đời vua Trần Minh Tông. Đến đời Lê Cảnh Hưng, Lê Quý Đôn có thơ đề. Thần phả chỉ đổi vài chữ rồi nói là của Đinh Lễ.. LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA Sự tích Đức Liễu Hạnh công chúa ,quê ở thôn vân cát, xã An Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Cha là Lê Thái công, mẹ là Thái bà. Ông bà vốn lai người hiếu thiện, đêm nào cũng đốt hương tâu vua Ngọc Hoàng Thượng Dế, tuổi đã 40 mới sinh được con trai. Đến năm Thiên Hựu đời vua vua Anh Tông nhà Lê, Thái bà lại có thai, quá kì mắc bệnh chỉ yêu những thứ hương hoa. Chúng nhân cho là yêu quái tìm thầy cầu đâor chuyển bệnh , đếngiuwxa đêm sau có môt người đạo nhân lấy thuật cầu tiến nhưng người nhà không cho vào. Người đạo nhân cười mà nói: “Ta có phép thượng long giáng hỗuaats u nhập minh,thấy nhà ngươi không tu nhân tich đức cho nên ta phải lại giúp, cớ sao không cho vào”. Thái ông nghe thấy tiếng vội vàng ra mời vào. Người đạo nhân lên đàn mật niệm thông thiênchuwx nghĩa cầm cán bút ngạc chịch xuống đất, ông Thái công liền theo đến thời đã thấy hai viên lực sĩ dẫn ông đi trước, đường đi tầng tầng sắc giới mù mịt, phút thấy một nơi ngọc môn kim khuyết, đứng dưới thềm hoa phút thấy một đám hồng vân rạng vẻ miền lưu hai bên áo hà y, ngươi cầm hốt bản hàng trăm mà kể, trước tấu nhạc quân, sau múa khúc nghê thường, cung bàn đào đức Vương mẫu, riêng đơn dược đúc lão Quân, lão thấy một người hồng y nương tử bâng chén ngọc dâng thọ, không ngờ sểnh tay đánh vỡ. Có một viên tả ban tây mở.

<span class='text_page_counter'>(197)</span> hạ ngạc, giờ lau lôi đình nởi gian quát rằng: “Nhà ngươi khinh chốn văn minh làm vậy”, sau lai thấy viên sứ giả và lũ thị nữ dắt nàng hồng y ra lối của Nam, dẫn trước một cái kim bài, trên có hai chữ giáng tư, giữa có hai chữ lưỡng nam, dưới thêm chữ khuyết tự. Thái công hỏi, viên lực sĩ nói rằng: “ Ấy là Đệ nhị tiên nữ Quỳnh nương bị trách quở làm vậy”. Bây giờ viên lực sĩ viên lực sĩ đem ông trở về, ông mới dần dần tỉnh dậy, thời đã thấy Thái bà sinh đặng Ngài, hương thơm đầy nhà, đèn sánh suốt cửa. Trong lúc mừng rỡ không thấy đạo nhân, cả nhà đều lấy làm linh cảm ngợi khen. Ông tưởng nghĩ thần hiện tất là người tiên giáng sinh mới nhân lấy tên Giáng Tien làm hiệu . Đến lúc Ngài lớn lên, nhan sắc dị thượng, thế gian ít ai có, tính ham đọc sách lại khéo nghề tiêu đàn âm nhạc. Một hôm ông như thả dạo chơi chốn lữ đình chợt nghe cung đàn khuc điệu. Lòng sinh lo nghĩ mới cho Ngài sang làm con nuôi ông Trần công là người bạn cung làng mà ông Trần côn vốn là dòng dõi nhà Trần về ngụ tịch ở quê mẹ, ông Thái công nhân mới làm lâu đài ở vườn hoa ông Trần công để cho Ngài sang ở. Đâu ngờ cách tường có nhà hoạn gia, tuổi già con hiếm, mua vui dạo gót tường hoa dưới bích đào bắt được người trẻ con, đem về nuôi nấng đặt tên là Đào Lang.Nhà Hoạn gia thấy Ngài là người ngôn hạnh, tư chất khác người mới có lời phụ hiếu chi nguyện: Hai ông mừng cùng làng vui long cho kết duyên Tần Tấn,tự khi Ngài về nhà Đâof Lang một lòng hiếu thuận theo thói quan thư. Đến năm sau, đêm ứng mộng hùng, chuôi đẩu bính đã chỉ bao đong. Ngày mùng 3 thagns 3 ngờ đâu không bệnh mà Ngài đã trở về tiên giới, bà nhà đau lòng thương xót, tuổi mới 21 còn xanh. Ngài từ chốn Tiên hương, nghĩ đến trần duyên đem long thương nhớ. Khi chầu Linh tiêu thời xuân mi sầu tỏa, khi hội Giao trì thì ngọc diễm châu sa. Quần tiên thây Ngài cũng động lòng thương mới đem sự tâu vua Thượng đế. Vua phong ngài làm Liễu Hạnh công chúa và được đi lại xuống trần. Ngài từ phung mẹnh xuống trần thường về thăm viếng mẹ cha và khuyên anh thờ phụng mẹ cha lấy đạo làm hiếu. Ông Đào Lang tự khi Ngài từ biệt đem con nhỏ theo cha đến kinh thành, ngậm sầu thương nhớ, bỏ cả học Nho cử nghiệp. Một hôm tuyết thu lạnh lẽo ôm con ngồi ngâm: “Cảm hoài nhị tuyệt”: “Trần kiếp ta thề lãng thử sinh Tiền duyên ám hưởng bất phong tình Đang niên tư mã cầu phương khúc Biế tác li loan biệt bạc thanh Cô sầu bach nữ bất thành niên Huống thị thê phong nhược vũ thiên Thiên nhược hữu tình ưng niệm ngã Mọc gieo phong vũ quá phong tiên”..

<span class='text_page_counter'>(198)</span> Ngâm xong lại bàn ngồi nghỉ, vụt nghe thấy tiếng gõ cửa ngoài, ông Đào lang mở cửa trông ra, thấy Ngài về tay cầm áo thở than, muốn theo Ngài cho yên lòng trần khát. Ngài lấy lời khuyên giải không nên đem lòng hông phấn mà bỏ chí thành vân, vả trên còn nghiêm đường già yếu, dưới thời nhi nữ ngây thơ việc đó để ai thay đỡ, lại dặn phải nen thay mặt Ngài thăm viếng gia nương, chứ đừng nên quên chút tình bán tử. Từ đấy Ngài vân du không định, đến vài mươi năm. Đến năm sau ông Đào lang cũng về Đế sở, con đã trưởng thành bấy giờ lòng ngài đã được yên ổn mới vân du khắp thiên hạ. Ngài đến địa phận Lạng Sơn thấy cao sơn cũng có phần thắng cảnh, Ngài thương tham thuyền ngoạn cảnh ngồi nghỉ dưới gốc cây tùng hát rằng: “Cô sơn lai vãng hề sơn thiều nhiên U điển xuất nhạp hề lâm yêu kiều Hoa khai mãn ngạc hề hương phiêu phiêu Tung minh vạn hức hề thanh tiêu tiêu Tứ cô vấn nhân hề quỳnh trần hiệu Phủ đàn tràng thán hề độc tiêu diêu Hu ta sơn lâm chi lạc hề giảm linh tiêu” Ngài ngâm hát xong nghe ngoài đường có người hát xướng rằng: “Tam mộng xâm đinh tọa chữ hỏa nhân chữ tử” Ngài trông ra thấy một người là đàn ông Phùng Khắc Khoan cưỡi ngựa tuấn mã, theo sau mười người tụng giả, dẫn trước có cờ Tiết mao. Ben ứng thanh nói: “Trúng sơn xuất lộ tẩu giai sứ giả lại nhân”, ông Phùng công lại xướng lại: “Sơn nhân băng nhất mộc phi tiên nữ nhân phàm” Ngài liền ứng thanh răng: “Văn nhân tử giới chùng cân tất thị học sinh thị chướng”. Trong lúc đàm tự đã không thấy người, rảo tìm xuất tích, chỉ thấy cây gỗ ngang đường đường, nhìn thấy bốn chữ: “Mạo khẫu công chúa”, bên cây lại thấy đề: “Băng mã dĩ tẩu” Người tụng giả hỏi ông Phùng công nói : “Mão khẩu công chua gia vu mộc” là Liệu Hạn công chúa ký “băng mã dĩ tẩu” là đợi ta họ Phùng khởi công. Ông lại đề thơ rồi đi, thơ rằng: “Tùng tâm tich mịch phấn nhân gia Hót thính hữu nhân sơn ngoại cả Ca khuc nhiễu vân nhân bất kiến Mãn tiền sơn sắc tích ta nga”. Từ đấy Ngài tuyệt ứng đi khắp, qua đến danh sơn, đại xuyên không chốn nào là chẳngluwu đề tuyệt thắng, Ngài lại trở về Đông Kinh, thường qua lại Tràng An, như Hòe Nha, Bái Thiên, Hoàng Đình, Đông Tân... người ta không ai biết..

<span class='text_page_counter'>(199)</span> Lúc bấy giờ Phung côn đi sứ nước Tàu tở về, hồi tươtngr đến nơi đã kinh lịch lúc trước, mới cùng Ngô cử nhân và Lý tú tài theo lối Tây hồ tản bộ. Gặp y tuần manh hạ, trải qua một giải thượng lâm, trông chừng đã đến Tây hồ không biết, ba người cùng đàm tự xướng họa. Chợt thấy một tòa tửu lâu, trước đề bôn chữ: “ Tây hồ phong nguyệt”, một câu đối ngữ: “Hồ chung nhàn nhật nguyệt, thành hạ tiểu càn khôn”. Trong của rèm thì rực rỡ, thấy một người hông y nữ nhân đứng tựa cửa sổ bên ngoài. Ba người chưa kip bước vào thì thấy một cô gái lễ phép cúi đầu chào : “ Đây là quán củ liễu nương, xin mời các vào uống rượu và ngâm thơ”. Ba người vừa bước vào đã thấy bài thơ treo trên vách quán : “Điếm phương môn nội chiêu minh nguyệt THời chính nguyên bản lập thổ khuê Khách chính tam tinh cầu nguyệt đới Huệ nhân nhất mộc lưỡng nhân đề.” Dịch “Cửa quán la đây trăng sáng soi Bên mành ai đưung đợi chờ ai Khách đến ba người thừa đội nguyệt Một cây huê mọc giữa hai ngài.” Đọc bài thơ trên Phùng Khắc Khoan chợt nghĩ tới cuộc gặp gỡ. Xướng họa thơ với Liễu Hanh công chúa ở lạng Sơn. Giữa lúc đó cô gái ban nãy bê ra một cái khay trên có tấm thiếp viết mấy chữ : “Tây hồ chiếm nhất hồ thiên” nghĩa là “Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời”. Mọi người đêu cho rằng đây la câu đầu của một bài thơ, liền nối tiếp nhau làm. Dịch toàn bài như sau: “Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời Bát ngát tứ mùa rông mắt coi Cỗi ngọc xanh xanh làng phía cạnh Trau vàng biêng biếc nước vàng khơi Che mưa nhà lập vai gian cỏ Chèo gió ai bơi một chiếc chài Giậu thủng gió đua đàn sủa tiếng Trơi hôm bếp thổi khói tuôn hơi Mơn mơn tay lai con chèo quế Xàn xạt mình đeo chiếc áo tơi Thuyền Phạm phất phơi chơi bể rộng Bè Trương thấp thoáng thr sông trời Đò đưa bãi lac tai ròn rã Giọng hát bờ lau tiếng thảnh thơi Cò xuông đua qua bờ cát đậu.

<span class='text_page_counter'>(200)</span> Diều bay liệng đám mây chơi Khúc ca trong đục ầm bên nước Quầng mắt xanh đen sạch bụi trời Đầu gối long hà lai láng chuyện Tay soi tiền giap lả lơi cười Chốc sen ngả ngón chứa rau búp Đáy nước dìm phao băt cá tươi Có lúc kề hoa bày tiệc rượu Họa khi tựa bóng đứng đầu mui Say rồi cởi áo xanh dòng mát Tắm đoạn xoay quần bóng gió phơi Trẻ Mục Yên Hoa bày tiệc rượu Lũ tiều Thượng uyển hẹn lời dai Bắt cò đứng vững ngồi rinh bụi Mò ngọc khen ai khéo lặn ngòi Tay lưới thế thần khô mắc vướng Lưới câu danh lợi nhẹ tham mồi Hạ rồi bến mát còn yêu nắng Đông kết thành xuân chửa thấy mai Thú cảnh yên hà sang dễ đọ Sóng lòng trần tục dạ đầy vơi Xe săn Vị thủy thu hồ hải Thuyền tới đào nguyên mặc sức bơi Chuông sớm dực thanh long phật đó.” Ba người vừa làm đến đó thì từ trong nhà có tiếng ngâm của cô chủ quán họ Liễu vang ra: “Đắc nguyệt ưng tri ngã thi tiên.” Nghĩa là: “Trăng tron soi một bóng tiên thui.” Câu đó cũng là câu kết của bài thơ Vịnh Tây Hồ do bốn người làm. Ít lâu sau Phùng Khắc Khoan và hai ông họ Lý, họ Ngô trở lại quán cũ bên Hồ Tây thì quán cũ không còn. Trên thân cây có bài thơ: “vân tác y thường phong cách tác xa Tiên du Đâu xuất mộ yên hà Thế nhân dục thức ngô danh tính Nhất đại sơn nhân Ngọc Quỳnh Hoa.” Đọc xong Phùng Khắc Khoan giảng giải cho hai bạn rõ. Ý tứ ba câu đầu là: “Lấy mấy làm xiêm á, lấy gió làm xe Buổi sáng chơi vùng Đâu xuất, chiều ngao du nơi mây khói.

<span class='text_page_counter'>(201)</span> Người đời muốn biết họ tên ta. Ta là Nhất đại sơn nhân Ngọc Quỳnh Hoa. Câu thứ tư là: Ta là tiên hoa Ngọc Quỳnh của Tiên trên trời.” Cư dân quanh vùng Hồ Tây thấy sự linh ứng của bà Chúa Liễu như vậy liền lập phủ thờ bà gọi là Phủ Tây Hồ. Từ đó tới nay trải đã mấy trăm năm hương khói không bao giờ đứt. HAI BÀ CHÚA CHẤN HƯNG GIÁO VƯƠNG Làng Phú Đô xưa có tên là làng Quả Xương , đời Lê đổi lại tên là Hương Đô, đầu thế kỉ thứ XX đổi tên là Phú Đô. Xưa Phú Đô nằm trong xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Tây Sơn. Nay Pú Đô thuộc xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Làng Phú Đô thờ Lý Thiên Bảo (549-555). Làng Phú Đô còn có một ngôi đền thờ hai ba chúa ở rìa làng trên bờ sông Nhuệ. Hai bà có công chấn hưng giáo phường đi vào hoath đọng có nền nếp, mở rộng phạm vi hoạt động của giáo phường. Trong đền còn giữ được Thần phả đời Lê. Thần phả chép: “ Vào thời Lê,làng Phú Đô có ông Nguyễn Duy Tĩnh sinh được hai người con gái, chị là Nguyễn Thị Phương, em là Nguyễn Thị An. Hai chị em đều xinh đẹp lại có giọng hát hay, tiếng đàn rất ngọt nổi tiếng một vùng. Một hôm Nguyễn Thị Phương vào Thập tam trại ở Thăng Long cắt cỏ. Vốn là người có giọng hát hay, trước cảnh cỏ cây xanh tốt, chim hót, bướm lượn, Nguyễn THị Phương cao hứng cất tiếng hát: “Bấy lâu con gái làng nhà Nổi danh nức tiếng tài hoa giữa vùng Đã thạo dệt cửi lại giỏi nữ công, Ngược xuôi Nam Bắc ganh gồng bán buôn...” Tiếng hat của cô gái làng Phú Đô đã làm rùg động trái tim công tử Lê Duy Bang là tôn thất nhà Lê đang dạo chơi ngắm phong cảnh hữu tinh ở Thập tam trại. Nghe tiếng hát quyến rũ lòng người, công tử vội vàng dừng bước lắng nghe. Tiếng hát trữ tình làm say dắm lòng người dưng lại một lát rồi lại như tiếng chim họa mi cất lên véo von: “Lẩn khuất bóng mây, Mắt sao thấy mặt dạ này mới yên, Đánh tiếng bên thềm, Trót say nhau lắm phải tìm đến nhau.....” Nghe đến đây công tử Lê Duy bang không đừng được nữa vội vàng vạch cây rẽ lá, khiến cho lá rụng, hoa rơi để đến nơi người vừa cất tiếng hát. Đã xao xuyến trong long vì tiếng hát đến khi nhìn thấy cô gái làm nghề nông tang mà mặt hoa da phấn đẹp nghiên nước, nghiêng thành thì chàng công tử.

<span class='text_page_counter'>(202)</span> tôn thất nhà Lê vô cùng say đắm, liền cho tuỳ tùng lặng lẽ bám theo cô về tận làng Phú Đô, nhờ người mai mối hỏi Nguyễn Thị Phương làm vợ. Nguyễn Thị Phương chấp nhận mối tình nồng thắm đó. Sau đó không lâu, Nguyễn Thị An cũng theo về làm lẽ công tử Lê Duy Bang, thành ra hai chị em lấy một chung một chồng. Năm Bính Thìn (1556) vua Lê Trung Tông chết, không có con trai nối ngôi, Thái sư Trịnh Kiểm lập Lê Duy Bang lên làm vua, hiệu là Lê Anh Tông. Bà Nguyễn Thị Phương được phong làm Hoàng hậu, Nguyễn Thị An được phong là An Tuyên phi. Năm Quý Dậu (1573) Trịnh Tùng giết Lê Cập Đệ là viên quan than tín của Lê Anh Tông. Anh Tông sợ bị liên lụy, chỉ kịp đem theo bốn con trai trốn vào Nghệ An, Trịnh Tùng lập người con thứ năm của Anh Tông là Lê Duy Đàm lên làm vua, khi đó Lê Duy Đàm mới bẩy tuổi. Hai chị em bà Phương và An đem ba người con về làng sinh sống. Bà Phương bực tức cho số phận dở dang, ngang trái của chị em mình liền ném dao xuống giếng làng thề: “Từ nay ai đi lấy chồng vua thì chết một đời cha, ba đời con!”. Hai bà vì xinh đẹp, đàn giỏi, hát hay Lê Duy Bang yêu người, yêu tiếng hát mà lấy. Khi vào cung hai bà lại học hỏi được nhiều làn điệu hát, nhiều điệu múa trong cung và phong cách biểu diễn: Hai nghệ nhân đã có công dựa vào các làn điệu, vũ khúc nơi cung đình và dân gian tạo ra đựơc các làn điệu hát, các điệu múa vừa bác học vừa dân gian đã nâng nghệ thuật ca trù (hát Cửa đình) lên bước phát triển mới. Từ khi trở về làng, hai bà đã truyền dạy hát ca trù cho con gái dòng họ Nguyễn, dạy đánh đàn đáy, đàn nguyệt cho con trai. Bà còn bỏ tiền ra mua mấy chục mẫu ruộng biếu làng làm công điền để chia cho trai đinh cầy cấy. Hai bà có nhiều công lao chấn hưng, cải cách giáo phường. Nhờ đó giáo phường hát Cửa đình ở Phú Đô ngày càng phát triển, hát hay, đàn ngọt nổi tiếng trong hạt Từ Liêm và Đan Phượng. Hai bà có nhiều công lao chấn hưng, cải cách giáo phường, đặc bịêt là luật lệ giáo phường đề ra rất nghiêm ngặt như người học hát phải là những cô gái trẻ, có giọng. Việc ăn uống cũng phải kiêng khem để giữ giọng cho được trong, giữ hơi cho được dài và ngân nga, âm nén mà vang. Những cô gái theo học nghề hát phải có phẩm cách, trong khi học không để xảy ra điều gì tai tiếng cho giáo phường. Khi các học trò đã thuần phục, phải sửa cơi trầu trình quản giáo để gây ý thức tôn sư trọng đạo. Học xong phải qua một kỳ sát hạch nghiêm túc mới được làm lễ “mở xiêm y”. Đào hát còn phải học cả phách, vì hát ca trù bắt buộc phải hát kèm với gõ phách. Học phách cũng gian khổ không kém gì luyện hát, vì tiếng phách thuần thục, điêu luyện của đào nương khuấy động cả không gian khiến người nghe cũng phải ngây ngất đắm say..

<span class='text_page_counter'>(203)</span> Trong quá trình kiểm tra, sát hạch tài nghệ của đào nương, hai bà thường bắt buộc họ phải hát được bài Tì Ba hành của Bạch Cư Dị. Khi đào nương bước vào chiếu ngồi xếp bằng tròn, vạt áo dài phủ kín phía trước, hai tay cầm hai dùi phách ở tư thế sẵn sàng. Sau hồi trống chầu “tom, tom, tom”, đào nương mở đầu lời ngâm bằng mấy câu thơ: Lác đác rừng phong hạt mưa sa Ngàn thu hiu hắt khi thu già… Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách Quạng hơi thu hiu hắt đìu hiu… Trong khi miệng hát thì đôi tay của đào nương đánh phách làm nhịp. Tiếng phách có lúc khoan thai nhịp nhàng, như làn gió xuân thoảng qua, như dòng song chảy êm đềm, có lúc tiếng phách lại khua vang dồn dập như bão táp mưa sa, đang hồi tưởng, níu kéo cả một thời gian quá khứ dài đằng đẵng nghìn năm, rồi bỗng nhiên nhịp phách ngừng cả không gian lặng như tờ. Kép hát cũng được hai bà quan tâm đào tạo họ đàn đúng điệu hát của d dào mà còn phải đàn hay. Đan hay gây hưng phấn cho đào nương, nâng tiếng hát của đào nương lên tới đỉnh cao nghệ thuật. Ngọc phả ở đền Ca công thờ hai bà có đoạn viết: “Ở Hồng Đô trang có ông Nguyễn Duy Tĩnh sinh được hai người con gái là Phương và An vốn thuở nhỏ thích ca hát. Lớn lên mặt hoa, da phấn mắt phượng mày ngài, nói năng đoan trang, vua Lê Anh Tông lấy làm yêu. Trong 20 năm hai bà sinh được ba người con gái”. Đến khi bhai bà mất dòng họ Nguyễn và nhân dân Phú Đô nhớ công ơn hai bà mua ruộng cho dân cầy cấy, giúp việc sửa chữa đình chùa, công quán, mua gạch lát đường và có công truyền nghề hát Cửa đình, lại chấn hưng giáo phường làm cho giáo phường Nghĩa Đô là một giáo phường mạnh từ Từ Liêm xưa, nên lập đền Ca công thờ hai bà. Không rõ triều Lê Trung Hưng và các vua Lê, triều Tây Sơn và đầu triều Nguyễn có phong sắc không, nay trong đền chỉ có sắc của vua Khải Định năm thứ 9 (1924) phong hai bà Phương và An. Cho tới trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Phú Đô vẫn có nhiều người đi hát Cửa đình. Mấy năm gần đây do chính sách mới của Đảng và Nhà nước khôi phục văn hoá dân tộc, Phú Đô đã phục hồi nghề hát Cửa đình. Các nghệ nhân cũ đã vào tuổi trên 70 vẫn đem hết tài năng ra truyền nghề cho con cháu. DƯƠNG QUỐC CÔNG NGUYỄN HỮU LIÊU Nguyễn Hữu Liêu quê ở làng Tây Đàm đời Lê Thế Tông (1573-1600) vì kiêng tên huý của vua, đổi thành Tây Đam. Đến thời Minh Mạng (18201840) cũng do kiêng tên huý của vua đổi thành Tây Tựu..

<span class='text_page_counter'>(204)</span> Đất Tây Tựu có nhiều văn quan, võ tướng, chỉ riêng họ Nguyễn có hai người đỗ tiến sĩ, bẩy người được phong tước Quận công, trong đó nổi tiếng nhất là Nguyễn Hữu Liêu. Nguyễn Hữu Liêu là cháu họ Nguyễn Khải Khang là Nam tướng quân nhà Mạc, lúc trẻ mồi côi, nhà nghèo, tính tình phóng đãng nhưng trí dũng hơn người. Năm đầu Thuận Bình, Khải Khang cùng Lê Bá Ly qui thuận nhà Lê, ông bấy giờ 18 tuổi, theo Khải Khang cùng Lê Bá Ly qui thuận nhà Lê, ông bấy giờ 18 tuổi, theo Khải Khang vào Thanh Hoá yết kiến.Lượng quốc công khen và cho theo ở chỗ màn tướng làm việc, phong kiến Phù Đô hầu. Năm dầu Chính trị, Khải Khang bị Mạc giết, triều đình lục dụng than thuộc của Khang, ông càng cảm kích cố gắng, thề diệt giặc Mạc. Năm Tân Dậu (1561), Kính Điển vào cướp Thanh Hoá, các tướng giữ thành đều lui tránh. Lúc ấy ông đốc quân ở ngoài được Thái sư đi gấp đường đến cứu từ Yên định đi Phù Hưng, ông vừa đánh vừa tiến lên rồi cùng quân trong cửa quan hai bên giáp công, giặc bị thua thua to tan chạy. Vì có công ấy, ông được tiến phong Đại đô đốc Dương quận công. Khi Trịnh Cối gây biến ông đem cả quân thuỷ bộ đóng đông bờ phía bắc sông Mã. Đến khi Cối hang Mạc, ông đem binh theo Đình Ái vào an Trường yết kiến, cùng các tướng ăn thề, họp mưu chống giặc. Khi quan Mạc lui, ông làm tiên phong đi về mạn hữu đuổi đánh, dẹp yên được huyện Nông Cống, Ngọc Sơn, bắt được tướng giặc là Phấn quận công đem về. Năm đầu Gia Thái triều Lê Thế Tông, ông được tiến lên Thái Phó. Khi Kính Điển vào cướp, ông làm tiên phong đánh phá được. Năm thứ 5, lại phá quân Mạc ở Hội Thượng. Năm đầu Quang Hưng (1578), Kính Điển lại vào cướp đến sông Vĩnh Phúc. Ông đem binh mã qua sông đánh, mai phục quân ở núi Phụng Công, phá tan quân giặc. Kính Điển phải trốn.Năm thứ 2, Kính Điển lại vào phạm cửa Chương Quan, ông đem quân chuyển gỗ, đá lấp bến đò Kim Ngọc, phục binh ở phía trước rồi cùng Đặng Huấn hai đằng giáp công, phá tan được, chém hơn nghìn thủ cấp. Năm thứ 4, ông đem quân ra Mỹ Lương đánh nhau với quân Mạc ở Đồi Lệ, Đồng Uyên hầu và mấy trăm quân. Tháng 9, quân Mạc phạm vào đường Nang, ông làm tiên phong hăng hái tiến đánh phá tan. Vì công ấy được thăng coi vịêc phủ ở Tây quân. Năm thứ 7, ông ra đánh lấy được yên Mô, lại phục binh ở Yên Khánh, đánh giá quân Mạc bắt được rất nhiều. Năm thứ 12 ông theo trưởng quốc công (Trịnh Tùng) ra đánh Mạc, khi tiến đến Yên Mô, tổng suý của Mạc là Đôn Nhượng đem đại binh vừa đến. Ông trước hết lĩnh 15.000 quân tinh nhuệ mai phục, rồi vừa đánh vừa dử giặc vào chỗ hiểm, phục binh nổi dậy một khi, cả phá được giặc. Năm thứ 14, cất đại quân đi đánh Mạc, ông lĩnh 10.000 nghĩa binh tinh Mậu hợp ở Phấn Thượng, ông tiến trước khiêu chiến. Lát sau ra sức hét lớn thúc voi đột kích, chám đại tướng giặc là Khuông quân công,.

<span class='text_page_counter'>(205)</span> Tân quận công ngay tại trận. Quân Mạc bị chặn, muốn lui, quan quân nhân lúc hăng hái tiến đánh, muôn quân cùng ùa vào. Giặc tan vỡ, thua chạy xéo lên nhay, đuổi mãi đến bãi sông, chém hơn vạn thủ cấp, bắt được không biết bao mà kể. Mậu Hợp chỉ một mình một ngựa, tàn quân sang sông tranh nhau xuống đò chết đuối quá nửa, vì vậy sông Hát không chảy được. Mạc Mậu Hợp quyết ăn thua ở trận này nên điều động binh mã năm phủ, bốn vệ của bốn trấn được hơn 10 vạn, định đánh nhau quyết liệt với quan quân. Nhưng chỉ mới giao chiến một trận đã thua như núi lở, ngói tan. Thế quân Mạc đến lúc này không còn chọi được nữa vì quân nhà vua sức mạnh làm tan nhuệ khí của giặc từ đầu. Trận đánh này công của ông là thứ nhất. Đêm ấy, ông đuổi thẳng đến thành thăng Long về góc tây bắc đem hết voi mạnh, binh khoẻ rồi đốt pháo, phóng lửa khua trống reo hò inh ỏi trời đất như sấm sét kinh hồn, như gió mưa sập ssến. Quân Mạc sợ mất vía. Mậu Hợp bỏ thành chạy sang Bồ Đề, trong thành rối loạn. Mãi sáng ông mới dẫn quân về. Năm thứ 15 ông tấn công Đông Kinh, lấy một vạn tả quân, do lối cầu Dừa(1) đánh được cửa tây vào thẳng nội điện. Tướng giữ thành của Mạc thua chạy. Thế là bình xong kinh thành. Sau ông lại thống đốc quân thuỷ hợp với Hoàng Đình Ái đánh Mạc Kính Chỉ ở Thanh Lâm, quân Mạc tan vỡ, đuổi đến cùng tới Đông Triều bắt được đồ đảng hết cả. Năm thứ 16, bàn đến công lao khôi phục, ông được tiến phong Cương chính tuyên lực đồng chức phụ quốc công thần, chức thái uý, tước Dương quốc công. Năm thứ 17, ông đánh Mỹ Thọ hầu của giặc ở thanh Đa, bắt được giết đi, lại đánh Vũ Đức Cung ở Đại Đồng, phá hai trại Xuân sơn, Văn Quốc của giặc, thu được voi ngựa rồi về. Năm thứ 20, vua đến Nam Quan hội khám, ông cùng ĐÌnh Ái thống độc đại quân hộ giá về kinh. Được ít lậu ông chết, năm ấy ông 66 tuổi. Ông là người tinh anh, sáng suốt, quyết đoán. Mỗi khi lâm trận, khí hăng lên tận mây, tiếng gầm thét như gió nổi, ba quân vì thế phấn khởi, đánh đâu cũng được.Thế nhưng lại chất phác giữ lề, thời ấy ông khen ông là tướng giỏi. Triều đình truy tặng Phu nghĩa công, tên thụy là Nghĩa Dũng, cho đem về táng ở Biện Hạ, huỵên Cẩm thu và được lấy dân 5 xã làm “tạo lệ”. CHIÊU NGHI VŨ THỊ NGỌC XUYẾN Bà Chiêu Nghi Vũ Thị Ngọc Xuyến vốn họ Phạm, sinh ngày 8 tháng 3 năm Giáp Thìn (1604). Lúc nhỏ mồ côi cha mẹ, làm con nuôi một gia đình họ Vũ nên mang họ bố mẹ nuôi. Truyền thuyết kể rằng ở tuổi dậy thì thì bà rất xinh đẹp, vào thành Thăng Long cắt cỏ, vừa cắt vừa hát rằng: _______________________ (1). Nguyên văn là Đa Kiều, có lẽ là ô Chợ Dừa bây giờ..

<span class='text_page_counter'>(206)</span> “Tay cầm bán nguyệt xênh xang Bao nhiêu cây cỏ lai hàng tay ta” Chúa Trịnh Tạc khi đó còn là thế tử đi chơi nghe thấy gọi đến hỏi , thấy bà xinh đẹp, hát hay có chí khí, nên lấy về làm vợ. Hai vợ chồng hoà thuận, hợp nhau thật là có duyên sa do trời tác hợp. Khi Thế tử lên ngôi chúa phong bà là Chiêu Nghi rồi Đệ nhất cung tần. Ngày 15 tháng 3 năm Đinh Sửu (1637), bà sinh quận chúa Trịnh Thị Ngọc Vòng(1). Nhân một lần về thăm quê, Chiêu Nghi bỏ tiền mua 10 mẫu sao, 8 thước ruộng tặng làng. Sau này Quận chúa NGọc Vòng cũng mua 6 mẫu ruộng, ao cúng vào các chùa. Chiêu Nghi còn xin triều đình cho mua 539 mẫu ruộng xấu, cải tạo thành ruộng tốt, biếu dân cày cấy. Những năm tháng cuối đời bà chúa về hẳn quê dốc lòng chăm nom, trùng tu đền Sóc. Bà Chiêu Nghi mất ngày 8 tháng 6 năm Bính Dần (1686) thọ 82 tuổi. Nhớ ơn bà, dân làng Xuân Tảo và dân ven hồ Tây đã lập Châu Cung, Phủ Quế để thờ bà. Dân Xuân Tảo đem hết tài nghệ chế tác pho tượng bằng mây, tre đan, sơn mài thờ ở Châu Cung (này chỉ còn tượng bà Chiêu Nghi và tượng Thiền sư Từ đạo Hạnh ở chùa Láng làm bằng tre mây đan). Tượng bà Chiêu Nghi tạo hình sinh động trong thế ngồi thanh nhàn đế vương, chiều cao của tượng từ bàn chân lên đến đỉnh đầu cao 0,85 mét, tỉ lệ các phần trên thân tượng cân đối, hài hoà y như người thật. Hai bàn tay ấn quyết bằng ngón trỏ và ngón cái tượng trưng cho những ý nguyện đã được thực hiện sự hoàn thiện trí tụê của người mộ đạo. Tượng được các nghệ nhân sơn mài thể hiện mặt hoa, da phấn thông minh, cương nghị phúc hậu, cổ so ba ngấn, môi dầy, tươi tắn, lông mày lá liễu, mắt đen to, làn tóc mai tha thướt và dải tóc buông rủ sau gáy dưới chiếc mũ miện quí phái. Pho tượng Chiêu Nghi đan lát bằng mấy tre đã thể hiện nghệ thuật trong việc dựng chân dung. Những đường lượn song ở tay áo, vạt áo rất duyên dáng uyển chuyển và mũ miện kết hoạc tiết hoa lá, chim phượng tinh sảo cùng diện mạo nhân vật đủ chứng minh trình độ của nghệ nhân thời đó. Ở đền Châu Cung còn có tấm bia dựng năm Chính Hoà thứ 7 (1686), bia đá lớn, chạm rồng, chầu mặt nguyệt, cao 1.2 mét, 4 mặt đều rộng 0,63 m và đều khác chữ, bia có tên là “Bảo đức bi ký”, ghi công đức bà Đệ nhấy cung tần Vũ Thị Ngọc Xuyến và Quận chúa Trịnh Thị NGọc Vòng đối với dân làng Xuân tảo. Tại đền bà Chiêu Nghi còn có văn bia do tiến sĩ họ Lê, tự là Sơn Khê, chức Bồi tụng bộ Lại thị lang tước Lai Sơn Nam soạn Bản dịch như sau: Tại đền bà Chiêu Nghi còn có văn bia do tiến sĩ họ Lê, tự là Sơn Khê, chức Bồi tụng bộ Lại thị lang tước Lai Sơn Nam soạn. Bản dịch như sau: _______________________ (1). Có sách nói là Trịnh Thị Ngọc Lan..

<span class='text_page_counter'>(207)</span> “ÔI! Người có công đức đối với nhân dân thì được thờ cúng đó là lẽ đương nhiên vậy! Kĩnhem bà Chiêu Nghi đệ nhất cung tần vương phủ họ Vũ huý Ngọc Xuyến, người xã Minh Cảo, huyện Từ Liêm. Bà sinh ngày 8 tháng 3 năm Giáp Thìn (6-4-1604)”, năm 14 tuổi (1618) bà kết duyên với chúa Hoằng tổ Dương vương Trịnh Tạc khi còn là Thế tử. Thực là long trời tác hợp, cá nước duyên ưa, khuy sớm chuyên cần, điềm lành ứng mộng. Ngày 15 tháng 3 năm Đinh Sửu (9-4-1937), bà sinh ra quận chúa Trịnh Thị Ngọc Vọn, khác chi sao Vụ toả hào quang, sông Bột dâng vật báu, xe loan nhôn nhịp, nhà cửa vui vầy còn hạnh phúc nào sánh bằng được nữa. bà được phong làm Chiêu Nghi, ban cho thẻ bạc, dải xanh, kiếuon, võng tía. Ơn vinh dủng rất là rạng rỡ. Năm này tuổi tác tuy đã ngoại tám tuần, mà đối với bà nền phúc lộc vẫn dồi dào, bậc thọ khang còn sung túc. Nếu không có đức tính tinh thục cao quý thì làm sao mà lại được sung sướng đến như vậy. Nhờ bà ơn vua, lộc nước tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu làm rạng rỡ cho quê hương, láng xóm. Tấm lòng thương yêu dân xã lại cao quý biết nhường nào! Bà đã tậu ruộng phì nhiêu cho dân thờ cúng ân đức của bản với dân thấm nhuần như nước mùa xuân, ấm áp như mặt trời tháng giá vậy. Trẻ già trong tám giáp tôn kính bà như thần minh, ngưỡng mộ bà như đỉnh núi cùng đến yêu cầu được ghi công đưc để tỏ biết ơn. Xin dựng bia bà ở đền Sóc Thiên Vương, đặt bài vị bà cùng quận chúa ở hai bên để hàng năm cúng tế. Nếu ai có lòng sai tái, xin có quỉ thần chứng giám, mặt trời, mặt trăng soi xét. Thấy dân tình khẩn thiết nên bà chấp nhận. Dân làng cùng nhau khắc dựng nên bia để nghìn năm về sau ai xem tấm bia này, ai cấy những thửa ruộng kia ắt phải nhớ đến công ơn của bà. Công đức ấy, nghĩa tình này cùng trời đất lâu dài, cùng mặt trời, mặt trăng sáng tỏ còn chi cho thoả đáng bằng ! Xin khắc vào bia đá để lưu truyền mãi mãi. Hoàng triều Chính Hoà thứ 7 tháng 11 năm Bính dần (1686) lập bia. Tiến sĩ cập đệ Quang Tiến, Thân bộ đại phụ Bồi tụng Lại Bộ thị lang Lai bộ thị lang Lai Sơn Nam Hoa, Thiên Sơn Khê Lê soạn. Thị nội nhung thơ Tả Bình phiêu Tào thọ Nam tước Viêm viết chữ. Đông Sơn huyện, An Hoạch, Hiệp Sơn Bá Nguyễn Duy Nho khắc bia”. NGUYỄN QUÝ ĐỨC Ông người làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, (Hà Đông), đỗ khoa sĩ vọng, 29 tuổi lại đỗ Đình nguyên nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh khoa Bính Thìn.

<span class='text_page_counter'>(208)</span> năm đầu Vĩnh Trị đời Hy Tông (1676)(a). Năm Canh Ngọ, đời Chính Hoà (1690), ông được sung chính sứ sang cống Thanh . Mùa thu Giáp Tuất (1694), thăng Tả thị lang bộ Lễ, vào làm Bồi tụng ở phủ, tước Liêm đường bá. Mùa đông năm sau thăng Đô ngự sử. Mùa thu Bính Tý (1696), ổng vì xử kiện không đúng bị giáng làm Tả thị lang bộ Binh, nhưng vẫn làm Bồi tụng. Năm Mậu Dần (1698), ông được đổi sang Tả thị lang bộ Lại. Năm Mậu Tý, đời Vĩnh Thịnh (1708) lại được thăng Thượng thư bộ Binh, vào làm Tham tụng, tước Liêm quận công, gia phong Tá lý công thần, kiêm Đại học sỹ Đông Các, bấy giờ 61 tuổi. Khi ông đã làm tể tướng, cấm việc phiền hà, tha cho người trốn tránh và thiếu thuế, bớt tạp dịch, giúp nhà nông, dân được nhờ ơn. Mùa xuân Tân Mão (1711), An vương (Trịnh Cương) lên, có họp bàn để định chế độ thờ ở nhà thái miếu, chúa bốn là chắt Khang vương (Trịnh Căn) nên khi lên nối ngôi, truy phong ông nội là Quốc Tế công (Trịnh Vịnh) làm Lương Mục Vương, cha là Tham Tế Công (Trịnh Bính) làm Tấn Quang Vương. Bấy giờ có lời bán nên thờ hai người ấy ở một miếu riêng, ông nói: “Hai vị ấy đều dòng đích trưởng, đức dày còn mãi, muôn đời vẫn là chúa thì thờ ở cung miếu (1) là phải lẽ”. Nhân đó ông trình bày năm điều không nên thờ miếu riêng được chúa nghe theo; lời bàn mới quyết định. Năm Giáp Ngọ (1714) chúa xét việc ban ơn, ông cùng Đặng Đình Tướng đều được thăng Thiếu phó. Năm Đinh Dậu (1717), ông 71 tuổi, xin về hưu, dâng giấy lên hai lần, nhưng chúa vẫn lưu luyến không cho. Ông làm bài khải trong có câu: “Trong lúc triều đình có đạo, không có hạng người tà nịnh mà ai cũng chê ghét như Công tôn (2); nhưng làm quan đã thành danh, phải nhớ lời răn “tri túc” của Lão tử”(3). Năm 70 tuổi, Nguyễn Quý Đức, dâng tời khải lên Chúa xin nghỉ hưu khi đang ở ngôi Tể tướng, lời lẽ khiêm tốn biệt tự đánh giá nghiêm khắc đối với bản thân: “Nghĩ mình được lạm gánh trách nhiệm nặng nề, thẹn không xứng đáng làm men để chế rượu, làm muối để pha canh. Trong hơn 10 năm nay, thần cài bút lên mũ, ghi mọi việc triều đình, rồi xếp vào một chiếc túi, để gặp việc thì giúp đỡ, can răn Chúa, nhưng cũng chưa làm nổi ý nghĩa sửa _______________________ (a). Con ông là Nguyễn Quý Ân, đõ Hoàng giáp khoa Ất Mùi đời Vĩnh Thịnh (1715), làm tư giảng cho Thuận vương (Trịnh Giang), sau phong Đại Vương. Cháu trưởng là Nguyễn Quý Cảnh, do được tiến vào triều làm quan đến tham tụng (1) Thái miếu của Chúa trịnh gọi là cung miếu (2) Thời Hán vũ đế, Viên Cố đã 90 tuổi, vua lại vời ra làm quan. Công tôn Hoằng nhìn Viên Cố bằng con mắt ghen ghét nên bị người chê. (3) Lão Tử có câu: “Tự biết là đủ (tri túc) thì không nhục”.

<span class='text_page_counter'>(209)</span> chữa những điều chưa hay trong lòng Chúa... Tự xét lại, đức của thần còn kém xa các bậc tiên hiền, treo mũ cáo lão, thì e có cản trở đến đường lối đi tới của người hiền và không khỏi bị tiếng chê là luyến tiếc quyền vị...”. Ông lại trình bày tiếp: “...Vả lại, tuổi nhiều, lòng cũng theo đó sinh nản, người già thì trí không cũng kém, từ ăn uống đến làm lụng và nếp sống hàng ngày đã không bằng trước, răng tóc, hình dáng và s ức vóc lại kém hẳn xưa. Nếu thần ở lại thì chẳng những liệu sức không làm nổi, mà cũng đáng sợ là cản bước người hiền”(1). Đó là lần thứ ba, Chúa mới bằng lòng cho, gia Thái phó Quốc lão vẫn tham dự chính sự. Chúa lại ban cho thơ, xe, ngựa, ruộng lộc, yêu mến rất hậu. Ngày về hưu, vua Lê tự tay viết tặng ông bốn chữ lớn: “Thái Sơn Bắc Đẩu” (công đức to như núi Thái Sơn, sáng như sao Bắc Đẩu) và “Kiều Mộc Thế Trần” (Đại thần con nhà thế phiệt). Triều đình lúc bấy giờ xếp ông vào bậc “Ngũ lão” (trong số 5 vị lão thần được ưu đãi). Sau khi về hưu, rong chơi chốn quê hương, dựng đình Lạc thọ ở bờ sông để làm chỗ vui chơi; canh suối rừng tiêu khiển theo thú chơi Hương Sơn (2), Lạc Xã (3) ngày xưa. Ông cùng Quốc lão Đặng Đình Tướng qua lại xướng họa làm vui. Có câu thơ “Chèo thuyền trên sông Ninh, (thả) diều đồng làng Mỗ”. Tình ý cao siêu, phóng giật như thế, thời ấy ai cũng khen ngơi, ngưỡng mộ. Đương thời Nguyễn Quý Đức làm nhiều thơ, nay còn để lại một số tác phẩm, trong đó có bài thơ tiễn biệt bạn đồng triều khi về hưu: Dịch: “Tài hèn gặp hội giúp minh quân Sang sửa điều sai được chút phần Việc nước lo toan nhường hậu tiến Gió trăng ngâm vịnh, học tiền nhân Đắp bờ, thăm lúa khi trời tạnh Kê đá cầm câu lúc tuyết phân Nghiêu đế, cảnh nhà vui tuổi tác(4) Cao, Quỳ lo việc giúp muôn dân(5)”. ______________________________ (1) Lịch triều tạp kỹ ký (tập 2) (2) Bạch Cư Dị làm quan đến Thượng thư bộ Hình, lúc về hưu làm bàn với sư ở Hương Sơn (3) Văn Ngạn Bắc đời Tống hội họp các quan già, uống rượu cùng vui với nhau. Người bấy giờ gọi là hội KỲ Anh ở Lạc Dương (Lạc Xã) (4) Nghiêu Đế là vua Nghiêu bên Trung Quốc thời cổ đại, có tài cai trị đất nước thái bình, nhân dân yên ổn làm ăn. (5) Cao, Quỳ là hai viên quan đầu triều bên Trung Quốc thời cổ đại, có tiếng tài giỏi giúp vua trị nước..

<span class='text_page_counter'>(210)</span> Mùa hạ Canh Tý (1720), ông chết, thọ 73 tuổi. Ông là người khoan hậu trầm tĩnh. Ngày thường thù tiếp ai thì dễ dàng, vui vẻ. Khi bàn luận trước mặt Chúa, việc gì chưa thỏa đáng, ông cố giữ ý kiến mình bàn đến ba, bốn lần không ai ngăn được. Ông làm văn không cần trau chuốt mà ý sâu. Triều đình có chế tác gì lớn phần nhiều do tay ông. Ông làm Tể tướng 10 năm, về chính sự chuộng khoan hậu. Đám hậu tiên phần nhiều do ông cất nhắc. Việc sửa sang học cung, dựng bia tiến sĩ đều chính mình ông trông coi cho đến lúc xong. Bàn đến ông, ai cũng khen. Triều đình tặng Thái tể, truy phong đại vương. Hiện nay làng Đại Mỗ có từ đường thờ ông, có tấm bia ca ngợi công đức của ông do Hà Tông Huân soạn. TỔ SƯ NGUYỄN QUÝ TRỊ 400 năm trước, làng Kiêu Kỵ, xã Kiêu Kỵ, huyện Đông Ngàn, phủ Thuận Thành, đất Kinh Bắc ngày xưa, nay to huyện Gia Lâm, Hà Nội có một trai làng là Nguyễn Quý Trị, thi đỗ Tiến sỹ năm Quý Mùi, làm quan đến chức Binh bộ Tả thị lang, Hàn lâm viện, chức học sỹ. Triều đình cử đi sứ Trung Quốc, ông học được nghề đập, dát vàng, gọi là quỳ, thứ vàng mỏng tang dùng để khảm vào những pho tượng, hoành phi, câu đố, tranh sơn mài là thiếp vàng. Đây là vàng thật gọi là vàng quỳ, nó lấp lánh ẩn hiện trên những pho tượng, ngay, khám thờ, trên hoành phi, câu đối. Không ai có thể tưởng tượng được chỉ một đồng cân vàng được dát mỏng rộng tới một vạn sáu nghìn phân vuông. Người thợ đập búa dát vàng thành quỳ vàng phải là người kiên nhẫn, có sức dẻo dai, lại là người khéo tay vì đây là công trình nghệ thuật. Cả nước chỉ có Kiêu Kỵ, làm nghề này. Sau khi học được nghề này ở Trung Quốc, tiến sỹ Nguyễn Quý Trị đã đem nghề truyền cho làng. Từ đó Kiêu Kỵ có một nghề có giá trị, nhân dân nhờ đó được cơm no áo ấm. Sau khi ông mất, dân làng tôn làm Tổ sư, tôn làm Thành hoàng thờ ở đình cùng với Đại tướng Đô úy Nguyễn Chế Nghĩa. Ngày ông mất là ngày rằm tahngs tám năm 1781. Trong đình Kiêu Kỵ có đôi câu đối nói lên công lao của An Nghĩa Đại vương Nguyễn Chế Nghĩa và Tổ sư Nguyễn Quý Trị: “Phá giặc uy linh lừng đất Bắc Dát vàng tinh xảo, nức trời Nam”. Năm 1994 một số người ở làng Kiêu Kỵ khởi xướng việc quyên góp tiền, hưng công tượng Tổ sư. Ngày 28-08-1994 tượng được khánh thành được rước vào thờ trong đình. Tượng cao 1,5 mét, bề ngang 0,08 mét..

<span class='text_page_counter'>(211)</span> Hàng năm cứ đến ngày 15, 16, 18 tháng 8 nhân dân mở hội là ngày kỵ Tổ sư. Trong mấy ngày lễ hội có hai văn tế: Văn tế cáo kỵ Tổ sư dậy làm nghề vàng quỳ: Duy: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Tuế thứ Giáp Tuất, bát nguyệt kiến Quý Dậu, sóc Ất Mùi, việt nhị thập bát nhật, Nhâm Tuất. Hà Nội, ngoại thành, Gia Lâm huyện, Kiêu Kỵ xã, Kiêu Kỵ thôn. Tế chủ: ... hợp đồng thôn thượng hạ đẳng. Cần dĩ hàn hâm tư thành (xôi gà), phù lưu thanh chước, thứ phẩm chi nghi. Cẩm kiền cáo vu: Tiên sư Nguyễn Quý Trị liệt vị, vị tiền viết, kim vì minh chiếu húy hỵ, kim nhật dự cáo, tất cáo tế lễ giã. Kính dĩ. Tam vĩ Đại vương Tối linh tôn thần liệt vị đồng lai giám cách. Phục duy thượng hưởng Ngày Kỵ chính Tổ sư Nguyễn Quý Trị. Trong văn tế nói rõ hơn công lao, sự nghiệp của Tổ sư: ... Tiên sư Nguyễn Quý Trị liệt vị, tiền viết, kim vì kỵ nhật tất tế lễ giã. Cung duy Tổ sư thị ngã, phạm mô, dị ngã, kỹ sảo nghệ tinh, đoán luyện hương quốc, kỳ thông, giá thiện, dũng đàng, mưu đường, túy bão, khai thủy, chi lợi, cập vô cùng, phản bản, chi lễ, đương hữu báo, chi phi, hiểu dụng, tiến tu, linh đức, hạnh thùy, giám chiếu, vật thành yên, mặc chuyển, diệu cơ, tái sinh hĩ, tự hữu Đại đạo. Kinh dĩ: Tam vị Đại vương tối linh tôn thần liệt vị, đồng lai giám cách. Phục duy thượng hưởng. Đình chùa, đền Kiêu kỵ được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử ngày 24-12-1984. CHIÊU NGHI HOÀNG HẬU NGHUYỄN THỊ HUYỀN Nguyễn Thị Huyền là trưởng nữ của ông Nguyễn Đình Giai ở làng Phù Ninh (tên Nôm là làng Nành) xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm được triều đình nhà Lê phong là Vũ Hân tướng công Thự tuần vũ Tứ về quân vụ Tham đốc Đặc tứ, phong tặng Chiêu vũ tướng quân Đô đốc phủ Đồng Tri tuấn trung hề hầu. Bà Huyện được bác ruột đồng thời cũng là cha nuôi đang làm Tả Thái giám (hoạn quan) ở ty Lễ giám tiến cử làm cung tần cho vua Lê Cảnh Hưng..

<span class='text_page_counter'>(212)</span> Bà Huyền sinh được Hoàng tử Lê Duy Vỹ (bố vua Lê Chiêu Thống) và công chúa Lê Ngọc Hân. Ngọc Hân kết duyên cùng Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ngày 4 tháng 8 năm 1786 tại kinh thành Thăng Long. Khi vua Lê Hiển Tông băng hà, bà Từ Cung Chiêu nghi Hoàng Hậu Nguyễn Thị Huyền lui về quê ở làng Phù Ninh tĩnh dưỡng tuổi già. Ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Tý (16-9-1792), vua Quang Trung bị bạo bệnh mất đột ngột. Ngày 8 tháng 11 năm Kỷ Tỵ (4/12/1799) Hoàng hậu Lê Ngọc Hân mất tại kinh đô Phú Xuân để lại hai con là Hoàng tử Văn Đức và công chúa Ngọc Bảo. Khi Hoàng Hậu lệ Ngọc Hân mất, Phan Huy Ích soạn năm bài văn tế trong đó có bài của Phù Ninh Từ Cung Điện văn (Văn tế của bà Từ Cung người làng Phù Ninh): Than ôi – xuân dầm mưa thụy, rõ ràng viên ngọc đóa hoa ghen; - thu dứt mây sầu, bát ngát cung ngân vầng nguyệt xế. Nhớ thưở đầu Nghiêu vắt thuế(1) trên tay, màu vàng ngọc dặt dìu; tơi sphen sân Thuấn đưa xe, bên gối, tiếng sắt cầm vui vẻ. - Cung hòa thắm rõ nét phụng quan; - nền đức sớm trỗi niềm lân chỉ (2). - Nổi hương khó vàng lượng cả, chốn tùng thu đều ém bóng thưở tiên triều; - dưới mưa móc thêm đội ơn thừa, phân qua cát cũng lây thơm bên ngoại thị(3). - Nghị lao thập mà nhờ có vẻ vang – là tiên tích đã mướn cho mang mễ. - Khép nép buổi cung vi hương nghị bén, từng vui vầy mà nức cả phấn son; - ngậm ngùi khi ngủ trạch giọt lâu (đồng hồ) đưa, những ép uổng để khuây cùng lan quế(4). - Sao sương bao nả giục thôi oanh, nắng gió cơ chi rơi trướng thúy? - Thanh thuốc rước mạch Kỳ, phương Biển (5) phút đầy vui thì luống những toán đương; - đàn trường nương phép bụt, bùa tiên, còn lo lắng thì càng thêm thân thị. - Dây dây lòng thám những thầm lo; - bặt bặt hồn thơm đà phút rẽ. - Gác vẽ cung điều ở đó, ra vào trông nền nếp hãy mơ màng; - non bồng ________________________ (1). Vắt thuế: Vắt cái khăn, ý nói công chúa đến tuổi kén chồng Phụng quan, lân chỉ: Mũ hình chim phượng, dấu chân con lân, ý nói được làm Hoàng Hậu và sinh con trai gái, dòng vua chúa hiền lành. (3) Hai câu này ý nói nhờ Ngọc Hân mà họ bên ngoại được yên lành, họ bên mẹ được nhờ cậy. (4) Khi vua còn sống thì vui vầy nét vẻ phấn son. Khi chồng mất thì cố nén giọt châu để khuây khỏa nuôi con. (5) Cách xem mạch và chế phương thuốc của danh y Bá Kỳ và Biển Thước (Trung Quốc), ý nói lo liệu thuốc thang đủ cách (2).

<span class='text_page_counter'>(213)</span> vườn lãng phương nao, hôm sớm tưởng tăm quạnh quẽ: - Trâm tà, lược vắng, bóng loan ngừng; - chăn quảy đêm phong mùi xa tẻ. - Sầu với buổi thềm không hoa rụng, khắt khe trước gió trổi vần oanh; thảm cùng khi nọn diễn mây lồng, kẽo kẹt dưới trăng sờ khúc đế. - Ôi nguyệt gác trà (cành) đồng; - sương giep ngọn hẹ. - Kiếp tử sinh vốn cũng xây vần; - trời u hiển nay đà chia rẽ. - Hay là ngại trần hoàn chật kẹp, bàn quần tiên mời lên hội bàn đào (1) hay là nhân miếu vũ vừa rồi, tòa hậu thánh ruổi về miền tử lý (2). - Cảm khúc nôi khôn rửa mạch phiền; - chan đầu gót thêm tuôn giọt lệ. - Rủi bấy nhẽ, rút mình nhân cảnh, ở sau này còn ấm lạnh nhiều bề; tiếc sao chẳng thay gót tiên du, về trước ấy được vuông tròn mọi lẽ. - Hổ tác già mà ngậm đắng cay; - trách máy nhiệm chẳng có cân nặng nhẹ. - Nghĩ hai chút tuổi ấu sung ngây ngất, chồi măng, đóa sữa chửa biết đường dường táng làm sao; - đội chín lần lòng hiếu kinh băn khoăn, bàn ngọc, sách vàng(3) âu rất mực vinh ai là thế. Rày nhà: - Hầu cách linh dư; - kính dâng điện lễ. - Ý cỏ chiều hoa ngao ngán, ngùi trồng khâm vệ muốn liều theo; - bên trời góc bể bơ vơ, riêng mượn gnhi văn mà kể. Hỡi ơ, cảm thay! Nhân dân Ái Mộ Gia Lâm lập đền thờ Ngọc Hân chỉ nói là Mẫu. Trong đền có tượng Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Ngọc Hân (gọi là mẫu Thượng Ngàn), tượng Mẫu Nguyễn Thị Huyền (gọi là Mẫu Thoải). Tại làng Nành cho đến năm 1937, chi họ Nguyễn Đình mới đổi cho làng lấy một phần dinh Thiết Lâm lập nhà thờ bà Chiêu Nghi Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Huyền cùng ba mẹ con Lê Ngọc Hân. Trong nhà thờ có tượng bà Chiêu Nghi Hoàng hậu của vua lê Hiển Tông, bài vị của bà ghi rõ: “Cố Lê Chiêu Nghi Nguyễn Thị Thúy Huyền, hiệu Thiên Trung, sinh giờ Dậu ngày 3 tháng 10 năm Quý Dậu, mất giờ Hợi ngày 1 tháng 8 năm Quý Mùi (1823) thọ 71 tuổi”.. _____________________ (1). Chỉ cõi tiên Tử lý: quê nhà ý nói Ngọc Hân chê cõi trần chật hẹp về cõi tiên, hoặc vì nhân cung miếu ở kinh đô mới (Nghệ An) chưa làm xong, vội vàng về đó cho gần quê cũ (nhà Tây Sơn ở Nghệ An, nhà Lê ở Thanh Hóa) (3) Chỉ Ngọc Hân được phong Hoàng Hậu (2).

<span class='text_page_counter'>(214)</span> ĐOAN NAM VƯƠNG TRỊNH KHẢI Tại ngã ba Nhật Tân, chỗ hai cây gạo bên đường nhựa có ngôi miếu nhỏ gọi là miếu Chúa Lâm, tức là nơi Chúa lâm chung. Đây là nơi Đoan Nam vượng Trịnh Khải tự vẫn, được nhân dân lập miếu thờ. Đoan Nam vượng Trịnh Khải tên là Tông, con cả của Trịnh Sâm (Thánh Tổ Trịnh Vương), từ lúc mới sinh đã bị cha ghét. Khi lớn, cha bắt ra ở nhà a bảo là Nguyễn Phương Đĩnh. Năm Canh Tý (1780), gia thần lập bè đảng mưu đồ ngôi Chúa cho ông. Việc vỡ lở, Trịnh Tông bị giáng làm con út. Năm 1782, Trịnh Sâm cho con nhỏ là Trịnh Cán, con của Đặng Thị Huệ mới lên 6 tuổi ngôi Thế tử. Ngày 13 tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh vương qua đời, Quận Huy thông đồng với Đặng Thị Huệ đưa thế tử Cán lên ngôi Chúa, ngay hôm ấy vua Lê hạ sắc dụ lập Thế tử Cán làm Điện Đô vương. Quận Huy độc đoán, chuyên quyền làm nhiều điều sằng bậy, tư thông với chính cung. Khắp đầu đường, xó chợ đều có câu ca: “Trăm quan có mắt như mờ, Để cho Huy quận vào rờ chính cung!” Đặng Thị Huệ thông đồng với quận Huy bắt giam Trịnh Tông ở nhà Tả Xuyên. Sau nhân 49 ngày của chúa Trịnh Sâm, quân Tam phủ( Kiêu Binh) nổi loạn giết chết Huy quận, phanh bụng moi gan ăn sống, phá nhà quận Huy, Đặng Thị Huệ và phe đảng, Giáng Trịnh Cán làm Cung quốc công, dời ra ở phủ Lượng quốc công rồi bệnh ngày càng nặng, chết. Trịnh Tông được sắc phong làm Nguyên súy Tổng quản Quốc chính Đoan Nam vương. Từ đấy quân Tam phủ ngày càng càn rỡ, không ai khống chế nổi, thế nước suy yếu. Chúa giữ chính quyền được bốn năm, đến tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn đem binh đánh đô thành. Các tướng tài đều tử trận, tình thế vô cùng nguy cấp, Chúa Trịnh Khải, thân làm tướng bày trận ở bến Tây Long chia làm 5 đạo quân: hiệu Tả bộ giữ mặt Đông Long, hiệu Hữu bộ giữ mặt Tây Hổ, hiệu Tiên bộ giữ mặt cửa thành Tiền Lâu, hiệu Hậu bộ giữ mặt Hậu lâu cạnh bờ hồ Thủy quân (hồ Hoàn Kiếm), còn hai hiệu Nhưng, Kiệu ở trung quân để hộ giá. Quân Tây Sơn xông vào, dùng hỏa hổ phun lửa vào quân Chúa, quân lính hoảng sợ, quăng khí giới chạy thục mạng, thế trận bị vỡ. Chúa vội cởi bộ áo trận, đổi khăn chữ Đinh (丁) tụt xuống ngồi nép sau ngăn hòm da rồi co đầu coi quay về phủ. Chúa thấy quân Tây Sơn đã lọt vào được trong phủ, liền chạy ra bờ hồ Minh Đường, nhằm phía cửa Yên Hoa (Yên Phụ) mà chạy. Chúa chạy trốn đến bờ sông Hồng thì gặp Nguyễn Thưởng là gia thần của Chúa, đón chúa ở dọc đường đi theo Chúa chỉ còn có Lý Trần Quán,.

<span class='text_page_counter'>(215)</span> một toán quân nhỏ đưa Chúa sang sông tới huyện Yên Lãng. Quán quen biết Tuần huyện Nguyễn Trang quê ở làng Hạ Lôi, Trang vốn là tướng cướp, hồi nhỏ có theo học Quán. Quán nhờ Trang hộ tống Chúa. Trang đem 50 quân giữ lấy Chúa và nói: “Nếu ông là Đoan Nam vương thì cứ nói thật với tôi, nếu không xảy ra việc gì thì đừng có trách”. Chúa giấu diếm nói mình là Tham tụng Bùi Huy Bích. Trang nói: “Ông chớ nói dối người ta. Các điệu bộ che đậy của Chúa tôi nhà ông lúc nãy tôi đã thấy cả rồi, còn che mắt được ai nữa. Từ xưa đến nay, hưng phế là việc thường, ông cũng không thể tránh khỏi, đừng có làm gì nữa cho thêm nhọc mệt”. Trang sai người đi báo cho quân Tây Sơn đã bắt được Chúa. Lý Trần Quán nghe tin thân hành đến chỗ Chúa đập đầu kêu khóc mà nói: “Làm Chúa đến nông nỗi này là do tội của tôi”. Quán trách Trang. Trang thản nhiên đáp: “Sợ thày không bằng sợ giặc, yêu Chúa không bằng yêu thân mình”. Nói rồi Trang quát tay chân dìu Chúa về kinh đô. Đưa Chúa qua bến đò Chèm, về trọ qua đêm ở làng Nhật Tảo. Sáng hôm sau, ngày 27 tháng 6 năm Bính Ngọ (1786) từ đình Nhật Tảo theo đường đê sông Hồng đến quán nước ở Nhật Chiêu ngồi nghỉ uống nước. Bất ngờ Chúa Trịnh Khải mượn được con dao bổ cau của bà hàng nước cứa cổ. Nguyễn Trang giằng lấy, vết thương còn nông, Chúa lấy tay móc cổ xé cho rách cũng bị Trang ngăn chặn. Một chốc sau, Chúa thấy bụng nôn nao, buồn bực, đòi uống nước lạnh. Trang sai người lấy nước cho Chúa. Chúa uống xong thì chết. Trang sai người khiêng xác Chúa về Kinh. Quân Tây Sơn phơi xác Chúa ngoài cửa Tuyên vũ. Sau dung kiệu rồng đưa ra an tang ở lăng Cung Quốc công ( nơi chôn Trịnh Căn). Từ việc khâm liệm, đưa tang, chôn cất đều theo đúng nghi lễ vua chúa. Lý Trần Quán nghe tin Chúa chết liền tự mình nằm trong áo quan sai người chôn, hôm đó là ngày 29 tháng 6 năm Bính Ngọ. Nhân dân Nhật Chiêu dựng miếu thờ ngay tại quán nước nơi Chúa chết, gọi là miếu Chúa Lâm, tức là nơi Chúa lâm chung. Nhân dân hương khói phụng thờ cho đến ngày nay. NGỌC KIỀU PHU NHÂN Vào thời Lê - Trịnh, hồ Hoàn Kiếm tức hồ Lục Thủy kéo dài xuống phố Hàng Bài, đầu Phố Huế, bờ hồ giáp với chùa Liên Trì nay la Bưu Điện Hà Nội, phía đối diện thì bờ hồ ăn vào tận phố Hàng Trống ngày nay. Hồ rộng, Chúa Trịnh cho thao diễn thủy quân, nên hồ Hoàn Kiếm còn có tên hồ Thủy Quân. Vào thời Lê Trịnh, thời Tây Sơn, thời Nguyễn, khu vực phố Hàng Trống, ngõ Bảo Khánh, phố Tràng Tiền, phố Hàng Khay, còn là đất thôn Cựu Lâu, huyện Thọ Xương. Phố Hàng Trống ngày nay là xóm Hàng Hoa thuộc thôn.

<span class='text_page_counter'>(216)</span> Cựu Lâu, dân gian gọi là xóm Cô đầu, suốt ngày đêm ở đây vang lên tiếng hát: “Lá đào rắc lói Thiên Thai, Suối tiên, oanh đưa luống ngậm ngùi Nửa năm tiên cảnh Một phút trần ai Đá mòn, rêu nhạt Cửa động Đầu non Đường lối cũ… Ngàn năm ngơ ngẩn bóng trăng chơi(1) Tiếng hát ngất ngây, quyến rũ trầm bổng của những ả đào mặt hoa da phấn, áo xiêm lộng lẫy khiến cho lòng người xao xuyến, cùng tiếng phách “chát, chát” lúc khoan thai, lúc dồn dập, tiếng đàn đáy khi thì: “Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa” cùng với tiếng điểm xuyết “tom tom, tom chát” của trống chầu đã níu chân khách mày râu. Tiếng hát, tiếng đàn, tiếng phách, tiếng trống chầu vang vọng trên mătj hồ làm sống dậy cả đất kinh kì xa xưa thơ mộng, thanh lịch nhưng lại rất hào hùng. Nơi đây – xóm Hàng Hoa của thôn Cựu Lâu xưa là xóm cô đầu nổi tiếng đất kinh kì ngàn năm văn vật, vào thời vua Lê, Chúa Trịnh đã xuất hiện đào nương Nguyễn Thị Huệ. Nàng Huệ- tên một loài hoa trắng tinh một mầu thanh khiết và ngan ngát hương thơm, cuống hoa dài, vươn lên cao đón ánh nắng ban mai của vừng hồng – đã là một đào nương nổi tiếng vang bóng một thời. Hồi còn tuổi thiếu nữ, tuy sống ở xóm Hàng Hoa ngày ngày được hưởng không khí ngây ngất trong tiếng hát, tiếng đàn, tiếng phách, nhưng Đào Huệ không vào nghề một cách tự giác như những cô đào mặt hoa, da phấn xiêm áo xênh xang ở xóm Hàng Hoa mà do hoàn cảnh đưa đẩy đến. Nguyễn Thị Huệ vốn là con gái một viên Thái y tài giỏi, tính tình phúc hậu, ngoài việc chữa bệnh trong cung vua phủ chúa, ông còn chữa bệnh làm phúc cho bàn dân thiên hạ. Tiền bạc vua chúa ban cho, ông lại phân phát cho người nghèo khó trong xóm Hàng Hoa, trong làng Cựu Lâu, nên khi ông bà đột ngột qua đời, thì cảnh nhà trở nên túng quẫn… Nàng Huệ là một cô gái xinh đẹp, nết na lại thông tuệ, cha cho theo ngòi bút nghiên, nên vào tuổi 11, 12 đã nổi tiếng văn hay, chữ tốt. Nàng còn hát hay, đàn giỏi. Tiếng hát ca trù, tiếng phách của nàng trong căn nhà tranh vách đất, rào dậu kín chung quanh bằng hàng cây dâm bụt, quanh năm nở __________________________ (1). Lời trong bài hát Tống biệt hành.

<span class='text_page_counter'>(217)</span> hoa đỏ rực, với bờ cúc tần phủ những đám tơ hồng vàng rực rỡ đôi lúc vọng ra tiếng hát khiến bao kẻ mày râu đi ngang qua ngẩn ngơ bước không đành. Tuy vậy nàng Huệ chỉ hát chơi cho vui cửa vui nhà. Nhưng rồi vào năm nàng Huệ 16 tuổi, cái tuổi trăng tròn, đẹp nhất của thời con gái thì người cha làm ra tiền bạc để nuôi sống cả nhà đột ngột qua đời. Mẹ thương cha sầu tủi rồi mang trọng bệnh, gánh nặng gia đình nuôi mình, nuôi đàn em nhỏ, thuốc thang cho mẹ đè nặng lên đôi vai nàng Huệ. Tình cảnh đó buộc nàng Huệ phải bước vào nghề “ca xướng”, để duy trì cuộc sống của cả một gia đình mà bây giờ nàng Huệ làm chủ. Từ đó nàng Huệ phải theo chị, theo em trong xóm Hàng Hoa tập hát các làn điệu ca trù như hát ru, hát hãm, hát ngâm, bồng mạc, sa mạc, học thuộc lòng nhiều bài ca mà khách thich nghe như “ Hưu kỳ thiên tại hạ” “Nhị nguyệt nguyên hòa tiết” của Lê Đức Mao, “Tỳ Bà hành” của Bạch Cư Dị, “Tương tiến tửu” của Lý Bạch, “Tiền Xích Bích phú”, “ Hậu Xích Bích phú” của Tô Đông Pha. Chẳng bao lâu Nguyễn Thị Huệ trở thành một đào nương nổi tiếng khắp đất kinh kỳ và tiếng đồn tới cả Phủ Chúa. Nguyễn Thị Huệ đã xinh đẹp, nổi tiếng hoa khôi từ khi ở tuổi lên mười, nay bước vào tuổi 16 càng đẹp rực rỡ, lại hát hay, đàn giỏi, làm say mê biết bao người. Biết bao kẻ mối manh, nhưng nàng Huệ “vào nghề kỹ nữ” là để kiếm kế sinh nhai nuôi em, phụng dưỡng mẹ đang trên giường bệnh, nên đều tỏ vẻ hững hờ, chỉ chăm chú vào việc luyện giọng, luyện đàn, luyện cách đánh phách sao cho ăn nhập với nội dung của từng câu hát để hát hay, đàn ngọt, có đông khách, kiếm được nhiều tiền để chi tiêu trong gia đình hàng ngày. Thưở đó có một kép hát đàn đáy rất giỏi, rất ăn nhịp đã nâng tiếng hát của nàng Huệ lên đỉnh cao của nghề. Tiếng hát, tiếng đàn, nhịp phách của Đào Huệ được Phủ Chúa biết tới và Đào Huệ thường cùng những đào kép nổi tiếng đất kinh kỳ vào hát Cửa quyền trong Phủ Chúa. Giữa chốn cung điện nguy nga tráng lệ, có biết bao con chim họa mi, biết bao tài tử đua hát, vậy mà tiếng hát, nhịp phách, cũng như sắc đẹp của nàng Huệ đã vượt lên trên tất cả, đến nỗi nàng làm Chúa Trịnh say mê, giữ nàng lại trong Phủ. Nàng Huệ đâu muốn sống trong phủ Chúa hưởng giầu sang phú quý, mà muốn như con chim sơn ca tung cánh trên bầu trời bao la của đất kinh kỳ hoa lệ, được bay lượn trên mặt Hồ Gươm lăn tăn gợn sóng đem tiếng hát, tiếng phách, tiếng đàn của mình cho những người thanh lịch, những người bình dân trong làng, trong phố nghe giữa cảnh trời nước mênh mông, hòa cùng tiếng gió, tiếng chim trời, chứ không muốn tiếng hát của mình phải bó hẹp trong bốn bức tường thành nơi cung cấm. Nhưng ý Chúa là ý trời, nàng Huệ đâu cưỡng lại được, đành phải ngậm ngùi, than khóc, chắp tay vái mẹ, vái bà trưởng phường, cùng các bậc nền.

<span class='text_page_counter'>(218)</span> chị, nền anh để ở lại nơi cung cấm. Chàng kép đánh đàn cho nàng, đối với nàng tuy chưa có hẹn ước duyên nợ ba sinh, nhưng vẫn phẫn nộ thét lên: “Nàng Huệ là của tôi !”. Nhưng tiếng kêu đó chưa dứt thì chàng nghệ sĩ tội nghiệp, si tình đó đã bị Kiêu binh trong Phủ Chúa lôi tuột đi rồi đẩy ra đường phố. Nàng Huệ được Chúa yêu chiều, phong cho chức Ngọc Kiều phu nhân, lai giao cho việc trông coi ban Nữ nhạc của Phủ Chúa, dạy cho họ đàn, hát, múa để biểu diễn trong những dịp đăng quang, hội hè, tiếp sứ giả. Từ ngày Ngọc Kiều phu nhân phụ trách ban nữ nhạc thì âm nhạc cũng như ca vũ của Phủ Chúa vượt lên tới đỉnh cao của nghệ thuật. Chúa Trịnh còn cho xây một ngôi nhà nhỏ, nhưng đẹp ở ngay nền nhà cũ của nàng ở xóm Hàng Hoa để nàng Huệ phụng dưỡng mẹ và nuôi em. Chúa lại ban thêm tiền bạc để nàng cơm cháo thuốc thang cho mẹ, nuôi các em để nàng yên tâm dìu dắt ban nữ nhạc của Phủ Chúa. Phục vụ ở Phủ Chúa một thời gian dài, khi mái tóc bà đã điểm bạc, bà xin Chúa cho về nhà nuôi các em nhỏ. Chúa chuẩn y lại ban thêm tiền bạc để sửa sang ngôi nhà. Trở về xóm Hàng Hoa, nơi sinh thành và đào tạo bà trở thành một danh ca xuất sắc, Ngọc Kiều phu nhân lại tiếp tục nghề cầm ca, nhưng không phải để kiếm sống mà là một thú vui tao nhã. Bà cùng những nghệ nhân ca trù tài hoa khác sáng tác các bài hát, nâng cao nghệ thuật hát múa cho lớp con cháu có được giọng ca, nhịp phách, tiếng đàn điêu luyện. Bà góp phần đưa Ca trù là một loại hình dân ca thịnh hành vào thời Lê - Trịnh. Căn nhà nhỏ của bà ở xóm Hàng Hoa, làng Cựu Lâu lại tấp nập đón các danh ca, danh cầm tới đàn hát, bình văn, xướng họa thơ và tưng bừng tiếng hát, tiếng đàn, nhịp phách. Khi Ngọc Kiều phu nhân Nguyễn Thị Huệ mất, thì nhà nàng trở thành ngôi đền với danh hiêụ “Đông Hương thần nữ”, còn gọi là đền Hàng Trống, nay từ đó đi qua một đoạn phố Bảo Khánh là tới hồ Hoàn Kiếm xưa kia đã từng soi bóng nàng, đã ấp ủ tiếng hát của nàng trong làn nước xanh mênh mang man mác. NỮ THẦN BẾN THÚY ÁI Năm Bính Ngọ (1786) thời vua Lê Hiển Tông, thủy quân Tây Sơn tiến như vũ bão vào chiếm cửa biển Vị Hoàng (Nam Định) rồi theo đường sông Hồng tiến về kinh thành Thăng Long. Đoan vương Trịnh Khải tự mình làm tướng đưa quân ra bến Tây Luông chống cự, nhưng thế quân Tây Sơn mạnh như vũ bão phá tan thủy quân Trịnh..

<span class='text_page_counter'>(219)</span> Ngô Cảnh Hoàn là thuộc tướng của Hoàng Phùng Cơ giữ chức chỉ huy đội Tiền Trạch. Ông là người làng Trạo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh – giữ bến đò gần Thúy Ái. Quân Trịnh thua to, tan rã nhưng Ngô Cảnh Hoàn vẫn cầm đao đứng ở đầu mũi thuyền chỉ huy chiến đấu. Ông bị trúng đạn súng lớn của quân Tây Sơn tử trận ở bến đò Thúy Ái. Tin tức đau buồn đó báo về làng Trạo Nha, mọi người thương cảm khóc lóc, riêng bà Phan Thị Thuấn khi đó mới 20 tuổi người làng Thúy Ái (1) , huyện Thanh Trì, là thiếp thứ ba của Ngô Cảnh Hoàn có nhan sắc vẫn bình thản tự nhiên như không có chuyện gì xảy ra, lại chú ý đến đồ nữ trang đeo trên người mặc cho mọi người chê cười. Đến tuần bách nhật, bà Thuấn thu xếp cùng mấy người trong nhà, trong họ ra Bắc. Bà Thuấn đưa mọi người đến chùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng là nơi vợ cả của tướng quân Ngô Cảnh Hoàn đang tu làm lễ siêu độ cho chồng. Sáng hôm sau bà đưa người nhà đến bến đò Thúy Ái, bà làm lễ gia tiên, vĩnh biệt họ hàng rồi nói: “Chồng thiếp chết vì nước, thiếp xin theo để trọn nghĩa với chồng, trong họ đừng đắp mộ cho thiếp”. Nói xong bà chèo thuyền ra giữa sông rồi gieo mình xuống dòng nước xoáy. Cảm phục tấm lòng chung thủy của bà, nhân dân lập đền thờ bà ở bến Thúy Ái. Lê Chiêu Thống phong bà là “Tiết liệt phu nhân”. Ở xã Trạo Nha cũng có đền thờ bà. Sau sứ thần nhà Thanh sang cảm động tấm lòng trung trinh của bà đã làm bài thơ viếng: “Nhĩ Hà phong trích cương thường lệ Súy Ái ba đào tiết nghĩa thân Khích trọc nhất thời giang hữu sắc Dương thanh thiên cổ thủy vô thần” Dịch thơ: “Tiết nghĩa thân chìm đò Súy Ái Cương thường lệ rỏ nước sông Hồng Nhất thời sóng nước pha màu đục Muôn thuở danh thơm nước vẫn trong” QUANG TRUNG HOÀNG ĐẾ Đất nước ta kể từ khi Nam triều thắng Bắc triều chấm dứt chiến tranh Lê - Mạc kéo dài 65 năm, thì lại rơi vào cảnh Trịnh-Nguyễn phân tranh, chiến tranh liên mien, dân tình vô cùng điêu đứng. _________________________ (1) Còn gọi là Súy Ái..

<span class='text_page_counter'>(220)</span> Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra nhưng đều bị quân đội chúa Trịnh, chúa Nguyễn đàn áp. Mùa xuân năm 1771, tại ấp Tây Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, tỉnh Bình Định có cuộc khởi nghĩa do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Tổ tiên của ba anh em Tây Sơn ở làng Thái Lão, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An bị chúa Nguyễn vượt sông Gianh ra cưỡng bức cùng nhiều nông dân Nghệ An vào khai hoang ở Đàng Trong. Ba ông đã giương cao cờ đào với khẩu hiệu: “lấy của nhà giầu chia cho nhà nghèo” nên được nhân dân người Việt, người Chàm, người các dân tộc ở Tây Nguyên nhiệt liệt hưởng ứng Mùa thu năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn hạ thành Quy Nhơn, thừa thắng chiếm Quảng Nam, Phú Yên. Đến cuối năm đã giải phóng cả Quảng Nam, Bình Định, cắt đất Đàng Trong của chúa Nguyễn làm hai vùng. Lợi dụng cơ hội quân Tây Sơn phải đối phó với quân Nguyễn, chúa Trịnh đem quân vượt sông Gianh đánh Phú Xuân. Quân Nguyễn từ phía Nam cũng đánh vùng nghĩa quân Tây Sơn kiểm soát. Quân Tây Sơn bị đánh ép từ hai phía. Tây Sơn tạm hòa hoãn với Trịnh, dốc toàn lực đánh chúa Nguyễn, từ năm 1776 đến năm 1783, quân Tây Sơn 5 lần đánh chiếm Gia Định, chúa Nguyễn phải lưu vong ở Xiêm ( Thái Lan). Quân Tây Sơn hoàn toàn làm chủ Đàng Trong. Chúa Nguyễn Ánh cầu cứu quân Xiêm, tháng 7-1784 vua Xiêm cho 20.000 thủy quân, 300 chiến thuyền, 30.000 quân bộ chia làm hai đường đổ bộ vào Rạch Giá. Được quân Nguyễn Ánh đưa đường, quân Xiêm đánh chiếm Tây Gia Định, thành Mỹ Tho, mặc sức cướp bóc, đốt phá, sát phu, hiếp phụ. Chính Nguyễn Ánh cũng phải thừa nhận quân Xiêm tàn bạo, nên hắn đã xin bọn tư bản phương Tây như Anh, Bồ Đào Nha, Pháp viện trợ quân đội, chiến thuyền, vũ khí tối tân để đánh nhà Tây Sơn. Đầu năm 1785, Nguyễn Huệ vị tướng bách chiến bách thắng, khi đó mới 32 tuổi chỉ huy, bố trí trận địa phục kích ở Rạch Gầm, Xoài Mút. Chỉ một trận đêm 19 rạng ngày 20 tháng 1-1785 đã tiêu diệt gần 40.000 quân Xiêm, quân Nguyễn Ánh bị diệt gần hết, Nguyễn Ánh chạy trốn trong đám loạn quân thoát sang Xiêm. Giải quyết xong Đàng Trong, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến ra Bắc, đánh tan quân Trịnh ở thành Phú Xuân, vượt sông Gianh tiến ra Bắc Hà nêu khẩu hiệu “Phù Lê diệt Trịnh”. Thủy quân Tây Sơn tấn công cửa biển Vị Hoàng ( Nam Định) rồi thần tốc tiến ra Thăng Long, ngày 2-7-1786 quân Tây Sơn diệt chúa Trịnh giải phóng Thăng Long, trao lại cơ đồ cho vua.

<span class='text_page_counter'>(221)</span> Lê Hiển Tông. Vua Lê Cảnh Hưng mất, Lê Chiêu Thống ươn hèn cầu cứu quân Thanh vào đánh Tây Sơn. Trong khi đó thì ở Đàng Trong, bọn tư bản phương Tây giúp Nguyễn Ánh đánh chiếm Gia Định, Nguyễn Lữ bất tài để mất Gia Định. Nguyễn Nhạc thì nhu nhược. Cuối năm 1788, 29 vạn quân Thanh do Tôn Sỹ Nghị chỉ huy kéo vào nước ta, chiếm Thăng Long, đóng tiền quân ở Gián Khẩu (Nam Định giáp Ninh Bình). Quân Tây Sơn do Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậmchir huy rút về phong ngự ở Tam Điệp rồi cho đô đốc Tuyết chạy về Phú Xuân cấp báo. Ngày 21-12-1788, nhận được tin, ngay ngày hôm sau Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung rồi thống lĩnh đại quân, lập tức tiến ra Bắc. Vua Quang Trung dừng lại ở Nghệ An 10 ngày để mộ thêm quân, đưa số quân lên 10 vạn người. Tại Nghệ An, nhà vua duyệt binh, đọc lời kêu gọi quân dân cả nướcnoi gương các bậc tiền nhân đánh đuổi giặc Thanh, giải phóng Tổ quốc. Ngày 15 tháng 1-1789, quân Tây Sơn đã tới Tam Điệp. Tại đây, nhà vua chia quân làm 5 đạo tiến ra Bắc đánh quân Thanh và hẹn ngày 7 tháng Giêng vào kinh thành Thăng Long ăn Tết. Ngày 25-1-1789 tức đêm 30 tết năm Kỷ Dậu, quân Tây Sơn vượt sông Đáy ở Gián Khẩu, tiêu diệt bắt sống toàn bộ quân địch. Đêm 28 tháng 1 tức mung 3 tết Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn bí mật bao vây đồn Hà Hồi ( Thường Tín) uy hiếp quân địch, qoàn bộ quân địch đầu hàng, không một tên nào chạy thoát, quân ta không tốn một mũi tên, một viên đạn. Mơf sáng ngày mùng 5 tết, quân ta tiến đánh đồn Ngọc Hồi, tiêu diệt toàn bộ quân Thanh và bộ chỉ huy của chúng. Cũng mờ sáng ngày 30 tháng 1-1789 tức mùng 5 tết Kỷ Dậu, đạo quân của Đô đốc Đặng Tiến Đông (Đô đốc Long) diệt đồn Khương Thượng rồi tiến vào thành. Trưa ngày mùng 5 tết, Đại quân của vua Quang Trung tiến vào thành, đến Cửa Nam thì Đô đốc Đặng Tiến Đông cưỡi ngựa đến trước đầu voi tâu kinh thành đã được giải phóng. Khi quân ta đánh xong đồn Ngọc Hồi, tiến như vũ bão về Thăng Long thì Tôn Sỹ Nghị sợ hãi không kịp mặc giáp đóng yên cương, vội vàng lên ngựa vượt qua cầu phao chạy sang Gia Lâm rồi cắm đầu chạy một mạch về Trung Quốc. Vua Quang Trung ban bố nhiều chính sách chấn hưng kinh tế, ban chiếu khuyến nông, chia ruộng đát cho nông dân nghèo, chiêu mộ dân ly tán khai hoang phục hóa, xá thuế cho dân. Nhà vua cũng coi trọng việc phát triển.

<span class='text_page_counter'>(222)</span> công thương nghiệp, phục hồi văn hóa dân tộc, đưa chữ Nôm vào thành văn tự chính thống của nhà nước. Nhà vua giao cho Ngô Thời Nhậm đặc biệt lo công tác ngoại giao với nhà Thanh và không ngừng củng cố quốc phòng. Quân đội Tây Sơn cả bộ binh, thủy quân, pháo binh, kỵ binh được huấn luyện tốt và trang bị mạnh, đánh đắm cả tàu đồng, tàu sắt của bọn tư bản phương Tây. Vua Quang Trung tích cực chuẩn bị binh lực để đánh bại quân Nguyễn Ánh được quân đội Pháp và Tây Ban Nha giúp đỡ và tiến đánh quân Thanh. Vua Quang Trung cũng nhận được tin ngày 28 tháng 11 năm 1787, Bá Đa Lộc đã thay mặt Nguyễn Ánh ký với Chính phủ Pháp Hiệp ước 10 khoản, khoản chủ yếu là: - Nguyễn Ánh nhượng cho Pháp đảo Côn Lôn, cửa biển Hội An, để cho tư bản Pháp buôn bán trên cả nươc; cung cấp binh lính, lương thực cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một nước ở phương Đông. - Chính phủ Pháp nhận giúp đỡ Nguyễn Ánh 4 tàu chiến, một đội quân 1650 người. Trong khi vua Quang Trung tập trung lực lượng tiêu diệt các vụ nổi loạn ở Bắc Hà, củng cố chính quyền mới, đối phó với nhà Thanh, chuẩn bị lực lượng tân công Trung Quốc đòi lại 9 châu. Nhà vua sắc phong Vũ Văn Dũng, Đại Đô đốc Chiêu viễn hầu đi sứ Trung Quốc kiêm lãnh toàn quyển trong việc tâu thưa để xin lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây để dò ý tứ và cầu hôn với một công chúa để khiêu khích tự ái của vua Thanh. Sợ uy của vua Quang Trung, vua Càn Long phải ưng thuận. Trong khi đó thì ở phía Nam, Nguyễn Lữ thì bất lực, Nguyễn Nhạc thì tự mãn, hẹp hòi, hưởng lạc. Lợi dụng cơ hội đó, Nguyễn Ánh có sỹ quan Pháp chỉ huy, có vũ khí hiện đại, tàu chiến đóng từ năm 1790 từ Gia Định đánh ra Bình Thuận, Diên Khánh là đất do Nguyễn Nhạc cai quản. Vua Quang Trung đã chuẩn bị binh thuyền, sắp đặt kế hoạch để vào nam đánh Nguyễn Ánh và bọn can thiệp Pháp. Ngày 10 tháng 7 năm Quang Trung thứ 5 (27-8-1792), nhà vua gửi cho nhân dân hai phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn bài hịch trong đó có đoạn: “Giờ đây ta tuân lệnh của Hoàng huynh sửa soạn một đạo thủy bộ mạnh mẽ thân hành kéo vào đánh bại bọn giặc, dễ như bẻ cành khô, củi mục. Các người không được quá nhẹ dạ cả tin vào những lời đồn đại của bọn Tây phương. Hạng người đó nào có tài cán gì? Bọn chúng tất cả đều mắt xanh như mắt rắn và các người chỉ xem chúng như xác chết bị sóng biển dạt vào. Có gì đáng lạ để nói với ta về những chiếc tàu đồng và khinh khí cầu của chúng”. Vua Quang Trung nói vậy là có cơ sở, Bọn can thiệp Pháp thường khuếch đại súng đại bác, tàu bọc dồng, khinh khí cầu. Năm 1782, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh đắm và đốt cháy một chiếc tàu bọc.

<span class='text_page_counter'>(223)</span> đồng do một tên sĩ quan Pháp là Maruyen chỉ huy. Năm 1783, Nguyễn Ánh nhờ một thày tu người Tây Ban Nha sang Phi Líp Pin cầu cứu quân Tây Ban Nha viện trợ binh lính, tầu chiến để chống quân Tây Sơn đã bị thủy quân Tây Sơn bắt giữa biển.Năm 1790, Một giáo sỹ Pháp là Bơ răng xoa, thả một khinh khí cầu ở Gia Định để lòe bịp phép lạ của người Tây phương. Bảy năm sau, Bơ răng xoa cũng bỏ mạng ở Nha Trang. Vua Quang Trung đang khẩn trương kiểm tra thuyền bè quân lương chỉ chờ chuyển gió Nam là tiến vào giải phóng Gia Định. Tin vua Quang Trung tiến vào Nam làm cho bọn Nguyễn Ánh, bọn can thiệp Pháp và Xiêm La vô cùng hoảng hốt. Nhưng thật không ngờ, nhà vua bị bạo bệnh, đột ngột qua đời ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Tý ( 16-91792) khi bước vào tuổi 40. Vua Quang Trung mất là cái tang lớn cho dân tộc Việt Nam. BẮC CUNG HOÀNG HẬU LÊ NGỌC HÂN Lê Ngọc Hân là con vua Lê Hiển Tông, về họ mẹ, theo tập “Phả ký họ Nguyễn Ngọc” thì làng Phù Ninh, tục gọi là làng Nành, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ( nay là làng Ninh, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội) chép đại lược tiểu sử của Lê Ngọc Hân như sau: “Hiển khảo Nguyễn tướng quân tự Phúc Duệ, tước Tuấn Trung hầu, làm chức Tham đốc sự vụ ở vệ thứ tư đạo quân Thần Vũ triều Lê, sinh hạ được con trai, con gái 18 người. Trưởng nữ là Nguyễn Thị Huyền lấy vua (Lê Hiển Tông) được phong là Từ cung Chiêu Nghi hoàng hậu. Bà Huyền sinh hoàng tử Lê Duy Vĩ (bố vua Lê Chiêu Thống) và công chúa Lê Ngọc Hân. Ngọc Hân sinh ngày 27-4 năm Canh Dần (22-5-1770). Công chúa Ngọc Hân không ỷ mình là con vua lại kiều diễm, đoan trang, thông minh nên được tôn là Chúa Tiên và là người rất ham học. Mới 16 tuổi, công chúa đã thông làu kinh sử cả chữ Hán và chữ Nôm, am hiểu nhiều truyện thơ, điển tích của Việt Nam, Trung Quốc. Công chúa còn học tập được ở người cung nhân là nhũ mẫu các làn điệu dân ca quan họ của quê hương mẹ. Công chúa đang ngồi đọc quyển Hoàng Việt thi tuyển của quan Tham tụng Bùi Huy Bích thì đám thị nữ chạy vào với cử chỉ vui vẻ khác thường, liền hỏi: - Có chuyện gì lạ mà lũ ngươi hớn hở làm vậy? Một thị nữ cúi đầu, khoanh tay nhưng vẫn không giấu được nụ cười duyên dáng: - Thưa công chúa, không có chuyện gì lạ, chỉ có tin đức vua đã kén cho công chúa một chàng rể là bậc vương giả, tiếng tăm lừng lẫy..

<span class='text_page_counter'>(224)</span> Tin đến đột ngột khiến công chúa vừa mừng vừa lo, vừa e thẹn. Giữa lúc đó người cung nhân già, nhũ mẫu của công chúa bước vào với vẻ mặt tươi cười. Bà cung nhân già ôm lấy công chúa thủ thỉ: - Công chúa đừng quở trách chúng nó, chúng nó mừng vì đức vua gả công chúa cho một trang anh hùng tuấn kiệt, người mà chỉ trong một đêm phá tan tành cơ nghiệp của họ Trịnh, bình định cõi Bắc Hà, tôn phù vua Lê. Công chúa e lệ hồi lâu mới nhỏ nhẹ hỏi: - Ra đó là Nguyễn Huệ, em vua Tây Sơn đã làm chấn động cả Bắc Hà. Ngày mùng 4 tháng 8 năm 1786, Thăng Long chứng kiến một đám cưới kì lạ của một anh hùng áo vải cờ đào lấy một công chúa cành vàng lá ngọc. Lính Tây Sơn tề chỉnh sắp thành hai hàng ở hai bên đường từ phủ của Nguyễn Huệ ở cung Tây Long đến cửa điện của vua ở trong cung cấm. Nguyễn Nhạc ra Bắc Hà buộc Nguyễn Huệ quay về Quy Nhơn bỏ mặc Bắc Hà cho đám vua quan nhà Lê bất lực. Nguyễn Huệ đành phải rút quân về Quy Nhơn đem theo cô công chúa trẻ đẹp của kinh kỳ. Mùa hè năm 1788 trong chuyến ra Thăng Long lần thứ hai có 150 voi, 100 võng cáng, trong đó có hai chiếc kiệu sơn son thiếp vàng, một cho Nguyễn Huệ và một cho Ngọc Hân công chúa. Cuối năm 1788, Lê Chiêu Thống cầu cứu vua Càn Long nhà Thanh, Càn Long cho 29 vạn quân do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị làm thống soái sang xâm lược nước ta. Tháng 11-1788, đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị qua đường Lạng Sơn tiến vào Thăng Long. Quân Tây Sơn ở Bắc Hà do Ngô Văn Sở chỉ huy chỉ có một vài vạn. Ngô Thì Nhậm bàn nên rút bộ binh về núi Tam Điệp, thủy binh về giữ cửa Biện Sơn, cho đại đô đốc Nguyễn Văn Tuyết về Phú Xuân cấp báo. Nguyễn Huệ được tin theo lời thỉnh cầu của các tướng lên ngôi Hoàng đế đặt niên hiệu là Quang Trung, phong Ngọc Hân làm Bắc cung Hoàng hậu. Trước ngày lên đường, nhà vua đến thăm Bắc cung Hoàng hậu. Ngọc Hân xúc động, đôi mắt mờ lệ, song phút yếu đuối thoáng qua, Ngọc Hân nói: - Bệ hạ ra đi xin cẩn trọng mình vàng, khi trở về nhớ mang cho thiếp một cành đào của Long thành. Vua Quang Trung hiểu tâm tư, tình cảm của Bắc cung Hoàng hậu nhớ cố hương nơi mình sinh ra và trưởng thành. Nhưng mầu đỏ của hoa đào cũng là mầu cờ bách chiến bách thắng của quân Tây Sơn, cũng là mầu áo chiến bào nhà vua đang mặc trên mình. Lời nhắc nhở của Ngọc Hân càng tăng thêm quyết tâm cho vua Quang Trung: “Phải đánh thắng giặc Thanh giữ vững chủ quyền độc lập của đất nước”. Vua Quang Trung gật đầu, căn dặn Ngọc Hân chăm lo dạy bảo các hoàng tử, công chúa, cung nữ rồi lên đường..

<span class='text_page_counter'>(225)</span> Vua ra tới Tam Điệp các tướng tới tạ tội. Vua nói: “Mới nghe nói việc rút quân ta đã biết đó là kế của Ngô Thì Nhậm, đến khi hỏi Văn Tuyết thì quả đúng như thế”. Vua Quang Trung cho quân sĩ ăn Tết trước, nhà vua tuyên bố: “Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên đán trước, đợi đến sang xuân, ngày bẩy vào Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi lời ta nói xem có đúng không!” Ngày 30 Tết, quân Tây Sơn xuất phát đánh thắng các trận Gián Khẩu, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa. Tôn Sĩ Nghị nghe tin sợ hãi kêu lên: “Sao mà thần tốc thế!” , rồi không kịp mặc giáp vội vàng lên ngựa qua cầu phao bắc ngang sông Hồng chạy trốn. Quân lính tranh nhau chạy theo, cầu đứt, giặc bị chết không biết bao nhiêu mà kể. Ngày mùng 5 tết đại quân vào Thăng Long giải phóng. Nghĩ đến Bắc cung Hoàng hậu, nhà vua sai đô đốc Nguyễn Văn Tuyết phi ngựa mang cành đào Nhật Tân vào Phũ Xuân tặng Bắc cung Hoàng hậu. Sau khi vua Quang Trung đại thắng quân Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu lại trở về Phú Xuân và Ngọc Hân đã sinh với vua được con gái đầu lòng là công chúa Ngọc Bảo vào giờ Hợi ngày 20 tháng 4 năm Canh Tuất (4-6-1790). Tiếp đến giờ Mão ngày 14 tháng Giêng năm Tân Hợi (27-2-1792) sinh hoàng tử Văn Đức. Lê Ngọc Hân không cậy mình trẻ đẹp là công chúa được chồng yêu, Ngọc Hân đã gắn bó đời mình với Nguyễn Huệ, bà giữ trọn phận dưới với hoàng hậu họ Phạm với nhạc mẫu Nguyễn Thị Đồng. Đối xử công bằng với các con mình và con của các bà khác và các thị nữ quần thần của triều Tây Sơn. Do sử sách nhà Tây Sơn bị Nguyễn Ánh triệt phá, đến nay ta không biết rõ sự nghiệp của Ngọc Hân từ khi về Phú Xuân mà được các sĩ phu và nhân dân tôn là hai nữ kiệt nhà Tây Sơn (Ngọc Hân và Bùi Thị Xuân). Đến nay chỉ còn một số bài biểu của triều đình chúc mừng Hoàng hậu trong đó có bài “Chúc mừng Hoàng hậu Ngọc Hân trong dịp tết Đoan Ngọ”: “…Kính nghĩ Hoàng hậu là ánh sáng lan tỏa lan của lá ngọc, cành vàng, là chi nhánh của sông Ngân, sông Phái. Lúc bà vu qui cung nhân theo thứ bực thuận lòng giúp rập, giặt giũ áo xiêm, tiếng tốt đã chói lọi, nên cúng kính hòa thuận khi đưa dâu theo hàng trăm cỗ. Lúc gà gáy nửa đêm bà ân cần giúp Hoàng đế mặc áo thêm để lo việc triều chính. Đặt nền tảng đầu tiên của Bà, có một lần Bà đã động viên nhắc nhở quân lính mang áo giáp ra chiến trường thì đã mang về chiến thắng. Về tề gia trị quốc, Bà đã tham gia vào việc chiến chinh của Hoàng đế. Bà khiêm nhường hòa nhã, cần phát huy mãi mãi cái trong sáng tự nhiên”. Một bài khác chúc mừng Hoàng hậu Ngọc Hân có đoạn viết: “…Kính nghĩ Hoàng hậu bệ hạ là dòng dõi hoàng tộc, ân đức rạng rỡ, đánh đàn, rũ.

<span class='text_page_counter'>(226)</span> áo mà hòa mục phong hóa thành trong. Đọc Kinh thư, giải Kinh Dịch, làm nền tảng cho việc đẹp đẽ dồi dào, đưa mày, vẫy tay, siêng cần lo việc thành tựu nghiệp cả. Sinh nhà hạ, hưng nhà Chu, tạo nên công nghiệp lớn…” Trong thời gian ở Phú Xuân, Ngọc Hân đã sáng tác nhiều văn thơ. Đến nay sử sách chỉ còn lưu lại ba bài trong đó có bài Biểu chúc thọ vua Quang Trung năm 40 tuổi, lúc đình thần tổ chức tứ tuần cho Hoàng đế tại Phú Xuân vào năm 1792: Dịch nghĩa: “Nay gặp khánh tiết mừng tuổi thọ của Hoàng đế, khúc nhạc thanh tương ứng luật hợp tiết, cồn hoa đang độ, cây ngọc đưa hương, cây bích đào dâng quả trường sinh, trăng bạc nhả ánh trong, hồ băng lại nở hoa buổi sáng. Mây mù sắc ưa nồng đượm mà khuê phòng hương nức khí lành sáng tỏ mà áo xiêm thêm sắc kính cẩn dâng bài biểu chúc mừng. Cúi nghĩ lấy khi lành trình điểm tốt, tưng bừng sắc con phượng, con lân đày khắp thiên hạ về cõi không sao Dực, sao Chẩn, điện quế truyền hương, tiêu tràn điêu mừng. Kính nghĩ Hoàng đế bệ hạ, tài cao thiên cổ, đức được cả trời đất. Tuân mệnh trời trừ gian, diệt bạo vũ công chấn động cả muôn phương, hùng khí Tây Sơn đã tạo nên sự nghiệp đế vương, ở cõi giao dã phía Đông đã định xong qui mô của nước nhà. Mặt trời đã rạng mà nghiêm dáng tin sao tinh thọ chiếu sáng mà thiên hạ đều cùng ngưỡng lên trông mong nương tựa sao u của Bắc Đẩu điện vậy, ánh sáng nổi lên chen mừng vạn thọ. Cửa trời mây mở sắc trông thấu triệt mặt kính ngàn thu. Bốn mùa thường điều hòa khiến cái đức của vua đẹp như ngọc và sáng như đuốc, trong muôn năm mãi chiếc âu vàng. Hạ thần đức thẹn với thơ Quan Thư, ngượng ngùng với thơ Cưu Mộc. Trong nội thất theo hầu được ngồi cùng bên với áo xiêm lộng lẫy. Vái bệ hạ mong tuổi tính bằng thiên niên kỉ, khởi đầu là một mùa xuân tám ngán năm. Chốn nội đình lễ sát nghe nhạc thiều cầu mong phúc ấm nước nhà được vạn năm vô hạn”. Vua Quang Trung đang khẩn trương kiểm tra thuyền bè quân lương chỉ chờ chuyển gió Nam là tiến vào giải phóng Gia Định. Tin vua Quang Trung tiến vào Nam làm cho bọn Nguyễn Ánh, bọn can thiệp Pháp và Xiêm La vô cùng hoảng hốt. Nhưng thật không ngờ, nhà vua bị bạo bệnh, đột ngột qua đời ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Tý ( 16-9-1792) khi bước vào tuổi 40(1). ______________________ (1). Về ngày mất của vua Quang Trung đên nay vẫn chưa nhất quán, song đáng tin hơn cả là “Tây Sơn thực lục” ghi ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Tý, Phan Huy Ích trong bài thơ.

<span class='text_page_counter'>(227)</span> Vua Quang Trung băng hà là cái tang lớn của triều đại Tây Sơn, của nhân dân Việt Nam. Đối với Bắc cung Hoàng hậu Ngọc Hân thì là cái tang vô cùng đau đớn. Bà đã thổ lộ nỗi lòng mình trong bài văn tế vua Quang Trung mà nhiều người cho rằng đây là tác phẩm tiêu biểu nhất trong thời Tây Sơn: “…Từ cờ thắm chỉ và cõi Bắc Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương Se dây vâng lệnh phụ hoàng Thuyền lan chèo quế thuận đường vu qui Trăm nghìn dặm quản chi non nước Chữ nghi gia mừng được phải duyên Song yên muôn đợi ơn trên Rõ ràng vẻ thúy nói chen tiếng cầm Phượng che chở vụng lầm nào kể Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời Dẫu rằng non nước biển dời Nguồn tình chắc chẳng chút vơi gọi là Lo tang lễ cho vua Quang Trung xong, Ngọc Hân rời khỏi cung điện ở Phú Xuân ra sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân – Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Ngọc Hân Bắc cung Hoàng hậu đã sống những ngày thương nhớ vua Quang Trung và vận nhà Tây Sơn ngày càng suy, có nguy cơ bị Nguyễn Ánh tiêu diệt làm cho bà đau khổ, mắc bệnh hiểm nghèo rồi qua đời ngày 8 tháng 11 năm Kỷ Tỵ (Ngày 4-12-1799) tại Phú Xuân ( Huế), hưởng thọ 29 tuổi. Vua Cảnh Thịnh truy phong là “Như Ý Trung thân Trinh nhất Vũ Hoàng hậu”. Đáng chú ý là khi cử hành tang lễ Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân, Phan Huy Ích đã viết 5 bài văn tế bằng văn Nôm: - Một bài soạn cho vua Cảnh Thịnh đứng tế. - Một bài soạn cho các công chúa của vua Quang Trung tế. - Một bài soạn cho bà Từ Cung Hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền. - Một bài soạn cho các tôn thất nhà Lê. - Một bài soạn cho bà con bên ngoại ở làng Phù Ninh. Được bọn can thiệp Pháp giúp sĩ quan chỉ huy, vũ khí, tầu chiến, ngay sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Ánh đã nhanh chóng đánh bại Nguyễn Lữ chiếm lục tỉnh Nam Kỳ. Tiếp đó đánh bại cha con vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) ở miền Nam Trung bộ ngày nay. Năm 1801, Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân ( Huế), vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc cùng Bùi Thị _____________________________.

<span class='text_page_counter'>(228)</span> “Thu phong quốc tang cảm thuật” ghi ngày 30-7 năm Nhâm Tý vua Quang Trung chầu trời, Lê Quí Đôn cũng viết ngày 30-7 năm Nhâm Tý. Xuân đưa 30.000 quân Bắc Hà đánh vào Nam sông Gianh, thất bại phải chạy ra Bắc. Thang 7 năm 1802, Nguyễn Ánh chiếm được Thăng Long, vua Cảnh Thịnh, Nguyễn Quang Thùy và nhiều tướng lĩnh khác bị bắt, bị giết. Trên đường giải về Phú Xuân, Nguyễn Quang Thùy tự tử. Trước sự suy yếu của triều Tây Sơn, hai con của bà Ngọc Hân đã phải đổi sang họ Trần là Trần Thị Ngọc Bảo và Trần Văn Đức rời khỏi Phú Xuân đi lưu lạc ở nhiều nơi, nhưng sau khi thành Phú Xuân thất thủ, Ngọc Bảo và Văn Đức cũng bị quân do thám của Gia Long bắt và hành hình. Ngày 12 tháng 12 năm 1802, Gia Long đem vua Cảnh Thịnh, các em vua, nhiều tướng lĩnh triều Tây Sơn bị bắt ra hành hình. Gia Long trả thù hèn hạ bằng nhục hình như cho voi dày, cho 5 con ngựa buộc dây vào đầu và tay chân rồi đánh cho ngựa lồng, xé người thành 5 mảnh, hoặc tùng xẻo cho đến chết. Đối với hai con của Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân thì Gia Long cho buộc vào ngọn tre vít xuống rồi thả mạnh cho đập vào tường thành, còn Bùi Thị Xuân thì chúng lùa cho voi dày xéo bà cho đến khi xương thịt bà nát nhừ. Dã man hơn, đối với vua Quang Trung, vua Thái Đức, Nguyễn Lữ đã chết, Gia Long đào mả, giã nát xương cho vào sọt tre, bắt quân lính đái vào, còn đầu lâu thì đóng gong hạ ngục tối. Riêng về cái chết của hoàng tử Văn Đức và công chúa Ngọc Bảo thì theo tộc phả của nhánh Nguyễn Đình họ Nguyễn Ngọc ở làng Phù Ninh chép: “ Ngày 18 tháng 11 năm Tân Dậu (23-12-1801) hoàng tử Văn Đức mất, ngày 17 tháng 4 năm Nhâm Tuất (18-5-1802) công chúa Ngọc Bảo mất”. Trong phần “Biệt lục” cuả tộc phả Nguyễn Đình còn ghi thêm: “ Bà Nguyễn Thị Huyền thương con gái và các cháu ngoại đều chết yểu nơi xa, năm 1804 thuê người vào Phú Xuân lấy hài cốt ba mẹ con bà Ngọc Hân, ngày 24 tháng 3 năm Giáp Tý (3-5-1804) xuống thuyền vượt biển, ngày 20 tháng 5 (28-6) về đến bến Ái Mộ (Gia Lâm), ngày 4 tháng 6 (11-2-1804) đưa về bản dinh ( tức dinh Thiết Lâm của bà Nguyễn Thị Huyền), ngày mùng 9 (16-7-1804) đưa về làng, giờ Ngọ an tang hài cốt bà Ngọc Hân, phụ chôn hoàng tử ở bên trái và công chúa ở bên phải. Nơi đó nay là bãi Cây Đại hay bãi Đầu Voi ở làng Nành”. Về cái chết của hoàng tử Văn Đức và công chúa Ngọc Bảo không rõ có phải Gia Long hành hình ở Phú Xuân không hay bị giết trong khi trốn tránh. Nhưng cũng có thể Văn Đức và Ngọc Bảo bị bệnh mất vào các thời điểm khác nhau vì hai người không có trong danh sách vua tôi nhà Tây Sơn bị hành hình ở Phú Xuân. Hơn nữa sách Đại Nam thực lục chính sử của triều Nguyễn nhận năm 1842 phá hủy đền thờ Lê Ngọc Hân ở Phù Ninh có ghi: “Nguyên người xã.

<span class='text_page_counter'>(229)</span> ấy là Nguyễn Thị Huyền làm cung nhân của vua Lê Hiển Tông, có người con gái là Lê Ngọc Hân sau gả cho Ngụy (Nguyễn) Huệ, sinh được một trai, một gái, Ngọc Hân chết, con trai, con gái cũng chết non cả”. Vào khoảng đầu triều Gia Long có một Đô đốc cũ của triều Tây Sơn tên là Hài đã bí mật theo đường thủy mang hài cốt của ba mẹ con bà Ngọc Hân đưa về táng trộm ở làng Phù Ninh, quê hương bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền, mẹ của Ngọc Hân. Khi thuyền chở hài cốt ba mẹ con bà đến bến Bồ Đề, xã Phú Viên, huyện Gia Lâm, phủ Từ Sơn đến một cái ghềnh nước chảy xiết thuyền không đi được, Đô đốc Hài đưa hài cốt của ba mẹ con bà lên quàn ở một cái gò, dưới gốc cây si cổ thụ, chung quanh cây cối rậm rạp um tùm, rất ít người qua lại. Tại thôn Phú Viên còn có hai thị nữ trước kia đã theo hầu công chúa Ngọc Hân, khi Ngọc Hân kết duyên với vua Quang Trung, thì hai thị nữ cũng theo bà vào Phú Xuân. Phú Viên cũng là nơi Tôn Sĩ Nghị cho quân bắc cầu phao từ Hà Nội sang bến Bồ Đề, khi Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt không kịp mặc giáp, lên ngựa không yên vượt qua cầu phao qua sông thoát chết, quân sĩ chạy theo, cầu đứt làm hàng ngàn tên chết đuối. Sau khi ngụy trang hài cốt của ba mẹ con Ngọc Hân, cắt cử người tin cẩn ở lại coi giữ, Đô dốc hài cải trang làm lái buôn đến làng Nành báo cho bà Chiêu Nghi biết. Nhận được hài cốt của con gái và hai cháu ngoại, bà Chiêu Nghi an táng ở cánh đồng Cây Đại rồi dựng một ngôi miếu, lập bia nhưng không nói rõ tên hoàng hậu, hoàng tử và công chúa. Mặc dù bà Chiêu Nghi giữ kín việc này nhưng rồi các vị cao niên trong dòng họ Nguyễn Ngọc và một số dân làng cũng biết đó là mộ Ngọc Hân công chúa, Hoàng hậu của vua Quang Trung và hai con bà, nhưng vì kính trọng bà, xót bà la người tài hoa, có đức độ nhưng hồng nhan bạc mệnh nên vẫn giữ kín. Mộ của ba mẹ con bà Ngọc Hân không khi nào hương tàn khói lạnh. Khi Đô đốc Hài đưa hài cốt của ba mẹ con bà Ngọc Hân đi khỏi thì dân làng Lâm Hạ, xã Phú Viên được Hoàng hậu Ngọc Hân báo mộng “trên đường trở về quê hương bà cùng hoàng tử Văn Đức và công chúa Ngọc Bảo đã ngự dưới tán cây si trên gò Kim Quy. Bà cũng báo cho dân làng biết ở làng Lâm Hạ có hai thị nữ theo hầu bà từ khi bà còn là công chúa của vua Lê Hiển Tông, sau đó theo bà vào Phú Xuân, cả hai người đều bị quân Nguyễn Ánh sát hại khi đánh chiếm thành Phú Xuân, nay cũng theo hầu bà” Nhân dân làng Lâm Hạ, xã Phú Viên vốn ngưỡng mộ nhà Tây Sơn và đã biết đức độ của công chúa từ khi làng có hai thiếu nữ được tuyển vào cung hầu hạ Ngọc Hân nên đã không quản nguy hiểm đến tính mệnh lập một ngôi miếu nhỏ dưới tán cây si, cửa miếu trông ra dòng sông Hồng đúng ở vị trí đặt hài cốt ba mẹ con bà. Miếu không đề tên, cũng không ai gọi nó là miếu.

<span class='text_page_counter'>(230)</span> gì mà giống như một miếu cô hồn bên đường quan lộ, hay trên bờ sông để thờ các vong hồn thác oan nhưng linh thiêng. Trong khi đó tại làng Phù Ninh, khi sức khỏe bà Thị Huyền đã yếu, bà đã ký hậu với làng 50 mẫu ruộng tốt và chuyển dinh Thiết Lâm (1) , làm nhà thờ bà sau khi bà qua đời. Tuy bà không nói rõ là thờ cả ba mẹ con công chúa Lê Ngọc Hân nhưng mọi người đều hiểu ý của bà. Năm 1823 bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền mất, thọ 71 tuổi, nhân dân tạc tượng và thiết lập bài vị thờ bà Nguyễn Thị Huyền, và bốc thêm một bát hương thờ ba mẹ con công chúa Lê Ngọc Hân ở bên cạnh. Nhờ có lòng ngưỡng mộ nhà Tây Sơn và Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân, dòng họ Nguyễn Ngọc và nhân dân Phù Ninh vẫn thờ cúng và trông nom phần mộ của ba mẹ con bà Lê Ngọc Hân, bọn vua quan nhà Nguyễn vẫn không hề hay biết gì. Mãi đên đời vua Thiệu Trị (1841-1847), khi đó bà Từ Cung Chiêu Nghi đã qua đời, dòng họ Nguyễn Ngọc không còn thế lực. Trải qua mưa nắng, lũ lụt, ối mọt tàn phá, một ông tú tài người họ Nguyễn Ngọc đứng lên quyên tiền người làng để sửa lại miếu. Chẳng ngờ trong làng có tên phó tổng người dòng họ Nguyễn Hữu vốn thù ghét dòng họ Nguyễn Ngọc và ông Tú tài đã cho người vào kinh tố giác việc ông tú quyên góp tiền sửa sang miếu thờ Ngụy hậu (vợ vua Quang Trung). Việc trả thù một cách hèn hạ dòng họ và quan lại nhà Tây Sơn kéo dài từ thời Gia Long đến Thiêu Trị chưa dứt. Vì vậy khi nhận được tin trên, Thiệu Trị đã họp bách quan văn võ phán “ Trẫm vì 9 đời mà trả thù” (2). Và lập tức sai một viên quan đại thần làm khâm sai đưa quân về làng Nành trị tội ông Tú cùng những người quyên tiền cho ông hưng công lại đền, Tổng Đốc Bắc Ninh Nguyễn Đănng Giai bị giáng cấp, tri phủ Từ Sơn bị cách chức, chánh tổng bị lột da nhồi trấu. Đồng thời phá hủy miếu thờ ba mẹ con Ngọc Hân, phá bình định dinh Thiêt Lâm, đât sung công. Quân lính còn đập bia, đào mả lấy hài cốt đưa xuống thuyền đổ xuống sông Dâu. Thuyền ra đến giữa sông Dâu thì gió bão nổi lên, mây đen kéo đến trời đất mù mịt rồi thuyền trôi vùn vụt từ sông Dâu ra sông Thiên Đức (sông Đuống) rồi ra sông Hồng (3) . Gió thổi mỗi lúc một mạnh làm cho thuyền tròng trành suýt lật. Viên Khâm sai sợ hãi khấn mãi gió mới tạm yên nhưng thuyền vẫn trôi đên cái ghềnh thuộc địa phận lang Lâm Hạ, xã Phú Viên, huyện Gia Lâm, nơi xưa đô đốc hài đã quàn linh cữu ba mẹ con Ngọc Hân và nhân dân Lâm Hạ đã dựng ngôi miếu _____________________________ (1) Bà Từ Cung Nguyễn Thị Huyền dựng dinh Thiết Lâm có 100 gian. Ít ngày sau khi vua Lê Hiển Tông băng hà, dinh ở xế cửa chùa Pháp Vân để tiện cho bà sang chùa làm lễ Phật (2) Đại Nam thực lục chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn. (3) Sông Dâu thông với sông Thiên Đức (sông Đuống), sông Đuống thông ra sông Hồng ở cầy Yên Viên ngày nay..

<span class='text_page_counter'>(231)</span> nhỏ thờ ba mẹ con bà thì thuyền dạt vào gần bờ. Sóng gió lại nổi lên dữ dội, viên Khâm sai sợ hãi đã toan không vứt hài cốt ba mẹ con bà xuống sông nhưng hắn còn sợ vua Thiệu Trị hơn sợ trời và sợ Ngọc Hân nên vẫn lệnh cho bọn tay chân ném hài cốt. Những người này ném hài cốt vào phía bờ sông. Thuyền của tên khâm sai vừa quay đi thì sóng đánh dạt hài cốt vào bờ. Trong làng Lâm hạ động, người ốm đau, trâu bò chết; rồi Ngọc Hân báo mộng cho các bô lão biết là hài cốt của ba mẹ con bà đã trôi dạt vào bờ sông, mấy người ra thu nhặt hài cốt nhưng không sao để riêng được của từng người đành gộp cả lại đưa về táng trên gò Kim Quy (1) . Bà con tu sửa lại miếu thờ nhưng không dám làm to vì sợ bọn cầm quyền nghi ngờ. Năm sau một số bô lão người làng Lâm Hạ đứng ra vận động quyên giáo người trong vùng và khách thập phương hưng công đền thờ Bắc cung Hoàng Hậu Lê Ngọc Hân nhưng chỉ nói đó là đền thờ “Chư vị”. Cửa đền trông ra hướng Tây Nam là sông Hồng. Đền được xây dựng rất nhanh chóng, vì thế có những người đi qua gọi là đền Tiên xây, nên đền Ghềnh còn có tên là “ Tiên Thiên Cổ Điện”. Đền Ghềnh nằm trong một quần thể di tích tập trung chạy dài trên 2km ở ngoài đê Tả ngạn sông Hồng. Phía Bắc, ở trong đê là chùa Ái Mộ, phía ngoài đê, chỗ giáp cầu Chương Dương là đền Các Quan hay còn gọi là đền Ngũ Quan không rõ thờ quan nào, đời nào, kế đó là Đền Ghềnh, chùa Bồ Đề ( trong dinh Bồ Đề năm 1427 Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã đóng đại bản doanh), cạnh đó là đình thôn Phú Viên thờ Linh Lang đại vương hoàng tử nhà Lý, kế đó là Đền Chầu rồi đến chùa Lâm Du cũng thuộc xã Bồ Đề. Đến nay trên nóc đền còn ghi rõ đền được xây dựng vào năm Thiệu Trị thứ bẩy (1843), năm 1953 đền được trùng tu, năm 1996 xây lại cổng đền, nhà giải vũ, năm 1997 kè đá trên bờ sông Hồng cho khỏi lở. Các vị được thờ trong đền đều được gọi la mẫu nhưng không phải là Mẫu Liễu Hạnh và các vị mẫu khác mà là mẫu Ngọc Hân, có tượng mẫu Thượng Ngàn là bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền. Hiện nay trong đền các vị được sắp xếp như sau: gian chính thờ Mẫu Ngọc Hân Hoàng hậu, Mẫu Thoải (Thủy Tình công chúa) có người gọi là Thánh Mẫu. Gian giữa thờ Tứ phủ công đồng, có bức hoành phi đề: “Công đồng Ghềnh Từ”. Bên cạnh thờ Mẫu Thượng Ngàn công chúa và các bộ Sơn Trang. Đặc biệt ở Đền Ghềnh không thờ Cô, Cậu mà thờ “Chầu bé bản đền” tương truyền là hai thiếu nữ người làng Lâm Hạ làm thị nữ theo hầu Ngọc Hân. _____________________ (1). Theo các cố lão ở xã Bồ Đề cho biết thì khu đất có gò Kim Quy đã bị lũ cuốn trôi, đền Ghềnh trước xây ở giữa bãi phù sa bồi, nay đã ở giáp bờ sông..

<span class='text_page_counter'>(232)</span> Trong đền Ghềnh có đôi câu đối: “Sơn nhạc chung linh, Lê thị chí kim lưu tự điển, Phong vân tràng hộ, Nhĩ Hà dĩ bắc ngật sung từ” Đền Ghềnh là nơi duy nhất ở nước ta là nơi thờ chính Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân, nên không chỉ có người Hà Nội - cố đô Thăng Long mà cả khách thập phương tới lễ bái, chiêm ngưỡng bà, một người con có tấm lòng chí hiếu với cha mẹ anh em nhà chồng, cha mẹ mình và cả dòng họ mình, một người hết lòng săn sóc giúp chồng lo toan việc nhà việc nước, một bà mẹ rất mực thương yêu con mình, con chồng…nhưng đã bị vua quan nhà Nguyễn trả thù một cách vô cùng hèn hạ. Về sự xuất hiện của Đền Ghềnh, ông Lê Thước, cán bộ vụ Bảo tồn, bảo tàng Trung ương viết trong bài: “Công chúa Ngọc Hân chết năm nào?” đăng trên tập san Nghiên cứu lịch sử: “…Tức thì có lệnh truyền quan địa phương về phá hủy miếu và trị tội ông Tú cùng những người quyên tiền giúp ông. Đồng thời bắt quật mả mẹ con Ngọc hân lấy hài cốt đem quẳng xuống sông. Về sau gần chỗ quẳng xương người ta có dựng một ngôi đền để thờ Ngọc Hân, đền ấy gọi là Đền Ghềnh, thuộc thôn Ái Mộ, ở tả ngạn sông Hồng. Hàng năm không những nhân dân sở tại đến cúng bái mà cả ngưoif làng Phù Ninh cũng đến lễ đền”. Sự tồn tại của Đền Ghềnh chứng tỏ lòng chí mến của nhân dân đối với một bà vợ và hai người con của vua Quang Trung, đồng thời nó cũng gợi lại sự căm thù của mọi người đối với dự trả thù hèn hạ, vô nhân đạo của Gia Long và con cháu hắn. Ngoài nơi thờ chính Ngọc Hân ở Đền Ghềnh thì tại làng Phù Ninh tức làng Nành, nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội, sau năm 1842 Thiệu Trị sai quan quân về phá miếu, phá dinh Thiết Lâm, quật mả ba mẹ con Ngọc Hân đổ xuống sông thì nền dinh Thiết Lâm bỏ hoang, trở thành đất “quốc gia công thổ” nhưng nhân dân vẫn gọi nơi đó là “Vườn Dinh”. Không thờ công khai ba mẹ con Ngọc Hân được thì nhân dân xây miếu, núp dưới tên “miếu Cô hồn” để thờ ba mẹ con nàng. Đồng thời trên mảnh đất xưa là mộ ba mẹ con Ngọc Hân, nhân dân cũng đắp lên ba ngôi mộ giả, và vào các ngày tuần rằm, các ngày tết trong năm không bao giờ dứt khói hương. Năm 1937 chi nhánh Nguyễn Đình đổi đất với làng, lấy lại một phần nền chính dinh Thiết Lâm lập nhà thờ của nhánh Nguyễn Đình thờ bà Chiêu Nghi hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền, cùng ba mẹ con Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Trong nhà thờ có tượng bà Chiêu Nghi hoàng hậu của vua Hiển Tông, bài vị của bà có ghi rõ: “Cố Lê Chiêu Nghi Nguyễn Thị húy Huyền, hiệu Thiên Trung, sinh giờ Dậu ngày 3 tháng 10 năm Quý Dậu, mất giờ Hợi ngày 1 thang 8 năm Quý Mùi (1823) thọ 71 tuổi”. Tại nhà thờ.

<span class='text_page_counter'>(233)</span> không có tượng, bài vị Bắc cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân, hoàng tử Văn Đức, công chúa Ngọc Bảo nhưng có bát hương thờ ba mẹ con bà. Từ Cách mạng Tháng 8 năm 1945, việc thờ cúng Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân cùng hai bà được diễn ra công khai ở làng Phù Ninh. Trải qua trên 170 năm dưới sự thống trị của triều Nguyễn và hai cuộc trường kì kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhân dân Phù Ninh vẫn còn lưu giữ tại chùa làng chiếc trống đồng lớn (cao 35cm, rộng 55cm) của thời Tây Sơn khắc rõ niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ 8 (1801). Sau chiến thắng đế quốc Mỹ mới trao lại cho Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam để trưng bày cho toàn dân biết. ĐÔNG LĨNH HẦU ĐẠI ĐÔ ĐỐC ĐẶNG TIẾN ĐÔNG Đô đốc Đặng Tiến Đông quê ở làng Lương Xá, gần chùa Trăm Gian tức chùa Quảng Nghiêm, nay thuộc xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Đặng Tiến Đông sinh giờ Sửu (từ 1 giờ đến 3 giờ sáng), ngày 2-5 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Hựu 4 tức ngày 18 tháng 6 năm 1738. Ông là con trai thứ tám Dận Quận công Đặng Tiến Miên(1) và bà vợ thứ 5 là Phạm Thị Yến Ông đã từng là võ tướng trong quân đội Lê Trịnh. Chán ghét chế độ thối nát của vua Lê - Chúa Trịnh, ông bỏ quan đi giang hồ khắp nơi(2). ______________________ (1). Dòng họ Đặng ở Lương Xá có nhiều người đệm chữ Đình, nên Văn bia Đặng Tướng công bi ký ở chùa Trăm gian khắc năm Bảo Đại thứ hai (1937) cũng ghi là Đặng Đình Đông. (2) Sự kiên này được thể hiện trong bài thơ của Ngô Thì Nhậm viết về ông như sau: “Tôi với anh cùng quận Đổi vị mới quen biết Tôi lúc trẻ hanh thông, Giao du nơi đài các Anh là khách giang hồ Kinh thành nghe từ trước Chẳng quan hệ với nhau Khác cảnh cùng và đạt Tôi gặp bước gian nan Nương thân nơi Hải giác, Tự thời thế sáng ra, Ruổi rong đường bút mực Anh là người trốn đời, Đây đó đi cùng khắp.

<span class='text_page_counter'>(234)</span> Khoảng giữa năm 1787, Nguyễn Huệ đang đóng quân ở Quảng Nam thì Đặng Tiến Đông vào yết kiến. Sự kiện này đã được chép trong văn bia chùa Thúy Lâm, do Phan Huy Ích soạn, Ngô Thì Nhậm nhuận sắc, khắc năm 1797 có đoạn như sau: “ Bấy giờ Hoàng Triều Thái tổ Vũ Hoàng đế tiếng nghĩa vang dậy, đang trú quân ở Quảng Nam. Ông một lần đến cửa quan yết kiến, được đội ơn tri ngộ, tin yêu ban cho ấn kiếm. giao cho thống lĩnh việc quân”. Ngay sau đó Bắc Bình vương Nguyễn Huệ phong cho ông tước Đông Lĩnh hầu, giữ chức Đô đốc Đồng tri, cử ra trấn thủ xứ Thanh Hóa. Nguyên bản Sắc phong đề ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức thứ 10 (15-81787) đã nhận xét về Đặng Tiến Đông: “…là người có khí khái của đấng trượng phu, có hoài bão của kẻ làm trai. Đường làm quan gặp gỡ duyên may, chí vương thần muốn dựng lên công nghiệp lớn. Lòng thủy chung lo báo ân tri ngộ, nghĩa quốc sỹ chẳng quên điều hiểu biết riêng. Trải mùa đông không khuất được thân tùng, qua đường cũ buồn trông lúa tốt…” Cuối năm 1787, Đặng Tiến Đông đang giữ chức trấn thủ Thanh Hóa, chỉ huy một cánh quân theo Vũ Văn Nhậm ra Bắc Hà diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông đánh bại đạo quân của Nguyễn Hưu Du ở sông Vân Sàng (Ninh Bình). Dẹp xong Nguyễn Hữu Chỉnh, ông trở lại Thanh Hóa tiếp tục giữ chức trấn thủ. Năm 1788, Vũ Văn Nhậm cử ông đem quân đánh Đinh Văn Hành ở Tiên Lữ (Hưng Yên). Về chiến dịch vua Quang Trung đại phá quân Thanh mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) giải phóng kinh thành Thăng Long trong đó có cánh quân của đô đốc Đặng Tiến Đông. Trong cuốn “Nhân chính trên những chặng đường lịch sử” do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1997 viết: “Một cánh quân bộ nữa cùng voi ngựa do Đô đốc Đặng Tiến Đông (Long) theo đường Chương Đức, hôm ấy đã qua cầu Thanh Oai vào nghỉ ở làng Nhân Mục”. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô gia văn phái mô tả như sau: “Đô đốc Long xuất hữu quân đã đóng ở làng Nhân Mục. Lúc vua Quang Trung đang đánh nhau với quân Thanh ở Ngọc Hồi, thì sáng hôm ấy Long đã đánh tên Thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng thuộc huyện Quảng Đức. Quân Thanh tan vỡ bỏ chạy. Long liền tiến trước vào thành.” Sách “Cách mạng Tây Sơn” nói rõ thêm về cánh quân này: “Xuyên qua núi tiến theo đường mà ngày nay gọi là Quốc lộ số 6… uy hiếp sườn phía Tây thành Thăng Long, lẻn vào trong lòng địch để dánh bất ngờ vào vị trí địch”. Theo bản đồ của sách này thì cánh quân của đô đốc Long đánh vào _______________________________ Như chim hồng trên mây Tránh cung tên bay tít (Khương Hữu Dụng dịch, Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm).

<span class='text_page_counter'>(235)</span> hai đồn giặc ở Khương Thượng và Hạ Yên Quyết.” Đô đốc Đặng Tiến Đông (Long) đã bí mật cho quân đồn trú ở các làng Hoa Kinh (sau đổi là Chính Kinh), Quan Nhân, Giáp Nhất (nay thuộc xã Nhân Chính), các làng Mễ Trì Thượng, Mễ Trì Hạ (xã Mễ Trì) đều thuộc huyện Thanh Trì, sau cắt về huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đại bản doanh của đô đốc Long đóng ở chùa Bồ Đề (thôn Chính Kinh). Chùa Bồ Đề xưa là ngôi chùa lớn thời Lê, theo bia trùng tu thì chùa là một thắng cảnh thời Lê. Khi quân Thanh kéo đến, đóng quân ở Khương Thượng, Yên Quyết quân Thanh thường kéo vào các làng Mọc, cách hai đồn trên khoảng hai cây số cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái nên cư dân phải chạy tứ tán. Các nhà sư phải chôn chuông cùng các đồ thờ bằng đồng. Đến thời Gia Long không tìm thấy chuông. Quả chuông hiện nay được đúc năm Gia Long thứ 13 còn ghi: “ Chùa Bồ Đề trước đã có chuông, tiếng chuông ngân nga hàng trăm năm rồi. Bỗng nhiên gặp biến cố, mà tiếng chuông bị mất, nên dân Hoa Kinh, Cự Lộc, góp đồng đúc quả chuông này (1) Theo các cố lão ở xã Nhân Mục kể thì tại đình làng Hoa Kinh thờ sứ quân họ Lã phò Ngô Quyền là nơi các tướng lĩnh Tây Sơn đã họp bàn trước khi xuất quân đánh đồn Khương Thượng. Về trận Quang Trung đại phá quân Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) giải phóng kinh thành Thăng Long, văn bia chùa Thủy Lâm ghi: “Đầu năm Mậu Thân, quân Bắc xâm phạm nước Nam, ông phụng chiếu cầm đạo quân tiên phong tiến đánh làm cho quân Bắc tan vỡ. Ông một mình một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung cấm. Vũ Hoàng đế vào Thăng Long, định công khen thưởng, ban riêng cho ông xã Lương Xá làm thực ấp, phàm các khoản binh phần hộ phần, sưu sâu đều được miễn trừ”. Minh Đô sử của Trung Quốc, cũng viết: “Đô đốc Long đã “vào thành trước” và khi vua Quang Trung từ mặt Nam tiến vào thành, thì từ trong thành “Đô đốc Long cưỡi ngựa đến trước đầu voi báo tin thắng trận”. Trong khi quân của Đô đốc Đặng Tiến Đông đóng ở Nhân Mục, thì nhân dân các làng Kẻ Mọc đã giúp nghĩa quân nhiều việc lớn: - Giúp về chiến cụ: Để triệt hạ đồn Khương Thượng do Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống chỉ huy, các cụ họ Nguyễn ở thôn Hoa Kinh đã hiến kế bện nùn rơm, tẩm các chất dẫn cháy quấn vào dây nứa, gọi là “con rồng lửa” để đốt đồn, đốt kho. Các tướng lĩnh Tây Sơn đã chấp nhận sáng kiến đó. Lập tức dân các làng Mọc vác nứa, gánh rơm đến chùa Bồ Đề, bện nùn rơm làm những “con rồng lửa”. - Giúp về ăn uống: Nghĩa quân đến làng vào ngày mùng bốn Tết, nên nhà nào cũng còn bánh chưng, cỗ bàn mời nghĩa quân nên nghĩa quân không phải đỏ lửa nấu cơm..

<span class='text_page_counter'>(236)</span> - Giúp về trinh sát, thông minh, liên lạc: Dân các làng Mọc đã tình nguyện dẫn đường cho nghĩa quân đi trinh sát và đảm nhận việc thông tin liên lạc. Đặc biệt có hai cô gái họ Vũ tới nơi đóng quân của quân Tây Sơn cho biết hàng ngày cứ buổi chiều, bon lính Thanh vẫn đến chợ Mọc cướp phá, nên bắt chúng để khai thác. Đội trưởng đội trinh sát quyết định phục kích bắt chúng giết đi, lấy trang phục rồi trà trộn vào quân Thanh và trại giặc trinh sát. Về trận đánh lịch sử này đã có nhiều sử sách viết, chúng tôi dẫn trong sách “Nhân Chính trên những chặng đường lịch sử” viết “Mờ sáng hôm sau, ngày mùng 5 Tết, quân Tây Sơn đánh chiếm đồn Khương Thượng, lửa bốc ngút trời, súng vang mặt đất, quân sĩ khép chặt vòng vây, tướng Thanh giữ đồn là Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử, quân Thanh chết gần hết. Hạ xong đồn Khương Thượng, đô đốc Đặng Tiến Đông họp quân tiến vào thành Nội. Quân sắp đến Cửa Nam thì trung quân của vua Quang Trung cũng đến kịp. Quang Trung úy lạo vài câu rồi vua và tướng cùng vào thành trong tư thế chiến thắng làm chủ đất nước. Năm 1790, Đặng Tiến Đông được vua Quang Trung phong là Đại đô đốc, Đại Thiên Hùng binh và phụ trách việc chế thuốc súng. Nhớ ơn Đại Đô đốc Đặng Tiến Đông đánh đuổi quân xâm lược Mãn Thanh, giúp dân xây dựng, trùng tu nhiều đình chùa, nhân dân xã Hương Xá, xã Tiên Khương và nhân dân hai huyện Chương Mỹ, Hoài Đức đã đắp tượng Đại Đô đốc Đặng Tiến Đông và dựng tấm bia đá vào năm Cảnh Thịnh thứ 5 (1794) do Phan Huy Chú viết ghi lại chiến công của Đô Đốc Đặng Tiến Đông tại chùa Trăm Gian xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức và tại nhiều ngôi chùa khác ở huyện Chương Mỹ. Hiện nay ngành sử học đã thu thập được nhiều tư liệu chữ Hán về Đặng Tiến Đông như: Nguyên bản sắc phong chức Đô đốc Đồng tri và tước Đông Lĩnh hầu Đại Đô đốc Đặng Tiến Đông ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức thứ 10 (15-8-1787) do con cháu họ Đặng ở Lương Xá cất giữ. Văn bia Sùng Đức thế bi ở chùa Thụy Lâm do Phan Huy Ích soạn, Ngô Thì Nhậm nhuận sắc, khắc ngày 15 tháng 6 năm Đinh Tỵ, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 5 (9-7-1779) Văn khắc chuông chùa Thủy Lâm ở Lương Xá đề ngày 29 tháng 6 năm Cảnh Thịnh thứ hai (22-7-1794) Văn khắc chuông chùa Trăm Gian ghi công đóng góp của Đặng Tiến Đông khắc năm Giáp Dần, Cảnh Thịnh 2 (1794). _______________________ (1). Khi đào mong xây lại chùa đào được quả chuông cũ mới xây bệ gạch để ở sân chùa..

<span class='text_page_counter'>(237)</span> Văn bia chùa Quảng Nghiêm, còn gọi là chùa So, chùa Trăm gian, nay thuộc xã Tiên Phượng, huyện Hoài Đức do Ngô Thì Nhậm soạn nói về công lao của Đặng Tiến Đông đối với đất nước và công lao của con gái ông có công góp tiền bạc tu sửa chùa. Tại chùa Trăm gian còn có tượng Đặng Tiến Đông. Ba bài văn tế Đặng Tiến Đông do Phan Huy Ích làm thay cho xã Ninh Sơn cho con gái trưởng là Đặng Thị Văn và các con: - Gia phả họ Đặng: Đặng gia phả hệ toàn chính thực lục ghi rõ: “Giáp nhất chi Thống Vũ Thắng Thiên Hùng Đô đốc Đông Lĩnh Hầu Đặng Tiến Đông. - Lương Xá Đăng phả do Đặng Tiến Đông soạn, Ngô Thì Nhậm đề tựa. Đặng Tiến Đông được thờ chính ở chùa Trăm Gian, nhà thờ họ Đặng và ở đình thôn Tư Can, xã Châu Can, huyện Phũ Xuyên, tỉnh Hà Tây. TRUNG NỮ Ngày mùng 4 Tết năm Kỷ Dậu (1789) đạo quân của đô đốc Đặng Tiến Đông từ Tam Điệp (Ninh Bình) ngược Nho Quan rồi theo đường núi tiến về huyện Chương Đức, qua cầu Thanh Oai vào trú quân ở làng Nhân Mục. Nhân dân Nhân Mục khổ sở vì giặc Thanh quấy rối, nên đã hết lòng giúp đỡ nghĩa quân. Nghĩa quân đến vào ngày Tết, nên nhà nào cũng còn bánh chưng, bánh dầy, cỗ mời quân sĩ. Các cụ họ Nguyễn ở làng Hoa Kinh hiến kế bện nùn rơm làm bùi nhùi, gọi là con rồng lửa. Nghĩa quân đang tìm cách tiếp cận đồn Khương Thượng để điều tra sự bố phòng của quân giặc để hôm sau, ngày mùng 5 tết tấn công. Đang lúc khó khăn đó thì hai cô gái ở thôn Lý (Giáp Nhất) cho biết: “Hàng ngày thường có vài tên lính Thanh đến chợ Mọc mua thức ăn, thường chòng ghẹo con gái”. Nghe hai cô gái họ Vũ nói như vậy, đội trưởng đội trinh sát đề nghị hai cô dẫn đường cho một tổ trinh sát đột nhập vào chợ để bắt bọn lính. Hai cô gái họ Vũ vui vẻ nhận lời, dẫn một tổ trinh sát đến chợ Mọc. Khoảng xế chiều, ngày 27 Tết năm Kỷ Dậu, nghĩa quân thấy 5 tên lính Thanh từ trong thành đi ra chợ Mọc. Chúng không thể ngờ, quân Tây Sơn đã ở sát đồn chúng. Chúng nghenh ngang tới gần cầu Mọc trên sông Tô Lịch, gần làng Phùng Khoang thì bị nghĩa quân Tây Sơn do hai cô gái họ Vũ dẫn đường bắt, lột quần áo rồi giết chết. Ngay lập tức các trinh sát nghĩa quân mặc quần áo lính Thanh do hai cô gái dẫn đường lọt vào trại giặc điều tra quân số, kho thuốc súng, sự bố phòng của quân giặc rồi về trình báo lên Đô đốc Đặng Tiến Đông..

<span class='text_page_counter'>(238)</span> Mờ sáng ngày mùng 5 tết, Đô đốc Đặng Tiến Đông do hai cô gái họ Vũ dẫn đường lọt vào Khương Thượng. Quân ta đưa các “con rồng lửa” đốt đồn. Quân Thanh bị đánh bất ngờ vô cùng hoảng loạn, không đánh trả được, xô nhau tháo chạy. Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống chỉ huy đồn Khương Thượng thắt cổ tự tử. Quân ta giải phóng hoàn toàn đồn Khương Thượng và đồn Hạ Yên Quyết. Trong khi gaio chiến cả hai cô gái họ Vũ đều hi sinh. Nhân dân Nhân Mục và quân sĩ lập miếu thờ hai cô gọi là miếu Trung nữ. Miếu thờ ở thôn Giáp Nhất, tiếc rằng đến nay đã bị phá. Khung cảnh chung quanh không còn, chỉ còn trong câu ca: “Đầu làng cây ruối, Cuối làng cây si Con nhạn bay đi, Con nhạn bay về(1) Giặc đến Bồ Đề(2) Thì giặc phải tan”. ________________________________ (1). Con nhạn bay đi, bay về ý nói hai cô đi lại đồn địch trinh sát, và nhân dân đi lại rộn rịp giúp nghĩa quân..

<span class='text_page_counter'>(239)</span> (2). Chùa Bồ Đề xã Nhân Mục nay vẫn còn, không phải Bồ Đề ở xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, Hà Nội, không phải chùa Bồ Đề thời Thánh Gióng vói câu ca: “…Cắt cỏ bồ đề cho ngựa ông ăn!”. PHẦN VI. BUỔI ĐẦU ĐÁNH PHÁP.

<span class='text_page_counter'>(240)</span> TỔNG ĐỐC NGUYỄN TRI PHƯƠNG Đầu năm 1873, sau khi ổn định tình hình lục tỉnh Nam Kỳ, nhận được viện trợ quân sự từ Pháp, quân Pháp quyết định đánh chiếm Bắc Kỳ để buộc triều đình Huế ký Hiệp Ước công nhận quyền cai trị của chúng ở lục tỉnh Nam Kỳ. Tháng 5-1873, Thống đốc nam Kỳ đề nghị chính phủ Pháp cho dùng vũ lực đánh chiếm các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Chính phủ Pháp đã phê chuẩn đề nghị trên và phái Thiếu tá Hải quân Franci Gảnier chỉ huy chiến thuyền khởi hành từ Gia Định ra Bắc.(1) Ngày 23-10-1873 Franci Garnier tới Cửa Cấm, hắn được giáo hội Y Pha Nho ở Kẻ Sặt (Hải Dương) cung cấp thuyền đinh cùng những tên giáo dân dẫn đường tiến về Hà Nội Ngày 3-11 Franci Garnier cùng tên lái buôn Zean Dupuis đã đến Hà Nội từ trước cùng với đội thương thuyền có binh lính yểm trợ theo sông Hồng chở hàng lên Vân Nam tới Hà Nội. Tới nơi, chúng không chịu ở sông Hồng mà đánh chiếm Tràng Thi. Thành Hà Nội do Tổng đốc Nguyễn Tri Phương chỉ huy. Ông đã từng chỉ huy quân Triều đình đánh quân Pháp ở bán đỏa Sơn Trà tháng 9-1858, chỉ huy đánh quân Pháp ở Sài Gòn và đại đồn Chí Hòa, Gia Định(1860). Ông đã bị thương trong trận đánh này. Ông được vua Tự Đức giao cho làm Tổng đốc Hà Nội kiêm chức Tổng thống quân vụ Bắc Kỳ. Nguyễn Tri Phương tên thật là Nguyễn Văn Chương quê ở huyện Phong Điền Tỉnh Thừa Thiên. Tên Tri Phương là do vua Tự Đức đặt vì trong chiến trận ông dũng mãnh và mưu lược. Nguyễn Tri Phương là viên dũng tướng kiên quyết đứng về phe chủ chiến.Ngay khi tới Hà Nội, Nguyễn Tri Phương đã cùng với con trai là Phò Mã Nguyễn Lâm, lấy công chúa Đông Xuân là con gái vua Thiệu Trị ra Hà Nội thăm cha và các tướng sỹ kêu gọi quân sỹ và nhân dân Hà Nội sẵn sàng đánh phá, tăng cường phòng thủ. Nguyễn Tri Phương cũng liên kết với Tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản, Tổng đốc Sơn Tây Hoàng Tá Viêm sẵn sàng ứng cứu cho nhau. Nguyễn Tri Phương ra giữ thành Hà Nội trong điều kiện phe chủ hòa mà cầm đầu là Tự Đức, Phan Thanh Giản… thắng thế. Tại Hà Nội, trước khi Nguyễn Tri Phương tới nhậm chức thì triều đình đã điều động các tướng giỏi như Hoàng Tá Viêm (còn gọi là Hoàng Kế Viêm) đi Sơn Tây, tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc lên mạn ngược. Từ năm 1872 tên lái buôn Pháp Zean Dupuis được Soái phủ Sài Gòn đưa ra Bắc Kỳ cùng tầu chiến, binh lính, súng đạn để đi buôn theo đường sông Hồng tới Vân Nam, thực tế là làm gián điệp tổ chức lực lượng phản dộng phục vụ cho việc quân Pháp đánh Bắc Kỳ nay mai. Mặc dù chưa có phép.

<span class='text_page_counter'>(241)</span> của triều đình Huế nhưng Zean Dupuis rất ngang ngược, đi tới đâu cướp bóc tới đó. Quân phòng thủ thành Hà Nội quá mỏng, chỉ có 5000 quân trang bị quá kém, từ lâu không được luyện tập, tinh thần sa sút. Khi giặc chiếm Tràng Thi, Nguyễn Tri Phương chỉ huy động được 2000 quân. Trong khi đó quân Pháp chỉ có 300 quân nhưng thiện chiến, vũ khí tối tân còn có đại bác yểm trợ. Bọn Pháp cũng cấu kết được với các cha cố đến Hà Nội truyền đạo từ trước và 9 nhà buôn phản động sẵn sàng đánh thành. Nguy hiểm hơn nữa là đám quan văn,tướng võ dưới quyền ông có không ít kẻ ở trong phái chủ hòa, đầu hàng, sợ chết. Mặc dù vậy Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã hai lần kiên quyết chối bỏ tối hậu thư của Franci Garnier. Sáu giờ ngày sáng ngày 1 tháng 10 năm Quý Dậu (20-11-1873), quân Pháp do Thiếu tá Franci Garnier và tên lái buôn Zean Dupuis đem 180 quân tấn công thành. Nguyễn Tri Phuongw cùng con trai là Nguyễn Lâm thân lên mặt thành chỉ huy quan quân đánh quân Pháp ở Cửa Nam. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng quyết liệt, Nguyễn Lâm trúng đạn hy sinh tại trận. Nguyễn Tri Phương bị thương nặng ở bụng và đùi. Ông được quân sỹ hộ tống chạy ra ngoài thì bị tên thông ngôn biết mặt chỉ cho quân Pháp bắt. Giặc đưa ông xuống tầu băng bó, ông dứt bỏ băng, nhịn ăn và hy sinh vào ngày 20-111873. Ông được đưa vào thờ ở miếu Trung Liệt ở Hoa Sơn. Thành Hà Nội thất thủ. Khi ông tuẫn tiết, các tướng lĩnh, sĩ phu trong phe chủ chiến và nhân dân Hà Thành vô cùng thương cảm, có rất nhiều đối trướng thơ viếng. Trong đó có bài của Tán tướng quân vụ Nguyễn Thiện Thuật: Dịch thơ: VIẾNG ÔNG NGUYỄN TRI PHƯƠNG CHẾT VÌ NƯỚC Vua cha nặng nghĩa, nhẹ thân mình Thua được bàn chi việc dụng binh Trăm trận gian nan mà chẳng chết Một hòa tạm bợ lại quyên sinh Cửa trời đã đón người quân tử Bệ ngọc khôn trông mặt lão thành Danh vọng thế mà lâm cảnh thế Quả trời chẳng muốn để trọn danh (Khương Hữu Dụng dịch).

<span class='text_page_counter'>(242)</span> TỔNG ĐỐC HOÀNG DIỆU Với âm mưu hạ thành Hà Nội lần thứ hai, vào tháng giêng năm 1882, tại khu nhượng địa Đồn Thủy diễn ra một cuộc họp bí mật giữa ba tên trùm xâm lược Pháp: Đại tá Hải quân Hăngri Rivie, Lãnh sự Pháp tại Hà Nội Kêlađích và Cố Phước, tức Giám mục Puyginiê đã thống nhất kế hoạch hạ thành Hà Nội lần thứ hai vào cuối tháng 2-1882. Trong kế hoạch tội ác này có việc gửi thư vào Soái phủ Sài Gòn xin thêm 100.000 viên đạn, 150 cân thuốc nổ, đồng thời cho tàu chiến uy hiếp Sơn Tây, Ninh Bình và thực hiện chiến tranh gián điệp là dụ Tôn Thất Bá đầu hàng, làm tay sai cho chúng. Họp bàn kế hoạch đánh thành Hà Nội xong, chúng dự tiệc do tên Lãnh sự Kêlađích chiêu đãi. Tiệc tan, tên Lãnh sự trùm gián điệp viết báo cáo gửi Bộ trưởng bộ Hải quân và Thuộc địa Giôrêghibêry ở Pari kế hoạch đánh thành Hà Nội, tên Kêlađích đã nhấn mạnh: “Chiếm giữ thành này rồi, chúng ta sẽ thống trị cả tỉnh về quân sự và sẽ chiếm những cứ điểm Sơn Tây, Nam Định, Bắc Ninh rồi cả một vùng rộng lớn dọc sông Hồng”. Trong khi đó thì Tổng Đốc Hoàng Diệu vẫn ra sức củng cố thành. Hoàng Diệu tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh năm 1829 người xã Xuân Đà, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, năm 20 tuổi đậu cử nhân (1850), đậu Phó bảng năm Quý Dậu (1853). Ông nổi tiếng cương nghị và tich cực trong phái chủ chiến, ông không tán thành đàn áp cuộc khởi nghĩa ở Kinh thành năm 1866. Sau đó ông được cử giữ chức Thượng thư Bộ binh. Năm 1880 vua Tự Đức cử ông ra Bắc làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội-Bắc Ninh). 5 giờ sáng ngày 25-4-1882, Hăngri Rivie gửi “Tối hậu thư” cho Tổng đốc Hoàng Diệu, trong thư có đoạn: “Tôi yêu cầu ông phải giao thành ngay theo những điều kiện mà tôi nói tiếp theo: ngay ngày hôm nay khi tiếp được thư này, ông phải hạ lệnh cho quân lính hạ hết khí giới và mở cửa thành. Để cho tôi tin rằng ông đã thi hành những điều đòi hỏi, ông phải nộp mình cùng các ông tuần phủ, bố chánh, lãnh binh, phó lãnh binh tại dinh bản chức đúng 8 giờ sáng”(2) Bức thư láo xược của giặc Pháp làm cho Tổng đốc Hoàng Diệu vô cùng căm tức. Ông lập tưc triệu tập các quan văn võ bàn việc giữ thành. Mọi người dự họp đều thề thà chết chứ không chịu đầu hàng. Để tranh thủ thời gian chuẩn bị kháng chiến, Hoàng Diệu cử Án sát Tôn Thất Bá đi gặp Rivie đưa thư đề nghị hoãn trả lời một ngày. Bá được dòng dây tụt từ trên mặt thành xuống. Nhưng Tôn Thất Bá hèn nhát cho người. ____________________________ (1) (2). Có sách chú thích là Hà Nội – Ninh Bình. Amátxông: Thư từ chính trị của viên chỉ huy Rivie ở Bắc Kỳ..

<span class='text_page_counter'>(243)</span> đưa thư tới cho Rivie rồi trốn vào làng Mọc. Hoàng Diệu cho quân sĩ đào hào, đắp lũy trên mặt thành cao thêm 1,5 mét. Các pháo đài được đặt thêm đại bác. Các cửa thành đều lấp thêm bao cát, việc ra vào trong thành đều phải dòng dây. Ở ngoài thành còn có lực lượng dân binh do cử nhân Nguyễn Đồng chỉ huy đánh vào sau lưng quân Pháp. Tổng đốc Hoàng Diệu cùng Tuần phủ Nguyễn Hữu Xứng thân lên mặt thành chỉ huy. Quân ta đóng chặt Cửa Đông và Cửa Bắc, tổ chức chiến đấu ở Cửa Tây và Cửa Nam. Quân Pháp nghi binh ở cửa Đông, cửa Nam nhưng lại đánh phá cửa Bắc và cửa Tây. Hoàng Diệu cũng không khoan nhượng với bọn quan lại có tư tưởng hòa hoãn, đầu hàng, ngăn chặn những vụ phá hoại. Tám giờ sáng ngày 25-4-1882 quân Pháp bao vây thành, cho ba chiến hạm trên sông Hồng đên ngang cửa Bắc thì nã đạn đại bác vào thành. Dưới sự chỉ huy của Tổng đốc Hoàng Diệu, quân dân Hà Nội chiến đấu vô cùng dũng cảm bảo vệ thành. Tại cửa Bắc phía ngoài có nhiều tường đất cản trở, quân Pháp phải dùng thuốc nổ để phá mới tiến được sát chân thành. Quân ta chiến đấu quyết liệt nên quân hai bên đều bị thiệt hại nặng nề. Giữa lúc đó, viên Hiệp quản Thiệu bắn chết một sĩ quan Pháp, Hoàng Diệu thưởng ngay 30 lạng bạc làm nức lòng tướng sĩ. Quân ta chiến đấu đến tận 11 giờ trưa, sĩ khí đang hăng. Nhân dân ở các phố cửa Bắc, Hàng Bún tự đốt cháy nhà mình làm hàng rào lửa cản giặc nhưng rồi chúng vẫn kéo được vào cửa Bắc ngày càng đông, một viên quản của đội Hùng nhuệ hi sinh. Ở cửa Nam, Thủy sư Đô đốc Nguyễn Đình Đường chống cự quyết liệt với giặc. 10 giờ 45 phút quân Pháp lọt được vào cửa Đông, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chính Phan Văn Tuyên, Lê Trực chạy trốn. Bỗng kho thuốc súng bốc cháy, quân ta hoang mang, lúng túng, thừa thế, quân giăc tràn vào thành. Ở cửa Bắc, Tổng đốc Hoàng Diệu và Phó Lãnh binh Hồ Văn Phong không sao cản nổi giặc vì chúng kéo vào quá đông. Tổng đốc Hoàng Diệu thấy thành đã vỡ, khó chống cự nổi, ông quay mặt về phía Nam, chảy nước mắt mà nói: “Thần đã sức cùng lực tận rồi, xin tạ tội!”. Quanh mình còn hơn một chục suất đội võ hộ vệ, Hoàng Diệu cho giải tán rồi một mình cưỡi voi đến Võ miếu. Ông viết một tờ biểu gửi vua Tự Đức. Trong tờ biểu có đoạn: “Ngày mùng bẩy tháng này, chúng hạ chiến thư, ngày hôm sau là chúng tiến đánh, quân chúng đông như kiến tụ, súng của chúng gầm như sấm vang; ngoài phố, lửa cháy lan tràn, trong thành ai nấy táng đởm. Thần vẫn gượng lệnh đốc chiến, đi trước quân lính, bắn giết được hơn trăm tên, giữ được thành nửa ngày. Vì chúng nó thì sung sức mà quân ta thì tuột hơi rồi, lại thêm tuyệt đường cứu viện, thế lâm đường cùng, quan võ thì sợ giặc chạy trốn từng đàn, quan văn nghe giớ cũng chạy nốt. Lòng thần đau như cắt, một tay không thể duy trì..

<span class='text_page_counter'>(244)</span> Thần là một kẻ thư sinh biết gì đến việc binh mà bệ hạ giao cho cái chức vụ quá trọng. Làm sao tin được lòng giặc, nên thần lo sửa soạn đề phòng, việc chưa xong thì binh Pháp kéo đến. Thần trộm nghĩ Hà Nội là cái cuống họng của Bắc Kỳ, nên thần thường tâu về Triều đình xin viện binh nhưng bị bệ hạ quở trách…Một mình thề với Long thành nguyện theo Nguyễn Tri Phuơng nơi chin suối vậy!”. Viết tờ biểu xong, ông lấy chiếc khăn chít đầu làm dây buộc cổ ở cây đa trước cửa Võ Miếu (cạnh số nhà 32 đường Điện Biên Phủ hiện nay) Cuộc chiến đấu trong thành vẫn diễn ra, Tuần phủ Nguyễn Hữu Xứng chiến đấu một hồi lâu rồi cũng bị giặc Pháp bắt Thành Hà Nội thất thủ. Tin cấp báo đến triều đình, khi đó Tự Đức chưa bộc lộ rõ tư tưởng đầu hàng giặc một cách công khai xuống dụ ban khen: “Hoàng Diệu hết lòng trung, chết giữ tròn khí tiết, vượt hẳn bọn tầm thường. Trẫm rất thương tiếc, lệnh cho các quan tỉnh Hà Nội lo liệu, đưa thi hài về nguyên quán, các quan tỉnh Quảng Nam lập một đền tế ở mộ, gọi là chút ít an ủi hồn trung, cấp cho 1000 quan tiền để an ủi mẹ già và lo việc tang” Theo lệnh Triều đình, tang lễ của Tổng đốc Hà Nội được tổ chức trọng thể, linh cữu được khai quật lên, bọc vải đỏ, đặt chính giữa, đàn tế thiết lập uy nghi. Ngoài câu đối viếng của quan Khâm sai từ trong Kinh gửi ra còn có rất nhiều đối trướng của các sĩ phu thân hào, thân sĩ tới viếng. Trong đó phải kể đến bức trướng rất to của cụ cử nhân phường Kim Cổ viếng Tổng đốc Hoàng Diệu treo trước linh cữu: “Người như Tiên sinh Hà Thành đâu nỗi thế! Vì khác tiên sinh Hà Thành đành thế nhỉ” Tế xong đưa linh cữu ra bến Phà Đen để chuyển sang thuyền mành đưa về Quảng Nam. Nhân dân Hà Thành đứng chật hai bên đường và theo tới tận bến Phà Đen tiễn đưa người anh hùng đã hy sinh vì thành Hà Nội Các sĩ phu Bắc Hà đã đưa bài vị của ông cùng Tổng đốc Nguyên Tri Phương và sau này là Nguyễn Cao vào thờ ở miếu Trung Liệt ở Loa Sơn. Khi Hoàng Diệu tuẫn tiết có rất nhiều văn thơ ca ngợi ông. Đáng chú ý là trường ca “ Hà Thành chính khí ca” theo thể thơ lục bát, dài 140 câu và Trường ca “Hà Thành thất thủ ca” theo thể song thất lục bát, dài 262 câu tương truyền là của Nguyễn Văn Giai tức Ba Giai làm. Các trường ca biểu dương tinh thần hy sinh vì nước của Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Tổng đốc Hoàng Diệu, lên án triều đình nhà Nguyễn ương hèn đầu hàng giặc Pháp Bài trường ca có đoạn: “Nội công phải tự bao giờ.

<span class='text_page_counter'>(245)</span> Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theo Quan quân sợ chết thẩy đều Thành Tây bạch quỷ đánh liều trèo lên Nào ai cơm áo dốc đền? Nào ai cầm vững cho bền ba quân Nào ai chí khí kinh luân Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu? Một cơn gió thảm mưa sầu, Nấu nung gan sắt, dãi dầu lòng son Chữ trung còn chút con con Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây, Trời cao, biển rộng, đất dầy, Núi Nùng, sông Nhị chốn này làm ghi…” Mối thù trên, phải 13 tháng 19 ngày sau (ngày 19-5-1883), Thống tướng Hoàng Kế Viêm cùng tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc đã phục kích ở Cầu Giấy khi Henri Rivie đưa 500 quân đi đánh phá Hoài Đức, hắn đã bị đền tội. Từ năm 1882, Hà Nội cùng cả nước đã đứng lên đánh Pháp, nhưng phải đến ngày 19-8-1945, Hà Nội làm cuộc Tổng khởi nghĩa lịch sử lật đổ ách thống trị của Pháp - Nhật, giành cuộc sống Độc lập. Khi Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, Thanh niên Thành Hoàng Diệu đã sát cánh với các lực lượng vũ trang kiên cường đánh Pháp. Cuối cùng giành được thắng lợi, ngay 1010-1954 giải phóng hoàn toàn thủ đô. TÁN LÝ QUÂN VỤ BẮC KỲ NGUYỄN CAO Miếu Trung Liệt(1) ở gần Bộ ngoại giao quận Ba Đình là nơi thờ ba người anh hùng chống Pháp, ở cuối thế kỉ XIX là Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, Tổng đốc Hoàng Diệu, Tán lý Quân vụ Bắc Kỳ Nguyễn Cao. Nguyễn Cao hiệu Trác Phong, sinh năm 1837 tại làng Cách Bi (còn gọi là Cách Pha) huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.Cha là Nguyễn Hanh đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1839) đời Minh Mạng. Mẹ là Nguyễn Thị Điềm góa chồng khi 20 tuổi, ở vậy thờ chồng, nuôi con(2). ___________________________ (1). Hiện nay miếu Trung Liệt không còn dấu tích. Tên cường hào là Tổng Trì ép duyên bà, bà không chịu, bị hắn đón đường bóp vú trộm. Bà về làm giỗ mời họ hàng và cả tên Tổng Trì. Ở trong buồng bà lớn tiếng tố cáo Tổng Trì rồi xẻo vú ném ra ngoài. Bà chết, họ hàng bắt tội Tổng Trì. Con trai Nguyễn Cao là Nguyễn Hào mưu khởi nghĩa, bị tên Nguyễn Kiện báo với giặc, giặc bắt Nguyễn Hào đem giết. (2).

<span class='text_page_counter'>(246)</span> Nguyễn Cao thi Hương khoa Đinh Mão (1867). Ông không ra làm quan, ở nhà dạy học. Năm 1873, quân Pháp từ Hà Nội đánh chiếm Gia Lâm, Siêu Loại, Nguyễn Cao chiêu mộ được hơn 1000 người cùng Bố chánh Phạm Thận đánh quân Pháp. Ngày 4-12-1873 nghĩa quân của ông tân công quân Pháp ở Gia Lâm, Thuận Thành, diệt nhiều giặc Pháp, bắt sống 150 ngụy quân. Triều đình Huế ký Hiệp ước 1874 buộc ông phải giải tán nghĩa quân. Ồng có công đánh dẹp giặc Tầu Ô, Triều đình ép ông làm Tri huyện Yên Dũng rồi Tri phủ Lạng Giang. Ông làm quan thanh liêm, trừng trị bọn trộm cướp, quan lại nhũng nhiễu dân, tổ chức dân khai hoang, phục hóa, cải thiện đời sống, Triều đình thăng ông Bố chánh Thái Nguyên rồi đi kinh lý việc khẩn điền ở Nhã Nam. Thang 4-1882, quân Pháp huy động 490 sĩ quan, 17.544 hạ sĩ quan và binh lính xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai, Nguyễn Cao cùng Nguyễn Thiện Thuật, Dương Khải mộ quân đánh Pháp. Ngày 18-5-1883, nghĩa quân tấn công Gia Lâm. Mùa xuân 1884, quân Pháp huy động 10.000 lính, 55 đại bác và tầu chiến do trung tướng Milô chỉ huy đánh Phả Lại, Núi Va, núi Dậm, Thị Cầu, Quả Cảm. Quân đội nhà Nguyễn, quân Thanh lui về phòng ngự, Nguyễn Cao vẫn hợp quân với Nguyễn Thiện Thuật, Ba Báo tấn công quân Pháp. Với 300 tay súng, 700 giáo mác, ngày 25-2-1884 nghĩa quân chiếm được Phả Lại; chặn đánh địch ở Cung Kiệm, ngày 12-3-1884 bắn chìm tầu chiến Carabin, tiêu diệt 43 tên Pháp. Tháng 7-1884 nghĩa quân tấn công quân Pháp ở Ngọc Trì (Gia Lương, Bắc Ninh). Ông còn xây dựng căn cứ ở Đình Bảng (Từ Sơn , Bắc Ninh). Tháng 8-1884 nghĩa quân xây dựng căn cứ ở Vân Cốc, Trung Đông. Sau trận đánh ở vùng Dâu (Thuận Thành) tháng 12-1886 nghĩa quân tan rã, ông lui về làng Kim Giang ở Ứng Hòa dạy học đợi thòi cơ. Tháng 4 năm Đinh Hợi (5-1887), quân Pháp bắt được một tờ sớ của Hồng Lô Tự Khanh Tán tương quân vụ Ngô Quang Huy gửi vua Hàm Nghi, trong đó có đoạn: “Số sỹ phu Bắc Kỳ đang bí mật mưu toan khôi phục, trong đó có Nguyễn Cao”. Bọn Pháp tung mật vụ đi dò xét, ở làng Kim Giang có tên Việt gian đã tố cáo ông với giặc Pháp. Giặc đưa lính về bắt, chúng nhốt ông vào cũi giải về Hà Nội. Ông cắn lưỡi tự tử, chúng cứu chữa ông để khai thác các sĩ phu khác chống Pháp ở Bắc Kỳ. Tại đây ông viết bài “Tự phận ca” ( Bài ca biết phận) là thiên tuyệt bút nổi tiếng. Có tên Việt gian đến dụ dỗ ông, chê bụng ông tối tăm không hiểu thời thế, ông đập bát lấy mảnh khoét rốn rút ruột cho chúng xem và thét: “Chúng bay xem, ruột tao trắng như ngó cần!”. Bấy giờ người đứng xem chật ních đều sợ hãi, bưng mặt mà chạy. Bọn giặc đưa ông đi cấp cứu, ông nhịn ăn uống, luôn miệng chửi mắng quân thù. Khi tỉnh dậy, ông đã cắn lưỡi tự tử..

<span class='text_page_counter'>(247)</span> Hôm đó là ngày 24 tháng 3 năm Đinh Hợi (14-4-1887). Cái chết của ông làm kẻ thù khiếp sợ, kích động lòng yêu nước của nhân dân. Ông đã chết, giặc Pháp vẫn đưa thi hài ông sang Tòa án Nam xử, chúng xử ông tử hình, đem xác ông ra chém đầu. Các sỹ phu yêu nước, các quan trong phe chủ chiến, nghĩa quân vùng Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương vô cùng thương tiếc ông. Nhiều trướng, câu đối, thơ phúng viếng xuất hiện. Trong đó có trướng của Hồng Lô Tự Khanh Tán tương quân vụ Ngô Quang Huy nhan đề: “ Trướng các Chánh phó Lãnh binh, quân đội và nghĩa dũng khóc ông Nguyễn Cao”. Trong đó có đoạn: “…Bỗng gặp năm Quý Dậu(1) Xảy việc Bắc Kỳ Gấp lòng cứu nước; Quyết chí dựng cờ Lệnh nghiêm minh mà tướng mạnh quân hùng; Oai lẫm liệt khiến giặc tan, thù diệt Lê Thị(2) sư khen trí Tôn Thất(3) tướng trọng tài…” Ngay sau khi ông mất, các sĩ phu và nhân dân Hà Nội đưa bài vị ông vào thờ ở miếu Trung Liệt cùng với Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Tổng đốc Hoàng Diệu.. __________________________ (1). Sự kiện năm 1873, Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất Tức Lê Tuấn giữ chức khâm sai đại thần đại diện Triều đình giải quyết tình hình ở Bắc Kỳ. (3) Tôn Thất Thuyết. (2).

<span class='text_page_counter'>(248)</span>

<span class='text_page_counter'>(249)</span>

×