Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Tài liệu Đề tài: Dân tộc thuộc nhóm Môn- Khmer ở Trường Sơn- Tây Nguyên. docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.47 KB, 6 trang )

Môn: CÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
Đề tài: Dân tộc thuộc nhóm Môn- Khmer ở Trường Sơn- Tây Nguyên.
Bài Làm:
Do trình độ phát triển kinh tế- xã hội chênh lệch nhau lại ở các khu vực khác nhau vì vậy
có thể chia các dân tộc thuộc nhóm Môn- Khmer thành 3 nhóm: nhóm dân tộc Khmer, nhóm các
dân tộc ở Trường Sơn- Tây Nguyên và nhóm các dân tộc ở miền núi Tây Bắc và Thanh- Nghệ.
Nhóm Môn - Khmer, có 21 dân tộc: Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ-ro, Co, Cơ-ho, Cờ-
tu, Giẻ-triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ-mú, Mạ, Mảng, M'Nông, ơ-du, Rơ-măm, Tà -Ôi, Xinh-
mun, Xơ-đăng, Xtiêng.
Sự phân bố:
Vùng cư
trú
Các dân
tộc
Tên gọi khác Dân
số(1999)
Địa bàn cư trú
Vùng núi
bắc
Trường
Sơn
Bru- Vân
Kiều
40.000 ng Quảng Trị, Thừa Thiên
Huế
Tà Ôi Tôi Ôi, Pa Cô, Ba Hi, Pa Hi. 26.000 ng Quảng Trị
Cơ Tu Ca Tu, Gao, Hạ, Phương, Ca-
tang
65.100 ng
Quảng Nam
Vùng


nam
Trường
Sơn- Tây
Nguyên
Ba Na Tơ Lô, Giơ Lâng, (Y Lăng),
Rơ Ngao, (Krem), Roh, Con
Kde, A La Công, Kpăng
Công, Bơ Môn
136.000 ng
Kon Tum, Gia Lai, Bình
Định, Phú Yên
Xơ Đăng Kon Tum, Quảng Nam,
Bình Định
Cơ Ho Xrê, Nộp, Cơ lon, Chil, Lát,
T’ring
145.857 ng
(2003)
Lâm Đồng, Bình Thuận,
Khánh Hòa
Hrê 95.000 ng Quảng Ngãi
Vùng
nam Tây
Nguyên
Mnông Bu-dâng, Preh, Ger, Nong,
Prâng, Rlăm, Kuyênh, Chil
Bu Nor
92.451 ng
Đắc Lắc, Lâm Đồng, Bình
Phước
Xtiêng Xa Ðiêng 66.788 ng Bình Phước, Lâm Đồng,

Đồng Nai, Tây Ninh
Mạ Châu Mạ, Mạ Xốp, Mạ Tô,
Mạ Krung, Mạ Ngắn
33.338 ng
Lâm Đồng, Đồng Nai
Co Cor (kor), Col, Cùa, Trầu 29.771 ng
(2003)
Quảng Ngãi, Quảng Nam
Gỉe-
Triêng
Đgiéh, Ta Reh, Giảng Rây,
Pin, Triêng, Treng, Ta Liêng,
Ve, La-Ve, Bnoong, Ca Tang
30.243 ng
Kon Tum, Quảng Nam
Chơ ro Đơ-Ro, Châu Ro 15.000 ng Đồng Nai
Brâu và
Rơ Măm
312 ng
 Về hình thái kinh tế chủ yếu là làm rẫy, làm vườn và làm ruộng. Công cụ sản xuất đơn
giản, cuốc là công cụ chủ yếu trong canh tác, ngoài ra còn có dao, cào cỏ, rìu, gậy chọc lỗ tra hạt,
xà gạt, xà bách Những công cụ đuổi chim, thú rất nghệ thuật: bù nhìn, sáo gió, đàn nước bằng
tre nứa…do làm xen canh trên đất rẫy, các dân tộc ở đây không chỉ trồng lúa mà còn trồng các
loại hoa màu: vừng, đậu, bầu, bí, cà, ớt…cộng thêm các rẫy bắp, khoai đã đem lại cho cư dân đủ
nhu cầu về lương thực và nhu yếu phẩm hàng ngày. Đặc biệt, dân tộc Co có cây quế Quảng là đặc
sản truyền thống ở Trà My. Quế ở vùng người Co có chất lượng và năng suất cao được các địa
phương trong nước và nhiều nơi trên thế giới biết tiếng. Hàng năm quế đem lại nguồn thu đáng
kể cho người Co.
Ruộng chờ mưa là hình thức phát triển của rẫy ( Ba Na, Mạ, Chơ Ro) kĩ thuật cao hơn,
công cụ tiên tiến hơn, thời gian sử dụng đất lâu hơn. Một số dân tộc Cơ Ho, Xơ Đăng, Gỉe-

Triêng, Hrê… đã làm ruộng nước do tiếp thu kĩ thuật của các dân tộc Chăm, Khmer, Kinh…
Chăn nuôi: khá phát triển (cung cấp thức ăn, phục vụ lễ nghi tôn giáo), trâu được nuôi
nhiều nhất ở bắc Tây Nguyên được coi là tài sản quan trọng. Ngựa được nuôi chủ yếu ở Gia Lai
(Ba Na) được sử dụng trong săn bắn và vận chuyển. Voi được thuần dưỡng và chăn nuôi. Các vật
nuôi được sử dụng làm vật cúng trong lễ nghi tôn giáo ( Hrê và Giẻ- Triêng) và trao đổi hàng.
Người Ba Na, chó là vật cưng yêu quý và không bị giết.
Săn bắn và hái lượm: rất phát triển (Sản phẩm phục vụ: thức ăn, bảo vệ mùa màng, thể hiện
tinh thần thượng võ.). Người Mnông, Xtiêng nổi tiếng săn voi, người Ba Na săn bò tót…đồng
bào có 2 hình thức săn cá nhân và tập thể. Hái lượm là nguồn bổ sung thực phẩm hàng ngày (hái
lượm nửa trồng trọt).
Các nghề thủ công chủ yếu: mộc, đan lát, dệt, gốm. Người Tà Ôi, Gỉe- Triêng làm nghề
gốm không dùng bàn xoay mà nặn đất thành các băng dài rồi quấn chồng lên đáy hình trụ tùy
theo nồi, ché to nhỏ khác nhau sau đó miết nhẵn rồi đem nung. Nghề rèn phát triển ở người Xơ
Đăng, sản phẩm là nông cụ, vũ khí…Dệt vải: Mạ, Hrê, Tà Ôi, Ba Na, phụ nữ Mạ nổi tiếng về
nghề dệt vải truyền thống với những hoa văn tinh vi hình hoa lá, chim thú với nhiều màu sắc. Đan
lát: Brâu, Xơ Đăng, Hrê, Cơ Tu, người Chơ Ro đan đó để nhốt cá, dự trữ thức ăn. Đàn ông Ba Na
đan chiếu, lưới, các loại gùi, giỏ, mủng Ở vùng ven Đồng Nai, người Mạ làm thuyền độc mộc
để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.
Một số người Co ở Bồng Miêu có nghề đãi vàng.
 Văn hóa vật chất:
Nhà ở: rất phong phú và đa dạng. Làng được xây dựng nơi cao ráo (mỏm đồi) hay trong
các thung lũng ven núi, gần nguồn nước sử dụng và theo lối mật tập.
Ngôi nhà cổ truyền là nhà sàn dài hay ngắn. Một đặc trưng quan trọng bậc nhất của ngôi
nhà vùng này là kết cấu khung cột, không có vì kèo. Khung đứng vững quan liên kết cột xà, cột
không liên kết với xà ngang mà liên kết trực tiếp với xà dọc. Chính từ đặc trưng này làm cho ngôi
nhà mang sắc thái độc đáo.
Nhà Rông thường được dựng ở vị trí trung tâm khuôn viên cư trú của làng. Là nơi thuận
liện cho sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Sự đồ sộ, hùng vĩ, lạ lẫm của phần mái (mái thấp, mái cao,
mái hình chữ nhật, mái thẳng, mái cong) tạo nên vẻ đẹp hoành tráng cho nhà Rông. Kiến trúc với
trang trí mĩ thuật công phu…Ngôi nhà công cộng (nhà rông) cao lớn và đẹp đứng nổi bật giữa

làng, đó là trụ sở của làng, nơi các bô lão tề tựu bàn việc công, nơi dân làng hội họp, nơi thanh
niên chưa vợ và trai góa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng, nơi tiếp
khách lạ vào làng.
Nhà ở của người Tà Ôi theo lối truyền thống hiện nay rất hiếm, kiểu nhà truyền thống được
người Tà Ôi gọi là doang. Khi chọn được một mảnh đất ưng ý với các tiêu chí như sau: đất bằng
phẳng, gần nguồn nước, gần chỗ ở người dân cùng làng, chủ nhà tiến hành việc xem các thần có
cho phép mình ở chỗ đất đó hay không. Nhà người Tà Ôi được dựng ở phía chếch Mặt Trời, khi
Mặt Trời lên cao ánh sáng chiếu thẳng vào hướng cửa nhà là không tốt. Nhà được làm theo lối cổ
truyền có chiều dài 5,40 m chiều rộng 4,20 m, tổng diện tích của nhà là 22,68 mét vuông. Trên
một đơn vị diện tích mặt bằng đó bố trí các công năng của nhà như sau: Hai đầu hồi nhà phía
đông và phía tây là phía cửa ra vào với cầu thang (kpong) đi lên, cửa chính có chiều cao 1m30
chiều rộng 70 cm. Phía tây có một bếp lửa hình vuông có chiều rộng 1m vuông làm chỗ nấu
nướng, trên bếp có để một gác để ngô, sắn và các loại thức ăn. Đối diện với bếp lửa là chỗ nằm
của ông chủ nhà có dải một chiếc chiếu làm nơi nằm ngủ. Nhà có 3 cửa sổ (a loang a be) có chiều
cao dài 93 cm chiều rộng 66 cm. Nhà ở có 6 cột chính (non) các xà gắn kết với cột chính theo
nguyên tắc ngòam, khi dựng nhà người Tà ôi cũng dựng những cột chính này đầu tiên. Sau đó là
các xà dọc liên kết tạo thành khung nhà. Tiếp theo là các bộ kèo cột, các đòn tay (ploi). Mái nhà
được lợp tranh, vách nhà (ner) được đan bằng lồ ô đập dập đan vào nhau
Ngày nay làng của đồng bào Bru- Vân Kiều ở nhiều nơi đã có xu hướng ở nhà trệt.
Trang phục: Bộ nữ phục truyền thống của các dân tộc này gồm có chiếc váy tấm bằng sợi
bông dệt. Váy tấm là một vuông vải rộng hình vuông hay hình chữ nhật dùng để quấn quanh thắt
lưng, che nửa thân dưới. Váy dài ngắn là tùy thuộc vào tập quán, phong cách riêng của từng dân
tộc. Các dân tộc này còn phổ biến một kiểu áo nữ cổ truyền là áo cánh ngắn chui đầu, không có
ve cổ và đường biên của các bộ phận như cổ, vai nách, cửa tay, gấu áo đều có đường viền bằng
chỉ màu nổi trên nền vải tối. Cách trang trí những hoa văn trên nền vải đi đôi với hoa văn trên
thân váy tạo nên sự hài hòa, duyên dáng và độc đáo riêng của từng dân tộc. Đàn ông đóng khố
trong lúc lao động và sinh hoạt hàng ngày. Vào dịp lễ hội hay tiếp đãi khách thì họ sử dụng khó
dài để tua trang trí bằng hạt cườm, thêu hoa văn tinh tế.
Các dân tộc này thường để tóc dài rồi cắt ngang, búi tó chải gọn. Tóc búi được cài trâm
bằng đồng hoặc bằng xương hay ngà voi. Đồ trang sức bằng đồng, bạc đêo ở cổ, tay, chân.

Những chuỗi cườm có đủ màu sắc, to nhỏ khác nhau đeo trước ngực được các dân tộc rất ưa
thích.
Người Brâu có tục xăm mặt, xăm mình và cà răng. Nam ở trần đóng khố. Đến tuổi 14, 15,
16 tuổi phải cưa bốn răng cửa hàm trên, và thường xăm mặt, xăm mình. Phụ nữ Brâu xưa mình
trần, mặc váy. Đó là loại váy hở, quấn quanh thân. Thân váy được xử lý mỹ thuật ở phần đầu váy
và chân váy với lối đáp các miếng vải khác màu có các sọc đen ngang đơn giản chạy ngang thân
váy.
Người Co không dệt vải, vì vậy vải và đồ may mặc đều mua của nơi khác, phần lớn là mua
của người Kinh và người Xơ-đăng.
Phụ nữ Giẻ Triêng để tóc dài, quấn sau gáy. Họ không mặc áo mà mang loại váy dài, cao
sát nách. Đây là loại váy ống tương đối dài rộng. Đầu váy, giữa thân và gấu váy được trang trí
các sọc hoa văn màu đỏ trên nền chàm. Lối mặc có tính chất vừa váy, vừa áo này là một đặc điểm
rất khác biệt của phụ nữ Gié Triêng, ít gặp ở các dân tộc khác từ Bắc vào Nam. Đây cũng là một
lý do trang phục Giẻ Triêng được chọn vào "Làng văn hóa các dân tộc". Lối mặc váy, đặc biệt là
quấn mép ra trước giữa thân, đầu váy còn thừa (váy loại này thường dài - cao gấp rưỡi váy bình
thường), lộn ngược ra phía trước hoặc quấn thành nhiều nếp gấp ra xung quanh trông như một
chiếc áo ngắn. Phụ nữ còn mang vòng tay vòng cổ.
Ăn uống: ăn cơm tẻ là chính, ngoài ra còn ăn nếp, ngô, khoai, sắn.Thức ăn hàng ngày có
rau, cá…Rượu cần là thức uống chủ yếu. Thuốc lá là thức hút khá phổ biến ở đây. Đàn ông, phụ
nữ, trẻ em đều hút.
 Gia đình:
Tiểu vùng miền núi Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và bắc Quảng Nam có các
dân tộc Bru, Tà Ôi, Cơ Tu cư trú. Xã hội được thiết lập trên cơ sở phụ quyền khá vững chắc.
Trong làng, mỗi họ có 1 trưởng họ thay mặt các thành viên quan hệ với dân làng, giải quyết
những công việc liên quan đến nội bộ như ma chay, cưới xin, nghi lễ nông nghiệp.
Hình thái gia đình phổ biến hiện nay là tiểu gia đình phụ quyền. Trong gia đình người cha
có nhiều quyền hành, quyền thừa kế thuộc về con trai.(Ở người Ba Na, các con được thừa kế gia
tài ngang nhau. Trong gia đình mọi người sống hòa thuận bình đẳng.)Tuy nhiên vẫn còn tàn dư
mẫu hệ như vai trò của người mẹ trong việc giữ kho thóc và phân phát thức ăn cho mọi thành
viên. Người M'Nông theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, trong gia đình người vợ giữ vị trí

chính, nhưng người chồng không bị phân biệt đối xử, họ sống tôn trọng nhau. Cha mẹ về già
thường ở với con gái út.
Hôn nhân: một vợ một chồng. Nguyên tắc quan trọng trong hôn nhân là ngoại hôn một
chiều theo dây chuyền. Ngoài ra còn tồn tại hình thức: hôn nhân anh em chồng, hôn nhân chị em
vọ (Ê đê, Mnông, Cơ Tu), con trai có thể lấy vợ lẽ của bố, cháu có thể lấy vợ của chú khi chú
mất. Con trai cô lấy con gái cậu rất được ưa thích. Hôn nhân mang tính chất mua bán.
Các dân tộc Ba Na, Xơ Đăng, Hrê đều ở trong một hình thái xã hội như nhau, bước quá độ
từ cư trú nhà vợ sang cư trú nhà chồng. Phổ biến cư trú luân chuyển (cha mẹ qua đời mới ở hẳn
một chỗ.
Con trai, con gái Bru-Vân Kiều được tự do yêu nhau và cha mẹ thường tôn trọng sự lựa
chọn bạn đời của con. Trong lễ cưới của người Bru-Vân Kiều, bao giờ cũng có một thanh kiếm
nhà trai trao cho nhà gái. Cô dâu khi về nhà chồng thường trải qua nhiều nghi lễ phức tạp: bắc
bếp, rửa chân, ăn cơm chung với chồng
Thanh niên nam nữ Tà Ôi tự do tìm hiểu nhau qua tục đi "sim" tình tự nơi chòi rẫy. Họ trao
vật làm tin cho nhau, rồi nhà trai nhờ người mai mối. Sau lễ cưới, cô dâu trở thành người nhà
chồng. Việc kết hôn giữa con trai cô với con gái cậu được khuyến khích, nhưng nếu trai họ A đã
lấy vợ ở họ B, thì trai họ B không được làm rể họ A mà phải tìm vợ ở họ C.
Sinh đẻ: một số dân tộc Cơ Tu, Giẻ- Triêng, Mạ làm nhà ngoài rừng hay gần nhà cho phụ
nữ sinh đẻ. Người Brâu, Rơ Măm, Mnông phụ nữ được ở một gian riêng trong nhà. Trong tuần
đầu người mẹ phải ăn kiêng và cấm người lạ vào nhà, hơn một tuần sau đứa bé được đưa về nhà,
gia đình làm lễ nhận đứa bé làm thành viên chính thuwasc và làm lễ đặt tên. Sau một thời gian,
gia đình làm lễ thổi tai, xâu tai, cầu mong con cái khỏe mạnh.
Tang ma: tùy theo cái chết, tuổi tác và địa vị xã hội, tùy theo từng dân tộc, nghi lễ tang ma
khác nhau. Khi trong nhà có người mất, người thân báo cho họ hàng và dân làng biết. Thân nhân
lau mặt và mặc bộ quần áo mới cho người đã khuất. Người chết được đội khăn, đeo con dao nhỏ
dùng lúc sống (nam) hoặc đeo theo cườm vòng cổ, vòng tai(nữ). Người chết được đặt nằm trên
sàn, dưới lót chiếu đặt cạnh bếp lửa.
Dân làng kéo đến chia buồn mang theo lương thực, thực phẩm để giúp tang chủ và làm quà
cho người chết (trang sức, tẩu thuốc, quần áo). Những ngày có người chết cả làng ngừng sản
xuất, túc trực ở nhà tang chủ. Tang chủ giết gà cúng linh hồn người chết. Người Ba Na, Xơ Đăng,

Giẻ- Triêng lấy máu hiến sinh của con vật hiến sinh hòa vào rượu, nhúng tay trái vào rồi vẩy
khắp thi thể hoặc bôi lên ngực, trán người chết. Quan tài thường được làm từ thân cây khoét rỗng
gồm 2 nửa úp vào nhau. Ở vùng bắc Kon Tum, khi đưa quan tài rời khỏi nhà, phải để một vò
rượu, một rá cơm, một bát thức ăn lên phía đầu quan tài. Tang chủ dùng ngón tay trỏ và ngón tay
cái của bàn tay trái cầm vò rượu uống một hớp, ăn một miếng cơm, một miếng thịt rồi nói lời tiễn
biệt.
Theo phong tục người Brâu, người chết được đưa ra khỏi nhà, cho vào quan tài độc mộc và
quàn tại một căn nhà riêng do dân làng dựng lên. Mọi người đến chia buồn, gõ chiêng cồng, mấy
ngày sau mới mai táng. Những ché, gùi, dao, rìu bỏ lại trong nhà mồ là số của cải gia đình cho
người chết. Người Rơ-măm thường dùng trống để báo tin trong nhà có người chết. Việc chôn cất
sẽ được tiến hành vào một hai hôm sau. Các ngôi mộ xếp theo hàng lối sao cho mặt người chết
không nhìn vào làng.
Lễ bỏ mả (Ba Na, Xơ Đăng, Mnông). Đây là lễ hội lớn nhất đồng thời là nghi lễ cuối cùng
của tang ma. Trong lễ này người ta thường hiến sinh nhiều súc vật, đàn ông tạc tượng, làm nhà
mồ, phụ nữ nấu nướng, người già uống rượu. Ngày làm đêm nghỉ, ca hát, nhảy múa, đánh chiên
xung quanh mồ.
Tục chôn treo (Ba Na, Xơ Đăng, Gỉe- Triêng) quan tài được gác lên 4 cột gỗ chắc, từng cặp
được bắt chéo chữ X. Quan tài đặt cách mặt đất 50- 60cm. Ngoài ra các dân tộc bắc Tây Nguyên
còn mai táng trong hang đá hay hỏa táng.Tập quán dùng vàng mã đã xuất hiện trong tang lễ của
người Chơ-ro.
 Văn hóa tinh thần:
Tín ngưỡng: thần lớn nhất của cư dân là ông trời. Các vị thần đóng vai trò quan trọng và có
tác động trực tiếp đến con người là thần sấm sét, thần duy trì phong tục phù hộ cho cộng đồng
trong những cuộc xung đột, thần mưa, thần gió…Vị thần được quý trọng nhất là thần lúa, sau đó
là thần núi, thần rừng…
Đồng bào còn quan niệm ngoài thần còn có nhiều loại yêu quái mang lại tai họa cho con
người và cho rằng số phận con người phụ thuộc vào quan hệ giữa người đó với thế giới siêu
linh.Mỗi làng có một vật thiêng để ở nơi trang trọng nhất trong nhà rông. Trong mỗi gia đình vật
thiêng được đặt ở bếp chính.
Người Tà Ôi quan niệm vạn vật đều có linh hồn, tín ngưỡng đa thần (Thần nước (giàng

đak), Thần chỗ ở gia đình (giàng an teng), Thần nhà dài (giàng đanh), Thần hổ (giàng
avó)), chi phối hầu hết các mặt trong cuộc sống của họ.
Trước đây, người M'nông theo tín ngưỡng đa thần, đặc biệt là các vị thần nông nghiệp và
các vị chư thần giống như các vị thần của người Cơ Ho, người Mạ. Đạo Thiên chúa và nhất là
đạo Tin lành đã thâm nhập và phát triển vào vùng người M'nông.
Ma lai là hiện tượng mê tín dị đoan nguy hiểm nhất ở các dân tộc này, người có ma lai
được các siêu linh ác phù hộ hay mang lại những điều rủi cho người, mùa màng và gia súc. Tục
trả nợ máu khá phổ biến trước đây ở bắc Tây Nguyên. Đây là nguyên nhân dẫn tới tục săn đầu
người.
Ma (brau briêu) đây là loại ma rừng có thể phù hộ cho người sống tuy nhiên cũng có thể
gây ra ốm đau bệnh tật. Theo người Tà Ôi thì ma brau briêu có thể sai khiến được hổ, rắn, muông
thú để làm hại người.
Các nghi thức tôn giáo và lễ hội: các dân tộc tiến hành các lễ thức tôn giáo để cầu mong
cuộc sống và mùa màn được tươi tốt. Một trong những lễ thức quan trọng là việc đưa hồn lúa lên
nương được tổ chức vào ngày lẻ. Trong nghi thức người ta chỉ tôn trọng số lẻ và dùng tay phải.
Nghi lễ cuối cùng là lễ rước hồn lúa về kho rất được coi trọng và kèm theo nhiều cấm kị.
Để đón năm mới, từng gia đình chuẩn bị lễ đâm trâu, cầu mong một năm phúc lành. Cả
làng sửa sang máng nước, dọn dẹp đường sa, sữa chữa nhà rông chuẩn bị mở hội vui chơi ròng rã
hàng tháng. Hàng năm khi mùa màng đã thu hoạch xong (thường là tháng 12 dương lịch), người
Cơ-ho tổ chức ăn tết. Lễ tết kéo dài từ 7-10 ngày. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực
hiện các công việc cần làm như làm nhà, chuyển làng
Âm nhạc, hội họa, điêu khắc: các dân tộc có một nền âm nhạc rất phong phú, đặc sắc gắn
bó chặt chẽ với các lễ hội dân gian. Nhạc cụ: mõ, trống, kèn, sáo, đàn tơ rưng…Nhạc cụ Tây
Nguyên là sản phẩm tinh thần của các dân tộc.
Người Bru-Vân Kiều yêu văn nghệ và có vốn văn nghệ cổ truyền quý báu. Nhạc cụ có
nhiều loại: trống, thanh la, chiêng núm, kèn (amam, ta-riềm, Khơ-lúi, pi), đàn (achung, pơ-kua ).
Đồng bào có nhiều làn điệu dân ca khác nhau: chà chấp là lối vừa hát vừa kể rất phổ biến; "sim"
là hình thức hát đối với nam nữ. Các thiếu nữ Brâu thường chơi Krông pút là nhạc cụ gồm 5-7
ống lồ ô dài ngắn không đều nhau đem ghép với nhau, tạo âm thanh bằng đôi bàn tay vỗ vào nhau
ngoài miệng ống. Dân ca của người Tà Ôi có các điệu Ka-lơi, Ba-boih, Rơin và đặc biệt là điệu

cha chấp trữ tình. Ka-choi và Ka-lêu là làn điệu dân ca quen thuộc của đồng bào Hrê. Các điệu
dân ca phổ biến của đồng bào Co là Xru, Klu và Agiới.
Múa dân gian gắn liền với âm nhạc cồng, chiêng bằng các động tác múa uyển chuyển,
duyên dáng. Trong ngày lễ hội cồng chiêng và đâm trâu, trai thường múa khiên biểu thị tính chất
mạnh mẽ, kiên cường của người dân Tây Nguyên. Gái tham gia những điệu múa dệt vải, múa
trống, múa giã gạo… là những điệu múa xuất phát từ những sinh hoạt hàng ngày.
Ngoài ra, các dân tộc này còn có một nền nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật kiến trúc phong
phú: rường cột, nhà sàn dài, nhà rông có mái cao vút. Nghệ thuật điêu khắc gỗ trong các nhà ở,
nhà rông, nhà mồ với tượng gỗ đa dạng, những tượng thần được tạo nên trong các nghi lễ phong
tục, những cây cột lễ…, nghệ thuật dệt hoa văn trên nền vải để may áo, khố, váy rất tinh xảo…
Đồng bào còn có nền văn học dân gian rất phong phú với các trường ca, cổ tích, truyện
cười, ca dao, tục ngữ phản ánh rõ nét nhân cách con người và xã hội Tây Nguyên. Thơ của người
Cơ Ho được gọi là Tampla, giàu chất trữ tình.
  

×