Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.07 KB, 22 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>XÂY DỰNG BÀI HỌC VÀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC THEO NHÓM VÀ HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC I. Tổ chức hoạt động học theo định hướng phát triển năng lực HS 1. Các hình thức học tập và học tập theo nhóm 1.1. Hoạt động cá nhân - Là hoạt động yêu cầu học sinh thực hiện các bài tập/nhiệm vụ một cách độc lập. Loại hoạt động này nhằm tăng cường khả năng làm việc độc lập của học sinh. Nó diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là với các bài tập/nhiệm vụ có yêu cầu khám phá, sáng tạo hoặc rèn luyện đặc thù. Giáo viên cần đặc biệt coi trọng hoạt động cá nhân vì nếu thiếu nó, nhận thức của học sinh sẽ không đạt tới mức độ sâu sắc và chắc chắn cần thiết, cũng như các kĩ năng sẽ không được rèn luyện một cách tập trung. - Ví dụ các hoạt động cá nhân như: + HS đọc thầm yêu cầu, ví dụ đọc đoạn thông tin, quan sát hình,… nêu ý chính hay trả lời câu hỏi. + HS thực hiện yêu cầu, HS cần ghi lại kết quả thực hiện, ví dụ ghi vào vở ý chính của đoạn thông tin, kết quả nhận xét hình. GV hướng dẫn HS biết cách ghi ngắn gọn kết quả đạt được. + HS báo cáo kết quả với thày/cô giáo hoặc trao đổi với bạn bên cạnh. Sau khi HS có kết quả làm việc, các em có thể trao đổi với bạn bên cạnh và góp ý cho nhau về kết quả hoặc cùng thống nhất kết quả. Với các yêu cầu đơn giản, HS có thể tự thống nhất kết quả cuối cùng; với yêu cầu phức tạp, GV nên đề nghị một vài HS báo cáo kết quả, cho một số HS bình luận ý kiến của bạn, sau đó GV chọn ý kiến đúng của HS để chốt kết quả chung cho cả lớp, giúp các em có kết quả cuối cùng đúng. GV không nên áp đặt HS ý kiến của mình. Cần luôn tạo điều kiện để các em tự tin. Lưu ý: GV phải bao quát được việc học của HS cả lớp và hỗ trợ HS kịp thời, cần ưu tiên giúp đỡ cho HS yếu, kém. GV cần nói nhỏ khi hướng dẫn cho cá nhân HS và nhẹ nhàng khi di chuyển trong lớp. 1.2. Hoạt động theo cặp đôi - Là những hoạt động nhằm giúp học sinh phát triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng. Thông thường, hình thức hoạt động cặp đôi được sử dụng trong những trường hợp các bài tập/ nhiệm vụ cần sự chia sẻ, hợp tác trong nhóm nhỏ gồm 2 em. Ví dụ: kể cho nhau nghe, nói với nhau một nội dung nào đó, đổi bài cho nhau để đánh giá chéo,… - Tùy theo hoạt động học tập, có lúc học sinh sẽ làm việc theo cặp trong nhóm. Giáo viên lưu ý cách chia nhóm sao cho không học sinh nào bị lẻ khi hoạt động theo cặp. Nếu không, giáo viên phải cho đan chéo giữa các nhóm để đảm bảo tất cả học sinh đều được làm việc. Làm việc theo cặp rất phù hợp với các công việc như: kiểm tra 1.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> dữ liệu, giải thích, chia sẻ thông tin; thực hành kĩ năng giao tiếp cơ bản (ví dụ như nghe, đặt câu hỏi, làm rõ một vấn đề), đóng vai. Làm việc theo cặp sẽ giúp học sinh tự tin và tập trung tốt vào công việc nhóm. Quy mô nhỏ này cũng là nền tảng cho sự chia sẻ và hợp tác trong nhóm lớn hơn sau này. - GV yêu cầu 2 HS thực hiện học cặp đôi, 2 HS sẽ cùng làm việc. HS cần thực hiện những việc sau: + HS đọc thầm yêu cầu trong chỉ dẫn của tài liệu. Thường là yêu cầu cùng đọc thông tin, cùng giải quyết bài tập,…. + HS thực hiện yêu cầu. Ví dụ: từng HS đọc thông tin, quan sát hình, sau đó cặp đôi HS cùng trả lời, làm các bài tập. Trong quá trình giải bài tập, trả lời câu hỏi, hai em bàn bạc để có chung kết quả làm việc. - HS báo cáo kết quả với thày/cô giáo hoặc trao đổi với cặp bạn bên cạnh. Lưu ý: Từng cặp HS đọc lời hội thoại, trao đổi với nhau cũng như GV chỉ dẫn chỉ nói đủ cho từng cặp nghe để không ảnh hưởng tới cặp bên cạnh. 1.3. Hoạt động theo nhóm - Nhóm là hình thức học tập phát huy rất tốt khả năng sáng tạo nên hình thức này dễ phù hợp với các hoạt động cần thu thập ý kiến và phát huy sự sáng tạo. Điều quan trọng là học sinh cần phải biết mình làm gì và làm như thế nào khi tham gia làm việc nhóm. - Khi tổ chức cho HS học nhóm, GV cần nhận thức và hướng dẫn đúng nhiệm vụ của các thành viên trong hoạt động nhóm và vai trò của GV đối với việc tổ chức cho HS học nhóm. Để tránh việc tổ chức hoạt động nhóm mang tính hình thức. Trong khi thảo luận nhóm, cần phân rõ vai trò của cá nhân, nhóm trưởng, thư kí nhóm và giáo viên. Cụ thể là: + Cá nhân: tự đọc, suy nghĩ, giải quyết nhiệm vụ, có thể hỏi các bạn trong nhóm về những điều mình chưa hiểu; khi các bạn cũng gặp khó khăn như mình thì yêu cầu sự trợ giúp của giáo viên; thực hiện các yêu cầu của nhóm trưởng và yêu cầu của giáo viên. + Nhóm trưởng: thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân như những bạn khác; bao quát nhóm xem các bạn có khó khăn gì không; phân công các bạn giúp đỡ nhau; tổ chức cho cả nhóm thảo luận những vấn đề khó khăn; thay mặt nhóm để liên hệ với giáo viên và xin trợ giúp; báo cáo tiến trình học tập nhóm; điều hành chốt kiến thức trong nhóm. Nhóm trưởng tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác trong tự học, tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Đối với các bạn nhút nhát thiếu tự tin, cần được khuyến khích nói nhiều, trao đổi nhiều, thể hiện nhiều trong hoạt động nhóm. Không để tình trạng một số thành viên làm thay, làm hộ các thành viên khác trong nhóm. Giáo viên lưu ý phân công học sinh luân phiên nhau làm nhóm trưởng. 2.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> + Thư kí của nhóm: thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân như các bạn khác; là người ghi chép hoặc vẽ lại những nội dung trao đổi hoặc kết quả công việc của nhóm. Việc ghi chép này giúp nhóm tổng hợp công việc mình đã thực hiện, trao đổi với các nhóm khác hoặc chia sẻ trước cả lớp. Để việc tổng hợp ý kiến, công việc của nhóm được thú vị và hấp dẫn. Giáo viên có thể cùng các em sáng tạo ra nhiều hình thức trình bày như tranh hoá hoặc sơ đồ hoá. Thư kí còn là người đánh dấu vào bảng tiến độ công việc để giúp nhóm trưởng báo cáo giáo viên. Giáo viên phân công học sinh luân phiên nhau làm thư kí. + Vai trò của giáo viên trong hoạt động nhóm Chọn luân phiên các nhóm trưởng, thư kí nhóm để giúp giáo viên triển khai các hoạt động học tập. Xác định và phân công nhiệm vụ cho các nhóm một cách cụ thể và rõ ràng. Đứng ở vị trí thuận lợi để dễ dàng quan sát các nhóm học sinh làm việc và có thể hỗ trợ kịp thời cho các nhóm. Không nên dành thời gian làm việc ở một nhóm quá lâu, đứng một chỗ ở khu vực bàn giáo viên. Giúp đỡ học sinh, gợi mở để học sinh phát huy tìm tòi kiến thức mới, hỗ trợ cho cả lớp, hướng dẫn học sinh báo cáo sản phẩm. Khi cần tạo tình huống để học tập, giáo viên có thể gọi học sinh còn yếu; khi cần biểu dương khích lệ học tập, giáo viên có thể gọi học sinh khá giỏi thay mặt nhóm để báo cáo; giao thêm nhiệm vụ cho những học sinh hoàn thành trước nhiệm vụ (giao thêm bài tập hoặc yêu cầu hướng dẫn các bạn khác...). Vừa hướng dẫn học tập cho một nhóm, vừa kết hợp quan sát, đánh giá và thúc đẩy các nhóm khác làm việc. Việc chỉ định học sinh phát biểu, trình bày báo cáo … phải được cân nhắc phù hợp với nội dung hoạt động, đối tượng học sinh, không tập trung vào một số học sinh trong lớp, trong nhóm. - GV cần hướng dẫn thực hiện đúng tiến trình hoạt động nhóm + Trước khi tham gia phối hợp với bạn học trong nhóm, cá nhân luôn có một khoảng thời gian với các hoạt động để tự lĩnh hội kiến thức, chuẩn bị cho các hoạt động thảo luận trong nhóm. Cá nhân làm việc độc lập trong nhóm, nhưng vẫn có thể tranh thủ hỏi hay trả lời bạn trong nhóm, vẫn thực hiện các yêu cầu của của nhóm trưởng (nếu có) để phục vụ cho các hoạt động nhóm. + Tần suất của các hoạt động cá nhân trong nhóm rất lớn và chiếm ưu thế hơn so với các hoạt động khác. Làm việc cá nhân giúp học sinh có thời gian tập trung tự nghiên cứu, tự khám phá kiến thức, tự chuẩn bị những gì cần thiết trước khi sử dụng nó để có những hoạt động khác cùng cả nhóm. Trong quá trình làm việc cá nhân, gặp những gì không hiểu, học sinh có thể hỏi bạn ngồi cạnh hoặc nêu ra trong nhóm để các thành viên khác cùng trao đổi và nếu nhóm không giải quyết được vấn đề thì nhóm trưởng có thể nhờ giáo viên hỗ trợ. 3.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Khi HS chưa quen tự động tạo nhóm, GV hướng dẫn tạo nhóm theo dãy bàn. Có thể cho HS xếp bàn trên, bàn dưới ghép với nhau để từ 4 đến 6 HS ngồi quay mặt vào nhau. Không nên xếp nhóm quá dài theo chiều ngang hoặc dọc, HS sẽ khó giao tiếp với nhau. Nếu nhóm làm việc ít hiệu quả, nên bố trí lại nhóm để HS có thể giao tiếp thuận lợi và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Mỗi nhóm cần bầu nhóm trưởng, thư kí, một số em có nhiệm vụ chuẩn bị nguồn tư liệu, ghi chép, theo dõi thời gian,… Các nhóm cùng đồng thời làm việc nên HS cần giữ trật tự, không nói quá to, không chạy đi, chạy lại trong lớp khi không cần thiết (như đi lấy nguồn tài liệu, lấy thiết bị dạy học cho nhóm,…). Nhóm trưởng đề nghị một vài bạn nêu lại yêu cầu để tất cả các thành viên trong nhóm nhận biết được nhiệm vụ chung của nhóm. Các việc làm cần tuần tự thực hiện: + HS đọc thầm yêu cầu. + Các thành viên trong nhóm suy nghĩ cá nhân hoặc có thể chia sẻ với bạn bên cạnh theo yêu cầu của hoạt động. + Nhóm trưởng mời lần lượt các thành viên hoặc một vài bạn trong nhóm chia sẻ hoặc đưa ra ý kiến. GV lưu ý để nhóm trưởng dành thời gian cho các bạn giải quyết nhiệm vụ. Sau khoảng thời gian nhất định, nếu bạn nào muốn trình bày, nhóm trưởng nên mời lên đầu tiên. + Thống nhất kết quả hoạt động của nhóm. Nhóm trưởng có nhiệm vụ tổ chức tập hợp ý kiến các thành viên để có thể cử đại diện nhóm trình bày kết quả của nhóm trước lớp. + Báo cáo kết quả với thày/cô giáo hoặc trao đổi với nhóm bạn bên cạnh. GV nên tạo điều kiện để đại diện nhóm trình bày kết quả. Có thể để 1 nhóm trình bày, các nhóm khác bổ sung, bình luận. GV chú ý tổng hợp kết quả của HS để cuối cùng có thể chốt lại những nội dung cơ bản của bài học. GV nên yêu cầu HS nêu lại kết quả cuối cùng đó. GV không nên tự chốt lại kết qủa do HS thực hiện. Nếu GV thấy HS không lúng túng, thắc mắc về kết quả làm việc của nhóm thì nên để các nhóm trao đổi kết quả với nhau trước khi chọn một nhóm đại diện báo cáo mang tính chốt vấn đề được tìm hiểu, giải quyết trước lớp. Lưu ý: Vai trò của nhóm trưởng là quan trọng. Vì vậy, GV cần hình thành kĩ năng điều khiển nhóm cho các em HS và tạo cơ hội để mọi HS đều có thể làm nhóm trưởng. 1.4. Hoạt động cả lớp - Khi học sinh có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh một vấn đề hoặc có những khó khăn mà nhiều học sinh không thể vượt qua, giáo viên có thể dừng công việc của các cá nhân, cặp, nhóm lại để tập trung cả lớp làm sáng tỏ các vấn đề còn băn khoăn hoặc bàn cãi (Lưu ý rằng những tình huống như vậy không xuất hiện thường xuyên trong lớp học).. 4.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Hoạt động cả lớp còn được sử dụng trong tình huống GV nêu yêu cầu cho HS, hướng dẫn HS thực hiện nhiệm vụ, HS hoặc nhóm HS trình bày kết quả làm việc, GV đánh giá kết quả làm việc của HS,… Cụ thể như sau: + GV hướng dẫn HS thực hiện yêu cầu, có thể là đọc đoạn văn, phân tích biểu đồ, liên hệ thực tiễn,…. Từng cá nhân HS cần biết mình phải làm gì ở bước tiếp theo. + GV dành thời gian cho HS thực hiện yêu cầu. Trong lúc HS làm việc, GV quan sát thái độ HS. Nếu thấy HS còn lúng túng, GV cần hỗ trợ HS về nguồn tài liệu, về cách xử lý thông tin, cách ghi chép kết quả,… + GV kiểm tra kết quả học tập của HS bằng cách yêu cầu HS trình bày trước lớp hoặc GV quan sát kết quả làm việc của các em (bản ghi chép, vẽ, bài tập được giải quyết,….). + GV chính xác hóa kiến thức, chỉnh lại kĩ năng. Nếu quan sát thấy HS chưa đạt được kết quả mong muốn, GV yêu cầu một vài em trình bày kết quả. GV cần nhận xét, chỉnh sửa những kết quả đó và yêu cầu các em khác so sánh với kết quả được chỉnh sửa để tự chỉnh sửa kết quả làm việc của mình. + GV mở rộng, nâng cao (nếu thấy cần thiết). Như vậy, việc lựa chọn hình thức làm việc nào: cá nhân, cặp đôi, nhóm hay cả lớp đều phụ thuộc vào yêu cầu của các loại hình hoạt động và luyện tập. Tài liệu Hướng dẫn học chỉ là một gợi ý cho việc tổ chức các hình thức hợp tác này, giáo viên cần lưu ý là không phải luôn tuân theo một cách máy móc thiết kế có sẵn của tài liệu. Tùy vào tình hình chung của cả lớp và thiết kế của cá nhân, giáo viên có sự thay đổi, ứng dụng linh động và phù hợp, đảm bảo tính hiệu quả cho bài học và sự hứng thú cho học sinh. Tránh dạy học đồng loạt theo hướng định lượng thời gian, bắt học sinh theo kịp tiến độ một cách khiên cưỡng, thông báo chung hoặc ghi các nội dung trên bảng trong khi hầu hết học sinh đã hiểu và làm được; chốt kiến thức trong từng phần nhỏ; cho học sinh giơ tay phát biểu quá nhiều gây mất thời gian; thay vì dạy cả lớp như hiện hành thì lại dạy cho nhiều nhóm nên việc giảng giải lặp đi lặp lại ở các nhóm khác nhau; sử dụng câu hỏi phát vấn nhiều và vụn vặt..... 2. Hướng dẫn học sinh tự học 2.1. Quan niệm về tự học Đến nay, còn có nhiều quan niệm về tự học, chẳng hạn như: Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức thuộc một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học. 5.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Tự học là quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV và sự quản lí trực tiếp của cơ sở giáo dục và đào tạo. Cụ thể hơn, tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan có ý chí tiến thủ, không ngại khó, kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Theo quan điểm dạy học tích cực, bản chất của học là tự học, nghĩa là người học luôn là chủ thể nhận thức, tác động vào nội dung học một cách tích cực, tự lực, chủ động và sáng tạo để đạt được mục tiêu học tập. Hay nói cách khác, không ai học giúp cho người học được, vì thế muốn học được phải tự học. Theo đó, quá trình hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ, chủ yếu là do HS tự thực hiện, còn môi trường học chỉ đóng vai trò trợ giúp. Việc học chỉ có hiệu quả khi người học ý thức được việc học (có nhu cầu học tập) từ đó có động cơ, ý chí và quyết tâm để vượt qua những khó khăn, trở ngại trong học tập. Tự học là một quá trình chủ thể nhận thức tác động một cách tích cực, tự lực, chủ động và sáng tạo vào đối tượng học nhằm chuyển hoá chúng thành tài sản riêng, làm cho chủ thể thay đổi và phát triển. Có thể nói là con người ai cũng phải tự học, do vậy trong cuộc đời của mỗi người bao giờ cũng có hoạt động tự học, song vấn đề quan trọng là tự học ở mức độ nào và tự học như thế nào, hướng tới học suốt đời. Đặc điểm cơ bản quan trọng không thể thiếu của tự học là sự tự giác và kiên trì cao, sự tích cực, độc lập và sáng tạo của HS tự mình thực hiện việc học. Như vậy, tự học là sự tích cực, tự lực, chủ động của chủ thể nhận thức trong hoạt động học, quá trình tự học do người học tự thực hiện (mang sắc thái cá nhân). Tuy nhiên, cần chú ý rằng với HS phổ thông để việc tự học đạt hiệu quả thường cần phải có sự hướng dẫn, trợ giúp của GV hay người trợ giúp. Theo đó, GV cần tạo ra môi trường để HS phát huy nội lực của mình trong quá trình khám phá kiến thức. Xét về có hay không có sự trợ giúp từ các yếu tố bên ngoài, tự học có hai mức độ: tự học hoàn toàn và tự học có hướng dẫn. Tự học có hướng dẫn là hình thức tự học để chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng tương ứng với sự hướng dẫn tổ chức chỉ đạo của GV hay người hướng dẫn, thông qua bài giảng hoặc tài liệu hướng dẫn học. Tự học có hướng dẫn là việc học cá nhân và tự chủ, được sự giúp đỡ và tăng cường của một số yếu tố như GV hay người hướng dẫn hay công nghệ giáo dục hiện đại. Khi đó, người học là chủ thể, trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức, chân lí bằng hành động của mình. Người thầy là tác nhân hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn cho trò tự học trong sự hợp tác với bạn, với thầy, với học liệu,…. 6.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Như vậy, tự học là tự mình thực hiện việc học. Tự học không thể thiếu trong hoạt động học, trong đó HS phải biết huy động hết khả năng trí tuệ, tình cảm và ý chí của mình để lĩnh hội một cách sáng tạo tri thức kĩ năng và hoàn thiện nhân cách của mình dưới sự hướng dẫn của GV. Kết quả tự học cao hay thấp phụ thuộc vào kĩ năng tự học của mỗi cá nhân và đặc biệt với HS THPT thì còn phải phụ thuộc rất lớn đến sự hướng dẫn của GV hay học liệu, phương tiện hỗ trợ,... Xét theo con đường và không gian học tập thì tự học có thể diễn ra theo các hình thức sau: – Tự học không theo con đường nhà trường, học thông qua thực tế, hình thức này phổ biến ngoài đời sống xã hội, học qua giao tiếp, học qua lao động, học qua các thông tin đại chúng,... Với hình thức này, việc hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ mới là do người học tự trải nghiệm, qua hoạt động thực tiễn. Hình thức tự học này thường do người học tự mò mẫm, thực hiện, thử và sai, thường không có thầy hướng dẫn một cách tường minh và có chủ định, thường không có kế hoạch và mục đích định trước. Hình thức này thường mang tính tự nhiên, trong cuộc sống hằng ngày: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, học bất cứ lúc nào, ở đâu, trong lao động cũng như vui chơi, giải trí,… – Tự học ở trường lớp, có các hình thức: Tự học ngoài giờ trên lớp (có GV hay tài liệu hướng dẫn, hoặc không); Tự học trên lớp (có sự trợ giúp trực tiếp của GV hay người hướng dẫn, hoặc qua tài liệu hướng dẫn). Ngoài ra, tự học ở nhà có một vai trò quan trọng đối với thành tích học tập của HS. Trong quá trình tự học của mình, HS tự học từng phần của bài học, tự học cả bài hay thậm chí tự học cả chủ đề. Quá trình tự học thường được diễn ra theo các giai đoạn: tự nghiên cứu, tự thể hiện, tự điều chỉnh và vận dụng. Mỗi giai đoạn vừa nêu trên có các bước cơ bản để thực hiện, có thể mô tả chúng như phần dưới đây. (1) Tự nghiên cứu - Bước 1. Xác định mục tiêu học tập, nội dung cần học, lên kế hoạch tự học. Đây là khâu đầu tiên của quá trình học một nội dung hay một chủ đề. Kết quả giai đoạn này là nhận ra các đặc điểm của từng nội dung hay chủ đề. Dựa vào đó xây dựng được kế hoạch tự học. - Bước 2. Xác định kiến thức, kĩ năng cơ bản thuộc mỗi nội dung hay chủ đề. Sau khi nhận ra nội dung, đặc điểm của từng nội dung (bước 1), HS phải tiếp tục xác định trong mỗi nội dung đó, kiến thức nào cần thu nhận? kiến thức nào là chủ yếu, cốt lõi? (tức là, nếu thiếu kiến thức này thì nội dung bị thay đổi, hoặc HS gặp khó khăn khi học tiếp). - Bước 3. Hệ thống hoá kiến thức. Xác định quan hệ giữa kiến thức, kĩ năng mới thu nhận với nhau và với kiến thức, kĩ năng đã có. Kinh nghiệm cho thấy, trong 7.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> quá trình học tập, khi thu nhận được kiến thức, kĩ năng mới, người học phải tìm quan hệ giữa các kiến thức, kĩ năng mới thu nhận với nhau và với kiến thức, kĩ năng đã có. Như vậy, kiến thức mới thu nhận và kiến thức đã có hợp thành một thể thống nhất biến thành vốn riêng của chủ thể, tạo thuận lợi cho việc huy động khi cần sử dụng. (2) Tự thể hiện và hợp tác Tự học theo cách đã nêu ở giai đoạn I tuy kiến thức có hệ thống, nhưng còn mang tính chủ quan, những nhầm lẫn, thiếu sót nếu có sẽ không dễ gì được tự phát hiện ra. Vì thế cần phải qua giai đoạn II, nhằm chuyển sản phẩm (kiến thức, kĩ năng,…) chủ quan thành khách quan. Tức là cần phải xã hội hoá sản phẩm học tập. Giai đoạn này được thực hiện qua các bước: - Bước 4.Tự thể hiện, chỉ có thể nhận xét, đánh giá được sản phẩm học ở giai đoạn học cá nhân, khi được HS thể hiện (diễn đạt) lại theo mức độ nắm vững kiến thức. Từ sản phẩm có tính cá nhân, trong tư duy được thể hiện ra hình thức cụ thể để mỗi HS và GV có thể quan sát, phân tích từ đó bổ sung, chỉnh sửa làm cho sản phẩm được chính xác, mang tính khách quan. Tuỳ theo nội dung và nhiệm vụ học tập mà HS có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau như: tóm tắt, lập dàn ý, lập sơ đồ hệ thống, báo cáo, bài nói, bài tập, dự án, phiếu học tập,… - Bước 5. Thảo luận, sau khi biểu đạt như ở bước 4, dưới sự giúp đỡ của GV hay người có hiểu biết (như ông, bà, cha, mẹ hay anh, chị,…), HS thảo luận, tranh luận về các điều mới học được của mình. Người thể hiện phải giải thích, bảo vệ sản phẩm của mình, các thành viên trong nhóm và GV (hay người trợ giúp) lắng nghe, phân tích, bổ sung, sửa chữa nhằm hoàn thiện, làm cho sản phẩm đảm bảo độ tinh khiết, chính xác, tiệm cận tới chân lí. (3) Tự điều chỉnh - Bước 6. Tự đánh giá. Lúc này HS cần tự đánh giá việc học, dựa vào các hướng dẫn đã có. Tất nhiên việc tự đánh giá này luôn mang tính chủ quan, độ chính xác có thể chưa cao. Vì thế, để hiệu quả, ban đầu GV cần hướng dẫn HS cách đánh giá, sau đó cho HS tự đánh giá, hoặc đánh giá lẫn nhau (giữa các thành viên trong nhóm). Cứ như thế, dần dần qua luyện tập mà HS biết cách tự đánh giá, sau khi tự học mỗi nội dung hay mỗi phần trong chương trình. - Bước 7: Tự điều chỉnh. Sau khi tự đánh giá người học tự đối chiếu, tự nhận ra những chỗ sai sót, xác định nguyên nhân, rồi từ đó tự sửa lại nội dung kiến thức, kĩ năng và tự điều chỉnh cách học sao cho ngày càng phù hợp. Tuy nhiên, đến đây vẫn chưa trả lời được câu hỏi: “Mục đích học để làm gì?”, mà chỉ trả lời được khi HS sử dụng kiến thức vào các tình huống học tập và đời sống. Vì vậy, cần có thêm giai đoạn vận dụng. 8.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> (4) Vận dụng kiến thức - Bước 8. Vận dụng kiến thức: Trên cơ sở đã nắm vững kiến thức, HS phải tự nhận ra được ý nghĩa, giá trị của từng kiến thức, kĩ năng đó và sử dụng được vào những tình huống khác nhau. Vận dụng tốt kiến thức, kĩ năng là bước cuối cùng của quá trình học hay tự học. 2.2. Vị trí, vai trò của tự học Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có nêu lên mục tiêu cụ thể, trong đó có đề cập tới việc “phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”; trong các giải pháp có nêu “tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy và học”. Tự học được xem là một mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình dạy học GV không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những kiến thức có sẵn, yêu cầu HS ghi nhớ,… mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho HS tự khám phá ra những quy luật, thuộc tính mới của các kiến thức hay các vấn đề khoa học. Qua đó, giúp HS không chỉ nắm bắt được kiến thức mà còn biết cách tìm ra những kiến thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại còn xác định rõ: càng ở trình độ cao thì tự học càng cần được coi trọng. Nói tới phương pháp dạy học thì cốt lõi là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Vì thế, muốn thành công trên bước đường học tập và nghiên cứu thì người học phải có khả năng tự phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc sống hay khoa học đặt ra. Rèn luyện kĩ năng tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực cho HS trong quá trình học tập: Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phải hình thành được phẩm chất đó cho người học. Khi đó giáo dục mới có thể đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (có nguồn gốc từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú, người học mới có được sự tự giác, say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự 9.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> phối hợp giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập. Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với những biến đổi của sự phát triển kinh tế – xã hội. Bằng con đường tự học mỗi người sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường, nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao, tạo đà cho tự học trong cuộc sống hay trong thực tiễn. 2.3. Những thành tố cơ bản của tự học Muốn tự học, mỗi người cần thiết phải có được bốn thành tố cơ bản, là: a) Động cơ học tập Trong rất nhiều động cơ học tập của HS, ta có thể tách thành hai nhóm cơ bản: – Các động cơ hứng thú nhận thức. – Các động cơ trách nhiệm trong học tập. Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được với người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung hấp dẫn, mới lạ, thú vị, bất ngờ và chứa nhiều những yếu tố kích thích, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ xuất hiện thường xuyên khi nguồn học liệu hay GV tăng cường tổ chức các trò chơi nhận thức, các cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích cực từ người học,... Một khi đã có động cơ, hiểu nhiệm vụ và có trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với ý nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách nhiệm đối với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè,… Từ đó, các em mới có ý thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ học tập, những yêu cầu từ GV, phụ huynh, tôn trọng mọi chế định của xã hội. Cả hai loại động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng chẳng được đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự giác, thầm lặng, từ bên trong. Do vậy nguồn học liệu hay người GV phải tuỳ theo đặc điểm môn học, tuỳ theo đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi để tìm ra những biện pháp thích hợp, nhằm khơi dậy hứng thú học tập và năng lực tiềm tàng nơi HS. Và, điều quan trọng hơn là tạo mọi điều kiện để các em tự kích thích động cơ học tập của mình. Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập chính là tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn. Bởi vì, động cơ học tập đúng đắn sẽ khiến người ta luôn tự giác, say mê học tập và học tập với những mục tiêu cụ thể rõ 10.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> ràng, với niềm vui sáng tạo bất tận. Ngoài việc tạo động cơ cho HS, ta cần khích lệ sự cố gắng của HS. GV hay nguồn học liệu cần chỉ ra cho HS thấy nếu các em cố gắng, quyết tâm, khắc phục khó khăn, tự mình vươn lên thì sẽ gặt hái được thành công. GV nên giúp HS nhận biết cần phải tập trung học ở những phần nào, nội dung nào, môn học nào,... Thông qua những tấm gương vượt khó, những ghi chép về sự tiến bộ của bản thân, HS cần phải học để thay đổi niềm tin và tập trung vào sự cố gắng của mình, nhìn thấy mối quan hệ giữa cố gắng và mức độ thành công. b) Học tập có kế hoạch Việc học, tự học thật sự có hiệu quả khi mục tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch học tập được xây dựng cụ thể, rõ ràng và có tính hướng đích cao, sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cá nhân. Mục tiêu học tập là những gì người học đặt ra để phấn đấu trong học tập và có khả năng đạt được nó trong quá trình học tập của mình. Để có được mục tiêu khả thi và hữu ích, HS cần xác định mục tiêu học tập của mình theo năm yếu tố sau đây: – Cụ thể và rõ ràng: Càng chi tiết càng dễ thực hiện. – Đo lường được: Mục tiêu có thể đo lường và đánh giá được một cách rõ ràng – Có thách thức: Mục tiêu phải cho thấy người học cần phải nỗ lực và có kỉ luật mới có thể đạt được. – Thực tế: Có khả năng đạt được đối với HS đó. – Có thời gian để hoàn thành: Mục tiêu phải có thời hạn hoàn thành cụ thể. Nếu là mục tiêu lâu dài, cần chia mục tiêu thành nhiều mục tiêu nhỏ và xác định thời hạn hoàn thành đối với từng mục tiêu. Người có kĩ năng tự học là người xác định được kế hoạch học tập ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của mình. Thậm chí, các kế hoạch phải được tạo lập theo từng môn học, từng phần trong môn học theo từng thời điểm, giai đoạn học tập cụ thể. Trong lập kế hoạch phải chọn đúng vấn đề trọng tâm, cốt lõi, quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được các vấn đề trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc trong kế hoạch chung một cách hợp lí, logic về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi. Tuy nhiên, theo khoa học về nhận thức, cần lưu ý một số điểm sau đây:. 11.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> – Học ở đâu: quan trọng nhất là học ở nơi thuận lợi cho tiếp thu, không làm phân tán sự tập trung và là nơi học thích hợp với thói quen, phong cách học tập của bạn. – Khi nào nên học tập: chỉ nên học lúc thoải mái, minh mẫn, vào đúng khoảng thời gian trong kế hoạch để học. Không nên học cố trong vòng 15 phút ngay trước và sau khi ăn hoặc không học cố khi đã quá mệt mỏi, buồn ngủ; không học cố vào giờ chót trước khi đến lớp. – Học cho giờ lí thuyết: cần đọc tất cả những tài liệu, đọc trước và ghi chú những điểm chưa hiểu để chuẩn bị cho giờ học trên lớp. Nếu bạn học sau giờ lên lớp của GV, cần chú ý xem lại những thông tin đã ghi chép được. – Học cho giờ cần phát biểu, trả bài: nên dùng khoảng thời gian trống, ngay trước các giờ học này để luyện tập kĩ năng phát biểu. – Sửa đổi kế hoạch học tập: có thể sửa đổi khi kế hoạch không hiệu quả, hoặc khi có việc đột xuất, làm đảo lộn, khi đó việc lập kế hoạch sẽ trở nên linh hoạt, dễ dàng hơn. c) Thực hiện kế hoạch học tập để chiếm lĩnh kiến thức Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối lượng kiến thức và các kĩ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề nông hay sâu, rộng hay hẹp, có bền vững không,… tuỳ thuộc vào chính bản thân người học trong bước mang tính đột phá này. Theo đó, nó thường bao gồm các hoạt động như: – Tiếp nhận/thu thập thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định, như: đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ internet, xemina, hội thảo, làm thí nghiệm, quan sát, điều tra,… Thu thập thông tin nhằm tập hợp những thông tin liên quan đến vấn đề mà người học đang tìm hiểu, giải quyết. Để hình thành kĩ năng này, người học thường phải tiến hành các thao tác như: + Tìm kiếm thông tin: Phải xác định rõ chủ đề cần tìm kiếm thông tin là gì; xác định các loại thông tin chính cần phải tìm kiếm; xác định các nguồn/các địa chỉ tin cậy có thể cung cấp các loại thông tin đó (như: sách, báo, internet, các tổ chức có liên quan,…). + Tiến hành thu thập thông tin: bằng cách đọc và chọn lọc thông minh và linh hoạt để ghi chép các thông tin, qua các tài liệu đã thu thập được. Theo đó cần: đọc mục lục, đọc lời giới thiệu, lời kết luận (nếu có), đọc một vài đoạn, đọc sâu văn bản; ghi chép theo những hình thức khác nhau tuỳ thuộc mục đích của việc đọc như đã đề ra. + Sắp xếp thông tin đã chọn lọc một cách hệ thống, theo từng nội dung.. 12.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> – Xử lí thông tin: Cần tìm hiểu, tóm lược, tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải, đánh giá các thông tin thu thập được; xem xét một cách toàn diện, thấu đáo, có hệ thống các thông tin đó để giải quyết vấn đề. Để hình thành kĩ năng này, người học thường phải tiến hành các thao tác như: + Tóm tắt, phân loại thông tin: cần tóm lược ngắn gọn các thông tin đã thu được; phân chúng ra thành các loại thông tin khác nhau để tiện cho việc tìm hiểu, sử dụng. + Phân tích thông tin: cần tìm ra ý nghĩa của các thông tin có được xem chúng nói điều gì, bằng cách đọc, so sánh, đối chiếu các thông tin đã tổng hợp được. + Tổng hợp, hệ thống hoá thông tin: cần sắp xếp những thông tin cùng một loại vào cùng một nhóm với nhau, đưa ra được nhận định chung. Mục đích của tổng hợp là để có bức tranh chung về vấn đề đang tìm hiểu, dễ xem xét, đối chiếu trong bước kế tiếp. Chú ý rằng, việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. – Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình huống, viết bài thu hoạch,… ta thường gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều khi, tìm được một khối lượng lớn tư liệu, thông tin nhưng việc tập hợp phân loại nội dung để kiến giải một vấn đề lại khó thực hiện được. Lúc này cần khoanh vùng vấn đề theo một giới hạn hay phạm vi đừng quá rộng. Chỉ cần tập trung đào sâu một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới có giá trị là đáp ứng yêu cầu. Trong khâu này việc lựa chọn và thay đổi hình thức tư duy để tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối tượng nghiên cứu cũng rất cần thiết. – Trao đổi, phổ biến thông tin: Trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin, tri thức thông qua các hình thức như thảo luận, thuyết trình, tranh luận,… việc này thường là khâu cuối cùng trong quá trình tự học, tiếp nhận kiến thức. Hoạt động này giúp người học hình thành và phát triển kĩ năng trình bày (bằng lời nói hay văn bản), chủ động, tự tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển kĩ năng hợp tác và quan trọng hơn giúp khách quan hoá và chính xác hoá kết quả tự học. Để hình thành và ngày càng hoàn thiện kĩ năng này, người học thường phải thực hiện có hiệu quả các hành động như: + Hợp tác với bạn, với thầy: Người học cùng chung sức, giúp đỡ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Còn thầy hỗ trợ trò trình bày, thảo luận. + Trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ nói hoặc viết: Người học có thể trình bày kết quả tự học, hoặc nêu lên những thắc mắc, băn khoăn mà mình chưa giải quyết được hay nêu ra các vấn đề nảy sinh trong quá trình thu thập và xử lí thông tin, để nhận phản hồi từ phía bạn và thầy hay người hướng dẫn. 13.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> + Tham gia tranh luận, trao đổi, chia sẻ thông tin: Người học không chỉ biết trình bày ý kiến mà còn phải biết bảo vệ ý kiến, chính kiến của mình; không chỉ biết tiếp nhận thông tin một chiều mà còn phải có tư duy phê phán, để tranh luận, trao đổi với bạn, với thầy, nhằm hiểu vấn đề chính xác hơn, cặn kẽ và sâu sắc hơn. Trong hợp tác trao đổi thông tin, HS không chỉ được đo lường về mức độ hiểu kiến thức của mình mà còn được hình thành và nâng cao dần những kĩ năng xã hội cần thiết như: kĩ năng trình bày, kĩ năng tranh luận,… Thực ra, trong quá trình thu thập và xử lí thông tin đã diễn ra một cuộc giao tiếp ngầm giữa người học (với tư cách là người tiếp nhận thông tin) và người đưa ra thông tin (lời của GV hay thông qua học liệu,…). Nhưng sự giao tiếp này vẫn mang tính cá nhân diễn ra bên trong của người học. Khi HS hợp tác, trao đổi, chia sẻ thông tin, bên cạnh việc thu thập, xử lí thông tin qua trao đổi, ý kiến, quan điểm, cách hiểu và cách biểu cảm của người khác, thì HS còn tập hợp, sàng lọc, xử lí thông tin, để tiếp thu hoặc phản biện,… chuyển thành các hoạt động mang tính xã hội. d) Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập: Trong bất kì hoạt động nào đánh giá kết quả cũng đều quan trọng, vì nó giúp cho chủ thể kịp thời phát hiện ưu điểm hay thiếu sót, hạn chế và điều chỉnh các hoạt động, phù hợp với mục đích đề ra. Trong tự học, tự kiểm tra, tự đánh giá có một ý nghĩa quan trọng, đảm bảo kết quả, chất lượng của tự học. Tự kiểm tra, đánh giá nhằm tự điều chỉnh, có thể thực hiện theo trình tự sau: + So sánh đối chiếu kết luận của thầy hay người trợ giúp và ý kiến của các bạn với sản phẩm ban đầu của mình để biết được sự: đúng – sai, hay – dở, đủ – thiếu,… + Kiểm tra lí lẽ, tìm kiếm luận cứ,… để có cơ sở chứng minh cho sự đúng – sai. + Tổng hợp, bổ sung thêm lí lẽ, chốt lại vấn đề. + Sửa chữa những chỗ sai sót, hoàn thiện sản phẩm. + Rút kinh nghiệm về cách học, cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn đề. Việc tự đánh giá, điều chỉnh kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức, như: Dùng các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu mà GV đề xuất hay các bảng kiểm; tự đánh giá, điều chỉnh; sự đánh giá nhận xét của tập thể, thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra ban đầu,… Tất cả cách làm đó đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan tâm thường xuyên. Thông qua đó, người học tự đối thoại để thẩm định, hiểu được cái gì làm được, điều gì chưa đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu, để từ đó có hướng khắc phục nhược điểm hay phát huy ưu điểm. Tự học rõ ràng là vấn đề không hề đơn giản. Muốn học tập có hiệu quả, nhất thiết HS phải chủ động tự giác, học bất cứ lúc nào có thể, bằng chính nội lực, vì nội lực chính là nhân tố quyết định cho sự phát triển. Ngoài ra, còn rất cần tới vai trò của người thầy hay người trợ giúp với tư cách là ngoại lực trong việc giúp cho HS có được 14.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> một hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ,… cùng với phương pháp tự học cụ thể, khoa học, nhờ vào kinh nghiệm của thầy. Nhờ đó, hoạt động tự học của HS ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất. 2.4. Một số phương pháp và kĩ thuật tự học Để HS tự học có hiệu quả, ngoài việc tạo động cơ, hứng thú cho các em, cũng như hướng dẫn các em lập kế hoạch học tập hay tự kiểm tra đánh giá còn cần sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật tự học thông dụng. Một vài phương pháp và kĩ thuật tự học thông dụng được đề cập như phần dưới đây. a) Nghe hiệu quả Biết nghe giảng đúng cách hay nghe tích cực sẽ giúp HS rút ngắn thời gian học tập, làm bài tập nhanh chóng và dễ dàng hơn, tự tin, hứng thú hơn và không ngỡ ngàng khi gặp lại các nội dung học tập, nhất là trọng tâm bài học. Để luyện kĩ thuật nghe tích cực HS cần: – Tập trung theo dõi bài giảng hay hướng dẫn học ngay từ lúc bắt đầu của tiết học, nhưng chưa nên nghĩ đến việc sẽ làm gì, vì điều đó có thể sẽ phá vỡ lôgic của nội dung cũng như quá trình nghe giảng. – Tập trung nghe trọn vẹn nội dung chính, những điểm quan trọng nhất mà GV thường nhấn mạnh qua ngữ điệu hay qua việc nhắc lại nhiều lần, để hiểu vấn đề, rồi ghi chép ý chính theo cách hiểu của mình. Chú ý ghi theo dàn bài để nhìn được khái quát cấu trúc chung của bài học, chú ý tới trọng tâm, mấu chốt của vấn đề. – Chú ý đến các bảng tóm tắt, các sơ đồ và các tài liệu trực quan khác đã giới thiệu, vì ở thời điểm này người thầy (hay người hướng dẫn) so sánh, phân tích, hệ thống hoá kiến thức,... nhờ đó ta có thể nắm được trình tự, tiến dần đến kết luận và rút ra cái mới. – Nếu gặp chỗ nào khó, không hiểu, thì hãy tạm thời gác nó lại và sẽ cố gắng tìm hiểu những điều đó sau, để quá trình nghe giảng không bị gián đoạn. – Trong hoặc cuối tiết học, có thể nêu câu hỏi với GV hay người hướng dẫn để làm rõ những chỗ chưa hiểu, khắc sâu kiến thức,... Lưu ý: Nên dành vài phút để đọc lướt qua tài liệu sẽ học trước khi nghe giảng. Nhờ đó, biết được những vấn đề khó để nhắc mình chăm chú hơn khi nghe giảng. b) Ghi chép hiệu quả Ghi chép không những có thể khiến tăng cường sự tập trung mà còn là một công cụ hỗ trợ ghi nhớ. Khả năng ghi chép phụ thuộc vào từng người và được bắt nguồn từ những kinh nghiệm có sẵn. Ghi chép còn giúp chúng ta nguồn lưu trữ thông tin để sau này dùng lại hay ôn lại nếu cần. Song để ghi chép được nhanh và hiệu quả 15.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> nên sử dụng các thủ thuật như: dùng từ viết tắt, dùng chữ bắt đầu của một từ; dùng các kí hiệu hoặc tạo ra những từ viết tắt riêng cho mình; đặt tựa đề riêng cho đề mục và ghi lùi sang phải từng chi tiết liên quan với đề mục; dùng những chấm riêng cho từng dòng và xuống dòng cho mỗi chi tiết; chừa chỗ trống nhiều so với lề trái, khoảng 1/3 chiều ngang tờ giấy; ... Không cần ghi lại mọi thứ mà hãy tư duy, lắng nghe để hiểu và ghi được những điều quan trọng nhất. Lưu ý: – Ghi nhanh từ mới, những ý tưởng hay khái niệm, vấn đề mới lạ vào giấy, vở hay sổ tay. – Trước tiết kiểm tra, viết lại những gì đã ghi chép sẽ giúp em nhớ được các chi tiết quan trọng và dễ dàng truy cập khi cần. – Tất cả những gì ghi chép được cần sắp xếp theo từng mục, theo nhu cầu và cách riêng của mình. – Nếu có máy tính thì nên sắp xếp dữ liệu theo thư mục các tập tin, khi đó, việc tìm kiếm sửa đổi thật là đơn giản. – Chú ý viết lại những vấn đề quan trọng khi nghe người khác hay khi đọc tài liệu, nhờ đó sẽ hiểu sâu, hiểu liền mạch nội dung nghe được, tránh được tình trạng học vẹt. Sau mỗi giờ học, em nên viết ngắn gọn về một vấn đề gây ấn tượng nhất với mình trong giờ học, hoặc vấn đề muốn tìm hiểu thêm. Thí dụ: – Điều mình thích nhất trong giờ học hôm nay là .............. sẽ giúp các em nhớ một nội dung quan trọng nào đó trong giờ học. – Điều mình muốn tìm hiểu thêm trong bài ngày hôm nay là .................. sẽ giúp các em nhớ tìm tài liệu nào đó có liên quan, hoặc hỏi/chia sẻ với ai đó (như thầy cô giáo, cha mẹ, bạn bè,...) để hiểu hơn về vấn đề nào đó trong bài học. c) Đọc hiệu quả - Đọc hiệu quả là đọc một cách tập trung và kĩ lưỡng để hiểu được chính xác những gì đọc được. Ta biết rằng một từ, một cụm từ hay một chữ, thường có hai phần là âm và nghĩa. Đứng về mặt kĩ thuật, đọc là một quá trình kết hợp lướt mắt qua các con chữ và nhập nghĩa của các con chữ đó vào đầu. Khâu thứ nhất – xem như khâu nhận mặt chữ hay biết âm – chỉ bao gồm việc nhận dạng kí tự, đọc thầm, phân tích ngữ pháp của câu để chuẩn bị cho việc hiểu nghĩa. Khâu thứ hai – xem như khâu nhập nghĩa vào trong đầu – là quá trình chuyển các kí tự đọc được thành nghĩa. Nó thường xảy ra theo hướng so sánh khái niệm hoặc ý nghĩa vừa đọc với nhận thức cũ của mình. Khi đó, nếu có sự phù hợp hay quen thuộc, thì việc hiểu này mang nghĩa củng cố kiến thức; còn nếu nó xa lạ hay trái với những gì mình đã biết thì việc nhập kiến thức sẽ mang nghĩa tiếp nhận, nạp cái mới. 16.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Theo đó, quá trình tiếp nhận thường khó hơn quá trình củng cố, bởi nó liên quan tới sự suy đoán, liên tưởng để tạo các liên kết mới với kiến thức cũ. Nếu quá trình liên kết này vẫn không thành thì kiến thức mới sẽ nằm riêng một chỗ; tuỳ vào độ mới và độ trái ngược mà nó sẽ nằm ở trong đầu bạn cho đến khi tìm được liên hệ với kiến thức cũ ở lại, hoặc sẽ bị xoá nhoà. Đọc hiểu chính là quá trình bạn đọc, chú ý đến từng từ, từng khái niệm; với một ý thức rằng tác giả dùng từ đó, khái niệm đó thì ắt là phải có hàm ý nào đó. Một số điều nên làm khi đọc hiểu: – Trau dồi vốn từ: Nên hiểu rõ các sắc thái nghĩa của từ, chú ý cách dùng từ của người khác và biết lựa chọn, sử dụng từ, ngữ một cách chính xác, uyển chuyển và cẩn trọng trong viết và nói. – Khi đọc các sách có tính chuyên sâu hay mang tính học thuật thì trước hết phải hiểu đúng các khái niệm đồng thời biết trân trọng cách dùng từng từ của người viết để ý thức đầy đủ về tính chính xác của từ ngữ. – Khi gặp một khái niệm mới thì đừng bỏ qua mà cần tìm hiểu kĩ nội hàm của khái niệm này. – Sau khi đọc, nên hình thành thói quen liên tưởng, tìm nghĩa và bắt lấy dụng ý của người viết thật nhanh. – Đọc kĩ khái niệm và từ nhưng cần xem xét nghĩa của nó trong tổng thể. - Đọc tích cực SQ3R (Francis Robinson, 1970) là một kĩ thuật hữu hiệu nhằm giúp ta nắm được toàn bộ nội dung thông tin của một tài liệu hay một quyển sách,… thông qua việc ta phải chú tâm tới đọc tài liệu một cách tích cực. Theo SQ3R, đọc tích cực bao gồm các thao tác: + Xem tổng quát tài liệu (Survey) là thu thập các thông tin cần thiết để tập trung và hình thành các mục đích khi đọc. Trước khi đọc hãy dành ít phút để xem xét tổng quát tài liệu, bằng cách xem nhanh mục lục, các tiêu đề của chương, các tựa đề, phần tóm tắt, phần mở đầu, phần kết luận,… chú ý những bảng biểu, đồ thị, hình vẽ trong sách, rồi xét xem tài liệu này giúp ích gì cho mình và nếu cảm thấy rằng nó không có ích thì hãy tìm đọc một tài liệu khác. + Đặt câu hỏi (Question) giúp cho não hoạt động và tập trung vào việc đọc. Đặt ra các câu hỏi trước khi bắt đầu đọc thật sự sẽ giúp người đọc có chủ đích khi đọc tài liệu. + Đọc tài liệu (Read) một cách tập trung để tìm kiếm, hiểu các chi tiết, nhằm giúp ta trả lời được những câu hỏi đã đặt ra. Khi đọc, chúng ta cần ghi chép các ý chính, các chi tiết quan trọng.. 17.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> + Thuật lại (Recite) giúp não bộ tập trung ghi nhớ về nội dung vừa đọc. Bằng cách thuật lại, người học diễn giải lại nội dung đã đọc bằng chính ngôn ngữ, suy nghĩ của mình. + Xem lại nội dung đã đọc (Review): Hãy quay lại nội dung hay quyển sách đã đọc sau một thời gian nào đó và kiểm tra xem mức độ mình nhớ được và có thể tự thuật lại khoảng bao nhiêu phần. Ở bước này, chỉ nhìn lướt lại những gì đã đọc, các câu trả lời đã hoàn thành, các câu hỏi đã đặt ra và thử xem bản thân có thể trả lời chúng một cách trôi chảy hay không? Cách này giúp cho nội dung đã có được làm mới và ghi nhớ lâu hơn trong trí óc của chúng ta. d) Ghi nhớ thông tin hiệu quả Ghi nhớ là quá trình tiếp nhận thông tin và lưu giữ thông tin ấy trong đầu, để sau đó có thể nhắc lại, dùng lại được. Ghi nhớ đòi hỏi yêu cầu cao với người học. Để có thể ghi nhớ thông tin nhanh và lâu, cần lưu ý các bước sau: – Đọc đi đọc lại: Đọc lại những gì đã ghi chép sau buổi học sẽ giúp nhớ bài tốt hơn. Có thể đọc một tài liệu nhiều lần, mỗi lần với một mục tiêu khác nhau và đọc theo đúng mục tiêu đó. – Nắm ý chính: Nắm được ý chính trong mỗi đoạn văn và hiểu nó theo cách của mình là điều cốt lõi của việc đọc có hiệu quả. – Trích lược những chi tiết quan trọng: Mỗi ý chính trong một bài đều có liên quan đến một chi tiết quan trọng, vì thế, nếu càng nhớ và dẫn được càng nhiều chi tiết quan trọng hay các liên hệ giữa các chi tiết và các ý, hoặc giữa các ý với nhau, thì càng liên hệ được các ý tưởng với kiến thức nền tảng. Nhờ đó, ta dễ dàng huy động, sử dụng khi cần. – Ghi thành dàn bài: bằng cách chia nội dung toàn bài thành các phần chính (Ví dụ là A, B hay C,…). Trong mỗi phần lại có thể chia thành một số mục nhỏ, bạn có thể sắp xếp các mục nhỏ ấy bằng những chữ số, như: 1, 2, 3,... và đặt những tiêu đề riêng; có thể gạch dưới hoặc viết đậm các phần quan trọng để dễ nhớ. – Nhẩm trong óc: Là cách hệ thống lại và ôn từng phần một của bài, chỗ nào quên thì dừng lại và lật bài đã có ra xem. Tiếp đó nhẩm sang phần khác, chú ý các phần quan trọng cần ghi nhớ. Sau đó, tìm những nội dung còn sót để học lại cho thuộc và đặt thành câu hỏi rồi tự giải quyết trong óc câu hỏi ấy. – Ghi ra giấy: Có thể ghi riêng ra giấy những từ mới, công thức, những định lí, tính chất,… sau đó đóng hay cất những tờ giấy này vào nơi dễ nhìn thấy, có thể mở ra xem để ghi nhớ. Khi ghi chỉ nên tóm tắt phần quan trọng, chính yếu nhất, tránh ghi rườm rà.. 18.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> – Hỏi và tự trả lời: Tự đặt cho mình những câu hỏi và trả lời các câu hỏi để ghi nhớ được các thông tin cần tìm hiểu. Các loại câu hỏi như: Cái gì? Ở đâu? Khi nào? Tại sao? Như thế nào? Ai? ... Cách này vừa giúp ta nhớ kiến thức, vừa tăng cường tính chủ động, tích cực trong học tập. đ) Liên tưởng trong tự học Liên tưởng giúp các em phát huy tính khám phá, tính sáng tạo bằng cách kết nối một vấn đề đang học, một vấn đề đang gặp phải, cần được ghi nhớ, một vấn đề chưa thật quen thuộc, chưa thật hiểu rõ, với cái mà mình đã biết. Nhờ đó, ta sẽ dễ nhớ và dễ truy cập, sử dụng một vấn đề nào đó khi cần. Để sử dụng liên tưởng, chúng ta cần xem lại các luật liên tưởng: * Luật đặc trưng: Các sự vật có quan hệ về tính chất hoặc dấu hiệu đặc trưng có thể hình thành liên tưởng. Chẳng hạn, nhìn cây mía ta liên tưởng đến vị ngọt, nghe một bài hát ru ta liên tưởng tới tình yêu của mẹ, truyện Bó đũa cho ta liên tưởng với tinh thần đoàn kết,... * Luật tương phản: Các sự vật có những đặc điểm tương phản có thể hình thành liên tưởng, như: cao – thấp, ngắn – dài, sáng – tối, nóng – lạnh, nhút nhát – can đảm, thành công – thất bại,… * Luật gần nhau: Các sự vật gần nhau về thời gian hay không gian cũng hình thành liên tưởng, như nhìn thấy một dòng sông có thể liên tưởng tới con sông quê hương, thấy bông hoa đẹp thì có thể liên tưởng đến hoa thơm bướm lượn,… * Luật quan hệ: Hình thành liên tưởng do mối quan hệ giữa các sự vật, như: nhìn cây cối có thể nghĩ đến rừng, nhìn con ong có thể nghĩ đến mật ngọt vàng óng, thấy hành động giúp đỡ người khác của một ai đó ta nghĩ đến lòng nhân ái,… * Ngoài ra còn có: – Luật sáng rõ: liên tưởng càng rõ ràng thì ấn tượng càng sâu sắc. – Luật lặp lại: ấn tượng càng sâu sắc khi liên tưởng được lặp đi lặp lại nhiều lần. – Luật (thời gian) xa gần: thời gian hình thành liên tưởng càng gần chúng ta càng sâu sắc, còn càng xa thì càng mờ nhạt. Mỗi loại liên tưởng sẽ là một kết nối hay là một “móc dính”, với các nội dung cần ghi nhớ. Vì thế, nếu muốn có một trí nhớ tốt hãy thường xuyên rèn luyện bằng cách: khéo léo kết nối nội dung cần ghi nhớ với những sự vật, hiện tượng đa dạng, phong phú xung quanh. Liên tưởng có thể giúp tự học, phát huy tính sáng tạo được nhiều hơn. Đây là một phương pháp tư duy thường được sử dụng, có tác dụng và cần thiết trong đời sống, trong học tập và cho suốt cuộc đời con người. 19.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> e) Suy nghĩ tích cực theo mô hình 3C giúp học tập có hiệu quả – Cam kết (Commitment): đặt ra một cam kết tích cực cho việc học hành, cho công việc của bản thân, hoặc cho bất cứ việc gì khác và hãy thực hiện việc đó một cách nhiệt tình và say mê, tốt nhất có thể. – Quản lí (Control): tập trung suy nghĩ vào những việc quan trọng và có ý nghĩa theo mục tiêu và tính ưu tiên cho mỗi việc mình nghĩ và làm. Thành thật với bản thân và kiểm tra xem đã làm được những gì và chưa làm được gì và hãy nhanh chóng thay thế các ý nghĩ tiêu cực bằng các suy nghĩ tích cực. – Thử thách (Challenge): Hãy can đảm thay đổi những thói quen, suy nghĩ tiêu cực mỗi ngày, qua cách xem việc học hay những sự thay đổi như là các cơ hội. Hãy thử làm khác đi điều mình vẫn làm thường ngày, hãy phát hiện ra nhiều lựa chọn khác nhau cho mỗi sự việc. g) Sử dụng bản đồ tư duy trong tự học Trong việc học và đặc biệt là khi ôn tập, hệ thống hoá kiến thức, HS đã được làm quen với việc kẻ bảng, biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và thường HS có chung cách “ghi chép” giống GV hay người trợ giúp, hoặc mẫu trong tài liệu, nên việc ghi nhớ thường bị động, khó khăn, khó khắc sâu, khó nhớ. Đến nay, BĐTD được xem là hình thức ghi chép hỗ trợ tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề, một hệ thống bài tập hay một mạch kiến thức, các cách giải của một dạng bài tập,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, BĐTD còn là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau. Do đó, việc lập BĐTD còn giúp phát huy khả năng sáng tạo của mỗi người. Để làm quen, trước hết nên cho HS tập “đọc hiểu” một vài BĐTD do GV thiết kế sẵn hoặc được cho từ mạng Internet, sách tham khảo,… tập cho HS thuyết trình, diễn giải mạch nội dung kiến thức hàm chứa trong BĐTD đó. Tiếp theo, thực hành vẽ BĐTD trên giấy hay trên bìa, trên bảng: Ví dụ lập BĐTD “Quang hợp ở các nhóm thực vật”, Sinh học 11: Bước 1. Bắt đầu ý chính của chủ đề và diễn đạt chủ đề bằng một kí hiệu, hình vẽ, cụm từ,... vẽ nó ở chính giữa trang giấy (gọi là trung tâm). Kênh chữ trên BĐTD được viết ngắn gọn, dưới dạng từ khoá, khi HS thuyết minh thì mới diễn đạt đầy đủ. Bước 2. Vẽ các nhánh, bắt đầu là nhánh cấp 1, xuất phát từ trung tâm, đó chính là các nội dung chính của bài học hay chủ đề (hoặc tên các mục của tài liệu). Bước 3. Vẽ nhánh cấp 2, 3,... và hoàn thiện BĐTD. 20.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> Vẽ các nhánh cấp 2 xuất phát từ nhánh cấp 1, ghi kiến thức trên các nhánh đó, vẽ thêm hình ảnh liên tưởng theo cách của mình. Tiếp tục quá trình trên, các nhánh con cấp 3, 4,… của nhánh con trước đó (hay nói rõ hơn, nhánh con cấp 3, 4,… là các ý triển khai của các ý trước đó). Các đường nhánh có thể là đường thẳng hoặc các nhánh đường cong, tuy nhiên, theo một số kết quả nghiên cứu cho thấy các nhánh đường cong phù hợp với nếp nhăn của não và làm cho mắt dễ chịu hơn. Bước 4. Báo cáo hay thuyết minh về BĐTD Đại diện của nhóm lên báo cáo (thuyết minh hay trình bày), về BĐTD đã thiết lập. Hoạt động này vừa giúp GV biết rõ việc hiểu kiến thức của các em vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người. Bước 5. Chỉnh sửa, hoàn thiện BĐTD. Tổ chức cho HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để dần hoàn thiện BĐTD về nội dung của bài học. GV là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học. Khi HS đã biết cách lập BĐTD, GV có thể hướng dẫn các em cách “ghi” bài theo cách sử dụng BĐTD. Hướng dẫn HS ghi theo cách hiểu của các em, tóm lược các ý chính trong SGK, ghi các nội dung mà thầy/cô mở rộng, bổ sung vào bài giảng hay các nội dung tham khảo thêm,… Khi HS đã thành thạo việc lập BĐTD, sử dụng được BĐTD trên lớp, GV hướng dẫn các em dùng BĐTD trong việc tự học ở nhà, khi ôn bài hay hệ thống kiến thức của một chủ đề, một chương. HS có thể dùng một cuốn vở để lập các BĐTD, hoặc vẽ rời trên giấy A4 rồi xếp thành một tập, cho vào túi clear để sau này ôn lại bài. Với cách này, hi vọng các em sẽ ôn tập nhanh và hiệu quả. Các em có thể lập BĐTD để chuẩn bị bài mới, các em có thể đọc trước SGK, vẽ BĐTD theo cách hiểu của mình, khi đến lớp sẽ bổ sung thêm các thông tin, các nội dung khác bằng cách vẽ thêm nhánh. Việc lập BĐTD đòi hỏi quá trình tư duy tích cực, HS trở thành “tác giả” kiến thức và làm chủ “tác phẩm” kiến thức hội hoạ. Qua đó góp phần bồi dưỡng năng lực tự học, tập dượt nghiên cứu cho HS. h) Ứng dụng CNTT trong tự học CNTT không chỉ hiểu là máy tính và mạng Internet mà là tất cả những phương tiện kĩ thuật dùng để khởi tạo, lưu trữ, chuyển tải, chia sẻ, trao đổi thông tin. Trong giáo dục, CNTT đóng vai trò quan trọng đối với dạy và học, tạo ra “môi trường số” giúp GV, HS linh động hơn trong việc thu thập, xử lí, trao đổi, quản lí thông tin cũng như giao tiếp, cộng tác và đánh giá hoặc liên kết nội dung bài học với những ý tưởng 21.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> thực tế của cuộc sống. Ở Việt Nam, có một số trang web mà HS trung học nên tham khảo như: google.com.vn, youtube.com, moon.vn, hocmai.vn, viettelstudy.vn, tuyensinh247.com, kienthuc.com, violet.vn (các môn),... hayhaytv.com, wattpad.com, fictionpress.com, mangahere.com,… – Ứng dụng CNTT trong tìm kiếm thông tin: + HS tìm kiếm thông tin bằng cách đánh máy nội dung thông tin cần tìm kiếm trên Google; vào những trang web, phần mềm do GV giới thiệu,… + Lựa chọn các bài phù hợp với nội dung cần tự học. – Ứng dụng CNTT trong xử lí thông tin: + HS đọc lướt, đọc kĩ tài liệu. + Đánh dấu hoặc ghi chép lại những thông tin quan trọng. + Lựa chọn và chắt lọc thông tin cần thiết và sao lưu trong các địa chỉ, trang web, ... – Ứng dụng CNTT trong trao đổi thông tin: + HS có thể tương tác với GV qua email, chat, viber, skype, webcam, các trang web tự tạo,… + Tương tác HS – HS qua các diễn đàn lập trên facebook, Google Drive, googlegroup,… – Ứng dụng CNTT trong kiểm tra, đánh giá kết quả tự học: + HS tham gia làm bài tập, bài kiểm tra, bài thi,… sau mỗi bài học, chủ đề học,… có thể tham khảo ở một số trang web như moon.vn, hocmai.vn, viettelstudy.vn, tuyensinh247.com,…; bài thi theo tuần như ioe.go.vn, violympic.org, thiviolympic.com ... + HS đối chiếu với đáp án hoặc căn cứ vào điểm số, xếp thứ tự,… của bản thân để tự đánh giá.. 22.
<span class='text_page_counter'>(23)</span>