Tải bản đầy đủ (.docx) (227 trang)

Định kiến giới trên báo mạng điện tử việt nam (khảo sát báo mạng điện tử tuoitre vn, vnexpress net, giadinh net vn từ tháng 01 2014 đến tháng 12 2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.47 MB, 227 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
------



-----

PHẠM THỊ THÙY LINH

ĐỊNH KIẾN GIỚI TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM

(Khảo sát báo điện tử Tuoitre.vn, VnExpress.net,
Giadinh.net.vn từ tháng 01/2014 đến tháng 12/2016)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội - 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
------





-----

PHẠM THỊ THÙY LINH

ĐỊNH KIẾN GIỚI TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM

(Khảo sát báo điện tử Tuoitre.vn, VnExpress.net,
Giadinh.net.vn từ tháng 01/2014 đến tháng 12/2016)
Ngành: BÁO CHÍ HỌC
Mã số: 9 32 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. HOÀNG ANH

Hà Nội - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất cứ cơng
trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, tháng
Tác giả luận án

Phạm Thị Thùy Linh


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngày 25/9/2015, tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc thơng qua
Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển bền vững, hơn 190 quốc gia trên thế
giới đã đồng thuận hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc về thúc đẩy bình
đẳng giới. Không phải ngẫu nhiên, trong mười bảy mục tiêu phát triển bền vững
(SDGs) của Chương trình, có tới hai mục tiêu liên quan đến bình đẳng (bình
đẳng giới - SDG5, bình đẳng giữa các quốc gia và trong các quốc gia - SDG10).
Bất bình đẳng giới và thu hẹp khoảng cách giới hiển nhiên là câu chuyện của
mọi quốc gia trên thế giới. Theo Báo cáo “Khoảng cách giới toàn cầu 2020”
(Global Gender Gap Report 2020), thế giới cần đến 257 năm để có thể hồn tồn
loại bỏ sự chênh lệch về mặt kinh tế giữa hai giới. Chỉ có 55% phụ nữ từ 15-64
tuổi tham gia vào lực lượng lao động trong khi nam giới chiếm đến 78% và đặc
biệt, ở vị trí lãnh đạo cấp cao trên tồn cầu, phụ nữ chiếm ít hơn một phần ba
(khoảng 29%). Ở Việt Nam, cơng cuộc thúc đẩy bình đẳng giới vẫn liên tục được
thực hiện và ngày càng được đặc biệt chú trọng. Theo báo cáo Phát triển con
người năm 2019 của Liên hợp quốc, Việt Nam có giá trị GII (chỉ số bất bình
đẳng giới) là 0,314, xếp thứ 68 trong số 162 quốc gia (chỉ số càng nhỏ, mức độ
bất bình đẳng giới càng cao), so sánh với Philippines, Thái Lan, Trung Quốc và
Malaysia lần lượt xếp thứ 98, 84, 39 và 58. Vị trí này trong báo cáo năm 2020 đã
tăng lên ba bậc - là 65/162 quốc gia. Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011 - 2020 chỉ rõ: “Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là một bộ phận
cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là
cơ sở nền tảng của chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước”. Yêu
cầu lồng ghép giới trong luật pháp chính sách, chương trình, dự án phát triển vẫn
liên tục được nêu rõ trong Luật Bình đẳng giới (2006), Pháp lệnh Dân số sửa đổi
năm 2008, Luật Phòng chống bạo lực gia đình được thơng qua năm 2009, Luật
Hơn nhân và gia đình (2000, 2014), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
(sửa đổi năm 2015), Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 2020, Mục tiêu phát triển quốc gia để hỗ trợ Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ,
Chương trình nghị sự về phát triển bền vững của Liên hợp quốc đến năm 2030…
Rõ ràng, bình đẳng giới vẫn đang được xác định là cuộc cách mạng lớn, khó

khăn và lâu dài bởi rất nhiều nguyên nhân, trong đó ngun nhân sâu xa nhất
chính là sự tồn tại dai dẳng của định kiến giới trong xã hội, tạo thành những lối
1


mịn, thói quen trong nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử mà ngay cả người
trong cuộc cũng khó nhận ra.
1.2. Chỉ có con đường đấu tranh hịa bình bằng cách đẩy mạnh nghiên cứu
khoa học, bổ sung hoặc thay đổi chính sách của Nhà nước, tích cực truyền thông
để thay đổi nhận thức và hành vi của cộng đồng và mỗi cá nhân mới có thể giúp
chúng ta tiến dần đến bình đẳng giới. Trên con đường lâu dài đó, khơng thể thiếu
vai trị quan trọng của các phương tiện truyền thơng đại chúng, đặc biệt là loại
hình báo mạng điện tử. Trong nỗ lực xoá bỏ định kiến giới hướng đến bình đẳng
giới, dựa trên thế mạnh thông tin chuyển tải tới số lượng lớn công chúng trong
cùng thời điểm, vai trị của truyền thơng đại chúng là vô cùng quan trọng, thiết
yếu. Vấn đề truyền thông về bình đẳng giới đã và đang nhận được sự quan tâm
đặc biệt của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức phi
chính phủ… Từ năm 1996, Hội nghị Bắc Kinh tiến đến thế kỷ 21 của phụ nữ đã
đưa ra thông điệp: “Phương tiện truyền thông in ấn và điện tử ở hầu khắp các
quốc gia không cung cấp bức tranh cân bằng về đời sống đa dạng của người
phụ nữ và những đóng góp xã hội của họ cho một thế giới biến đổi”, và các
phương tiện truyền thông - với tư cách là một cơng cụ có sức ảnh hưởng mạnh
mẽ và đầy quyền lực trong xã hội, phải hoạt động với mục đích làm cho xã hội
có cái nhìn đúng hơn, tốt hơn về hình ảnh người phụ nữ, thay đổi thái độ và quan
niệm của xã hội về vai trò truyền thống của người phụ nữ [113, 98]. Truyền
thông đại chúng trong vai trị cung cấp thơng tin, hình thành, thể hiện và định
hướng dư luận xã hội sẽ tác động tích cực và thúc đẩy bình đẳng giới nếu các
thơng điệp có nhạy cảm giới, ngược lại sẽ kìm hãm và khắc sâu thêm sự bất bình
đẳng, thậm chí tổn hại đến hình ảnh quốc gia, truyền thống văn hóa, hình ảnh
con người Việt Nam nếu các định kiến giới vẫn được tạo ra và duy trì bởi thiết

chế này. Do đó, trong các luật và văn bản dưới luật đều đề cập tới vai trò và
nhiệm vụ của các cơ quan thông tin đại chúng với những mục tiêu và lộ trình
được xác định cụ thể cũng như các cơ chế phối hợp và hành lang pháp lý đảm
bảo cho lộ trình được thực hiện. Việc tuyên truyền, vận động, lan tỏa những
thông điệp đúng đắn, sâu sắc, tồn diện về bình đẳng giới vừa là vai trị và cũng
là thách thức đối với báo chí nói chung. Với báo mạng điện tử - một loại hình
báo chí mới đang ngày càng chiếm ưu thế nhờ những tính năng vượt trội - thúc
đẩy bình đẳng giới cịn trở thành nhiệm vụ và sứ mệnh.

2


1.3. Trong hai thập niên vừa qua, có rất nhiều đề tài, cơng trình nghiên cứu, dự
án truyền thơng trong nước và trên thế giới về vấn đề bình đẳng giới trên truyền
thơng đã chỉ ra rằng: Tuy có nhiều dấu hiệu tích cực, xong truyền thơng hiện nay
vẫn thiếu nhạy cảm giới, chưa phản ánh công bằng và cân bằng diện mạo của
nam và nữ trong các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội. Tuy nhiên, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, trực tiếp, chuyên sâu về vấn đề
định kiến giới trên báo mạng điện tử, đặc biệt là dưới góc độ báo chí học và bằng
phương pháp phân tích nội dung tin tức. Từ vai trò và thực tiễn phát triển của
báo chí nói chung, báo mạng điện tử nói riêng những năm gần đây, hàng loạt vấn
đề đặt ra cần phân tích, lí giải: Báo mạng điện tử (BMĐT) Việt Nam đang truyền
thơng về giới như thế nào? Có tồn tại định kiến giới trong nội dung tin tức trên
BMĐT hay không? Định kiến giới (ĐKG) được biểu hiện ra sao trong nội dung
tin tức trên BMĐT? Làm thế nào để hạn chế, tiến tới xóa bỏ tình trạng ĐKG trên
BMĐT Việt Nam?
Với mục tiêu trả lời cho các câu hỏi nêu trên một cách cặn kẽ và có hệ thống,
chúng tôi chọn đề tài Định kiến giới trên báo mạng điện tử Việt Nam (Khảo
sát báo điện tử Tuoitre.vn, VnEpress.net, Giadinh.net.vn từ tháng 01/2014 đến
tháng 12/2016). Việc nghiên cứu ĐKG trên BMĐT là rất cần thiết trong bối cảnh

“Việt Nam đang huy động tối đa mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả cơng
tác bình đẳng giới”, và “chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là một bộ phận
cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là
cơ sở nền tảng của chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước”
(Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020).
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về vấn đề định kiến giới để làm căn cứ xác định
2.

khung lý thuyết, phương pháp nghiên cứu và lý thuyết tiếp cận của luận án. Trên
cơ sở xây dựng nền tảng lý luận và thực tiễn cho việc khảo sát, đánh giá vấn đề
ĐKG trên BMĐT Việt Nam, làm rõ thực trạng ĐKG trên BMĐT Việt Nam, từ đó
đề xuất các giải pháp hạn chế tình trạng ĐKG, nâng cao chất lượng thông tin về
giới trên BMĐT Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận án đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:

3


Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam theo ba hướng:
về báo mạng điện tử, về phân tích nội dung sản phẩm truyền thơng; về bình đẳng
giới, định kiến giới trên truyền thơng đại chúng nói chung và BMĐT nói riêng.
+

Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề ĐKG trên BMĐT để làm
căn cứ cho việc khảo sát, phân tích thực trạng ĐKG trên BMĐT Việt Nam.
+


Soi chiếu lý luận vào thực tiễn để phân tích, đánh giá các biểu hiện cụ thể
của ĐKG trên hai phương diện nội dung và hình thức các tác phẩm BMĐT trong
phạm vi khảo sát.
+

Từ thực trạng, khái quát các vấn đề đặt ra và đề xuất các khuyến nghị cụ thể
nhằm khắc phục tình trạng ĐKG trên BMĐT Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Vấn đề ĐKG trên BMĐT Việt Nam
+

- Phạm vi: BMĐT ở Việt Nam rất phong phú về số lượng nên nghiên cứu chỉ
tập trung khảo cứu ba trang BMĐT là vnexpress.net, tuoitre.vn, giadinh.net.vn.
Đây là các trang BMĐT đảm bảo được đồng thời các tiêu chí chọn mẫu của luận
án: Là những trang báo có uy tín, được phổ biến rộng rãi, được đông đảo bạn đọc
biết đến và đón nhận; nội dung tin bài phải đảm bảo độ nhanh nhạy, đa dạng của
thông tin, độ phong phú, hấp dẫn của chuyên mục, đề cập đến những vấn đề đời
sống xã hội chân thực và sinh động; đáp ứng được tính chất đặc trưng riêng biệt
đảm bảo độ phong phú, khách quan và chuyên sâu cho mẫu khảo sát (Có báo
chun về lĩnh vực hơn nhân gia đình với nhiều tin bài liên quan đến chủ đề giới
như giadinh.net.vn, có báo mạnh về mảng giải trí, đời sống xã hội như
VnExpress.net, có báo mạnh về mảng chính trị xã hội, văn hóa như tuoitre.vn; có
báo là báo mạng điện tử độc lập như VnExpress.net, có báo song song tồn tại
cùng phiên bản báo giấy như Tuoitre.vn, Giadinh.net.vn).
Ngoài ra, do đặc trưng về mặt loại hình, lượng tin bài xuất bản của BMĐT rất
lớn, vì vậy chúng tơi giới hạn chỉ nghiên cứu các biểu hiện của ĐKG trong nội
dung và hình thức của tin bài trong một số chuyên mục phù hợp như: Thời sự,
Xã hội, Giải trí, Gia đình, Tâm sự. Điều này cũng được trình bày cụ thể trong
phần Phương pháp chọn mẫu ở mục 6 (Phương pháp nghiên cứu). Chúng tơi hy
vọng có thể đề cập đến các đối tượng khác của BMĐT như chuyên mục quảng

cáo, tin video… trong một nghiên cứu khác.
ĐKG là một vấn đề nghiên cứu rộng với nội hàm tương đối phức tạp. Trong khuôn
khổ luận án, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu các biểu hiện của ĐKG đối với hai
4


giới là giới nam và giới nữ (trong đó định kiến giới đối với nữ được nghiên cứu
sâu hơn do những đặc trưng của nền văn hóa truyền thống “trọng nam, khinh
nữ”). Chúng tôi không đề cập đến cộng đồng LGBT (đồng tính, song tính,
chuyển giới) trong nghiên cứu này vì tại thời điểm khảo sát, lượng tin bài về đối
tượng LGBT khơng đủ độ lớn, do đó các biểu hiện của ĐKG đối với cộng đồng
LGBT thông qua nội dung và hình thức tin bài cũng khơng đầy đủ và rõ nét.
Thời gian khảo sát: Từ tháng 01/2014 đến hết tháng 12/2016 (được cập nhật
và bổ sung thêm trong quá trình nghiên cứu). Năm 2014 là năm Cục Báo chí Bộ Thơng tin và Truyền thơng cho xuất bản và phát hành Bộ chỉ số về giới trong
truyền thông. Đây là tài liệu được thực hiện với sự tham gia đóng góp tích cực
của nhiều chun gia, nhà báo, các tổ chức báo chí, hiệp hội, câu lạc bộ báo chí,
các tổ chức truyền thơng trên thế giới, Tổ chức Văn hoá, Khoa học, Giáo dục
Liên hiệp quốc (UNESCO) và được phổ biến rộng rãi tới tất cả các cơ quan báo
chí ở Việt nam, trong đó Đài Tiếng nói Việt Nam là đơn vị được chỉ định áp dụng
thí điểm. Trong tài liệu này, các chỉ số để đạt bình đẳng giới trong quản lý truyền
thơng và nội dung truyền thông được xây dựng một cách công phu, chi tiết và
khoa học. Chọn thời gian nghiên cứu từ 2014 đến 2016, chúng tôi kỳ vọng thấy
được những tồn tại cũng như những biến chuyển của các yếu tố biểu hiện định
kiến giới trong nội dung tin tức trước tác động của Bộ chỉ số về giới trong truyền
thông. Bên cạnh đó, thời điểm 2014 - 2016 cũng là những năm bản lề của việc
đánh giá kết quả thực giai đoạn thứ nhất của Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới 2011 - 2020. Chúng tơi tin rằng khảo sát vấn đề ĐKG trên truyền thông
trong thời gian này sẽ cho những kết quả khách quan, khoa học và thú vị.
Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích
4.1. Câu hỏi nghiên cứu:

4.

+ Có hay khơng sự tồn tại của ĐKG trong nội dung tin tức trên BMĐT?
+ ĐKG biểu hiện như thế nào thông qua nội dung tin bài trên BMĐT?
+ Các yếu tố hình thức của tác phẩm BMĐT có tiềm ẩn ĐKG khơng?
+ Nguyên nhân và giải pháp để khắc phục tình trạng ĐKG trong nội dung tin
tức trên BMĐT?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu:
Giả thuyết thứ nhất: ĐKG trên BMĐT là vấn đề cái nhìn, thái độ, cách đánh
giá mang tính khn mẫu, một chiều, tiêu cực của người viết liên quan đến giới
được thể hiện trong nội dung tin tức BMĐT. Những tác phẩm báo chí ẩn chứa
5


định kiến giới tồn tại trên BMĐT sẽ phổ cập và củng cố thêm khuôn mẫu giới,
trở thành rào cản cho việc rút ngắn khoảng cách giới, từ đó khắc sâu thêm định
kiến, duy trì sự bất bình đẳng giới.
Giả thuyết thứ hai: Tuy việc tuyên truyền BĐG trên BMĐT đã có những
chuyển biến tích cực trong những năm gần đây, xong ĐKG vẫn tồn tại trong các
tác phẩm BMĐT trên cả hai phương diện nội dung và hình thức, phổ cập và củng
cố thêm khuôn mẫu giới, trở thành rào cản cho việc rút ngắn khoảng cách giới,
từ đó khắc sâu thêm định kiến, duy trì sự bất bình đẳng giới.
Về mặt nội dung: ĐKG thể hiện ở cách thức miêu tả đặc điểm (ngoại
hình/tính cách, phẩm chất), vị trí, vai trị, năng lực của nam giới và nữ giới theo
những khn mẫu sẵn có mà những khn mẫu này hạn chế sự phát triển và thụ
hưởng bình đẳng của mỗi giới, lâu dài sẽ càng khắc sâu định kiến, cản trở BĐG.
+

Về mặt hình thức, ĐKG thể hiện ở nhiều khía cạnh: từ tần xuất, mức độ
quan tâm khi xuất bản tin bài về giới, thể loại tin bài về giới, cho đến hình ảnh,

ngơn ngữ thể hiện tin bài đều hàm chứa những biểu hiện của ĐKG.
+

Giả thuyết thứ ba: Có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản dẫn
đến sự tồn tại dai dẳng của ĐKG trong nội dung tin tức chính là ĐKG đã và đang
tồn tại trong tư duy, nhận thức của chính nhà BMĐT - những người sản xuất tin
bài, dẫn đến những sản phẩm ẩn chứa ĐKG được xuất bản trên BMĐT. Các nhà
báo càng có ý thức về BĐG thì sản phẩm báo chí của họ càng ít ĐKG.

6


4.3. Khung phân tích
Hình 1: Khung phân tích vấn đề định kiến giới trên báo mạng điện tử Việt Nam

Định kiến giới trong nội
dung tin tức:
- Cách thức phản ánh
đặc điểm (ngoại hình,
tính cách, phẩm chất) của
nam/nữ.
- Cách thức phản ánh vị
trí, vai trị, năng lực của
nam/nữ trong mối quan
hệ gia đình và xã hội.

Quan điểm, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà
nước về vấn đề bình đẳng giới


- Nhà báo
- Cơ quan

báo chí/
Kênh báo
mạng
điện tử

Định kiến giới trên BMĐT
Việt Nam (Báo mạng điện
tử: Tuoitre.vn;
Vnexpress.net;
Giadinh.net.vn)

Định kiến giới trong hình
thức thể hiện tin tức:
- Chuyên mục
- Tần suất
- Thể loại
- Ngơn ngữ
- Hình ảnh

Mơi trường kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội.
Phẩm chất, năng lực nghề
nghiệp của nhà báo.

7

Giải pháp

hạn chế
ĐKG trên
BMĐT


Cơ sở lí luận và thực tiễn
5.1. Cơ sở lí luận
Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận đối tượng nghiên cứu dựa trên các quan
5.

điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới; dựa trên hệ thống lý
thuyết bao gồm: lý thuyết về giới, lý thuyết truyền thông đại chúng, lý thuyết xã hội
học báo chí để tiếp cận vấn đề.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Luận án dựa trên cơ sở thực tiễn của công tác truyền thông về giới của các cơ
quan truyền thơng, cơ quan báo chí; qua thực tiễn tình hình bình đẳng giới trong
đời sống xã hội; qua các cơng trình nghiên cứu về bình đẳng giới của các nhà khoa
học, các báo cáo tổng kết, đánh giá cơng tác tun truyền bình đẳng giới của các cơ
quan chức năng; từ kết quả khảo cứu tin bài có yếu tố định kiến giới trên ba tờ
BMĐT là tuoitre.vn, vnexpress.net và giadinh.net.vn từ năm 2014 đến năm 2016
(có bổ sung trong quá trình nghiên cứu).
Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp phân tích nội dung
6.

Chúng tơi kết hợp cả hai thao tác phân tích nội dung định lượng và phân tích nội
dung định tính trong q trình nghiên cứu.
Việc khảo sát được tiến hành bằng một bộ công cụ mã hóa nội dung thơng tin về
định kiến giới trên ba tờ BMĐT (vnexpress.net, tuoitre.vn, giadinh.net.vn). Trên cơ

sở thống kê số lượng, quy mô, tần suất sử dụng các phạm trù liên quan đến vấn đề
giới và bất bình đẳng giới thông qua bảng mã thu thập thông tin gồm 32 câu hỏi,
nghiên cứu hướng đến lượng hóa các chỉ báo về nội dung và hình thức thể hiện tin
bài, nhận diện tần suất xuất hiện các biến số, khơi lộ ý đồ của nhà truyền thơng, từ
đó tổng hợp, rút ra nhận xét, đánh giá về nội dung tin tức, về vai trị, mức độ đóng
góp của BMĐT trong việc tun truyền bình đẳng giới. Số liệu được mã hóa và xử
lí là 3039 tin bài trên ba tờ BMĐT từ tháng 01/2014 đến hết tháng 12/2016.
Bên cạnh đó, chúng tơi tiến hành tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa và khái quát
hóa lý thuyết cũng như kết quả của các cơng trình đã được đăng tải trên sách báo,
tạp chí và các cơng trình nghiên cứu thực tiễn của các tác giả có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu; Sử dụng phương pháp phân tích nội dung tài liệu để tìm hiểu nội
dung, ý nghĩa, tư tưởng chủ yếu của các tài liệu lý luận, các cơng trình nghiên cứu
đi trước có liên quan đến khái niệm, vai trị, tính chất của vấn đề định kiến giới trên
báo mạng điện tử; Các văn bản pháp lý về vấn đề giới và bình đẳng giới; Phân tích

8


các tác phẩm báo chí để tìm hiểu các biểu hiện của ĐKG thơng qua nội dung và
hình thức tác phẩm.
6.2. Phương pháp phỏng vấn sâu.
Được thực hiện nhằm có được các thông tin trực tiếp, kiến thức chuyên sâu về
vấn đề nghiên cứu từ các chuyên gia, các nhà nghiên cứu về giới, giúp thao tác hóa
các khái niệm, có các số liệu, tư liệu về thực trạng định kiến giới trong xã hội; thu
thập các đánh giá, nhận định, so sánh kết luận giữa các nghiên cứu đã có và thực tế
phản ánh vấn đề BĐG trên BMĐT.
Luận án phỏng vấn sâu các đối tượng sau:
Nhóm 1: Các nhà báo chuyên nghiệp làm công tác quản lý tại các cơ quan báo
chí, đặc biệt là BMĐT (2 người)
- Nhóm 2: Các phóng viên, biên tập viên của các cơ quan báo chí (9 người)

-

Nhóm 3: Cán bộ quản lý tại các cơ quan quản lý báo chí (2 người); chuyên gia
nghiên cứu về giới, đặc biệt là giới trên truyền thông. (2 người)
-

Phiếu phỏng vấn sâu được thiết kế riêng cho các nhóm đối tượng nhằm thu thập
các tư liệu về phương thức tổ chức và truyền thông về bình đẳng giới tại các tịa
soạn hiện nay; quan điểm của từng đối tượng về các biểu hiện của ĐKG trong nội
dung tin tức BMĐT, nguyên nhân cũng như các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng
này.
6.3. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
6.3.1. Tiêu chí chọn trang và chuyên mục báo mạng điện tử
Chúng tôi lựa chọn ba tờ BMĐT tuoitre.vn, VnEpress.net và Giadinh.net.vn dựa
trên các tiêu chí sau:
Thứ nhất, các tờ báo được chọn phải đảm bảo là tờ báo có uy tín, được phổ
biến rộng rãi, được đơng đảo bạn đọc biết đến và đón nhận.
-

Thứ hai, nội dung các tờ báo được chọn phải đảm bảo độ nhanh nhạy, đa dạng
của thông tin, độ phong phú, hấp dẫn của chuyên mục, đề cập đến những vấn đề đời
sống xã hội chân thực và sinh động.
-

Thứ ba, các báo được chọn đáp ứng được tính chất đặc trưng riêng biệt đảm
bảo độ phong phú, khách quan và chuyên sâu cho mẫu khảo sát: Có báo chuyên về
lĩnh vực hơn nhân gia đình với nhiều chun mục, tin bài liên quan đến chủ đề giới
(giadinh.net.vn), có báo mạnh về mảng giải trí, đời sống xã hội (VnExpress.net), có
báo mạnh về mảng chính trị xã hội, văn hóa (Tuoitre.vn); có báo là báo mạng điện
tử độc lập (VnExpress.net), có báo song song tồn tại cùng phiên bản báo giấy

(Tuoitre.vn, Giadinh.net.vn).
-

9


Về ba tờ báo:
- VnExpress.net
VnExpress là báo mạng điện tử đầu tiên tại Việt Nam khơng có phiên bản báo
giấy, được thành lập bởi Tập đoàn FPT, ra mắt ngày 26 tháng 2 năm 2000 và được
Bộ Văn hóa - Thông tin cấp giấy phép số 511/GP - BVHTT ngày 25 tháng 11 năm
2002.
Theo bảng xếp hạng của Alexa, VnExpress ln có số người truy cập lớn nhất
trong số hơn 10 tờ báo điện tử tại Việt Nam, và hiện nằm trong top 500 website
được truy cập nhiều nhất thế giới. Google Analytics thống kê VnExpress hiện có 42
triệu lượt xem (pageviews) trung bình mỗi ngày và 24 triệu độc giả thường xun
(unique visitor), trong đó 16% từ nước ngồi. Đây là con số ấn tượng chứng tỏ vị
thế ngang tầm thế giới của VnExpress.
Báo có 18 chun mục chính: Thời sự, Góc nhìn, Thế giới, Kinh doanh, Giải trí,
Thể thao, Pháp luật, Giáo dục, Đời sống, Du lịch, Khoa học, Số hoá, Xe, Cộng
đồng, Tâm sự, Ý kiến, Video, Cười. Trong các chun mục cịn có các tiểu mục nhỏ
để đi sâu vào nhiều vấn đề khác nhau (Khảo sát tại thời điểm tháng 6/2016). Trung
bình mỗi ngày, báo cập nhật khoảng 350 đầu mục tin bài, trong đó 90% là do phóng
viên, biên tập viên của báo thực hiện. VnEpress được các chun gia đánh giá là có
“thơng tin nhanh nhạy, kịp thời”, “chuyên mục phong phú, hấp dẫn”, “tương tác đa
chiều” và “giao diện ấn tượng” [37, 282]
Ngày 29/3/2014, VnExpress chính thức triển khai giao diện tùy ứng (responsive
design) - một thiết kế giao diện duy nhất có khả năng tự động tương thích với các
nền tảng thiết bị khác nhau như máy tính cá nhân, máy tính bảng và điện thoại
thơng minh.

- Tuổi Trẻ Online (Tuoitre.vn)
Ra mắt chính thức vào ngày 01.12.2003, Tuoitre.vn đã tham gia vào tổ hợp
truyền thông đa phương tiện của nhật báo Tuổi trẻ và nhanh chóng trở thành tờ báo
mạng điện tử có tốc độ phát triển nhanh, mạnh, vào top 3 trang web Tiếng Việt
được nhiều người truy cập nhất chỉ sau 2 năm ra đời.
Từ ngày 2/9/2014, Tuổi Trẻ Online chính thức áp dụng giao diện tùy ứng
(responsive web design), đồng thời triển khai nhiều cải tiến nhằm đáp ứng tốt hơn
yêu cầu của bạn đọc. Khác biệt lớn của Tuổi trẻ Online chính là việc tận dụng khai
thác tốt tính đa phương tiện của báo mạng điện tử, xây dựng phong cách chính trị xã hội chuẩn mực mang thương hiệu “Tuổi trẻ”.
Theo bảng xếp hạng của Alexa năm 2011 Tuổi trẻ Online đứng thứ 5 trong số
các báo mạng điện tử được truy cập nhiều nhất Việt Nam với hơn 4000 lượt truy
10


cập/ngày. Báo Tuổi trẻ có 15 chun mục chính: Thời sự, Thế giới, Pháp luật, Kinh
doanh, Công nghệ, Giáo dục, Văn hóa, Giải trí, Nhịp sống trẻ, Nhịp sống số, Bạn
đọc, Du lịch, Thể thao, Media, Cần biết (Khảo sát tại thời điểm tháng 6/2016).
- Báo điện tử Gia đình và Xã hội (Giadinh.net.vn)
Báo Gia đình và xã hội là cơ quan ngôn luận của Tổng cục Dân số và Kế hoạch
hóa gia đình. Giadinh.net.vn là tờ báo điện tử hàng đầu trong truyền thơng về gia
đình ở Việt Nam hiện nay, thực hiện chức năng nhiệm vụ chính trị là truyền thông,
thông tin về công tác Dân số - Y tế. Báo điện tử Giadinh.net.vn chính thức ra đời
năm 2007, được hoạt động theo Giấy phép Báo điện tử số: 79/GP-TTĐT ngày
20/4/2011 của Bộ TT&TT. Giadinh.net.vn mỗi ngày thu hút hơn một triệu lượt truy
cập.
Song hành cùng báo điện tử Giadinh.net.vn có 7 ấn phẩm báo in của Báo Gia
đình & Xã hội với tổng lượng phát hành các số báo chính mỗi năm hàng chục triệu
bản. ‘‘Thời sự, Thiết thực và Hấp dẫn” là tơn chỉ mục đích của hệ thống Báo Gia
đình và Xã hội. Báo điện tử giadinh.net.vn đã chính thức thay đổi giao diện vào
ngày 19/9/2014, đem lại một trải nghiệm mới cho độc giả với nhiều chuyên mục

hấp dẫn, cách trình bày khoa học, trực quan và dễ dàng tiếp cận, tương tác. Báo có
chun mục chính: Trang chủ, Mới nhất, Xã hội, Gia đình, Dân số, Y tế, Sống
khoẻ, Giải trí, Pháp luật, Vòng tay nhân ái, Thị trường, Bốn Phương. (Khảo sát tại
thời điểm tháng 6/2016).
Về các chuyên mục khảo sát:
10

Do lượng tin bài cập nhật trên các tờ báo trong diện khảo sát rất lớn (mỗi báo
xuất bản từ 150 - 350 đầu mục tin bài trong một ngày cho tất cả các chuyên mục),
nên nếu khảo sát tất cả các chuyên mục thì sẽ dẫn đến một số lượng mẫu q lớn so
với quy mơ của một luận án. Chính vì thế, chúng tơi thống nhất chọn mỗi báo ba
chun mục: Báo tuoitre.vn chọn chuyên mục Thời sự, Văn hóa và Giải trí. Báo
VnEpress chọn chuyên mục Thời sự, Giải trí và Tâm sự. Báo giadinh.net.vn chọn
chuyên mục Xã hội, Gia đình và Giải trí. Chúng tơi cố gắng tìm đến điểm chung
của các chuyên mục được chọn trên các báo, theo đó, ngồi chun mục Giải trí
đều xuất hiện trên cả ba trang báo, thì chuyên mục Xã hội trên Giadinh.net.vn tập
trung các tin tức mới nhất về đời sống xã hội được cập nhật liên tục, tương tự như
chuyên mục Thời sự trên Tuoitre.vn và VnExpress.net. Ngoài ra, chúng tôi cũng
chọn mỗi báo một chuyên mục đặc thù với giả định chuyên mục đó sẽ đề cập nhiều
đến vấn đề mấu chốt của luận án là định kiến giới. Vì thế chúng tơi chọn chun
mục Gia đình - chuyên mục tiêu biểu của Giadinh.net.vn, chuyên mục Văn hóa của
tuoitre.vn với đặc trưng là các bài viết chuyên sâu, có tính chất phân tích, bình luận
11


chứ khơng chỉ tập trung vào mục đích đưa tin thuần túy; chuyên mục Tâm sự của
VnExpress.net được chọn với kỳ vọng chuyên mục này sẽ thể hiện chân thực,
phong phú và sinh động thực tế đời sống hôn nhân và gia đình với các câu chuyện
của chính độc giả cùng lời khuyên từ chuyên gia và những chia sẻ từ chính độc giả
của báo. Ngồi ra, đây cũng là các chun mục chính có lượng cập nhật tin bài lớn,

đều đặn, thu hút sự quan tâm của độc giả nhất của các báo trong diện khảo sát.
6.3.2. Tiêu chí chọn tin, bài (tác phẩm báo chí): Sử dụng phương pháp chọn mẫu
xây dựng tuần ngẫu nhiên (constructed weeks)
Thông thường, các nghiên cứu phân tích nội dung là bước đầu tiên trong quy
trình đánh giá hai bước liên kết nội dung truyền thông với nhận thức của người xem
và người đọc. Tuy nhiên, các nghiên cứu như vậy cũng đòi hỏi các nhà nghiên cứu
xem xét các phương tiện tốt nhất có sẵn để thu thập dữ liệu dân số một cách hiệu
quả và đáng tin cậy.
Lấy mẫu xây dựng tuần ngẫu nhiên (constructed weeks) là một loại kỹ thuật lấy
mẫu ngẫu nhiên phân tầng (SRS) phổ biến trong các nghiên cứu truyền thơng, trong
đó mẫu cuối cùng đại diện cho tất cả bảy ngày trong tuần (Jones & Carter, 1959;
Stempel III, 1952) để tính tốn biến thiên tuần hồn của nội dung tin tức (Riffe,
Aust, & Lacy, 1993). Theo đó, việc xây dựng một tuần từ dân số một tháng sẽ liên
quan đến việc chọn một Chủ nhật từ tất cả bốn Chủ nhật trong tháng đó, một thứ
Hai từ tất cả bốn thứ Hai, v.v. cho đến mỗi ngày trong tuần được trình bày trong
mẫu cuối cùng. Kỹ thuật này có thể được điều chỉnh (modified) kích thước của mẫu
cuối cùng cũng như cả quần thể.
Mục tiêu tổng thể của việc lấy mẫu tuần ngẫu nhiên được xây dựng là tạo ra hiệu
quả lấy mẫu tối đa trong khi kiểm soát các thành tố theo chu kỳ. Quá ít đơn vị lấy
mẫu có thể dẫn đến ước tính không đáng tin cậy và kết quả không hợp lệ, trong khi
q nhiều đơn vị có thể gây lãng phí tài nguyên mã hóa (Riffe et al., 1993) [155].
Một nghiên cứu ban đầu về lấy mẫu của Mintz (1949) đã sử dụng một tháng tin
tức như một tập hợp và đã thu hút nhiều kích cỡ mẫu bằng nhiều phương pháp ngẫu
nhiên (mỗi ngày thứ ba, cả tuần, v.v.). Kết quả cho thấy trung bình tập hợp của các
mẫu được lấy mỗi ngày thứ 6 và của mỗi ngày khác (15 ngày) không thay đổi đáng
kể. Tuy nhiên, việc lấy mẫu của Mintz dựa trên giả định rằng số lượng tiêu đề
không phải theo chu kỳ ngày trong tuần. Stempelftime (1952) đã sử dụng số lượng
ảnh trên trang nhất tờ báo Wisconsin trong 6 ngày vào năm 1951 để nghiên cứu lấy
mẫu và kết luận 12 ngày (hai tuần được xây dựng) là đủ để thể hiện một năm nội
dung. Nghiên cứu của Davis và Turner (1951), Jones và Carter (1959) cũng đã tìm

thấy kết quả tương tự.
12


Riffe, Aust, et al. (1993) đã tiến hành sao chép kỹ lưỡng hơn công việc Stempel
(1952) khi họ tiến hành lấy mẫu từ 6 tháng của một trang tin tức lưu hành hàng
ngày với 39.000 câu chuyện địa phương. Riffe, Aust, et al. (1993) so sánh hiệu quả
của việc lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản, lấy mẫu tuần được xây dựng và lấy mẫu
ngày liên tiếp và kết luận việc lấy mẫu tuần được xây dựng (constructed weeks)
hiệu quả hơn nhiều so với lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản khi suy ra phạm vi mẫu lớn
hơn. Nghiên cứu này cho thấy với đối tượng nghiên cứu là 6 tháng của một trang
tin tức hàng ngày, một tuần được xây dựng có hiệu quả bằng bốn tuần và kết quả
mà nó đưa ra vượt quá những gì được dự kiến dựa trên lý thuyết xác suất. Bằng
cách mở rộng, hai tuần được xây dựng sẽ cho phép ước tính kết quả đáng tin cậy về
nội dung các câu chuyện trên toàn bộ số báo của tờ báo trong một năm, một kết
luận phù hợp với phát hiện của Stempelftime (1952). Sau đó, trong một số nghiên
cứu, Riff và cộng sự của mình đã cố gắng xác định số tuần cần thiết để lấy mẫu
tuần có hiệu quả cho các quần thể và phương tiện có kích thước khác nhau (Lacy,
Riffe, & Randle, 1998; Lacy, Riffe, Stoddard, Martin, & Chang, 2001; Riffe, Lacy,
& Fico, 2005).
Bảng 1: Phương pháp lấy mẫu xây dựng tuần ngẫu nhiên của Riffe, et al.
Loại nội dung
Một năm báo phát hành
hàng ngày
Một năm báo phát hành
hàng tuần
Một năm tin tức truyền
hình buổi tối
Một năm tạp chí tin tức
5 năm tạp chí tiêu dùng

5 năm báo hàng ngày

Cho đến nay, phương pháp chọn mẫu tuần được xây dựng (constructed weeks)
đã được áp dụng phổ biến trong nghiên cứu truyền thông đại chúng và các nghiên
cứu thuộc các lĩnh vực khác mà đối tượng khảo sát là báo chí truyền thông, đặc biệt
là các ấn phẩm phát hành theo ngày.
Từ lý thuyết này, các nhà khoa học đã nghiên cứu mở rộng để đúc kết các công
thức lấy mẫu đối với các đối tượng khác như: Mạng xã hội Twitter (Hwalbin Kim,
13


et al. 2018, Evaluating Sampling Methods for Content Analysis of Twitter Data), Hệ
thống kênh truyền thông sức khỏe quy mô lớn từ 5 năm trở lên (Douglas A. Luke et
al., 2011, How Much Is Enough? New Recommendations for Using Constructed
Week Sampling in Newspaper Content Analysis of Health Stories) …
Áp dụng phương pháp chọn mẫu xây dựng tuần ngẫu nhiên (constructed weeks)
trong nghiên cứu vấn đề định kiến giới trên báo mạng điện tử Việt Nam:
Theo khảo sát của người viết, trong các nghiên cứu về nội dung truyền thông
trên các phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam, đặc biệt là với đối tượng
BMĐT, chưa có nghiên cứu nào sử dụng phương pháp chọn mẫu constructed
weeks. Có thể nghĩ tới một số nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất là ở Việt Nam, những nghiên cứu về tác động của nội dung truyền
thơng cịn chưa nhiều và chưa có hệ thống, vì thế các nội dung truyền thơng chưa
được lưu trữ có hệ thống cho tất cả các ấn phẩm (Oxfam Việt Nam, 2016).
Thứ hai là BMĐT là một loại hình báo chí mới phát triển trong những năm gần đây,
vì vậy cơ sở dữ liệu chưa được lưu trữ một cách đầy đủ, việc tiếp cận chúng từ nguồn
dữ liệu quốc gia là khơng thể. Người nghiên cứu chỉ có thể trông cậy vào hệ thống dữ
liệu được lưu trữ trên sever của chính các trang BMĐT đó nên việc thu thập dữ liệu
phải tiến hành thủ công nhờ vào cơng cụ tìm kiếm theo ngày trên trang (Xem hình 2)


Hình 2: Cơng cụ tìm kiếm theo ngày của tuoitre.vn

Nguồn: Ảnh chụp màn hình tuoitre.vn

Chính vì lẽ đó, các nghiên cứu về nội dung truyền thông ở Việt Nam hiện nay
vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp chọn mẫu theo từ khóa và theo chủ đề. Phương

14


pháp này vẫn rất hữu ích trong việc nghiên cứu một nội dung truyền thơng cụ thể,
ví dụ: Thơng điệp về tham nhũng, Thơng điệp về hơn nhân có yếu tố nước ngoài;
Định kiến giới đối với lãnh đạo nữ… Nhưng đối với các nội dung bao quát hơn mà
trong nó chứa đựng nhiều nội dung cụ thể thì phương pháp này tỏ ra thiếu tính
thuyết phục, ví dụ như vấn đề ĐKG trên BMĐT. Việc chọn mẫu theo từ khóa sẽ
khơng bao qt được hết lượng mẫu sẵn có cũng như khơng thể hiện được chính
xác nội dung truyền thông cần khảo sát. Lúc này, phương pháp chọn mẫu tuần ngẫu
nhiên sẽ chứng minh tính ưu việt bởi khả năng bao quát trọn vẹn đối tượng và độ
chính xác đã được kiểm chứng qua các nghiên cứu về nội dung truyền thơng uy tín
trên thế giới trong nhiều năm qua.
Trong nghiên cứu của mình, chúng tơi sẽ áp dụng phương pháp chọn mẫu xây
dựng tuần ngẫu nhiên để thu thập đủ hai tuần ngẫu nhiên trong một năm cho mỗi tờ
báo. Với phạm vi khảo sát là ba tờ báo vnexpress.net, tuoitre.vn và giadinh.net.vn
trong thời gian ba năm từ tháng 01/2014 đến hết tháng 12/2016, chúng tơi sẽ có sáu
tuần dữ liệu ngẫu nhiên cho mỗi báo (trong đó mỗi tuần chúng tôi khảo sát từ thứ
hai đến thứ sáu, mặc định không khảo sát thứ bảy, chủ nhật), 03 báo là 18 tuần dữ
liệu ngẫu nhiên. Tiến hành lựa chọn mẫu khảo sát với các tiêu chí chọn mẫu như
trên theo hình thức bốc thăm ngẫu nhiên, chúng tôi thu được kết quả các ngày đăng
tải qua các năm như sau:
Bảng 2: Kết quả chọn mẫu theo phương pháp constructed weeks

STT
Thứ
Tuần

Ngày
STT
Thứ
Tuần

Ngày
STT
Thứ
Tuần


Ngày
Nguồn: NCS tổng
hợp

15


Trên cơ sở các đơn vị mẫu là các ngày đã được lựa chọn ngẫu nhiên theo phương
pháp constrcted weeks bên trên, chúng tôi tiến hành sử dụng công cụ tìm kiếm theo
ngày để liệt kê tất cả các tin bài được đăng tải trên 3 trang báo. Với 18 tuần dữ liệu
ngẫu nhiên, số lượng tin bài thu được là 3039 đơn vị, con số này đủ để đảm bảo độ
lớn của mẫu nghiên cứu.
Trong 3039 đơn vị tin bài, Tuoitre có số lượng tin bài ít nhất (374 tin bài, chiếm
12%), VnEpress chiếm số lượng lớn nhất (1606 tin bài, 53%), còn lại là
Giadinh.net.vn (1059 tin bài, chiếm 35%). (Xem biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Tỷ lệ tin bài trong diện khảo sát

Nguồn: NCS tổng hợp từ số liệu khảo
sát
Sự chênh lệch về số lượng mẫu giữa các báo trong biểu đồ 1 cũng chính là một
nhược điểm của phương pháp chọn mẫu constructed weeks đối với dữ liệu BMĐT
và cũng là hạn chế của luận án khi chưa đảm bảo sự đầy đủ và cân đối giữa các đơn
vị chọn mẫu. Thời điểm chúng tôi lấy mẫu, khá nhiều dữ liệu tìm kiếm theo ngày
trên BMĐT tuoitre.vn bị lỗi khơng hiển thị tin bài (xem hình 3). Chính vì vậy, số
lượng tin bài trên báo tuoitre.vn ít hơn hẳn so với hai báo còn lại. Việc phụ thuộc
hoàn toàn vào hệ thống sever lưu trữ của các cơ quan báo chí mà khơng có nguồn
lưu trữ quốc gia chính là thách thức đối với các nhà nghiên cứu khi chọn đối tượng
BMĐT. Tuy nhiên, xét trên tổng thể dữ liệu với 3039 tác phẩm báo chí trên ba trang
báo mạng điện tử, chúng tôi cho rằng đã đảm bảo độ lớn của mẫu nghiên cứu.

16


Hình 3: Dữ liệu tìm kiếm theo ngày của tuoitre.vn khơng hiển thị

Nguồn: Ảnh chụp màn hình tuoitre.vn

Thao tác tiếp theo sẽ là đối chiếu với bảng công cụ phân tích nội dung là một
bảng code gồm 32 câu hỏi chia làm ba phần: Phần một bao gồm các thông tin cơ
bản về các bài báo như thể loại, ấn phẩm, chuyên mục… Phần hai là quan sát và
thống kê các vấn đề liên quan đến biểu hiện định kiến giới trong nội dung của tác
phẩm như: Các nhân vật nữ và nam giới thường được phỏng vấn/ đề cập/ xuất hiện
trong những chủ đề gì? Đặc điểm, vị thế, vai trò, năng lực của nam và nữ được
phản ánh như thế nào trong các bản tin? Phần ba là các thơng tin biểu hiện định
kiến giới trong hình thức thể hiện của tin bài như: Tần suất, Chuyên mục, Thể loại,

Hình ảnh, Ngơn ngữ… Việc xử lí dữ liệu được tiến hành chi tiết bằng phần mềm
SPSS sẽ cho ra kết quả khách quan, đảm báo tính khoa học.
7. Điểm mới của luận án
Về mặt lí luận: Luận án làm rõ những vấn đề lý luận về định kiến giới trên
truyền thông và truyền thông thúc đẩy BĐG trên BMĐT, góp phần tạo dựng
phương pháp luận về nghiên cứu một vấn đề xã hội cụ thể trên báo chí - truyền
thơng; chỉ ra và phân tích chi tiết những biểu hiện của ĐKG trên cả hai phương
diện nội dung và hình thức tác phẩm BMĐT bằng phương pháp phân tích nội dung
tin tức; chỉ ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp với các tổ chức, cá nhân liên quan,
-

đề ra các tiêu chí về tin bài khơng có ĐKG nhằm hạn chế tình trạng ĐKG trên
BMĐT Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Cơng trình nghiên cứu có tính chất liên ngành, góp phần hệ
thống hóa những vấn đề lý luận về mặt phương pháp trong nghiên cứu báo chí truyền thơng về giới từ góc độ phân tích nội dung tin tức; góp phần làm phong phú
thêm cho lĩnh vực nghiên cứu nội dung báo chí truyền thơng, truyền thông về giới,
-

17


ngôn ngữ BMĐT, mở ra hướng đi mới cho những nghiên cứu tiếp theo về đề tài
này. Các kết quả của nghiên cứu là tài liệu tham khảo thiết thực cho các cơ quan
quản lí, cơ quan báo chí truyền thơng nói chung, BMĐT nói riêng và các tổ chức
nghiên cứu về giới trong quá trình nâng cao chất lượng truyền thơng về giới trong
nội dung tin tức nhằm góp phần đạt được thắng lợi trong cuộc cách mạng BĐG.
8. Kết cấu của luận án
Gồm: Mở đầu, Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề định kiến giới trên
BMĐT, 3 chương nội dung, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phụ lục nghiên cứu.
Ba chương nội dung bao gồm:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề định kiến giới trên báo mạng
điện tử Việt Nam
Chương 2: Thực trạng định kiến giới trên báo mạng điện tử Việt Nam (Khảo sát
báo mạng điện tử tuoitre.vn, vnexpress.net, giadinh.net.vn từ tháng 01/2014 đến
tháng 12/2016)
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp cho vấn đề định kiến giới trên báo
mạng điện tử Việt Nam.

18


TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ĐỊNH
KIẾN GIỚI TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM
1. Hướng nghiên cứu về báo mạng điện tử
1.1. Nghiên cứu trên thế giới
BMĐT là kết quả của sự tích hợp giữa cơng nghệ internet và ưu thế của các
loại hình báo chí truyền thống để tạo ra một loại hình báo chí hiện đại với đặc
điểm loại hình nổi bật là tính năng đa phương tiện. Các ưu thế riêng biệt đã khiến
cho báo mạng điện tử nhanh chóng trở thành một loại hình báo chí thu hút số
lượng cơng chúng đơng đảo nhất dù ra đời muộn hơn. Hiển nhiên, BMĐT cũng
trở thành đối tượng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Đầu tiên, không thể không nhắc đến cuốn The Online Journalists: Using the
Internet and other electronic resources (Nhà báo trực tuyến sử dụng internet và
các nguồn điện tử khác) của tác giả Randy Reddick & Elliot King [151]. Tác
phẩm được xuất bản lần đầu tiên năm 1995 và tái bản đến lần thứ 3 năm 2000.
Trong gần 300 trang sách, tác phẩm đã khám phá và chứng minh làm thế nào để
các phóng viên có thể sử dụng internet và các tài nguyên trực tuyến khác hiệu
quả và hiệu quả hơn. Reddick và King cũng thảo luận về cách cơng nghệ này tác
động đến báo chí, đến các phóng viên và biên tập viên, các cạm bẫy nên tránh
cũng như các vấn đề pháp lý và đạo đức được đưa ra bởi báo chí trực tuyến. The

Online Journalists được đánh giá hữu ích cho các nhà báo đang làm việc và sinh
viên báo chí khi cung cấp những lời khuyên rõ ràng và thiết thực để thu thập
thông tin chính xác, kịp thời.
News: Reporting and Writing (Làm báo và viết báo) của Alfred Lawrence
Lozenz và John Vivian (1995) [6] là một cuốn sách gồm 23 chương, tích hợp
tồn diện các phương pháp và kỹ năng làm báo và viết báo, từ báo in, truyền
hình, phát thanh và quan hệ cơng chúng, từ việc quyết định thơng tin gì được
đăng tin và thơng tin gì thì khơng, kỹ năng bắt đầu bài ghi nhanh, biên tập và sửa
chữa bài viết, tổ chức bài thời sự,đến cách thức làm cho bài báo hấp dẫn, sử dụng
ngôn ngữ một cách hiệu quả; phương pháp tiến hành cuộc phỏng vấn, viết tường
thuật… Đặc biệt, chương “Làm báo bằng công nghệ mới” đã giới thiệu về công
việc làm báo với sự trợ giúp của máy tính và internet như những phương tiện
cơng nghệ ưu việt giúp các phóng viên có thể tổ chức, phân tích và phổ biến
thơng tin một cách hiệu quả. Do đó, nhà báo cần phải có những kỹ năng cần thiết
để thích nghi với thế giới mới của khơng gian máy tính và cơng nghệ truyền
19


thông đa phương tiện. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng các công cụ điện tử chỉ
là phương tiện, không phải là mục đích. Các tiến bộ cơng nghệ khơng phải để
thay thế con người, mà là giải phóng con người, làm cho họ tập trung vào các
yếu tố phức tạp hơn của một chương trình truyền thơng: tổng hợp, đánh giá và
vạch chiến lược; cho phép nhà báo tìm ra được các câu chuyện có khả năng bị
che giấu và bổ sung ngữ cảnh để giúp độc giả hiểu thông tin.
Writing for the web (Viết bài cho web) của Kilian Crowford (1999) [168] có lẽ
là tác giả đầu tiên theo khảo sát của chúng tôi đề cập một cách chi tiết về cách
thức sử dụng ngôn ngữ trong các bài viết đăng tải lên mạng internet. Tác giả chỉ
ra rằng, các trang web hiệu quả chứa đựng nhiều thứ hơn là video, đồ họa và âm
thanh xa vời - đó chính là văn bản mà mọi người sẽ muốn đọc. Viết cho Web đòi
hỏi một kiểu viết khác, một kiểu kết hợp cả kiểu viết trên báo in và trên TV.

Writing for the web cung cấp các nguyên tắc hợp lý mà người viết cần ghi nhớ
cũng như các bài tập để củng cố kỹ năng viết và loại bỏ thói quen viết xấu.
Tác phẩm Journalism Online (Báo mạng điện tử) của tác giả Mike Ward
(2002) [171] cung cấp những kiến thức cơ bản về báo mạng điện tử như khái
niệm, đặc điểm, cách thức nghiên cứu và đưa tin trực tuyến; so sánh quy trình
làm báo truyền thống với quy trình làm báo mạng điện tử; tìm hiểu các kiến thức
về ngôn ngữ HTML (Hypertext Markup Language) và web; hướng dẫn chi tiết
về thiết kế trang web và cung cấp kiến thức cho người sử dụng về web; cách
thức tìm kiếm và tra cứu thơng tin trên mạng internet. Mike Ward cũng chỉ ra
những điểm nổi bật mà nhà báo cần lưu ý khi sử dụng ngôn từ cho BMĐT như
ngắn gọn, dung lượng chỉ bằng 50% so với báo in, đi thẳng vào vấn đề, mỗi câu
chỉ chứa đựng một ý hoặc một thông tin nhất định, dung từ dễ hiểu, gần gũi…
Cơng trình Search: Theory and Practice in Journalism Online (Tìm kiếm: Lý
thuyết và thực hành báo chí trực tuyến) của Murray Dick (2013) [172] đã cung
cấp một cái nhìn tổng quan về lý thuyết và thực tiễn tiềm năng nghiên cứu của
nghề báo trong các cơng cụ trực tuyến khác nhau: Lý thuyết về tìm kiếm nâng
cao, “web vơ hình”, phương tiện truyền thơng xã hội, đa phương tiện và xác
minh tài liệu trực tuyến; tổng quan lý thuyết về đạo đức học, quyền riêng tư, sự
tin tưởng và vấn đề quyền trực tuyến... Trong bối cảnh có rất nhiều câu chuyện,
nhiều nhân vật, nhiều thơng tin có sẵn trên internet cho các nhà báo trực tuyến,
nhưng bắt đầu từ đâu, khai thác như thế nào để đạt hiệu quả tối đa, nghiên cứu

20


của Murray Dick đã cung cấp những kinh nghiệm của một chuyên gia hàng đầu
trong lĩnh vực tìm kiếm trực tuyến cho những người làm báo mạng điện tử.
Có thể thấy, các nghiên cứu về báo mạng điện tử nêu trên tập trung ở ba nội
dung chính: Thứ nhất là các nghiên cứu mang tính dự báo, xu hướng, tác động
của loại hình phương tiện truyền thơng trực tuyến nói chung cũng như của báo

mạng điện tử nói riêng, chủ yếu trên phương diện ưu thế về mặt công nghệ, kỹ
thuật. Thứ hai là các nghiên cứu về nghiệp vụ, kỹ năng làm báo, viết báo cho loại
hình báo mạng điện tử, trả lời những câu hỏi liên quan đến cơng việc sáng tạo tác
phẩm báo chí, những vấn đề cơ bản nhất để công việc của người làm báo đạt
hiệu quả cao nhất. Hướng nghiên cứu thứ ba chú ý đến vấn đề đạo đức, pháp lý
trong hoạt động báo mạng điện tử trước sự biến thiên của xã hội và áp lực của cơ
chế thị trường.
1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
trong nước, có thể nhắc đến rất nhiều tác giả với các cơng trình nghiên cứu
liên quan đến lĩnh vực báo mạng điện tử như Nguyễn Thế Hùng (2001), Bùi Tiến
Dũng (2003), Nguyễn Văn Dững (2006, 2011, 2013), Đỗ Thị Thu Hằng (2006),
Tạ Ngọc Tấn (2007)… Trong đó, hệ thống và chuyên sâu nhất phải kể đến các
công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Trường Giang. Cho đến nay, tác
giả đã cơng bố năm cơng trình, bao gồm: Báo mạng điện tử: Những vấn


đề cơ bản (2011), Sáng tạo tác phẩm báo mạng điện tử (2014), Báo mạng điện
tử: Đặc trưng và phương pháp sáng tạo (2014, đồng chủ biên), Tổ chức diễn
đàn trên báo mạng điện tử (2014) , Giáo trình Lý thuyết và kỹ năng báo mạng
điện tử (2016) và nhiều bài viết liên quan khác.
Trong cuốn Báo mạng điện tử: Những vấn đề cơ bản (2011) [37], tác giả đã
trình bày quá trình hình thành, phát triển của internet và BMĐT, đặc biệt là sự ra
đời, phát triển của BMĐT ở Việt Nam. Nghiên cứu đã đưa ra những phân tích và
khái quát khoa học về khái niệm, vai trò và đặc trưng của BMĐT, mơ hình tồ
soạn, q trình sản xuất thơng tin của BMĐT, những yêu cầu phẩm chất của nhà
báo trong làm BMĐT, đề xuất cách thức thiết kế, trình bày nội dung cho BMĐT.
Ngồi ra, cuốn sách cịn cung cấp kiến thức về lịch sử mơ hình của một số tờ báo
mạng điện tử ở Việt Nam như Nhân dân điện tử, Vietnamnet.vn, VnExpress.net
và dantri.com.
Sáng tạo tác phẩm báo mạng điện tử (2014) [38] là cơng trình nghiên cứu đầu

tiên đề cập đến đặc trưng và phương pháp sáng tạo các thể loại báo chí trong
21


×