Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

GIẢI PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY QUA NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐẢNG PHÁT ĐỘNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (121946) VÀ CHỐNG MỸ (1959)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.5 KB, 53 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA


BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI
GIẢI PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
QUA NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐẢNG PHÁT ĐỘNG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (12/1946) VÀ CHỐNG MỸ (1959)

LỚP: DT02 NHÓM: 12 HK 211
GVHD: TS. ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT

MSSV

HỌ VÀ TÊN

1

1912248

Nguyễn Thị Thùy Trang

2

1912190

Nguyễn Mai Thy



3

1915539

Hồng Văn Tồn

4

1912288

Hồ Đức Trí

5

1915675

Nguyễn Đức Trọng

ĐIỂM BTL

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021

GHI CHÚ


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 12


STT

1

Họ và tên

Nguyễn Thị Thùy

MSSV

1912248

Trang
2

Nguyễn Mai Thy

Nhiệm vụ

Kết

Chữ

quả



Tổng hợp BTL, mở đầu,
kết luận


1912190

Trình bày Tiểu luận,
Chương 3

3

Hồng Văn Tồn

1915539

Chương 2

4

Hồ Đức Trí

1912288

Chương 1

5

Nguyễn Đức Trọng

1915675

Chương 2


NHĨM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................

1

PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................

3

Chương 1: QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT

3

VỚI PHÁP TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN
TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (19/12/1946) ...........
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và những hành động

3

hiếu chiến của thực dân Pháp .................................................................................
1.1.1. Bối cảnh thế giới ..............................................................................................

3

1.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Pháp .................


5

1.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp và nội dung đường

8

lối kháng chiến chống thực dân Pháp ....................................................................
1.2.1 Quá trình Đảng giải quyết xung đột với Pháp.................................................

8

1.2.2 Nội dung và giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp ..........

12

Tiểu kết Chương 1 ....................................................................................................

15

Chương 2: QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT

16

VỚI MỸ TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH SỬ DỤNG BẠO LỰC CÁCH MẠNG
(01/1959) ....................................................................................................................
2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau khi ký Hiệp định Giơnevơ và những hành

16


động hiếu chiến của Mỹ ............................................................................................
2.1.1. Bối cảnh thế giới ..............................................................................................

16

2.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Mỹ ....................

18

2.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Mỹ và nội dung Nghị

22

quyết Trung ương 15 (khóa II) (1959) ....................................................................
2.2.1. Quá trình Đảng giải quyết xung đột với Mỹ ..................................................

22


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

2.2.2. Nội dung và giá trị của Nghị quyết Trung ương 15 (khóa II) (1959) ..........

24

Tiểu kết Chương 2 ....................................................................................................

26

Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA VIỆT NAM


28

HIỆN NAY ................................................................................................................
3.1. Chủ chương, biện pháp của Đảng, Nhà nước trong bảo vệ chủ quyền biển,

28

đảo của Tổ quốc ........................................................................................................
3.1.1. Tình hình biển Đông .......................................................................................

28

3.1.2. Chủ trương của Đảng, Nhà nước ..................................................................

29

3.2. Kết quả quá trình bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam ......................

31

3.2.1. Thành tựu, nguyên nhân của thành tựu ........................................................

31

3.2.2. Một số hạn chế, nguyên nhân của hạn chế ....................................................

35

3.3. Đề xuất một số giải pháp ....................................................................................


39

Tiểu kết Chương 3 ....................................................................................................

44

PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................

45

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................

47


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là đất nước có vị trí chiến lược, trọng yếu về địa hình chính trị, kinh tế,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ln xem biển,
đảo là phần máu thịt không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, Người
cũng ln đứng dậy vận động toàn dân, toàn quân quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
quốc gia, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Tư tưởng sáng suốt và lòng yêu nước
vô bờ bến của Người đã trở thành kim chỉ nam để toàn Đảng, toàn dân toàn quân quyết
tâm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển và đảo của
Việt Nam hiện nay.
Qua đề tài ‘Giải pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam hiện nay’ qua
nghiên cứu thực tiễn Đảng phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (12/1946)

và chống Mỹ (1959) đã khẳng định được vị trí quan trọng của biển, đảo đối với việc
phát triển kinh tế, an ninh, quốc phịng của quốc gia.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay mặc dù cịn có những tranh chấp, xung đột
trong việc bảo vệ lãnh thổ biển, đảo quốc gia. Thậm chí, cịn gay gắt rất nhiều vì ảnh
hưởng đến nhiều nước trong khu vực Đơng Nam Á nói riêng và Châu Á nói riêng nhưng
Đảng và nhà nước ln có những biện pháp trong cơng cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo
của Tổ quốc nhằm đảm bảo lợi ích của dân tộc và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định để tập trung phát triển kinh tế, đẩy mạnh hội nhập quốc tế với các nước khác trên
thế giới.
Trong thực tiễn, Đảng lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước đạt được
nhiều thành công, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục chưa thể khác phục
trong hiện tại. Để có giải pháp hiệu quả trong giải quyết những căng thẳng trên biển
Đông, việc nghiên cứu thực tiễn Đảng giải quyết xung đột với các nước lớn như Pháp,
Mỹ trước khi quyết định sử dụng bạo lực cách mạng để đối phó, từ đó đề xuất một số
giải pháp cho việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước hiện nay là hết sức cần thiết.
Đó là lý do nhóm chọn đề tài : “Giải pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt
Nam hiện nay” làm bài tập lớn kết thúc môn học.

1


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

2. Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám
và những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp và quá trình Đảng từng bước giải
quyết xung đột với Pháp trước khi quyết định phát động kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (19/12/1946) ;
Hai là, làm rõ bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam sau Hiệp định Gionevơ và
quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Mỹ trước khi quyết định sử dụng bạo

lực cách mạng (01/1959) ;
Ba là, làm rõ tình hình biển Đơng, chủ trương của Đảng, Nhà nước và những kết
quả đạt được trong bảo vể chủ quyền biển, đảo của Việt Nam ;
Bốn là, trên cơ sở thực tiễn Đảng giải quyết xung đột với Pháp và Mỹ trước khi
quyết định sử dụng bạo lực cách mạng, nhóm đề xuất một số giải pháp góp phần bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay.

2


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI PHÁP
TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG
KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(19/12/1946)

1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và những hành
động hiếu chiến của thực dân Pháp
1.1.1. Bối cảnh thế giới
Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của
tình hình thế giới. Một trật tự thế giới mới được hình thành với đặc trưng lớn là thế giới
chia thành hai cực – Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa, do hai siêu cường Mỹ và
Liên Xô đứng đầu mỗi cực. Các nước phát xít Đức, Ý, Nhật bị đánh bại, phe Đồng Minh
là những người thắng trận. Tuy nhiên Anh, Pháp dù thắng trận nhưng cũng chịu thiệt
hại vô cùng nặng nề và trở nên suy yếu. Tận dụng lợi thế, đế quốc Mỹ, nhanh chóng
vươn lên cầm đầu phe tư bản chủ nghĩa trên thế giới, nuôi dưỡng âm mưu “chia lại hệ

thống thuộc địa thế giới”, ra sức tấn cơng, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong
đó có cách mạng Việt Nam.
Sau chiến tranh, trên cơ sở các bản nghị quyết của các nước đồng minh và các
bản hòa ước, biên giới của một số nước đã có những thay đổi nhất định.
Tháng 7, tháng 8 năm 1945 tại Potsdam, một cuộc hội nghị quan trọng của các
cường quốc Liên Xô, Anh, Mỹ (về sau thêm Pháp) đã được triệu tập. Hội nghị Potsdam,
đã thông qua các quyết định về biên giới phía đơng của Đức và về con đường phát triển
sau này của nước đó. Biên giới giữa Ba Lan và Đức được vạch theo sông Oder and
Neisse. Như vậy, Đức sẽ phải hoàn trả cho Ba Lan những đất đai truyền thống của Ba

3


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Lan mà Đức đã chiếm của nước này. Phần phía nam Đơng Phổ của nước Đức bị cắt cho
Ba Lan. Thành phố Kênichbec (sau đổi tên là Kaliningrat) và những vùng phụ cận nằm
ờ phía bắc Đơng Phổ được chuyển giao cho Liên Xơ.
Hội nghị Potsdam quy định các quân đội Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp tạm thời chiếm
đóng nước Đức. Hội nghị này còn vạch ra phương hướng biến nước Đức sau chiến tranh
thành một nước dân chủ, thống nhất và yêu chuộng hịa bình.
Khơng lâu sau hội nghị Potsdam, Mỹ, Anh, Pháp đã vi phạm những điều cam kết,
âm mưu chia cắt lâu dài nước Đức và phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Đức. Tháng 9 năm
1949, nước Cộng hòa Liên bang Đức (CHLB Đức) được thành lập trên các phần lãnh
thổ chiếm đóng của quân đội Mỹ. Anh, Pháp tại miền Tây nước Đức. Trước tình hình
đó, được sự giúp đỡ của quân đội Liên Xô, các lực lượng dân chủ yêu nước và tiến bộ
ở miền Đông nước Đức thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Đức (tháng 10 năm 1949).
Từ đó, trên thực tế có hai nước Đức phát triển theo hai con đường khác nhau.
Trong những năm 1946 – 1947 tại Paris, các hòa ước với các nước đồng minh
trong chiến tranh của Đức (Ý, Hungari, Rumani, Bungari, Phần Lan) đã được ký kết.

Dựa vào nhũng điều đã ký kiết, Phần Lan phải trả lại cho Liên Xô tỉnh Pêchenga (ở miền
duyên hải Baren) là phần đất mà Liên Xơ đã phải nhượng lại cho Chính phủ Phần Lan
vào năm 1920. Bằng một hiệp ước ký với Tiệp Khắc, Liên Xô thu hồi lại vùng Ukraina
– Zacacpat. Tỉnh Claipcl bị Đức chiếm năm 1939 được trả lại cho Litva.
Nước Nhật thua trận buộc phải trả lại cho Liên Xơ quần đảo Curinxcơ và phần
phía nam đảo Xakhalin là những vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm của nước Nga trong
cuộc Chiến tranh Nga – Nhật (1904 – 1905). Nhật còn bị tước bỏ quyền cai trị các thuộc
địa và bản thân nước Nhật bị quân đội Mỹ thay mặt quân đội đồng minh chiếm đóng.
Theo quyết đinh của Liên Hợp Quốc (United Nations Organization – UNO), các quần
đảo Macsan, Marian, Carơlin được chuyển cho Mỹ dưới hình thức đất đai bảo trợ (sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, chế độ bảo trợ đối với các nước thuộc địa của các nước
thua trận đã thay thế các chế độ ủy trị trước đây). Bản hòa ước giữa các nước trong phe
đồng minh và nước Nhật được ký kết tại Xan Franxixcô (Mỹ) vào năm 1951 (Liên Xô
không ký vào bản hòa ước này).

4


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Tháng 6 năm 1945, tại hội nghị Xan Franxixcô tổ chức Liên Hợp Quốc được thành
lập thay thế cho Hội Quốc Liên đã bị phá sản từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Khi
ra đời, Liên Hợp Quốc gồm 51 nước hội viên. Bản Hiến chương Liên Hợp Quốc nêu rõ
mục đích của tổ chức này là duy trì, củng cố nền hịa bình và an ninh trên thế giới, phát
triển sự hợp tác giữa các nước hội viên.
Cục diện khu vực và thế giới đã có những sự thay đổi lớn có lợi cho cách mạng
Việt Nam. Liên Xô trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước ở Đơng Trung
Âu, được sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ
nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và
khu vực Mỹ-Latinh dâng cao.

Trên thế giới, phe đế quốc chủ nghĩa ra sức lôi kéo, tập hợp lực lượng phản động
để chống lại các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Do lợi ích cục bộ của mình, khơng có nước lớn nào ủng hộ lập trường độc lập và công
nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam nằm trong
vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngồi.
Cách mạng ba nước Đơng Dương nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương
đầu với nhiều bất lợi, nhiều khó khăn, thử thách hết sức to lớn và nan giải.
1.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Pháp
Bối cảnh trong nước
Sau ngày tuyên bố độc lập, lịch sử nước Việt Nam bước sang một chặng đường
mới với nhiều thuận lợi căn bản và khó khăn chồng chất.
Sau khi giành được chính quyền, Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân
dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước. Đặc biệt,
việc hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung
ương đến cơ sở, ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân.
Tình hình trong nước hết sức phức tạp, hệ thống chính quyền cách mạng mới được
thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại

5


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

hết sức nặng nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt, nạn đói năm 1945 rất nghiêm trọng. Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, cơng nghiệp
đình đốn, nơng nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang; nền tài chính, ngân
khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa
được khắc phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945
làm 2 triệu người dân chết đói. Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là âm

mưu, hành động quay trở lại thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Ngày
2-9-1945, quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, ngang nhiên bắn vào cuộc mít tinh mừng
ngày độc lập của nhân dân ta ở Sài Gòn-Chợ Lớn.
Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam (Đức), từ cuối tháng 8-1945,
hơn 20 vạn quân đội của Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) tràn qua biên giới
kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh nghĩa quân đội Đồng
minh vào giải giáp quân đội Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách
với âm mưu thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh. Trong khi đó, trên đất nước
Việt Nam vẫn cịn 6 vạn qn đội Nhật Hồng thua trận chưa được giải giáp.
Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh- Ấn đổ
bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam Việt
Nam.
Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam
trước tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn
dốt và bọn thù trong, giặc ngồi.
Những hành động hiếu chiến của Pháp
Sau khi tiến vào miền Nam Việt Nam, quân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ, sử dụng
đội quân Nhật giúp sức cho quân Pháp. Lực lượng Anh và Pháp liên tục có những hành
động khiêu khích cực kỳ nghiêm trọng:
- Ngày 2-9-1945, sau bài diễn văn ứng khẩu của chủ tịch Ủy ban hành chánh lâm
thời Nam bộ Trần Văn Giàu, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - bộ trưởng Bộ Y tế - thay mặt
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tuyên thệ “cương quyết lãnh đạo

6


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

đồng bào giữ nước, vượt khó khăn nguy hiểm, xây đắp độc lập hồn toàn cho Việt Nam”.
Buổi lễ mừng độc lập kết thúc bằng cuộc tuần hành trên các đường phố lớn của khu

trung tâm Sài Gòn. Trong cuộc tuần hành, quân Pháp đã xả súng từ trên lầu cao bắn vào
cuộc biểu tình khơng vũ trang của nhân dân Sài Gịn, làm 47 người chết và bị thương.
- Ngày 5-9-1945, quân Pháp được bảo trợ của Anh đã đòi ta phải giải tán dân quân
tự vệ, nộp vũ khí cho chúng, cấm thường dân khi ra đường mang dao găm, gậy gộc, dây
thừng. Hơn thế, chúng còn giành chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân Nam bộ (tức dinh Thống
đốc Nam kỳ cũ), địi ta giao cho chúng quản lý tồn bộ các bến cảng thương mại và quân
sự, xưởng sửa chữa tàu biển Ba Son…
- Đại tá Cédille với chức danh Đại diện Cộng hòa Pháp, từ trên máy bay nhảy dù
xuống Tây Ninh, được quân Nhật áp tải về Sài Gòn. Cédille ráo riết tập hợp, tổ chức lực
lượng quân sự, họp báo tuyên bố sẽ thành lập một chính quyền tay sai Pháp. Hắn đưa
một số việt gian có hạng vào ở trong trại lính.
- Đêm 22 rạng sáng 23-9-1945, quân Pháp và quân Anh chiếm Sở Bưu điện và Sở
Cảnh sát của ta. Sáng 23-9, chúng tiếp tục chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân Nam bộ và trụ
sở Quốc gia Tự vệ Cuộc, gây nhiều cuộc đổ máu trên các đường phố Sài Gịn. Chính
thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Khơng cịn đơn thuần là những hành động khiêu khích, Pháp đã nổ súng xâm lược
Việt Nam. Mục đích trước mắt của Pháp là chiếm Sài Gịn rồi chiếm rộng ra tồn Nam
bộ và tiến tới tái chiếm toàn bộ Việt Nam:
- Ngày 5-10-1945, sau khi có viện binh, thực dân Pháp đẩy mạnh đánh chiếm các
tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Sau khi chiếm đóng Nam Bộ, thực dân Pháp chuẩn bị
mở rộng xâm lược ra miền Bắc
- Ngày 28-2-1946, Pháp thỏa thuận với quân Tưởng và kí Hiệp ước Hoa - Pháp,
dọn đường để Pháp đưa quân đội ra miền Bắc lấy cớ giải giáp quân đội Nhật nhưng
nòng cốt là thực hiện dã tâm đánh chiếm miền Bắc và đặt ách thống trị lên nước ta lần
thứ 2.

7


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM


1.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp và nội dung
đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
1.2.1. Quá trình Đảng giải quyết xung đột với Pháp
Sau vụ khiêu khích trắng trợn ngày 2-9-1945 ở Sài Gòn, thực dân Pháp ráo riết
thực hiện mưu đồ xâm lược Việt Nam. Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, quân đội Pháp đã
nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Nam Bộ). Cuộc kháng chiến chống xâm
lược của nhân dân Nam Bộ bắt đầu. Sáng 23-9-1945, Hội nghị liên tịch giữa Xứ ủy, ủy
ban nhân dân, ủy ban kháng chiến và đại diện Tổng bộ Việt Minh đã nhanh chóng thống
nhất, đề ra chủ trương hiệu triệu quân, dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống xâm
lược Pháp.
Đảng và nhân dân miền Bắc nhanh chóng hưởng ứng và kịp thời chi viện, chia lửa
với đồng bào Nam Bộ kháng chiến. Ngày 26-9-1945, những chi đội đầu tiên ưu tú nhất
của quân đội, được trang bị vũ khí tốt nhất đã lên đường Nam tiến chi viện cho Nam Bộ,
trực tiếp làm thất bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp.
Trong những ngày đầu, so sánh lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch, nhưng
với lòng yêu nước sâu sắc, quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Nhờ
sự lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của Xứ ủy Nam Bộ, của Chính phủ Trung ương, quân và
dân Nam Bộ, các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên đã tổ chức lại lực lượng, củng cố
các khu căn cứ và lực lượng vũ trang, động viên nhân tài, vật lực của toàn dân đứng lên
ngăn chặn bước tiến của thực dân Pháp; tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến
lâu dài sau này.
Đầu năm 1946, phe đế quốc đã dàn xếp thỏa thuận để Chính phủ Pháp và Chính
phủ Trung Hoa dân quốc ký kết bản Hiệp ước Trùng Khánh (còn gọi là Hiệp ước HoaPháp, ngày 28-2-1946), trong đó có nội dung thỏa thuận để Pháp đưa quân đội ra Bắc vĩ
tuyến 16 làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thay thế 20 vạn quân Tưởng rút về nước,
hạn cuối cùng là ngày 31-3-1946. Và đổi lại Pháp sẽ nhượng lại cho Tưởng nhiều quyền
lợi quan trọng ở Trung Quốc và Việt Nam. Đây thực chất là một bản hiệp ước bán rẻ lợi
ích dân tộc, chà đạp lên nền độc lập của Việt Nam, hợp pháp hóa hành động xâm lược
của thực dân Pháp ra miền Bắc. Chính phủ và nhân dân Việt Nam đứng trước một tình


8


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

thế vô cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đối mặt trực tiếp với hai kẻ thù xâm lược to lớn
là Pháp và Tưởng, trong khi thực lực cách mạng vẫn còn non kém.
Trước sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình, Thường vụ Trung ương
Đảng, Hồ Chí Minh đã nhận định, đánh giá âm mưu, ý đồ chính trị của Pháp và Tưởng
và ra bản Chỉ thị Tình hình và chủ trương, ngày 3-3-1946. Trong đó nêu rõ: “Vấn đề lúc
này, khơng phải là muốn hay không muốn đánh, vấn đề là biết mình, biết người, nhìn
nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ
trương cho đúng” và chủ trương tạm thời “dàn hòa với Pháp”, nhân nhượng về lợi ích
kinh tế, nhưng địi Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam, “lợi dụng
thời gian hịa hỗn với Pháp để diệt bọn phản động bên trong, tay sai Tàu trắng, trừ
những hành động khiêu khích ly gián ta với Pháp”, thúc đẩy nhanh quân Tưởng về nước,
bớt đi một kẻ thù nguy hiểm. Ngày 6-3-1946, tại Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ký với đại diện Chính phủ Cộng hịa Pháp
tại Hà Nội là Jean Sainteny (J.Xanhtony) bản Hiệp định sơ bộ. Hiệp định sơ bộ nêu rõ:
Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, tài
chính và qn đội riêng nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp;
về phía Việt Nam đồng ý đế 15.000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay thế 20 vạn quân
đội Tưởng rút về nước và sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm; hai bên sẽ tiếp tục tiến hành
đàm phán chính thức để giải quyết mối quan hệ Việt-Pháp...
Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ, ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng đã
ra ngay bản Chỉ thị Hòa để tiến phân tích, đánh giá chủ trương hịa hỗn và khả năng
phát triển của tình hình. Chỉ thị nêu rõ: cần phải tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác
cách mạng, không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc
nào và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhục tinh thần quyết chiến
của dân tộc ta, nhất là đối vói đồng bào Nam Bộ và các chiến sĩ ngoài mặt trận; cần đẩy

mạnh công tác xây dựng đảng, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ chính trị và quân sự, gây
dựng cơ sở Đảng, củng cố phong trào quần chúng... Đến tháng 12-1946, Đảng đã có sự
phát triển thêm về chất lượng, số lượng đảng viên tăng lên tới hơn 20.000 người.

9


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Để giữ vững nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Đảng, Chính phủ tiếp
tục cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì, kiên quyết, đầy khó khăn, phức tạp trong suốt
năm 1946 ở cả mặt trận trong nước và ngoài nước. Từ ngày 19-4 đến ngày 10-5-1946,
đại diện Chính phủ Việt Nam và Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt. Từ ngày
31-5-1946, theo lời mời của Quốc hội và Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
phái đồn của Chính phủ Việt Nam thăm chính thức nước Cộng hòa Pháp, chuyến thăm
kéo dài hơn 4 tháng và đã thu được nhiều thành công về mặt đối ngoại, làm cho dư luận
Pháp, nhân dân Pháp và giới chính trị Pháp tiến bộ hiểu thêm cuộc đấu tranh chính nghĩa,
vì nền độc lập thực sự của Việt Nam. Cũng trong thời gian này, phái đoàn Quốc hội Việt
Nam do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm thân thiện và tham dự đàm phán chính
thức giữa hai bên Việt-Pháp tại Hội nghị Fontainebleau, (Phôngtenơblô, Paris-Pháp) từ
ngày 6-7 đến ngày 10-9-1946, song khơng thành cơng vì vấp phải lập trường hiếu chiến
và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Với thiện chí hữu nghị, hịa bình, nhân nhượng
và để đảm bảo an toàn cho phái đoàn đại biểu Việt Nam rời Pháp, ngày 14-9-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký với Marius Moutet (M.Mutê) đại diện Chính phủ Pháp một bản
Tạm ước 14-9 tại Marseill (Mácxây, Pháp), đồng ý nhân nhượng thêm cho Pháp một số
quyền lợi kinh tế, văn hóa ở Việt Nam; hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và
tiếp tục đàm phán.
Qua chuyến thăm chính thức Pháp của chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đồn ngoại
giao đã góp phần làm cho nhân dân Pháp cũng như thế giới hiểu hơn về Việt Nam và
ủng hộ Việt Nam, làm sáng tỏ thiện chí hịa bình của dân tộc Việt Nam, duy trì thời gian

hịa bình để tiếp tục xây dựng và phát triển lực lượng.
Tuy nhiên từ cuối tháng 10-1946, tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng
thẳng, nguy cơ một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp tăng dần. Đảng, Chính phủ,
quân đội và nhân dân Việt Nam tiếp tục kìm chế, kiên trì thực hiện chủ trương hịa hỗn
và bày tỏ thiện chí hịa bình, nhân nhượng nhằm tìm kiếm con đường hịa bình bảo vệ,
giữ gìn toàn vẹn nền độc lập, tự do của Việt Nam, đồng thời cố gắng cứu vãn mối quan
hệ Việt- Pháp đang ngày càng xấu đi và ngăn chặn một cuộc chiến tranh nổ ra quá sớm
và không cân sức với Pháp. Nhiều lần, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ Việt

10


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Nam, đã gửi điện văn, thư từ cho Chính phủ Pháp, cho Thủ tướng Pháp song đều không
được hồi đáp; con đường ngoại giao với đại diện Pháp tại Hà Nội cũng đều không đưa
đến kết quả tích cực vì phía Pháp chỉ muốn “dùng biện pháp quân sự để giải quyết mối
quan hệ Việt- Pháp”. Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Việt Nam đã bộc lộ rõ thái độ bội ước,
tiếp tục đẩy mạnh tăng cường bình định ở các tỉnh Nam Bộ, xúc tiến tái lập Nam Kỳ tự
trị; gây hấn, khiêu khích, gây xung đột quân sự, lấn chiếm nhiều vị trí ở nơi đóng qn
ở Bắc Bộ Việt Nam; đặt lại nền thống trị ở Campuchia và Lào, chia rẽ ba nước Đơng
Dương.
Ngày 19-12-1946, thiện chí hịa bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã bị
thực dân Pháp cự tuyệt thẳng thừng. Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn sự lựa
chọn duy nhất là đứng lên chống lại thực dân Pháp để bảo về nền độc lập và chính quyền
cách mạng, bảo vệ những thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám vừa giành được.
Hồ Chí Minh khẳng định rõ: "Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta phải nhân nhượng.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp
nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ!".

Nhận xét
Dù ta đã nhượng bộ thực dân Pháp rất nhiều lần, từ hiệp định sơ bộ (9-3-1946) đến
Hội nghị trù bị ở Đà Lạt (19-4-1946), chuyến thăm chính thức Pháp của chủ tịch Hồ Chí
Minh và phái đồn ngoại giao, rồi cuối cùng là Tạm ước 14-9 tại Marseill (Mácxây,
Pháp) đã cho thấy sự nhân nhượng và tất cả những thiện chí hịa bình của Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa. Tuy nhiên mọi nỗ lực vãn hồi hịa bình của ta vẫn khơng vượt qua được
dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Giới thực dân hiếu chiến quyết áp đặt lại ách thống
trị trên tồn cõi Đơng Dương.
Dù cuộc chiến tranh là khơng tránh khỏi, song đó khơng phải là cuộc chiến vơ
vọng. Vãn hồi hịa bình, thể hiện thiện chí hịa bình, nhân dân Việt Nam không chỉ tranh
thủ được thời gian, biến thời gian thành lực lượng, mà còn làm cho nhân dân Pháp cũng
như nhân dân toàn thế giới biết rõ hơn về đất nước, con người và khát vọng hịa bình
của dân tộc Việt Nam. Nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến với tư thế chủ

11


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

động, được chuẩn bị về vật chất và tinh thần, có một niềm tin sắt đá và tất yếu vào một
ngày mai toàn thắng.

1.2.2. Nội dung và giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp là: dựa trên sức
mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình
là chính; được tập trung trong những văn kiện quan trọng của Đảng như: Chỉ thị Kháng
chiến kiến quốc (25-11-1945), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh (19-12-1946), tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường
Chinh (8-1947),Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược,

giành lại nền độc lập, tự do, thống nhất đất nước.
Cuộc kháng chiến này mang tính chất giải phóng dân tộc, dân chủ mới và kháng
chiến tồn dân. Trong đó giải phóng dân tộc vẫn là quan trọng nhất.
Kháng chiến toàn dân xuất phát từ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta;
là đem toàn bộ sức lực, tài lực của nhân dân; động viên toàn dân tích cực tham gia kháng
chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận”.
Trong đó Qn đội nhân dân làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc. Có lực lượng tồn
dân, tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh.
Kháng chiến tồn diện vì địch đánh ta toàn diện nên ta phải chống lại chúng toàn
diện; chúng ta phải đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự
mà cả về chính trị, kinh tế, ngoại giao,… nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp. Trong đó, mặt
trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trị mũi nhọn, mang tính quyết định, thực hiện
vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân
dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy. Về
chính trị: thực hiện đồn kết tồn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc u chuộng tự do, hịa bình.

12


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển nền nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và cơng nghiệp quốc phịng. Về văn hóa: xóa
bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ theo ba nguyên tắc: dân
tộc, khoa học, đại chúng. Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực
lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán
nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. So sánh lực lượng

lúc đầu giữa ta và địch chênh lệch, địch mạnh hơn ta về nhiều mặt, ta chỉ hơn địch về
tinh thần và có chính nghĩa. Trường kỳ kháng chiến là một quá trình vừa đánh tiêu hao
lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh
lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển
hóa yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng khơng có nghĩa là kéo dài vơ thời hạn
mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy vọt về
chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong
chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần
vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh
nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp
đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối
là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Giá trị đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp
được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng
và kéo dài chiến tranh của thực dân Pháp, kết thúc chiến tranh lập lại hồ bình ở Đơng
Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào

13


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Đó là xuất
phát điểm cho mọi thắng lợi của cuộc chiến sau này.

Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới, mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế
giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.
Đánh giá về giá trị lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng
một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,
đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hồ bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa
trên thế giới".

14


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc với sự thất bại của phe phát xít và chiến
thắng của phe đồng minh đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của tình hình thế giới.
Cùng lúc đó, Cách mạng Tháng Tám thành cơng, Việt Nam chính thức trở thành quốc
gia độc lập, tự do đã đưa lịch sử nước nhà sang một trang mới. Tuy có những thuận lợi
nhưng cũng vơ vàn khó khăn chồng chất, tình hình khi đó đã đặt nền độc lập và chính
quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc”, cùng
một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngồi, và nguy hiểm
nhất là bọn thực dân Pháp. Thực dân Pháp với sự hậu thuẫn của Anh và Mỹ đã tiến hành
xâm lược nước ta lần thứ 2. Đảng ta với đường lối ngoại giao khơn khéo, đã kiên trì thực
hiện chủ trương hịa hỗn và bày tỏ thiện chí hịa bình, nhân nhượng để tìm kiếm con
đường hịa bình nhằm bảo vệ, giữ gìn tồn vẹn nền độc lập, tự do của Việt Nam. Tuy
nhiên thực dân Pháp với bản chất hung hăng, hiếu chiến đã cự tuyệt thẳng thừng mọi nỗ
lực cứu vãn hịa bình của chúng ta. Trước tình hình đó Đảng đã phát động tồn quốc
kháng chiến, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc

kháng chiến ngay từ những ngày đầu. Đường lối cơ bản là “kháng chiến và kiến quốc”;
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh là chính. Đó là xuất phát điểm
cho mọi thắng lợi của cuộc chiến.

15


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Chương 2
QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI MỸ
TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH SỬ DỤNG BẠO LỰC CÁCH MẠNG (01/1959)

2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau khi ký Hiệp định Giơnevơ và những hành
động hiếu chiến của Mỹ
2.1.1. Bối cảnh thế giới
Tham vọng của Mỹ
Chiến tranh thế giới qua đi, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, nhiều nước đế quốc, cả
thắng trận và bại trận đều bị tàn phá nghiêm trọng, nhưng đế quốc Mỹ lại trở nên giàu
có hơn bao giờ hết. Là một trong những nước lớn góp phần quyết định vào thắng lợi của
phe Đồng minh trong chiến tranh, lại là nước giàu mạnh nhất sau chiến tranh, Hoa Kỳ
đã giương lên ngọn cờ sen đầm quốc tế và muốn áp đặt tự do kiểu Mỹ ở khắp nơi trên
thế giới.
Chiến lược toàn cầu đã phản ánh tham vọng muốn làm bá chủ thế giới của Mỹ.
Gồm ba mục tiêu chủ yếu:
Một là, ngăn chặn và tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Hai là, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và cộng sản
quốc tế, phong trào chống chiến tranh, vì hồ bình, dân chủ trên thế giới.
Ba là, khống chế, chi phối các nước tư bản đồng minh phụ thuộc vào Mỹ.
Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã triển khai chiến lược tồn cầu từ rất

sớm, trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm. Nhận thấy Việt Nam giàu tài
nguyên, khoáng sản, có nguồn nhân lực dồi dào lại có vị trí chiến lược quan trọng, Mỹ
có tham vọng biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới.

16


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Xu thế hịa hỗn thế giới
Cuối năm 1953 và đầu 1954, khi chiến tranh lạnh đến đỉnh cao, thế giới xuất hiện
xu thế các nước lớn bắt đầu đi vào hịa hỗn, chủ trương giải quyết hịa bình các cuộc
chiến tranh khu vực. Biểu hiện rõ nhất của xu thế hịa hỗn này là các nước lớn Mỹ,
Anh, Pháp và Liên Xô triệu tập Hội nghị ngoại trưởng bốn nước tại Béc-lin tháng 2 năm
1954 bàn về vấn đề Đức - Áo. Do bất đồng quá lớn trong việc giải quyết các vấn đề
chính trị tồn tại sau chiến tranh lạnh, Hội nghị thất bại nên chuyển sang bàn về vấn đề
Biển Đông. Ngày 18-2-1954, Hội nghị ngoại trưởng bốn nước ra tuyên bố cuối cùng,
trong đó Hội nghị sẽ xem xét vấn đề Đông Dương. Điều này đã mở ra một hướng mới
cho khả năng kết thúc chiến tranh ở Việt Nam, Đông Dương thơng qua biện pháp thương
lượng hịa bình.
Tình thế lúc bấy giờ tạo điều kiện cho Cách Mạng Việt Nam, mở ra cơ hội thương
lượng để giảm thương vong. Tuy nhiên cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ khi tham vọng của
Mỹ ngày càng bộc lộ rõ và mâu thuẫn giữa hai cường quốc trong khối xã hội chủ nghĩa
có thể ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển Cách Mạng.
Phong trào cách mạng quốc tế và tình hình những năm 1954-1960
Cách mạng Cuba thắng lợi (1959) đưa Cuba gia nhập phe XHCN. Hệ thống XHCN
mở rộng sang cả Tây bán cầu. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở châu
Á, châu Phi và Mỹ Latin, nhiều quốc gia non trẻ giành được độc lập dân tộc ở những
mức độ khác nhau. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân tan rã từng mảng lớn.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân sau một số năm tạm lắng nay lại bùng nên

mạnh mẽ. Điều này đã cổ vũ cho cách mạng ở Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, các lực lượng đế quốc tăng cường tấn công vào cách mạng. Đối với
các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu, họ thực hiện chiến lược diễn biến hịa bình; cịn đối
với Cuba và Việt Nam thì bao vây, khiêu khích hoặc xâm lược và thực hiện chủ nghĩa
thực dân trá hình ở khu vực Á - Phi - Mỹ Latin. Trong tình hình như thế, những thế lực
cơ hội, xét lại đang nắm quyền ở một số Đảng Cộng sản lại đưa ra đường lối “chung
sống hịa bình’’, thỏa hiệp giai cấp vơ nguyên tắc và trong phong trào cộng sản quốc tế

17


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

lại xuất hiện một trào lưu mới hết sức nguy hại - chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa biệt
phái.
Mâu thuẫn giữa hai Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đã nảy nở từ 1945,
dịu bớt vào những năm 1950, nhưng từ sau Hội nghị Moscow (1957), mối quan hệ giữa
hai đảng lại trở nên xấu đi.
Nhận xét
Có thể thấy giai đoạn 1954 – 1960 là khoảng thời gian mà thế giới đang trong thời
kỳ chiến tranh lạnh gay gắt, bên cạnh đó sự tham vọng của Mỹ trong việc làm bá chủ
thế giới ngày càng bộc lộ rõ điều đó đã được thể hiện thông qua các mục tiêu mà Mỹ đã
đề ra. Xu hướng hịa hỗn của thế giới và việc mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc
đã gây không ít khó khăn đối với cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó phong trào giải
phóng dân tộc vẫn diễn ra sôi nổi trên khắp thế giới, những điều này đã làm cho cách
mạng Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn nhất định buộc ta phải cần phải có
những thích nghi cũng như thay đổi chiến lược của mình để phù hợp tình hình cũng như
xu hướng thế giới và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
2.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Mỹ
Nội dung cơ bản của hiệp định Giơnevơ

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã dẫn đến Hội nghị Giơ-ne-vơ, tạo thế vững vàng cho
đoàn Việt Nam bước vào Hội nghị Giơ-ne-vơ với thế thắng, thế mạnh nhờ có thắng lợi
quân sự khắp chiến trường Việt Nam. Tuy nhiên do tương quan lực lượng, hội nghị đã
bị các nước lớn chi phối, song chúng ta vẫn kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ.
Ngày 21/7/1954, Việt Nam đã ký kết hiệp định Genève với những nội dung cơ bản sau:-

Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam, Lào,
Campuchia.
- Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hịa bình trên tồn Đơng Dương.
- Các bên tham chiến thực hiện cuộc tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực.

18


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

- Cấm đưa quân đội, nhân viên qn sự và vũ khí nước ngồi vào các nước Đông
Dương. Các nước Đông Dương không được tham gia bất cứ khối liên minh quân sự nào.
- Ở Việt Nam: quân đội nhân dân Việt Nam và quân Pháp tập kết ở 2 miền Bắc –
Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời; tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển
cử tự do trong cả nước sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956.
- Trách nhiệm thi hành hiệp định thuộc về những người kí hiệp định và những
người kế tục sự nghiệp của họ.
Kết quả của hội nghị tuy không đáp ứng được những yêu cầu, mục tiêu của Trung
ương Đảng và Chính phủ đề ra lúc ban đầu nhưng đã phản ánh được tương quan lực
lượng giữa ta và đối phương cả trên chiến trường lẫn trên bàn đàm phán, đồng thời cùng
đạt được thỏa thuận chung về việc công nhận quyền dân tộc cho 3 nước Việt Nam, Lào,
Campuchia.
Thắng lợi trong việc ký kết hiệp định là thắng lợi vẻ vang của nền ngoại giao cách

mạng còn non trẻ. Hiệp định này là một giải pháp đồng bộ về chính trị và quân sự nhằm
kết thúc chiến tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam. Nó vượt ra ngồi ý đồ ban đầu của
các nước lớn định giới hạn Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào,
Căm-pu-chia trong khn khổ một Hiệp định ngừng bắn đơn thuần, kiểu Triều Tiên.
Đồng thời, thắng lợi này cũng chứng minh cuộc đấu tranh của ta là đấu tranh chính
nghĩa, được bạn bè quốc tế và những người u chuộng hịa bình ủng hộ.
Đặc điểm của Việt Nam sau 7/1954
Sau tháng 7/1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp
Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân
chủ trên phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Thời cuộc đặt ra cho ta những thuận lợi
cũng như khó khăn nhất định.
Thuận lợi
Miền Bắc được hồn tồn giải phóng, làm căn cứ địa hậu phương cho cả nước: dù
thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng với tinh thần đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta,

19


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội. Ngày 16-5-1955,
toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc.
Thế và lực của cách mạng đã lớn hơn trước sau 9 năm kháng chiến, có ý chí độc
lập, thống nhất của nhân dân cả nước.
Khó khăn
Kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu: kinh tế chủ yếu vẫn là nơng nghiệp, người
dân vẫn cịn nghẻo. Do đó, ngay khi hịa bình lặp lại, nhân dân miền Bắc đã gấp rút khôi
phục kinh tế, hàn gắn vết thương do chiến tranh. Đảng chỉ đạo khôi phục nông nghiệp,
cơng nghiệp, thực hiện chính sách giảm tơ, giảm tức.
Đất nước bị chia cắt thành 2 miền, có chế độ chính trị khác nhau.

Mỹ nhân thời cơ thay chân Pháp ở miền Nam, thực hiện chiến lược “lấp chỗ trống”,
âm mưu tạo ra thuộc địa kiểu mới. Đế Quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân
Việt Nam. Việc phải đương đầu với cường quốc số một thế giới là một thách thức lớn
đối với nhân dân ta.
Những biện pháp của Mỹ trong việc chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam
Để thực hiện âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới như đã
nói trên, sau Hiệp định Giơnevơ, Mỹ nhanh chóng thay thế Pháp, dựng lên chính quyền
Ngơ Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam được coi là
cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất thể hiện mâu thuẫn giữa Liên Xô và Mỹ.
Ngay khi can thiệp vào Miền Nam Mỹ sử dụng nhiều thủ đoạn về chính trị, kinh
tế,văn hóa, qn sự, nhất là nhanh chóng thiết lập bộ máy chính quyền tay sai ở VNCH:
- Bắt đầu mở những cuộc tuần hành, in truyền đơn và bích chương từ giữa năm
1955 để phản đối việc hiệp thương và tổng tuyển cử với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
theo Hiệp định Genève 1954. Việt Nam Cộng hịa do Ngơ Đình Diệm lãnh đạo coi chủ
nghĩa cộng sản là một hiểm họa.
- Ngơ Đình Diệm huy động mọi lực lượng qn sự, an ninh, hành chính, tình báo,
thông tin tuyên truyền... thực hành cuộc càn quét, đàn áp tồn diện cả về qn sự, chính

20


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

trị, tâm lý, kinh tế. Qn đội Ngơ Đình Diệm gây ra những cuộc thảm sát đẫm máu ở
Ngân Sơn, Chí Thạnh (Phú Yên), Chợ Được (Quảng Nam), Mỏ Cày, Bình Đại (Bến
Tre),... Quân đội Ngơ Đình Diệm mở nhiều cuộc hành qn càn quét quy mô lớn, dài
ngày như các “chiến dịch Thoại Ngọc Hầu” kéo dài 9 tháng (5/1956-2/1957) ở 18 tỉnh
miền Tây Nam Bộ, “chiến dịch Trương Tấn Bửu” trong 7 tháng (7/1956-2/1957) ở 8
tỉnh miền Đông Nam Bộ... để triệt phá cách mạng, tàn sát những người ủng hộ, khủng
bố những người tham gia chiến tranh Đông Dương

- Thực hiện thơng qua Luật 10-59, “đặt cộng sản ra ngồi vịng pháp luật”, thành
lập trên khắp miền Nam những nhà tù, trại giam, trại tập trung để giam giữ những người
bị tình nghi ủng hộ phe Cộng sản.
- Việt Nam Cộng hòa kêu gọi những người cộng sản đang hoạt động bí mật ly khai
tổ chức, ra "hợp tác" với chế độ mới đồng thời cưỡng ép những người bị bắt từ bỏ chủ
nghĩa cộng sản. Dù vậy hệ thống tổ chức bí mật của Cộng sản vẫn tiếp tục tồn tại và
phản kháng.
- Chính phủ Việt Nam Cộng hịa cịn tiến hành các chiến dịch tố cộng, diệt cộng,
liên gia phòng vệ, dồn dân lập ấp chiến lược,lập “khu trù mật”, “khu dinh điền” nhằm
mục đích bắt bớ những người yêu nước kháng chiến, thẳng tay đàn áp phong trào đấu
tranh đòi thi hành hiệp đinh Gionevo của các tầng lớp nhân dân... một cách quyết liệt
khơng tính đến các quyền lợi của nhân dân. Trong nội bộ chính phủ cho truyền những
khẩu hiệu "diệt cán trừ cộng" hoặc "dĩ dân diệt cán" để khuyến khích người dân tố giác
người cộng sản nằm vùng.
- Để tăng tính uy hiếp, Việt Nam Cộng hòa sử dụng cả máy chém để hành quyết
phạm nhân. Nhiều vụ xử chém của Việt Nam Cộng hịa được diễn ra cơng khai trước
dân chúng, đầu phạm nhân được đem bêu để cảnh cáo.
- Đối với hai nước láng giềng của Việt Nam, Mỹ mở rộng đánh phá, càn quét ác
liệt mở rộng xâm lược Lào và Campuchia.
Có thể thấy, Mỹ ngày càng tỏ ra hiếu chiến và áp dụng những biện pháp tàn bạo
để đàn áp nhân dân miền Nam, chống phá nhà nước miền Bắc. Điều này hoàn toàn đi

21


×