Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

ĐỀ CƯƠNG CẢM THỤ VĂN HỌC 59 trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.35 KB, 69 trang )

Câu 1. Bản chất của cảm thụ văn học là gì ?
1. Quan niệm về cảm thụ văn học:
Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội
và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách
thể hiện qua ngôn ngữ.
Cảm thụ là “nhận biết cái tế nhị bằng cảm giác tinh vi ” (Theo Hồng Phê trích
“Từ điển tiếng Việt”. Trung tâm Từ điển ngôn ngữ - Hà Nội, 1992)
Cảm thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế
nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (cuốn truyện, bài văn, bài
thơ...) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn , đoạn thơ...thậm chí một từ ngữ
có giá trị trong câu văn, câu thơ)
Như vậy, cảm thụ văn học có nghĩa là khi đọc (nghe) một câu chuyện, một
bài thơ...ta không những hiểu mà còn phải xúc cảm, tưởng tượng và thật sự gần
gũi, “nhập thân” với những gì đã đọc...
Cảm thụ văn học diễn ra ở mỗi em khơng hồn tồn giống nhau do nhiều
yếu tố quyết định như: vốn sống và hiểu biết, năng lực và trình độ kiến thức,
tình cảm và thái độ khi tiếp xúc với văn học
Để có được năng lực cảm thụ văn học sâu sắc và tinh tế, cần có sư say mê,
hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn; chịu khó tích lũy vốn hiểu biết về thực tế
cuộc sống và văn học; nắm vững kiến thức cơ bản về tiếng Việt phục vụ cho
cảm thụ văn học.
Có thể nói: Các em học sinh tiểu học tuy cịn ít tuổi nhưng đều có thể rèn
luyện, trau dồi để từng bước nâng cao trình độ cảm thụ văn học, giúp cho việc
học tập môn Tiếng Việt ngày càng tốt hơn và trở thành học sinh giỏi.
Nói một cách đơn giản, yêu cầu dạy cảm thụ văn học ở trường tiểu học
phải trải qua một quy trình: hiểu nội dung thơng báo – phát hiện các tín hiệu
nghệ thuật – đánh giá được giá trị của các tín hiệu nghệ thuật đó – khái qt
được nội dung thông báo thẩm mĩ .
2. Đặc điểm của cảm thụ văn học
a. CTVH truớc hết là hoạt động nhận thức hình tượng văn học
Nhận thức hình tượng văn học bắt đầu từ việc đọc một cách trọn vẹn một tác


phẩm văn chương. Người đọc(người nghe) phải có khả năng thông qua lớp vỏ
ngôn từ mà hiểu được nội dung tác phẩm, hình dung được những con người,
những cuộc sống, tâm trạng, tính cách, số phận…trong tác phẩm; đồng thời nắm
bắt được các tình tiết, diễn biến của tác phẩm tự sự, hay cảm xúc chủ đạo của tác
phẩm trữ tình …. Từ đó rút ra được đại ý (đối với đoạn văn) tư tưởng, chủ đề (đối
với tác phẩm hoàn chỉnh) và phát hiện được ý đồ nghệ thuật của tác giả .
Thông qua nhận thức nội dung, người đọc còn phát hiện ra mối liên hệ giữa tác
phẩm với đời sống, rút ra được bài học ứng xử cho bản thân và cho xã hội. CTVH
cũng là hoạt động nhận thức đối với phương diện nghệ thuật của tác phẩm. Người
đọc nhận thức được vẻ đẹp của hình tượng ngôn từ, phát hiện phương pháp sáng
1


tác, tài năng và sự độc đáo trong phong cách của nhà văn. Từ đó, trình độ thẩm mĩ
cùng với tâm hồn và nhân cách người đọc được nâng cao hơn.
Đối với tác phẩm thơ, nhận thức nội dung và nghệ thuật chính là phát hiện được
cảm xúc chủ đạo, sự độc đáo của câu từ, tìm và bình giá được ý nghĩa sâu sắc của
nội dung, phát hiện vẻ đẹp kì diệu của “lời văn ý thơ”, khai thác và đồng cảm sâu
sắc với những tâm sự của tác giả, phát hiện chính xác phong cách riêng và tài
năng độc đáo của nhà văn.
b. CTVH chính là sự rung cảm thẩm mĩ
Văn bản văn học chỉ là cái xác khơng hồn bất động và cứng nhắc khi chưa
có hoạt động cụ thể hố của người đọc. Nó có cấu tạo như cơ thể sống bình
thường với đầy đủ các bộ phận chỉ khác là nó khơng có một hơi thở, nhịp đập trái
tim và ln nằm bất động. Chính hoạt động của người đọc sẽ thổi vào nó một cái
hồn, cho nó một hơi thở nồng nàn, con tim đập rộn rã và tồn bộ cơ thể có hoạt
động sinh động phức tạp.
Tác phẩm văn học là một thông điệp mang tính thẩm mĩ đối với người tiếp nhận,
chính từ đó làm thay đổi thái độ, nhận thức hoặc chuyển biến tình cảm của người
tiếp nhận.

Cảm thụ văn học chính là sự rung cảm thẩm mĩ đặc biệt, phức tạp và có tính sáng
tạo. Những tính chất này do đối tuợng tiếp nhận tác phẩm văn học quy định.Để
hình dung rõ hơn về những điều trên, ta hãy tìm hiểu đơi dịng tâm sự của các
nhà văn, nhà thơ khi tiếp xúc với văn học.
Hồi nhỏ, khi đọc những câu ca dao:
Giã ơn cái cối cái chày,
Nửa đêm gà gáy có mày có tao
Giã ơn cái cọc bờ ao,
Nửa đêm gà gáy có tao có mày.
Nhà thơ Hữu Thỉnh đã rất xúc động. Ông nhớ và kể lại: “ Trái tim non nớt của tôi
láng máng nhận ra cái vị đắng của cuộc đời đi ở xưa kia. Khi đó tơi chư thể hiểu
được hết ý nghĩa của câu ca, nhưng tơi thấy nó thật gần gũi. Cái cối cái chày,cái
cọc bờ ao, những thứ âý khá quen thuộc với tơi nhưng cứ lạ mãi, tại sao nó lại trở
thành tiếng nói buồn tủi, bắt ta phải thương xót, cảm thơng? Trí tưởng tượng của
tơi phát ra một bóng người cô độc, bị vắt kiệt sức, bị ném xuống tận đáy, bị loại ra
khỏi thế giới loài nguời, chỉ cịn biết thui lủi một mình để thổ lộ tâm tư cùng
nhưng vật vô tri vô giác.” [18]
Như vậy, CTVH có nghĩa là khi đọc hay nghe tác phẩm, một bài văn, bài thơ,..ta
khơng những hiểu nội dung mà cịn có cảm xúc, tưởng tượng và thật gần gũi,
“nhập tâm”, rung cảm trước những giá trị thẩm mĩ cao đẹp của tác phẩm đó.
Nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường cũng từng nhớ lại tuổi ấu thơ và viết:
“Dế mèn phiêu lưu kí giúp tơi phát hiện tình bạn như một sức mạn kì diệu cảu tâm
hồn,….Khi đối quá sắp chết thì Dế Trũi đưa cho Dế mèn đề nghị bạn ăn lấy thịt
mình để sống. Tơi nhận ra rằng chính Mèn và Trũi mới là nhân vật của tâm hồn
tôi, đã làm tơi chảy nước mắt”[18]
Rõ ràng đọc có suy ngẫm, tưởng tượng và rung cảm thật sự sẽ giúp ta cảm
thụ văn học tốt. Có nhà văn đã chia sẻ: Khi đọc, tơi khơng chỉ thấy dịng chữ, mà
2



cịn thấy cảnh tượng sau dịng chữ ấy, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tôi đi rất xa,
vẽ ra, thêu ra những điều thú vị.
Sự rung cảm thẩm mĩ hay cảm nhận của mỗi em là khơng hồn tồn giống
nhau do nhiều yếu tố quyết định: vốn sống và hiểu biết, năng lực và trình độ khác
nhau cũng có nhiều biến đổi. Chính nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường cũng đã
từng bộc lộ: “ Riêng bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm thì ở mỗi độ tuổi của đời
người, tơi lại có cảm nhận một cái hạy riêng của nó, và cho đến bây giờ, tơi cảm
thấy tơi vẫn chưa đi thấu tận cùng vẻ đẹp của bài học thuộc lịng thuở nhỏ ấy”[18]
c.CTVH mang tính chủ quan và cảm tính
Tính chủ quan trong CTVH là đặc tính cho phép người đọc có thể tùy ý u
thích tác phẩm này hay tác phẩm khác, tán thành hay phản đối tư tưởng nghệ
thuật của tác giả tùy thuộc vào sở thích riêng, vốn tri thức, vốn sống vốn kinh
nghiệm riêng của mỗi người. Thậm chí họ cịn có thể nhận thức, rung cảm theo
một cách khác, khơng hồn tồn giống với ý đồ nhà văn. Nói chung, CTVH tùy
thuộc rất nhiều vào chủ quan của người đọc.
CTVH là hoạt động thiên về cảm tính. Nếu các ngành khoa học nói chung địi hỏi
phải dùng tư duy logic để khảo cứu, phân tích, thống kê một cách đầy đủ và chính
xác, thì CTVH địi hỏi phải có các yếu tố cảm nhận. Người đọc, bằng vốn tri thức
và kinh nghiệm, cùng với năng khiếu của mình, có thể lĩnh hội được những khía
cạnh khó nhận thấy nhất, ẩn giấu sau các chi tiết bình thường.
Cả hai đặc điểm chủ quan và cảm tính đã làm cho cảm thụ phân biệt với hoạt
động nghiên cứu - phê bình văn học. CTVH khơng địi hỏi truy ngun nguồn gốc
tác phẩm, thống kê, khảo sát tỉ mỉ và chính xác như phê bình. Trái lại, chỉ bằng
những cảm nhận dựa theo kinh nghiệm và sự nhạy cảm, nó có thể đưa ra từ đầu
những phát hiện nhiều khi sâu sắc, mới mẻ và độc đáo về hình tượng tác phẩm .
Nghiên cứu - phê bình văn học tuy vẫn chấp nhận tính chủ quan và cảm tính,
nhưng nói chung, đó là một hoạt động tư duy khoa học. Còn CTVH cho phép
chấp nhận tính chủ quan, cảm tính ở mức độ cao hơn. Về việc này có thể nói,
CTVH là hoạt động gắn liền với trực giác. Đó là cảm nhận mang tính phát hiện
d. CTVH mang tính chủ động, sáng tạo.

Người đọc không phải chỉ tiếp nhận tác phẩm một chiều thụ động mà trái lại,
bao giờ họ cũng chủ động, sáng tạo trong nhận thức và rung cảm. Tính chủ động
sáng tạo thể hiện ở chỗ: người đọc không bị lệ thuộc vào dụng ý tác giả mà có
quyền nhận thức và rung cảm theo cách riêng, tùy thuộc vào hoàn cảnh sống, vào
vốn năng lực của học. Người đọc có thể tìm kiếm trong tác phẩm đồng cảm, giúp
ích được cho họ trong cuộc sống và thậm chí cịn có thể phát hiện ra những ưu
điểm, nhược điểm của tác giả để khen hoặc chê.
Bản thân việc đọc - hiểu tác phẩm văn học là sự đánh thức cuộc sống ở trong tác
phẩm theo khái niêm riêng của mỗi người đọc, gắn những giá trị tinh thần trong
tác phẩm với cuộc sống bên ngoài và với khái niệm sống của chính họ.
Tính chủ động sáng tạo của CTVH khiến người đọc trong tưởng rượng của tác giả
không đồng nhất, thậm chí đơi khi cịn trái ngược với người đọc trong thực tế và
có những phát hiện của họ đơi khi làm cho chính tác giả phải ngạc nhiên.
3. Năng lực cảm thụ văn học
3


- Năng lực cảm thụ văn học là gì ?
Năng lực cảm thụ văn học được hiểu là khả năng nắm bắt một cách nhanh
nhạy, chính xác các đặc điểm, đặc trưng, bản chất của tác phẩm về nội dung và
nghệ thuật; là khả năng hiểu, rung cảm một cách sâu sắc, tinh tế với những điều
tâm sự thầm kín nhất của tác giả gửi gắm qua hình tượng, là khả năng đánh giá
chính xác và sâu sắc tài năng cũng như sự độc đáo trong phong cách của tác giả.
- Các mức độ của năng lực cảm thụ văn học
Năng lực CTVH cũng có ba mức độ: năng lực bình thường, tài năng, thiên
tài.
+ Năng lực cảm thụ bình thường trong CTVH là năng lực nắm bắt những
đặc điểm chính của nội dung, nghệ thuật tác phẩm.
+ Tài năng trong CTVH là khả năng nắm bắt nhanh nhạy, chính xác những
đặc điểm, bản chất, đặc trưng về nội dung, nghệ thuật, phát hiện được những vẻ

đẹp riêng biệt, phong phú của hình tượng, của phong cách tác giả.
+ Thiên tài trong CTVH là sự thăng hoa của tài năng. Đây là hiện tượng
hiếm thấy và cũng thường gắn liền với các thiên tài thuộc các lĩnh vực khác.
- Mối quan hệ của năng lực CTVH với tri thức, kĩ năng, kĩ xảo
Năng lực CTVH có liên quan trực tiếp tới tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cũng như
với tâm hồn với nhân cách của chủ thể. Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo là những yếu tố
ban đầu giúp cho việc hình thành năng lực CTVH cũng như các năng lực khác.
Nắm vững tri thức, rèn luyện tốt các kĩ năng cơ bản, hình thành kĩ xảo, thói quen
trong CTVH, điều đó đồng nghĩa với q trình hình thành năng lực CTVH của
mỗi cá nhân.
4. Đặc trưng của năng lực CTVH lứa tuổi Tiểu học:
Trước khi đến trường, HS Tiểu học đã có vốn văn học nhất định. Đây khơng
phải là lần đầu tiên, các em được tiếp xúc với hình tượng văn học. Ngày từ nhỏ,
HS đã được nghe bố mẹ, ơng bà kể chuyện cổ tích, nghe và thuộc các bài đồng
dao, một số bài ca dao, dân ca. Dù chưa ý thức rõ rệt, nhưng mỗi em có thể đã
tiếp xúc với thơ, văn từ rất sớm. Thưở ấu thơ, trong lời ru của bà, của mẹ:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Hay:
Con ong làm mật yêu hoa
Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời....
Hoặc:
Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con
Ngày nào con bé cỏn con
Bây giờ con đã lớn khôn thế này
Cơm cha, áo mẹ, ơn thầy
Lo sao cho đáng những ngày ước mong...

4


Âm điệu ngọt ngào của lời ru đã đưa những câu ca ấy đến với các em giúp
các em tiếp xúc với văn thơ một cách hồn nhiên. Tình yêu cuộc sống đặt trong sự
gắn bó hài hịa giữa thế giới bao la, một hình ảnh khẳng định sức mạnh của tình
đồn kết, sự cần mẫn chăm chỉ,....được tác giả dân gian khái quát bằng hình thức
những câu thơ dễ thuộc, dễ nhớ, đã đi sâu vào đời sống tâm hồn của mỗi con
người và được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Ngay cả khi còn chưa biết chữ, mỗi lần được đắm mình vào thế giới những
câu chuyện cổ tích kì diệu, trong trí tưởng tượng của các em có thể phần nào hình
dung và nhớ được một số chi tiết. Sở dĩ các em có cảm giác yêu nhân vật này hơn
nhân vật khác, thích câu chuyện này hơn hay là khơng thích câu chuyện kia...là vì
các em đã bắt đầu có những “cảm nhận chủ quan” về câu chuyện được nghe
Đến bậc Tiểu học, lần đầu tiên các em được tiếp xúc với tác phẩm văn học
bằng chữ viết, chữ viết tiếp tục đưa các em đi xa hơn trong việc cảm thụ thế giới
văn học. Mở trang sách Tiếng Việt ở trường Tiểu học: học chữ, học vần, học Tập
đọc, làm văn, kể chuyện....dần dần các em thấy tự tin hơn, hứng thú hơn với việc
tự mình đọc một đoạn văn, đoạn thơ và có khi các em thuộc lòng đoạn thơ, đoạn
văn ấy từ lúc nào không biết. Chẳng hạn, ban đầu tiếp xúc với câu văn: “ Mùa
thu, bầu trời như cao hơn,trên giàn thiên lí, lũ chim chuồn chuồn ngẩn ngơ bay
lượn”[Tiếng Việt 1] chắc hẳn các em mới chỉ chú ý đến việc phát âm đúng từng
tiếng để nhớ cách ghép vần chứ chưa nghĩ đến việc “ngắt hơi” thể hiện mạch văn,
ý văn....lại càng chưa nghĩ tới việc hiểu tại sao mùa thu thì bầu trời lại cao hơn và
cao hơn như thế nào; và trên giàn thiên lí, tại sao lũ chuồn chuồn lại ngẩn ngơ bay
lượn?. Tất cả những điều thú vị ấy, các em sẽ có nhiều dịp trở lại để tìm hiểu một
cách kĩ càng hơn. Cũng như vậy, những câu thơ sau đay mặc dù đã được học
trong bài Tập đọc lớp 1.Khi đó các em thường chỉ mới tập trung chú ý tới việc
đọc to, rõ ràng từng tiếng:
Đi đến nơi nào

Lời chào đi trước
Lời chào dẫn bước
Chẳng sợ lạc nhà
Lời chào kết bạn
Con đường bớt xa
Sau khi “đọc trơn” từng từ, ngắt hơi ở từng dòng, các em mới đọc đúng theo
tiết tấu , nhịp điệu của lời thơ, rồi từng bước cảm nhận được ý nghĩa của đoạn thơ
nói gì. Rồi có dịp, các em tìm hiểu kĩ hơn, sâu hơn về kĩ năng sử dụng nghệ thuật
nhân hóa khơng chỉ thể hiện trong các câu trên mà còn ở cả bài thơ.
Trường Tiểu học sẽ trang bị cho các em một số tri thức và rèn luyện một số
kĩ năng, năng lực cần thiết cho CTVH. Học sinh bắt đầu làm quen với các thoa
tác tìm hiểu nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Đó là những câu hỏi, những bài
tập yêu cầu phát hiện ý của đoạn thơ, đoạn văn, ý chính hay đại ý của cả bài thơ,
bài văn, hoặc tìm từ ngữ “chìa khóa” làm nên cái hay, cái đẹp của đoạn văn bản ...
Học sinh cũng được trang bị một số tri thức về hình tượng, ngơn ngữ nghệ
thuật thông qua hệ thống câu hỏi, bài Tập đọc.
5


Ở lứa tuổi Tiểu học, khả năng nhạy cảm, tinh tế trong cảm thụ của các em
mang đặc thù riêng. Tình cảm, tâm hồn của các em rất hồn nhiên, trong sáng, rất
dễ rung động trước những kích thích trong đó có kích thích thẩm mĩ. Chẳng hạn:
Học sinh lớp Một chuẩn bị được nghỉ hè để năm học tới lên lớp Hai, trong buổi
cuối cùng, các em luyện đọc:
Lớp Một ơi! lớp Một!
Đón em vào năm trước
Nay giờ phút chia tay
Gửi lời chào tiến bước
Chào bảng đen cửa sổ
Chào nơi ngồi thân quen

Tất cả! Chào ở lại
Đón các bạn nhỏ lên
Chào cơ giáo kính mến
Cơ sẽ xa chúng em...
Làm theo lời cô dạy
Cô sẽ luôn ở bên.
.............................
[Gửi lời chào lớp 1_Hữu Tưởng]
Chia tay lớp Một, các em như đang trong trạng thái bâng khng khó tả: vừa
vui mừng khơn xiết vì đã được nghỉ hè, vì sắp được lên lớp Hai; song nghỉ hè
cũng là khi phải chia tay thầy cơ, bạn bè của mình. Ngập ngừng, lưu luyến, các
em chào cơ giáo kính mến, đồng thời khơng qn chào bảng đen, cửa sổ, chỗ
ngồi, những đồ vật biết bao thân thiết từng gắn bó với mình. Đọc bài thơ mà trào
dâng nỗi niềm da diết, trào dâng nỗi xao xuyến, bồi hồi.
Từ ví dụ trên cho thấy: từ nghe đến đọc rõ rang không phải chỉ là việc chúng ta
nghe hay đọc một cách thuần túy mà sự thực là trong nghe có hiểu, trong đọc có
hiểu, vừa nghe - hiểu vừa đọc - hiểu. Hiện tượng đó dù ở những dấu hiệu sơ khai
nhất, là chính các em đã thực sự tham gia cảm thụ văn học rồi đấy!
Tuy nhiên lứa tuổi Tiểu học cũng gặp khó khăn trong việc phát hiện những
nội dung trừu tượng, khái quát và một số kĩ năng diễn đạt. Đó là do tư duy logic ở
các em chưa phát triển như ở người trưởng thành.
Trong CTVH, HS Tiểu học có những đặc điểm riêng biệt, tạo nên lợi thế
trong cảm quan tuổi thơ. Đó là sự nhạy cảm, trong sang, hồn nhiên, chân thật,
ngộ nghĩnh rất đáng quí ở cac em. Trong con mắt trẻ thơ, thế giới đầy tính ngạc
nhiên. Người ta thường nói tới “nhãn quan trẻ thơ” tức là cách nhìn từ góc độ trẻ
thơ. Thật vậy, dưới nhãn quan này, cuộc sống luôn hiện ra những điều mới mẻ.
Ngay cả những gì bình thường nhất đang diễn ra hằng ngày, đối với trẻ thơ cũng
có thể đầy sự mới lạ, hấp dẫn. Đó chính là “tính ngạc nhiên” trong quan sát và thể
hiện cuộc sống của tuổi thơ.
“Tính ngạc nhiên” là sự tất yếu trong cách nhìn của trẻ. Đó là lần đầu tiên,

các em chứng kiến tất cả những gì đang diễn ra, đang phát triển trước mắt mình.
6


“Tính ngạc nhiên” làm nên đặc trưng riêng biệt cho nhãn quan trẻ thơ: vừa
ngộ nghĩnh, đáng yêu, lại vừa cho ta thấy được vẻ đẹp trung thực, trong sáng, cội
nguồn của tinh thần con người.
Trong văn học của trẻ em và dành cho trẻ em. “ tính ngạc nhiên ” là điều
kiện không thể thiếu trong mọi tác phẩm. Do vậy, CTVH đối với trẻ thơ cũng phải
luôn chứa đầy sự ngạc nhiên.

Câu 2: Dạy cảm thụ văn học ở Tiểu học nhằm mục đích gì ? Lí do dạy
cảm thụ văn học ở Tiểu học.
Thế kỷ 21- thế kỷ mà tri thức và kĩ năng của con người được coi như là yếu
tố quyết định sự phát triển xã hội. Vì vậy mà mục tiêu chiến lược của giáo dục là:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nền giáo dục xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân,
dân tộc, khoa học và hiện đại. Thực hiện giáo dục toàn diện (đức, trí, thể, mĩ) ở tất
cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả
năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành. Trên cơ sở đó giáo dục nhân cách,
thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Bởi
cùng với việc chăm lo phát triển kinh tế, phải chăm lo phát triển nguồn lực con
người, chuẩn bị lớp người lao động có một hệ thống giá trị phù hợp với yêu cầu
phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Lịch sử phát triển của ngôn ngữ học đã chứng minh “ngôn ngữ là công cụ
của tư duy”. Ngôn ngữ của con người phát triển chứng tỏ tư duy phát triển. Để
giúp học sinh có tư duy phát triển thì hiện nay trong các trường Tiểu học môn
Tiếng Việt càng được coi trọng cả về nội dung và phương pháp giảng dạy. Để học
sinh có được các kỹ năng trên thông qua các giờ Từ ngữ, Ngữ pháp, Tập làm văn
thì chưa đủ mà học sinh cần được tăng cường về năng lực cảm thụ văn trong các
giờ Tập đọc và trong các buổi ngoại khóa. Bởi học sinh có cảm thụ văn tốt thì

mới hiểu được ý nghĩa của bài văn, bài thơ, đoạn văn, đoạn thơ… và mới thấy
được nét đẹp của thơ văn làm cho tâm hồn các em thêm phong phú.
Chương trình mơn Tiếng Việt ở Tiểu học ln coi nhiệm vụ tăng cường năng
lực cảm thụ văn cho học sinh Tiểu học là nhiệm vụ quan trọng nhằm bồi dưỡng
tình u tiếng Việt hình thành thói quen gìn giữ sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng
Việt. Góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho
học sinh dưới sự dẫn dắt của thầy, cô. Những bài thơ, bài văn hay trong sách giáo
khoa sẽ đem đến biết bao điều kỳ thú, hấp dẫn. Tuy nhiên muốn trở thành một học
sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt mỗi em cần phải tự giác phấn đấu và rèn
luyện về nhiều mặt. Bên cạnh đó cảm thụ văn học là một năng lực bắt buộc phải
có ở những học sinh giỏi Tiếng Việt. Chính vì vậy cùng với Luyện từ & câu và
Tập làm văn, nó là một trong ba nội dung cấu tạo nên một đề thi học sinh giỏi
Tiếng Việt. Vì vậy, tuy được đánh số thứ tự như một mạch kiến thức kĩ năng
7


nhưng nó có một vị trí đặc biệt quan trọng. Mạch kiến thức, kỹ năng này chủ yếu
được hình thành trong phân mơn Tập đọc.
Cảm thụ văn học, hay nói chính xác hơn, tiếp nhận văn học là một quá trình
nhận thức thẩm mỹ rất đặc biệt, phức tạp và có tính sáng tạo. Những tính chất này
do đối tượng nhận thức - tác phẩm văn học - quy định. Quá trình cảm thụ văn học
là quá trình nhận thức cái đẹp được chứa đựng trong thế giới ngôn từ - hệ thống
tín hiệu thứ hai của lồi người. Q trình này mang tính chất chủ quan vì nó phụ
thuộc vào vốn sống, vốn kinh nghiệm, hiểu biết riêng của người cảm thụ văn học.
Thực tế hiện nay, việc cảm thụ văn học trong phân môn Tập đọc ở các lớp
nói chung và ở lớp 5 nói riêng chưa được chú trọng. Giáo viên chỉ chú ý vào khâu
luyện đọc và tìm hiểu nội dung bài học. Muốn học sinh cảm nhận được cái hay,
cái đẹp, sự sâu sắc của ngôn từ, biện pháp nghệ thuật, và ý nghĩa trong mỗi bài
văn, bài thơ mà các em đã được học thì giáo viên phải rèn cho các em kỹ năng
cảm thụ văn học. Qua cảm thụ, học sinh được củng cố thêm vốn từ ngữ, biết sử

dụng các biện pháp tu từ trong viết bài tập làm văn như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,
hốn dụ… và học sinh cũng đọc diễn cảm hơn một văn bản nếu các em cảm thụ
tốt văn bản đó.
Dạy Tập đọc lớp 5 có một điều mà bất cứ giáo viên nào khi giảng dạy cũng
phải thừa nhận rằng: Năng lực viết văn của học sinh còn hạn chế. Đặc biệt khả
năng cảm thụ văn học chưa cao. Đa số các em chưa thể cảm nhận và phát hiện
những cái hay, cái độc đáo của bài văn, bài thơ. Thiết nghĩ đây là vấn đề quan
trọng giúp học sinh có năng lực viết văn, trau dồi vốn ngôn ngữ để giao tiếp và
hơn thế nữa là giáo dục tâm hồn trong sáng cho các em. Song thực tế cho thấy vấn
đề này còn nhiều hạn chế từ hai phía : người học và người dạy. Vậy làm thế nào
để tăng cường kiến thức và năng lực cảm thụ văn học cho học sinh khi dạy Tập
đọc lớp 5 theo tinh thần đổi mới phương pháp, đổi mới chương trình. Nghĩa là
ngồi việc ‘’dạy đọc’’ theo đúng nghĩa của nó thì yếu tố cần và đủ để dạy thành
cơng tiết Tập đọc đó là: học sinh hiểu được nội dung bài đọc, cảm nhận được cái
hay cái đẹp và những tình cảm trong sáng của con người, tình u thiên nhiên,
u lao động … thơng qua các thủ pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng trong
mỗi đoạn văn, đoạn thơ.
Trong lịch sử đã tồn tại nhiều phương pháp dạy học khác nhau và càng ngày
càng có sự phát triển hơn cho phù hợp với nhận thức và yêu cầu của xã hội. Tuy
nhiên giáo viên chưa trang bị một cách hệ thống, bài bản về vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học cho nên còn lúng túng đa số giáo viên còn mới hiểu vấn đề
đổi mới phương pháp dạy học ở hình thức bên ngồi (ví như đổi mới chỉ là sự
tăng cường luận nhóm hoặc phải sử dụng giáo án điện tử,…trong các giờ học) mà
chưa chú ý được đến bình diện bên trong của phương pháp dạy học (hiệu quả và
sự phù hợp của các phương pháp đổi mới với nội dung và đặc thù mơn học).
Việc tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề liên quan đến dạy học cảm thụ
văn học ở Tiểu học được rất nhiều tác giả và các nhà nghiên cứu giáo dục quan
tâm nhằm nâng cao chất lượng phân mơn Tập đọc nói riêng và mơn Tiếng
Việt nói chung :
8



Câu 3: Cảm thụ văn học với việc đổi mới dạy học phân môn Tập đọc.
1. Quan điểm dạy học cảm thụ văn học
Việc đi tìm một phương pháp dạy học phù hợp nhằm tăng cường năng lực
cảm thụ văn học trong dạy học phân môn Tập đọc nằm trong nhu cầu và xu thế
đổi mới phương pháp dạy học ở toàn cấp học. Đổi mới phương pháp dạy học
được hiểu là đưa các phương pháp dạy học mới vào nhà trường trên cơ sở phát
huy mặt tích cực của các phương pháp truyền thống để nâng cao chất lượng dạy
học, nâng cao hiệu quả của giáo dục, đáp ứng được các yêu cầu của xã hội. Hiểu
như vậy thì không thể chỉ nhấn mạnh đến một vài phương pháp mới, mà không kế
thừa các phương pháp dạy học truyền thống, cũng không thể chỉ cải tiến các
phương pháp dạy học hiện có mà khơng đưa các phương pháp dạy học mới vào
nhà trường.
Bên cạnh những phương pháp dạy học truyền thống được sử dụng nhiều
năm nay là thuyết trình, giảng giải, chứng minh, vấn đáp, trực quan,…những năm
gần đây đã xuất hiện những phương pháp dạy học mới như: thảo luận, điều tra và
nghiên cứu, tích hợp, hoạt động, hợp tác,…
Muốn đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường cần phải đổi mới toàn
diện: về nhận thức của giáo viên và cán bộ chỉ đạo, hình thức tổ chức dạy học,
môi trường học tập, phương tiện dạy học và cách đánh giá, kiểm tra giáo viên và
học sinh.
Đặc điểm cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học là quá trình dạy học đặc
biệt chú ý đến người học, hướng vào người học, nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cảm thụ văn học của học sinh
- Yếu tố sinh lí.
Đề cập đến sự phát triển tâm lí của trẻ em trước hết ta phải đề cập đến sự
phát triển về thể chất của các em. Sự phát triển cơ thể đặc biệt là sự biến đổi của
hệ thần kinh và của hoạt động thần kinh cấp cao là một yếu tố quan trọng không

thể thiếu được đối với sự phát triển tâm lí của trẻ ở lứa tuổi tiểu học. Tốc độ phát
triển về chiều cao và trọng lượng cơ thể của HS tiểu học chậm hơn so với tuổi
mẫu giáo. Mỗi năm cao trung bình từ 2 – 5 cm và nặng thêm 400 –500g. Hệ
xương của trẻ ở tuổi này đang trong thời kì cốt hóa nhưng cịn nhiều mơ sụn nên
dễ cong vẹo. Vì vậy, người lớn cần chú ý tư thế ngồi và cách lao động của các em.
Những đốt xương ở cổ tay chưa hồn tồn cốt hóa, cho nên các em khơng thích
luyện những kĩ xảo có tính chất tỉ mỉ. Vì vậy, việc rèn luyện những kĩ xão có tính
chất kĩ thuật tỉ mỉ rất khó đối với các em. Chúng ta nên tránh để các em viết chữ
quá nhỏ, viết láu, viết nhiều, khơng nên gị bó các em tham gia những hoạt động
đơn điệu và kéo dài. Hệ cơ đang phát triển mạnh, những cơ lớn thường phát triển
nhanh hơn những cơ nhỏ nhất là những bắp thịt lớn, nên các em thích chạy nhảy,
thích làm những việc dùng sức mạnh.
9


Não bộ của trẻ lên 7 tuổi đạt khoảng 90% trọng lượng não người lớn và đến
12 tuổi thì bằng trọng lượng não người lớn, thùy trán phát triển mạnh. Tế bào não
phát triển về thành phần cấu tạo, độ lớn và phân hóa rõ rệt. Cấu tạo tế bào não của
trẻ 8 tuổi khơng có gì khác so với tế bào não của người lớn. Não bộ đang tiếp tục
hoàn thiện về mặt cấu trúc và chức năng. Ở HS tiểu học có thể thành lập hệ thống
liên hệ thần kinh phức tạp nhưng chưa thật vững chắc. Vỏ não chưa hoàn toàn
điều khiển được những phần dưới vỏ. Nên ở tuổi này trẻ dễ nhớ nhưng cũng
chóng quên và thường khó kìm hãm những cảm xúc của mình. Quá trình hưng
phấn rất mạnh, nên HS tiểu học rất hiếu động và nhiều khi chưa có khả năng tự
kiềm chế mình. Ức chế đang phát triển và tiến tới cân bằng hưng phấn.
Học sinh tiểu học hệ thống tín hiệu thứ nhất vẫn chiếm ưu thế so với hệ
thống tín hiệu thứ hai. Trong q trình học tập ở nhà trường, hệ thống tín hiệu thứ
hai dần dần được phát triển mạnh và giữ vai trò lớn trong hoạt động nhận thức (do
ngôn ngữ phát triển, các em hiểu được các kí hiệu, các cơng thức trong các bài
học), cũng như trong việc điều chỉnh hành vi của các em. Đó là cơ sở sinh lí của

sự phát triển tư duy trừu tượng và hành động ý chí của trẻ.
- Yếu tố tâm lí
HS lớp 5 đã bước vào tuổi thiếu niên. Các em lớn nhanh, kích thước và tổ
chức cơ thể đã tiến gần đến người trưởng thành. Hành vi và đời sống nội tâm của
các em đã có những thay đổi đột biến.
Nét đặc thù của nhân cách HS tuổi này là ý thức mình khơng cịn là trẻ con.
Vì vậy tuy hành vi vẫn là trẻ con nhưng các em lại muốn tỏ ra mình là người lớn.
Các em dễ cáu khi bị người lớn âu yếm như trẻ con, và bướng bỉnh khó bảo nếu
khơng được tơn trọng, khơng được cư xử bình đẳng. Tuổi này vì vậy được gọi là
tuổi chuyển tiếp.
Do sự cân bằng cơ thể của trẻ bị phá vỡ, sự cân bằng cơ thể người lớn còn
chưa vững chắc, các em dễ xúc động và xúc động cao. Sự cảm thụ văn học của
HS lớp 5 con chưa hoàn thiện so với người lớn và được phân biệt bởi những đặc
điểm sau:
- Thứ nhất các em chịu sự chi phối mạnh mẽ của tình cảm, sự vượt trước của
tình cảm so với q trình phân tích - tổng hợp..
- Thứ hai là sự phát triển chưa hồn thiện của óc phân tích
- Thứ ba là sự thiếu hồn thiện của năng lực so sánh – tổng hợp
Ví dụ, khi dạy bài “Phong cảnh đền Hùng” (TV5, tập 2), để HS tái tạo bức
tranh tồn cảnh của đền Hùng, cơ giáo u cầu các em cho biết tác giả đứng ở đâu
để quan sát và tả cảnh đền Hùng, thì nhiều HS lớp 5 đã không trả lời đúng câu hỏi
này. Kế tiếp là không biết lật đi lật lại vấn đề, sự khái quát thường vội vã, thiếu
chiều sâu.
3. Mối quan hệ giữa dạy học đọc hiểu và cảm thụ văn học
- Ý nghĩa của việc đọc trong cảm thụ tác phẩm văn học
Những kinh nghiệm sống, những thành tựu văn hố, khoa học tư tưởng, tình
cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi
lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người khơng thể tiếp thu nền văn
10



minh của lồi người, khơng thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc
đúng nghĩa trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận
nền văn hoá, văn minh, cảm thụ nghệ thuật lên gấp nhiều lần, từ đây con người
biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư
duy. Biết đọc, con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản
giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thơng hiểu tư tưởng,
tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc tác phẩm văn học, con người khơng
chỉ thức tỉnh về nhận thức mà cịn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt
đẹp, khơi dậy những năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi
dưỡng tâm hồn. Không biết đọc con người sẽ khơng có điều kiện hưỏng thụ
những thành tựu văn minh của xã hội, khơng thể hình thành nhân cách tồn diện.
Đặc biệt trong thời đại thơng tin thì biết đọc càng ngày càng quan trọng vì nó sẽ
giúp chúng ta sử dụng nguồn thơng tin, đọc chính là học.
Vì những lẽ trên, dạy học Tập đọc có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Biết đọc là
đòi hỏi đầu tiên của người đi học. Khi đọc được thì mới có thể hiểu được nội
dung và cảm nhận được tác phẩm.
- Mối quan hệ giữa đọc - hiểu và cảm thụ văn học
Đọc hiểu chính là đọc và nắm bắt thơng tin. Hay nói cách khác là q trình
nhận thức để có khả năng thơng hiểu những gì được đọc. Vì vậy, hiệu quả của
đọc hiểu được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Muốn vậy,
người đọc phải đọc văn bản một cách có ý thức, phải lĩnh hội được đích tác
động của văn bản. Kết quả của đọc hiểu là: người đọc phải lĩnh hội được thông
tin, hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu đoạn, bài… tức là tồn bộ những gì được
đọc. Đọc hiểu là yêu cầu đặt ra cho mọi đối tượng đọc, với tất cả các kiểu loại
văn bản đọc, trong đó có cả các văn bản nghệ thuật. Cịn cảm thụ là yêu cầu đặt
ra cho những ai đọc các văn bản nghệ thuật, đặc biệt là các văn bản hay, gây
xúc động.
Cảm thụ văn học là đọc hiểu các tác phẩm văn chương ở mức độ cao nhất,
không chỉ nắm bắt thơng tin mà cịn phải thẩm thấu được thơng tin, phân tích,

đánh giá được khả năng sử dụng ngôn từ của tác giả, tạo được mối giao cảm
đặc biệt giữa tác giả và bạn đọc và có thể truyền thụ cách hiểu đó cho người
khác. Cảm thụ văn học có nghĩa là khi đọc (nghe) một câu chuyện, một bài
thơ…người đọc khơng những hiểu mà cịn phải có xúc cảm, tưởng tượng và
thật sự gần gũi, “nhập thân” với những gì đã đọc… Đọc có suy ngẫm, tưởng
tượng (hay liên tưởng) và rung cảm thực sự chính là người đọc biết cảm thụ văn
học.
Năng lực cảm thụ văn học ở mỗi người khơng hồn tồn giống nhau do
nhiều yếu tố qui định như: vốn sống và hiểu biết, năng lực và trình độ kiến thức,
tình cảm và thái độ, sự nhạy cảm khi tiếp xúc với tác phẩm văn học…Ngay cả ở
một người, sự cảm thụ văn học về một bài văn, bài thơ trong những thời điểm
khác nhau cũng có nhiều biến đổi. Những điều nói trên về cảm thụ văn học cho
thấy: mỗi người đều có thể rèn luyện, trau dồi cách đọc để từng bước nâng cao
trình độ cảm thụ văn học cho bản thân, từ đó cũng có thể có khả năng cảm nhận
Hiểu và cảm thụ văn bản nghệ thuật thuộc hai mức độ nông sâu khác nhau:
11


chúng tôi gọi hiểu là việc chạm tới nội dung bề mặt của ngơn từ nghệ thuật (cịn
gọi là hiển ngơn), cịn cảm thụ là việc hiểu sâu sắc với những xúc động, trước
những gì mà ngơn từ gợi ra để nhận thức được chiều sâu ý nghĩa của văn bản
(cịn gọi là hàm ngơn).
Đặc điểm nổi bật của q trình CTVH là đọc văn bản trong nhận biết và
rung độngNgười đọc cũng cần dùng tưởng tượng, trực giác để cảm nhận ý
nghĩa biểu cảm của ngơn từ, từ đó chia sẻ, đồng sáng tạo với tác giả. Quá trình
CTVH chính là việc đảm bảo hiệu quả nhất mối quan hệ giữa nhà văn - tác
phẩm - bạn đọc. Đến với tác phẩm văn học, người đọc muốn được hưởng thụ và
bồi đắp những tình cảm thẩm mĩ, muốn được mở mang trí tuệ, bồi dưỡng thêm
về tư tưởng, đạo đức, lí tưởng, học hỏi kinh nghiệm sống hoặc nhận xét, đánh
giá. Bằng việc cảm thụ, người đọc đã chuyển hóa văn bản thứ nhất của tác giả

thành văn bản thứ hai của mình. Bởi vì, trong khi đọc tác phẩm văn học, người
đọc vừa bám vào sự mô tả trong văn bản, vừa liên tưởng tới các hiện tượng
ngoài đời, đồng thời cũng dựa vào cảm nghĩ và lí giải của mình, mà hình dung,
tưởng tượng ra các con người, sự vật, sự việc được miêu tả. Khi mối quan hệ
nhà văn - tác -phẩm - bạn đọc được đảm bảo thì người đọc sẽ có được sự đồng
cảm với với tác giả, khiến họ yêu ghét những gì mà chính tác giả yêu ghét.

Câu 4. Nêu những cơ sở thực tiễn của Cảm thụ văn học:
Những cơ sở thực tiễn của Cảm thụ văn học:
1. Nội dung chương trình Tập đọc lớp 5: Chương trình SGK TV lớp 5
được đưa vào giảng dạy chính thức từ năm học 2006 – 2007. SGK TV lớp 5 tập 1
được dạy trong 17 tuần, trừ 2 tuần ôn tập, kiểm tra, mỗi tuần có 2 bài Tập đọc. Tất
cả có 30 bài. SGK TV lớp 5 tập 2 được dạy trong 18 tuần, trừ 2 tuần ôn tập kiểm
tra, mỗi tuần cũng có 2 bài tập đọc và tất cả là 30 bài. Như vậy cả chương trình
lớp 5 có 60 bài Tập đọc bao gồm có các văn bản thuộc thể loại: văn xuôi, văn bản
nghệ thuật, văn bản phi nghệ thuật.
2. Hệ thống văn bản, câu hỏi, bài tập trong dạy học Tập đọc lớp 5 nhằm
tăng cường năng lực CTVH:
Cả chương trình lớp 5 có 60 bài Tập đọc bao gồm có các văn bản thuộc thể
loại: văn xuôi, văn bản nghệ thuật, văn bản phi nghệ thuật.
Câu hỏi, bài tập sau các bài Tập đọc trong cả chương trình lớp 5 là 244 câu
và chia làm 4 loại, đó là:
Loại thứ nhất: Nhắc lại nội dung miêu tả, nội dung thông tin của văn bản,
loại này chiếm gần 73% trong tồn bộ hệ thống câu hỏi.
Ví dụ: “Hình ảnh trái đất có gì đẹp?”(Bài ca về trái đất - TV5 tập 1, trang 41);
“Những chi tiết nào trong bài thơ gợi lên hình ảnh một đêm trăng vừa tĩnh mịch,
12


vừa sinh động trên công trường sông Đà”(Tiếng đàn ba - la - lai - ca trên dịng

sơng Đà - TV5 tập 1)
Loại thứ hai: làm rõ ý của đoạn, khổ thơ hay nội dung của bài, loại này
chiếm gần 12% trong tồn bộ hệ thống câu hỏi, bài tập.
Ví dụ: “Em hiểu hai câu cuối khổ thơ 2 nói gì ?”(Bài ca về trái đất - TV5 tập 1,
trang 41) hay “Lời đáp của ông cụ ở cuối truyện ngụ ý gì ?”(Tác pẩm của Si-le và
tên phát-xít, TV5 tập 1 trang 58)
Loại thứ ba: Nhận biết các chi tiết nghệ thuật (dùng từ, sử dụng các biện
pháp tu từ,…) thể hiện sự độc đáo khác thường của tác giả, loại này chiếm
khoảng 4% trong toàn bộ hệ thống bài tập, câu hỏi.
Ví dụ: “Vì sao tác giả gọi hạt gạo là “Hạt vàng” ?”(Hạt gạo làng ta, TV5 tập 1)
hay “Phép nhân hóa ở khổ thơ cuối giúp tác giả nói lên điều gì về “tấm lịng”
của cửa sông đối với cội nguồn?”(Cửa sông, TV5 tập 2 trang 74)
Loại thứ tư: yêu cầu học sinh nêu mục đích tác động của tác giả gửi gắm
vào văn bản và yêu cầu hồi đáp văn bản, loại này chiếm gần 8% trong tồn bộ hệ
thống bài tập, câu hỏi .
Ví dụ: “Đặt hình ảnh người chiến sĩ đi tuần bên hình ảnh giấc ngủ yên
bình của học sinh, tác giả bài thơ muốn nói lên điều gì?”(Chú đi tuần, TV5 tập 2,
trang 51) hay “Em có suy nghĩ gì về cách đối xử của đám thủy thủ và của đàn cá
heo đối với nghệ sĩ A-ri-ôn ?”(Những người bạn tốt, TV5 tập 1, trang 64)
Như vậy, qua việc thống kê và sắp xếp các bài tập dành cho phần Tập đọc
trong SGK TV5, ta thấy như sau: Để giúp học sinh có khả năng cảm thụ văn học
tốt thì trước hết phải giúp học sinh đọc - hiểu văn bản, diễn cảm văn bản và làm
các bài tập rèn kĩ năng CTVH.
Để việc đọc – hiểu có hiệu quả thì phải giúp học sinh đọc và nắm được nghĩa
của các từ chìa khóa, ý của các câu đặc biệt, ý của từng đoạn, từng khổ thơ và
đại ý của toàn bài. Nhưng nghiên cứu hệ thống câu hỏi và bài tập sau mỗi giờ Tập
đọc giúp học sinh thực hiện những cơng việc đó thì chưa đáp ứng được. Cụ thể là
chưa có hệ thống câu hỏi cho từng yêu cầu cụ thể, một số câu hỏi đưa ra còn
mang tính chung chung.
Theo quy trình của tiết Tập đọc thì đều có bước yêu cầu HS đọc diễn cảm.

Bước này được thực hiện sau khi đọc hiểu. Nhưng trong thực tế giảng dạy thì lại
khơng có câu hỏi, bài tập hướng dẫn HS đọc bài này như thế nào? Tại sao phải
đọc như thế? Khi đọc cần nhấn mạnh từ ngữ nào? Tốc độ đọc nhanh, chậm như
thế nào? Thái độ khi đọc ra sao? Hay hệ thống câu hỏi. bài tập rèn kĩ năng cảm
thụ bài đọc về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật một cách sâu sắc, ý nghĩa của bài
đọc đi vào cuộc sống như thế nào? Thì chưa được quan tâm đúng mực. Những nội
dung trên không được thể hiện trong SGK TV5, trong vở bài tập cũng khơng có.
Với những lí do trên, chúng tôi thiết nghĩ việc xây dựng một số các biện pháp và
hệ thống bài tập giúp học sinh đọc- hiểu, đọc diễn cảm và CTVH cho học sinh lớp
5 trong giờ Tập đọc là hết sức cần thiết, nhằm đổi mới dạy học Tập đọc ở lớp 5
theo hướng tăng cường năng lực cảm thụ văn học đạt được hiệu quả

13


3. Giá trị của ngữ liệu dùng để cảm thụ văn trong chương trình Tập
đọc 5:
Giá trị văn học là sản phẩm kết tinh từ quá trình văn học, đáp ứng những
nhu cầu khác nhau trong cuộc sống của con người, tác động sâu sắc tới con
người và cuộc sống. Giá trị văn học gắn với đặc trưng, bản chất của văn học.
Văn học có thể có nhiều tác dụng (giáo dục, thẩm mĩ, nhận thức, giải trí, giao
tiếp) nhưng có ba giá trị cơ bản là nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Tất cả nhằm
nuôi dưỡng và làm phong phú tâm hồn con người bằng nghệ thuật ngôn từ.
a. Giá trị nhận thức
Như chúng ta đã biết tác phẩm văn học là kết quả của quá trình nhà văn
khám phá, lí giải hiện thực đời sống rồi chuyển hóa những hiểu biết đó vào nội
dung tác phẩm. Bạn đọc đến với tác phẩm sẽ được đáp ứng nhu cầu về nhận
thức. Và mỗi người chỉ sống trong một khoảng thời gian nhất định, ở những
không gian nhất định với những mối quan hệ nhất định. Văn học có khả năng
phá vỡ giới hạn tồn tại trong thời gian, không gian thực tế của mỗi cá nhân, đem

lại khả năng sống cuộc sống của nhiều người, nhiều thời, nhiều nơi. Tóm lại giá
trị nhận thức là khả năng của văn học có thể đáp ứng được yêu cầu của con
người muốn hiểu biết cuộc sống và chính bản thân, từ đó tác động vào cuộc
sống một cách có hiệu quả. Giá trị nhận thức có những nội dung cơ bản sau:
- Quá trình nhận thức cuộc sống của văn học: nhận thức nhiều mặt của
cuộc sống với những thời gian, không gian khác nhau ( quá khứ, hiện tại, các
vùng đất, các dân tộc, phong tục, tập quán,…). Văn học mang đến cho người
đọc những hiểu biết, nhận thức mới mẻ, sâu rộng về nhiều mặt của cuộc sống
trong những khoảng thời gian và không gian khác nhau từ ngày xưa đến ngày
nay từ trong nước đến nước ngoài. Ví dụ trong bài Luật tục xưa của người Ê-đê
[TV 5, tập 2] nói về luật tục ngày xưa của người Ê-đê cho ta biết phong tục tập
quán của người Ê-đê. Hay bài Tà áo dài Việt Nam [TV 5,tập 2] cho biết sự thay
đổi của tà áo dài theo thời gian.
- Quá trình tự nhận thức của văn học: người đọc hiểu được bản chất của
con người nói chung (Mục đích tồn tại, tư tưởng, khát vọng, sức mạnh con
người), từ đó mà hiểu chính bản thân mình. Ví dụ trong bài Người công dân số
một [TV 5, tập 2] nói về tư tưởng vĩ đại của người thanh niên Nguyễn Tất Thành
muốn ra đi tìm đường cứu nước. Hay bài Ê-mi-li, con…[TV 5, tập 1]nói lên lí
tưởng cao đẹp của một công dân Mĩ tên là Mo-ri-xơn đã tự thiêu để phản đối
cuộc chiến tranh xâm lược của chính quyền Mĩ ở Việt Nam.
b. Giá trị giáo dục
Giá trị giáo dục là khả năng của văn học có thể mang tới cho người đọc những
bài học quý báu về lẽ sống ở đời giúp họ tự rèn luyện mình ngày một tốt hơn.
Văn học hình thành trong người đọc một lí tưởng tiến bộ, giúp họ có quan điểm
và thái độ đúng đắn về cuộc sống, biết yêu ghét phân minh, tâm hồn lành mạnh
trong sáng và cao thượng. Văn học giúp con người phân biệt phải trái, xấu tốt,
đúng sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc sống của mình với cuộc sống
của tập thể cộng đồng. Đặc trưng giáo dục của văn học là từ con đường cảm xúc
14



đến nhận thức, tự giáo dục. Văn học cảm hóa con người bằng hình tượng, bằng
cái thật, cái đúng, cái đẹp nên nó giáo dục một cách tự giác, thấm sâu, lâu bền.
Văn học khơng chỉ góp phần hồn thiện bản thân con người mà còn hướng con
người tới những hành động cụ thể, thiết thực, vì một cuộc đời ngày càng tốt đẹp
hơn.
c. Giá trị thẩm mĩ
Giá trị thẩm mĩ là khả năng của văn học có thể đem đến cho con người những
rung động trước cái đẹp (cái đẹp của cuộc sống và cái đẹp của chính tác phẩm).
Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật của quê hương đất nước, vẻ đẹp của
những cảnh đời cụ thể vả đẹp hào hùng của chiến trận. Ngoài ra, văn học còn đi
sâu khám phá, phát hiện, miêu tả vẻ đẹp của con người từ ngoại hình đến nội
tâm với những diễn biến sâu sắc của tư tưởng, tình cảm và những hành động gây
ấn tượng khơng dễ gì quên đối với mọi người.
Ví dụ trong bài “Tiếng rao đêm ”[TV5, tập 2, Tr 30] ca ngợi hành động cao
thượng của anh thương binh nghèo, dũng cảm xông vào đám cháy cứu một gia
đình thốt nạn. Cái đẹp trong văn học thể hiện trong văn học thể hiện cả ở nội
dung lẫn hình nghệ thuật khiến người đọc thêm yêu mến cuộc sống, thêm khao
khát hướng tới chân, thiện, mĩ.
d. Mối quan hệ giữa các giá trị văn học
Ba giá trị nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ có mối quan hệ mật thiết với nhau không
tách rời và cùng tác động đến người đọc (khái niệm chân-thiện-mĩ của cha ông).
Giá trị nhận thức luôn là tiền đề cuả giá trị giáo dục. Giá trị giáo dục làm sâu sắc
thêm giá trị nhận thức. Giá trị thẩm mĩ khiến cho giá trị nhận thức và giá trị giáo
dục được phát huy. Khơng có nhận thức đúng đắn thì văn học khơng thể giáo
dục được con người vì nhận thức khơng thể chỉ đẻ nhận thức mà nhận thức là để
hành động. Tuy nhiên giá trị nhận thức và giá trị giáo dục chỉ có thể phát huy
một cách tích cực nhất, có hiệu quả cao nhất khi gắn với giá trị thẩm mĩ - giá trị
tạo nên đặc trưng của văn học.


Câu 5. Trình bày, đề xuất những định hướng chính trong đổi
mới dạy học Tập đọc:
. Đổi mới dạy học trong đó có đổi mới dạy học Tập đọc là vấn đề bức xúc
không chỉ với những người trực tiếp giảng dạy và học tập mà còn đối với toàn xã
hội nhằm nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục, đáp ứng với những yêu cầu
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa đất nước. Ngày nay việc đổi mới phương pháp
dạy học ở các bậc học đã và đang được đổi mới một cách sâu sắc và mạnh mẽ mà
cụ thể là nhiều Hội thảo chuyên đề và nhiều định hướng đổi mới đã được triển
khai. Tuy nhiên, chất lượng dạy học vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Có một số ngun nhân chính là:
Vấn đề phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp dạy học chưa quán
triệt được quan điểm hệ thống - cấu trúc như thiếu đồng bộ, thiếu hệ thống.

15


Đổi mới phải tiến hành thống nhất và đồng bộ với việc đổi mới các thành tố
của quá trình dạy học. Theo tơi, những định hướng chính trong đổi mới dạy học
Tập đọc là:
1- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường năng lực cảm
thụ văn học của học sinh trong q trình lĩnh hội trí thức. Cụ thể là :
- Tổ chức các hoạt động nâng cao khả năng cảm thụ văn học của học sinh
đa dạng phong phú.
- Tổ chức các hoạt động phát triển khả năng tự học, tự tìm tịi những chi tiết
đắt của tác phẩm được đưa vào bài Tập đọc.
- Tổ chức các hoạt động khám phá bằng cách đưa ra hệ thống các câu hỏi
hướng dẫn học sinh tìm ra được hướng để tìm hiểu tư tưởng của tác phẩm.
- Linh hoạt trong phương pháp và ứng xử sư phạm.
- Luôn kiểm tra đánh giá kiến thức cần đạt được của học sinh, coi trọng sự
tiến bộ của từng em.

2- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kết hợp một cách nhuần
nhuyễn và sáng tạo các phương pháp dạy học khác nhau (truyền thống và
hiện đại) sao cho vừa đạt được mục tiêu dạy học vừa phù hợp với đối tượng
và điều kiện thực tiễn của cơ sở .
3- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển khả năng tự học
của học sinh .
4- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kết hợp hoạt động cá nhân
với hoạt động nhóm và phát huy khả năng của cá nhân .
5- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường kỹ năng thực
hành .
6- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng sử dụng kỹ thuật hiện đại
vào dạy học .
7- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đổi mới cả phương pháp
kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh.
8- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đổi mới cách thiết kế bài
dạy, lập kế hoạch bài học và xây dựng mục tiêu bài học.

Câu 6. Nêu các đặc trưng của phương pháp dạy học Tập đọc
theo hướng tăng cường năng lực cảm thụ văn học.
- Tổ chức các hoạt động nâng cao khả năng cảm thụ văn học của học sinh đa
dạng phong phú.
- Tổ chức các hoạt động phát triển khả năng tự học, tự tìm tịi những chi tiết
đắt của tác phẩm được đưa vào bài Tập đọc.
- Tổ chức các hoạt động khám phá bằng cách đưa ra hệ thống các câu hỏi
hướng dẫn học sinh tìm ra được hướng để tìm hiểu tư tưởng của tác phẩm.
- Linh hoạt trong phương pháp và ứng xử sư phạm.
- Luôn kiểm tra đánh giá kiến thức cần đạt được của học sinh.
16



17


CHƯƠNG 2: BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC
SINH TIỂU HỌC QUA HỆ THỐNG VĂN BẢN

Câu 7:. Nêu các nguyên tắc dạy học Tập đọc theo hướng tăng
cường cảm thụ văn học.
Để nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh thông qua phân môn
Tập đọc đảm bảo hiệu quả và mục tiêu đề ra, việc xây dựng các biện pháp đổi
mới dạy học Tập đọc theo hướng tăng cường năng lực cảm thụ văn học cần phải
dựa vào các nguyên tắc sau:
1. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống
Q trình giáo dục là một chỉnh thể trọn vẹn bao gồm các mặt, các khâu thống
nhất biện chứng với nhau. Trong quá trình dạy cũng được cấu thành bởi các thành
tố: Nội dung, phương pháp, biện pháp, hình thức tổ chức dạy học,… Các thành tố
này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, mang tính hệ thống. Tăng cường năng lực
cảm thụ văn học cho học sinh Tiểu học là một vấn đề cấp thiết trong xu thế xã hội
phát triển như hiện nay, nó nằm trong hệ thống các biện pháp giáo dục và bồi
dưỡng giá trị nhân văn cho các thế hệ học sinh Việt Nam trong giai đoạn phát
triển hội nhập.
Các biện pháp được xây dựng bởi hệ thống các bước các khâu, các giai đoạn
sắp xếp theo một trật tự nhất định chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại cho nhau. Các yếu tố của các biện pháp được sắp xếp theo một trật tự
logic tạo nên hệ thống phù hợp với quá trình nhận thức và đặc điểm tâm lí sinh lí
của học sinh Tiểu học , thuận tiện cho giáo viên trong quá trình sử dụng cũng như
phù hợp với đặc điểm vùng miền của các trường Tiểu học.
.
2. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa cá nhân với tập thể
Tăng cường năng lực cảm thụ cho HSTH thường sử dụng phương pháp dạy

học tích cực như dạy học theo nhóm, dạy học cá nhân, trò chơi học tập, dạy học
trên cơ sở vốn sống thực tiễn của học sinh…. Vì vậy, cần có sự thống nhất giữa cá
nhân và tập thể thì các biện pháp đổi mới dạy học Tập đọc theo hướng tăng cường
năng lực cảm thụ văn học mới đem lại hiệu quả. Ngược lại, giữa cá nhân và tập
thể nhóm, lớp khơng đi theo một khuynh hướng chung, khơng có sự thống nhất
đồng bộ thì sẽ mất đi sự toàn ven thống nhất.
Các biện pháp tăng cường năng lực cảm thụ văn học cho HSTH trong phân
môn Tập đọc chủ yếu là huy động vốn sống và những kinh nghiệm phong phú của
cá nhân học sinh. Vì vậy cần quan tâm đến vốn sống thực tiễn và những kiến thức
cơ bản về Tiếng Việt của từng cá nhân nhằm đảm bảo sự nỗ lực nhưng phù hợp
với những diễn biến tình cảm, xúc cảm khi tiếp xúc với văn học của học sinh để
đạt tới mục tiêu, đồng thời khơi dậy ở học sinh lòng say mê đọc sách, nghiên cứu
thơ văn và những tác phẩm nghệ thuật.
Mặt khác, khi chúng ta quan tâm đến khả năng chung của nhóm, lớp thì sẽ tạo nên
mối quan hệ thống nhất chặt chẽ giữa cá nhân và tâp thể, tạo điều kiện để tăng
cường năng lực CTVH của nhóm, lớp. Khi xây dựng các biện pháp, chúng ta phải
18


xem xét, phân hoá từng đối tượng học sinh nhưng vẫn phải đảm bảo hoạt động
chung của tập thể.
Về phương diện cá nhân cần chú ý đến: Đặc điểm tâm lí, vốn sống cũng như
năng lực cảm thụ của từng em. Ngồi ra cịn phải chú ý đến khả năng, trình độ
của học sinh, vốn tri thức có sẵn, điều kiện sức khoẻ, môi trường sống của từng
em.
Về phương diện tập thể cần quan tâm đến: Mục đích, nhiệm vụ chung, tính
tổ chức, tính kỉ luật trong các hoạt động học tập, tính xây dựng và phát triển cho
tập thể nhóm, lớp.
Khi xây dựng các biện pháp dạy học Tập đọc theo hướng tăng cường năng
lực cảm thụ văn học cần chú ý đến khả năng riêng của từng cá nhân học sinh và

yêu cầu chung của tập thể. Như vậy sẽ nâng cao được năng lực cá nhân, đảm bảo
tính vừa sức, hồn thành được mục tiêu, nhiệm vụ chung của tập thể.
.3. Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu
Nâng cao kiến thức về môn Tiếng Việt, phát triển tư duy và ngơn ngữ nói,
viết cho học sinh, giúp học sinh diễn đạt súc tích, cảm xúc suy nghĩ của mình qua
hoạt động quan sát. Giúp học sinh bộc lộ và phát huy được năng lực học môn
Tiếng Việt của mình. Qua quá trình cảm thụ văn học sẽ nâng cao khả năng sử
dụng các tu từ ngữ nghĩa như: so sánh, nhân hoá, điệp ngữ, đảo ngữ,…cho học
sinh
Tăng cường cho các em thái độ yêu quý và ý thức giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt, u thích thơ văn, tích cực tự giác trong học tập.
.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả
Các biện pháp đổi mới dạy học Tập đọc theo hướng tăng cường năng lực
cảm thụ văn học, hướng tới một số mục tiêu nhất định như đã nêu ở trên. Vì thế
khi tổ chức cho học sinh thực hiện hoạt động cảm thụ văn học phải đúng quy
trình, từ quan sát nhận biết đến phân tích đối tượng, cảm nhận những điều dặc biệt
và nói lên những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Giáo viên cần phải chú ý đến nội
dung và tổ chức quan sát hợp lí. Tổng kết và đánh giá được quá trình nhận thức
của học sinh để đưa ra nội dung phù hợp và tổ chức quan sát hợp lí làm sao phát
huy tốt nhất được năng lực cảm thụ văn học của học sinh.
.5. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi
Nội dung cẩm thụ văn học là một vấn đề tương đối khó vì khơng chỉ thể tính khoa
học mà cịn bộc lộ cả tính cảm xúc mạn mẽ. Vì vậy, để đảm bảo việc xây dựng
các biện pháp đổi mới dạy học Tập đọc theo hướng tăng cường cảm thụ văn học
cho học sinh hiệu quả thì giáo viên phải tạo được cho học sinh một thía độ học tập
tích cực, sơi nổi, hứng thú tìm tịi, phát hiện những điều mới lạ. Bên cạnh đó, các
biện pháp đổi mới dạy học tập đọc theo hướng tăng cườg năng lực cảm thụ văn
học cho học sinh lớp 5 cần phải phù hợp với năng lực chuyên môn của giáo viên,
trình độ nhận thức của học sinh lớp 5 sao cho các em vừ thể hiện được năng lực
vừa bộc lộ được cá tính của mình qua việc cảm thụ các giá trị văn học. Đồng thời,

các biện pháp phải có khả năng ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn dạy học mơn
Tiếng Việt nói chung.
19


Câu 8: Đề xuất các biện pháp tổ chức dạy học Tập đọc theo hướng
tăng cường năng lực CTVH:
1. Bồi dưỡng hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với văn học;
a. Vai trò của hứng thú trong việc nâng cao năng lực cảm thụ văn học
Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, học sinh sẽ là người chủ động,
sáng tạo nắm bắt kiến thức để cảm thụ văn, học giỏi môn Tiếng Việt. Khi một học
sinh chưa thích văn học, thiếu sự say mê cần thiết, nhất định em đó chưa thể xúc
động thực sự với những gì đẹp đẽ được tác giả diễn tả trong bài văn, bài thơ ấy.
Có hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn, các em sẽ vượt qua được khó khăn trở ngại
cố gắng luyện tập để cảm thụ được tốt nhất tác phẩm. muốn đạt được điều đó
người giáo viên cần giúp học sinh thâm nhập tác phẩm văn học bằng nhiều cách
khác nhau.
Bồi dưỡng hứng thú khi tiếp xúc với văn thơ cũng chính là rèn luyện mình
để có nhận thức đúng, tình cảm đẹp, từ đó đến với văn học một cách tự giác, say
mê - yếu tố quan trọng của cảm thụ văn học.
b. Tạo hứng thú bằng tác động vào nội dung dạy học
Từng giờ, từng phút trong giờ tiếng Việt, người giáo viên đều hướng đến
hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh. Khơng có con đường nào khác để
làm nảy sinh và duy trì hứng thú của học sinh với tiếng Việt và Văn học ngoài
cách giúp các em thấy được sự thú vị, vẻ đẹp và khả năng kì diệu của chính đối
tượng học tập - tiếng Việt, văn chương. Tạo hứng thú bằng có thể bằng:
- Một lời vào bài hấp dẫn cho giờ tập đọc: “Đây là một con chim sẻ rất nhỏ bé.
Thế nhưng nhà văn Tuốc-ghê-nhép đã kính cẩn nghiêng mình thán phục trước
nó, vì sao vậy? Chúng ta hãy cùng nhau đọc bài Con sẻ để trả lời câu hỏi này”.
- Chỉ ra vẻ đẹp của một từ, cái hay của một tình tiết truyện: Tiếng hót của chim

chiền chiện khơng phải “ríu rít”, “thánh thót” mà là “ngọt ngào”, “long lanh”,
“chan chứa” thì mới gây ấn tượng.
- Chỉ ra mối quan hệ giữa kiểu nghĩa và cấu tạo từ, giá trị gợi tả gợi cảm của
lớp từ láy, quy luật chuyển nghĩa của từ nhiều nghĩa; khả năng tạo những “định
danh nghệ thuật”, “đồng nghĩa kép” của hiện tượng đồng nghĩa, sự bất ngờ thú
vị của hiện tượng đồng âm…
c- Tạo hứng thú bằng hoạt động tham quan dã ngoại
Trong tất cả các loại hình ngoại khóa văn học, có lẽ tham quan thực tế văn học
là hoạt động ngoại khóa được học sinh yêu thích và tự nguyện tham gia sơi nổi
nhất. Mục đích của hoạt động này là thông qua những chuyến tham quan dã
ngoại giáo dục tình yêu quê hương đất nước, đem bài giảng vào đời thường,
giảng dạy văn chương bằng trực quan sinh động. Qua những chuyến thực tế học
sinh được quan sát tìm hiểu, lắng nghe và ghi chép lại những nội dung phục vụ
cho bài học. Sau đó áp dụng ngay những điều vừa tìm hiểu vào trong những bài
viết cảm thụ của mình. Những chuyến tham quan này nếu được đầu tư nghiêm
túc sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Đây là hình thức thơng dụng phổ biến
nhất vừa giúp học sinh đến với thiên nhiên đất nước và các di tích lịch sử để mở
20


mang kiến thức về tác giả, tác phẩm lại vừa tạo hứng thú sáng tác. Hoạt động
danh lam thắng cảnh bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình cảm này là
một trong những điều kiện để cảm thụ văn chương sâu sắc và nhạy bén. Chúng
ta nên chọn những địa danh có thiên nhiên trữ tình thơ mộng gắn liền với những
tác phẩm trong chương trình để tạo cuộc tham quan dã ngoại vừa bổ ích vừa thú
vị.
Ví dụ: khi dạy bài tập đọc “Cửa sông” của Quang Huy [TV5, tập 2], giáo
viên cần đưa học sinh đến những nơi có cảnh tương tự như cửa sơng trong bài để
học sinh được trải nghiệm, được quan sát thực tế để từ đó có cái nhìn khách
quan và đồng cảm với những suy nghĩ của tác giả cũng như hiểu sâu sắc hơn nội

dung bài thơ cũng như những dụng ý của tác giả. Đồng thời, từ những trải
nghiệm thực tế làm cho học sinh thêm yêu cảnh non nước trong bài thơ, qua đó
bồi dưỡng và nâng cao khả năng cảm thụ thơ cho bản thân.
- Tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động “Ngày thơ Việt Nam” được tổ chức
tại địa phương nhân ngày rằm tháng giêng; tổ chức cho học sinh tham quan danh
lam thắng cảnh và di tích lịch sử để khơi gợi cảm hứng sáng tác thơ cho học
sinh. ..
d.Tạo hứng thú bằng việc xây dựng khơng khí hào hứng say mê học tập
cho học sinh bằng cách tổ chức các trị chơi:
Để kích thích hứng thú học Tập đọc, qua đó học sinh thuộc được bài, hiểu
được nội dung tác phẩm và dần dần cảm nhận được ý nghĩa của tác phẩm. GV có
thể tổ chức các trị chơi kích thích hứng thú đọc, rèn tư duy linh hoạt, luyện tập
tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin, giáo dục tư tưởng tình cảm tốt đẹp.
Trò chơi học tập thường được tổ chức khi luyện đọc hoặc đọc diễn cảm. Tuỳ thời
gian và điều kiện cho phép, GV lựa chọn trò chơi học tập thích hợp để tổ chức
cho học sinh tham gia.
Ví dụ: Thi đọc nối tiếp từng đoạn (nhóm, tổ) đọc “truyền điện” thi tìm
nhanh đọc đúng, nhìn một từ đọc cả câu, nhìn một câu đọc cả đoạn, đốn tên bài,
thi đọc truyện theo vai, thả thơ, thi đọc phân vai…
Giới thiệu một số trò chơi :
- Thi đọc tiếp sức
* Chuẩn bị: 1 đồng hồ, SGK, dự đoán thời gian, số nhóm tham gia.
* Tiến hành:
- Giáo viên yêu cầu, hướng dẫn cách chơi.
- Giáo viên quy định nhóm có số lượng học sinh bằng nhau.
- Từng nhóm lên bảng đứng hàng ngang. Mỗi em cầm một cuốn sách giáo khoa,
mở sẵn bài sẽ thi đọc
+ GV hô lệnh “ bắt đầu” em số 1 (đầu hàng bên phải hoặc bên trái) đọc câu thứ
nhất của bài, dứt tiếng cuối cùng của câu thứ nhất, em số 2 (cạnh em số 1) vừa
đọc sẽ đọc tiếp câu thứ 2….Cứ như vậy cho đến cuối nhóm. Nếu chưa hết bài lại

quay lại tiếp tục đọc theo vòng như thế cho hết bài thì dừng lại. GV tính và ghi
bảng thời gian đọc của mỗi nhóm.
21


- HS sẽ bị trừ điểm nếu đọc sai lẫn hay thừa, thiếu tiếng trong câu hoặc đọc câu
sau ngay khi người trước chưa đọc xong, đọc vượt quá một câu quy định.
- GV cho từng nhóm thi đọc, tính thời gian của mỗi nhóm, cho điểm mỗi nhóm
“Thi đọc tiếp sức” mỗi câu văn đọc đúng cho một điểm, không cho điểm các
trường hợp vi phạm.
- GV cùng cả lớp nhận xét, chọn và tuyên dương nhóm đọc tiếp sức nhanh nhất,
hay nhất.
* Lưu ý: ở tiết Tập đọc một bài thơ GV nên cho học sinh đọc 2 dòng hoặc một
câu thơ lục bát. Nếu là tiết Tập đọc - Học thuộc lòng, GV cho thi tiếp sức như
cách trên nhưng học sinh khơng nhìn SGK.
- Thả thơ.
* Chuẩn bị: GV viết vào phiếu câu thơ đầu (hoặc giữa) ở mỗi khổ thơ, hoặc 1- 2
từ đầu của mỗi câu thơ.
Ví dụ: Bài “Hành trình của bầy ong” [Tập đọc - Học thuộc lòng lớp 5]. GV làm
các phiếu:
Phiếu 1: Với đơi cánh…………sắc màu.
Phiếu 2: Tìm nơi………………khơng tên.
Phiếu 3: Bầy ong……………..mật thơm.
* Tiến hành: GV hướng dẫn cách chơi và nêu yêu cầu:
- Mỗi lượt chơi gồm có 2 nhóm và số người chơi bằng số phiếu, mỗi nhóm cử
nhóm trưởng, 2 nhóm trưởng bốc thăm để giành quyền “ thả thơ ” trước.
- Mỗi em trong nhóm cầm một tờ phiếu (giữ kín). GV hơ “ bắt đầu ” nhóm được
thả thơ trước cử một người thả ra một tờ phiếu cho một bạn nhóm kia. bạn nhận
được tờ phiếu phải đọc thuộc cả khổ thơ (hoặc câu thơ lục bát) có câu từ ghi trên
phiếu. Nếu đọc đúng được tính một điểm.

- GV tính số điểm của nhóm đọc thuộc thơ. Đổi nhóm chơi tương tự như trên. GV
tính điểm nhóm thứ 2….
- Kết thúc trị chơi: GV tuyên dương nhóm đọc tốt, điểm cao.
- Đọc thơ truyền điện
* Chuẩn bị: Thời điểm chơi là cuối tiết Tập đọc - Học thuộc lịng hoặc tiết ơn tập
Học thuộc lịng, HS 2 nhóm ngồi quay mặt vào nhau.
* Tiến hành: GV nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi.
- Hai nhóm bắt thăm (hoặc oẳn tù tì) để giành quyền đọc trước.
+ Đại diện nhóm đọc trước là (nhóm A) đọc khổ thơ đầu tiên của bài thơ rồi chỉ
định thật nhanh “truyền điện” một bạn bất kì (nhóm B). Bạn được chỉ định đọc
tiếp khổ thơ 2 của bài. Nếu đọc được chỉ định bạn nhóm A đọc tiếp khổ thơ thứ
3….Cứ như vậy cho đến hết bài.
Ví dụ : Bài thơ “Bầm ơi”[TV5, tập2, Tr 130]
HSA1: đọc khổ thơ 1
HSB1: đọc khổ thơ 2
HSA2: đọc khổ thơ 3
Tiếp tục như vậy cho đến hết bài. Truờng hợp học sinh được “ truyền điện ”chưa
thuộc, các bạn nhóm đối diện sẽ hơ từ 1 đến 5, nếu không đọc đựoc phải đứng yên
tại chỗ bị “ điện giật ”. Lúc đó HAS1 chỉ tiếp HSB2….
22


Nhóm nào có nhiều người đứng bị “ điện giật ” là nhóm thua cuộc.
Như vậy, ta thấy tổ chức trị chơi học tập ln ln tạo hứng thú, khơng khí hào
hứng, say mê tích cực trong học tập, làm cho học sinh ham mê học hơn.
- Thi đọc truyện theo vai
Rèn kĩ năng đọc đúng và rõ ràng lời người kể chuyện; đọc đúng ngữ điệu
lời nhân vật trong các truyện kể cũng như luyện kĩ năng đọc thầm; tập trung chú
ý theo dõi người khác đọc để phối hợp nhịp nhàng khi đọc lời nhân vật trong
truyện.

- Đầu tiên tơi nêu u cầu chơi: Từng nhóm thi đọc sẽ lần lượt lên đứng
trước các bạn, mỗi HS cầm một cuốn SGK để đọc đúng nội dung được phân
công trong nhóm.
- Cử ban giám khảo. Khi nghe ban giám khảo hơ “bắt đầu”, các nhóm mới
tiến hành đọc theo vai.
VD: Ở bài tập đọc “ Lòng dân”[TV5, tập1 ]. Tơi u cầu 3 dãy bàn cử 3
nhóm mỗi nhóm 5 em lên đọc truyện theo vai. Các nhóm tự phân vai:
HS1 đọc lời nhân vật Cai, HS2 đọc lời nhân vật An, HS3 đọc lời nhân vật
Chú cán bộ, HS4 đọc lời nhân vật Lính, HS5 đọc lời nhân vật Dì Năm.
Từng nhóm tham gia thi đọc truyện theo vai. giáo viên cùng BGK nhận xét,
đánh giá chung và chọn nhóm đọc tốt để biểu dương.
2. Bồi dưỡng vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và nắm vững kiến thức
cơ bản về Tiếng Việt cho học sinh
a. Bồi dưỡng kiến thức gắn với thực tiễn:
Cảm thụ văn học là q trình nhận tức mang tính chủ quan vì nó phụ thuộc
vào vốn sống, những kinh nghiệm, hiểu viết riêng của người cảm thụ văn học. Cái
vốn ấy trước hết được tích luỹ bằng những hiểu biết và cảm xúc của bản thân qua
sự hoạt động và quan sát hàng ngày trong cuộc sống.
Cảm thụ văn học phụ thuộc rất nhiều vào vốn sống của học sinh nên muốn
phát triển hay tăng cường năng lực cảm thụ văn học cho học sinh qua các phân
môn của môn Tiếng Việt trước tiên phải bồi dưỡng vốn sống cho các em. Có vốn
sống, các em mới có khả năng liên tưởng để tiếp nhận tác phẩm. Vốn sống ấy
trước hết được tích luỹ bằng những hiểu biết và cảm xúc của bản thân qua sự
hoạt động và quan sát hàng ngày trong cuộc sống. Có những sự vật, sự việc diễn
ra quanh ta tưởng chừng như rất quen thuộc, nhưng nếu chúng ta kkhơng chú ý
quan sát, nhận xét để có cảm xúc và ghi nhớ thì chúng ta khơng thể làm giàu thêm
vốn hiểu biết về cuộc sống. Chính vì vậy việc tập quan sát thường xuyên, quan sát
bằng nhiều giác quan là một thói quen rất cần thiết trong quá trình phát triển năng
lực cảm thụ văn học.
Nhưng quan sát như thế nào mới có kết quả tốt và phục vụ cho việc tích luỹ

“vốn sống”?. Nhà văn Tơ Hồi, người có biệt tài quan sát và miêu tả đã nêu lên
kinh nghiệm quan sát để phục vụ cho việc tích luỹ “vốn sống” như sau: “Quan
sát giỏi là phải biết tìm ra nét chính, thấy được tính riêng, móc được những ngóc
ngách của sự vật, sự việc, của vấn đề. Nhiều khi không cần dàn trải cả một câu
chuyện, sự vật, sự việc chỉ cần chép lại, nhớ lại những đặc điểm mà mình cảm
23


thấy ấn tưọng nhất như: một câu nói lột tả tính nết, những dáng người và hình
bóng, tiếng động, ánh đèn, nét mặt,một trạng thái tư tưởng do mình đã khổ công
ngắm, nghe, nghĩ mới bật lên và khi thấy bật lên được thì thích thú, khơng ghi
khơng chịu được”.
Quan sát nhiều, quan sát kĩ năng chẳng những giúp các em viết được những
đoạn, bài văn hay về những gì các em quan sát được, những gì đã được tham quan
mà còn tạo điều kiện để các em cảm nhận được vẻ đẹp của văn thơ một cách tinh
tế, sâu sắc.
Đọc bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sơng Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay…
Nhờ vốn hiểu biết của mình về cuộc sống làng quê Việt Nam, có bạn học
sinh đã viết được đoạn văn cảm thụ văn học khá xúc động như sau:
“…Hạt gạo đã tích tụ biết bao chất phù sa màu mỡ đượm đầy sức sống của dịng
sơng Kinh Thầy. Vị phù sa như người mẹ nuôi nấng, chăm sóc từng hạt gạo nhỏ
bé. Lẫn trong phù sa là cả hương vị đài sen thơm bát ngát. Hạt gạo khơng những
chứa đựng sức sống dẻo dai của dịng màu mỡ mà còn nhuốm cả hương thơm

ngọt ngào, cả sự trắng tinh khiết của đoá hoa sen nữa. Hạt gạo quyện lẫn tiếng
hát ngọt bùi ấm êm của người mẹ hiền,của tiếng sáo vi vu trên những cánh đồng
bát ngát trong những buổi chiều lộng gió. Hạt gạo thật đáng quý biết bao!”

b- Kết hợp giữa giờ học với bài học thực tế, tăng cường hoạt động trải
nghiệm
Để góp phần tích cực hóa hoạt động học tập của HS, người ta thường
khuyến khích sử dụng kiểu dạy học thơng qua các hoạt động trải nghiệm, khám
phá, phát hiện của HS, gồm 5 bước chủ yếu:
- Gợi động cơ, tạo hứng thú
- Trải nghiệm
- Phân tích, khám phá, rút ra bài học
- Thực hành
* Trải nghiệm: Để nhận thức được về một đối tượng, một sự việc hay một
vấn đề nào đó, người học phải dựa trên vốn kiến thức, vốn kinh nghiệm đã có từ
trước. Nếu HS khơng có vốn kiến thức cần thiết (có liên quan đến kiến thức
mới), hoặc khơng có những trải nghiệm nhất định thì khơng thể hình thành được
kiến thức mới. Do đó, trong dạy học, người GV cần phải tìm hiểu vốn kinh
nghiệm và những hiểu biết sẵn có của HS trước khi học một kiến thức mới và tổ
chức cho HS trải nghiệm. Sự định hướng và tổ chức các hoạt động của GV là
24


quan trọng, nhưng vốn kiến thức của HS, những trải nghiệm của HS vẫn là yếu
tố quyết định trong việc hình thành kiến thức mới.
* Phân tích, khám phá: Là quá trình xem xét, nhìn nhận, tìm hiểu đối
tượng, sự việc, phát hiện đặc điểm, ý nghĩa của chúng, trên cơ sở đó tìm tịi,
khám phá ý tưởng mới.
* Rút ra bài học: Đúc rút thành bài học, khái niệm, quy tắc lí thuyết hay
thực hành mới .

* Thực hành, vận dụng: Vận dụng điều đã học để giải quyết các tình
huống trong bài học.
Dạy học thơng qua trải nghiệm là cách thức tổ chức q trình dạy học
thơng qua một chuỗi các hoạt động trải nghiệm của người học.Dạy học thơng
qua trải nghiệm khuyến khích tổ chức các hoạt động độc lập, tự học hoặc nhóm
hợp tác của HS, đòi hỏi GV thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập giúp HS tự
phát hiện, phân tích và vận dụng kiến thức. GV sẽ thành cơng hơn nếu có khả
năng sử dụng kiểu quy trình 5 bước. Dưới đây là một số gợi ý cụ thể về việc
thực hiện quy trình 5 bước :
- Bước 1. Gợi động cơ, tạo hứng thú cho HS
+ Kết quả cần đạt: Kích thích sự tị mị, khơi dậy hứng thú của HS về chủ
đề sẽ học; HS cảm thấy vấn đề nêu lên rất gần gũi với mình. Khơng khí lớp học
vui, tị mị, chờ đợi, thích thú.
+ Cách làm: Đặt câu hỏi; Đố vui; Kể chuyện; Đặt một tình huống; Tổ
chức trị chơi… Có thể thực hiện với tồn lớp, nhóm nhỏ, hoặc cá nhân từng HS.
-Bước 2. Tổ chức cho HS trải nghiệm
+ Kết quả cần đạt:Huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm có sẵn của HS để
chuẩn bị học bài mới. HS trải qua tình huống có vấn đề, trong đó chứa đựng
những nội dung kiến thức, những thao tác, kĩ năng để làm nảy sinh kiến thức
mới.
+ Cách làm: Tổ chức các hình thức trải nghiệm gần gũi với HS. Nếu là
tình huống diễn tả bằng lời văn, thì câu văn phải đơn giản, gần gũi với HS. Có
thể thực hiện với tồn lớp, nhóm nhỏ, hoặc cá nhân từng HS.
- Bước 3. Phân tích - Khám phá - Rút ra kiến thức mới
Kết quả cần đạt: HS rút ra được kiến thức, cảm nhận rõ ràng kiến thức đã
học băng quan sát thực tế.
Cách làm: Dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp
HS thực hiện tiến trình phân tích và rút ra bài học.
Có thể sử dụng các hình thức thảo luận cặp đơi, thảo luận theo nhóm,
hoặc các hình thức sáng tạo khác nhằm kích thích trí tị mị, sự ham thích tìm tịi,

khám phá phát hiện của HS... Nên soạn những câu hỏi thích hợp giúp HS đi vào
tiến trình phân tích thuận lợi và hiệu quả.
-Bước 4. Thực hành
Kết quả cần đạt: Học sinh vận dụng được những điều tiếp thu được từ hoạt động
trải nghiệm vào bài học.Có thể giao bài tập áp dụng cho cả lớp, cho từng cá
nhân, hoặc theo nhóm, theo cặp đơi, theo bàn, theo tổ HS.
-Bước 5. Vận dụng
25


×