Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SUY NGHĨ về hệ THỐNG CHÍNH TRỊ xã hội ở VIỆT NAM HIỆN NAY và THỰC TRẠNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ của hệ THỐNG CHÍNH TRỊ cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.75 KB, 18 trang )

SUY NGHĨ VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY VÀ THỰC TRẠNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG,
HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
1. Quan niệm chung về hệ thống chính trị - xã hội
Có thể nói rằng, nếu khơng tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị - xã
hội, khơng thể nhận thức được một cách đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trị
của các thiết chế xã hội hiện đại.
Trong thực tế đời sống chính trị - xã hội ở nước ta, thời gian qua có một
số tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã phát triển thành tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp. Nhưng cho đến nay, giới khoa học pháp lí và chính trị nước ta
mới chỉ đề cập tới hệ thống chính trị với ý nghĩa là hệ thống các thiết chế
chính trị và chính trị - xã hội gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức đoàn thể quần chúng chứ chưa nghiên cứu hệ thống chính
trị - xã hội với ý nghĩa là một hệ thống rộng lớn hơn, trong đó khơng chỉ có
các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội mà cịn có cả một số tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác.
Quan niệm về hệ thống chính trị - xã hội như vậy có ý nghĩa rất quan
trọng trong điều kiện xây dựng và phát huy nền dân chủ, xây dựng nền kinh tế
thị trường và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bởi lẽ, quyền
lực chính trị trong điều kiện hiện nay không chỉ thể hiện vai trị của các thiết
chế chính trị, chính trị - xã hội mà nó cịn có xu hướng chịu ảnh hưởng ngày
càng lớn bởi các thiết chế xã hội. Sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ và nhiều
chiều của các yếu tố kinh tế - xã hội đến kiến trúc thượng tầng chính trị là một
sự tác động mang tính quy luật trong các xã hội hiện đại. Điều này có ảnh
hưởng lớn đối với q trình xây dựng và củng cố nền dân chủ, muốn hay
không, chúng ta cần phải nhận thức được một cách đầy đủ.


Từ suy nghĩ trên, trong phạm vi bài viết này, tơi xin nêu quan niệm của
mình về hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay như sau: Hệ thống
chính trị - xã hội Việt Nam là hệ thống các thiết chế chính trị, chính trị - xã
hội và các thiết chế xã hội khác gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt


Nam, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội rộng lớn của nhân dân; cơ chế vận hành các thiết chế đó dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Quan niệm về hệ thống chính trị - xã hội như thế
được hình thành trên cơ sở gắn kết giữa hai hệ thống thiết chế xã hội là hệ
thống chính trị (hệ thống thiết chế trực tiếp thực hiện quyền lực chính trị) và
hệ thống xã hội. Trong điều kiện xây dựng cơ chế thực hiện và đảm bảo
quyền lực nhân dân ở nước ta hiện nay, sự gắn kết của hai hệ thống ấy thành
một hệ thống lớn là điều có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc và cần được chú
trọng nghiên cứu cả về lí luận và thực tiễn.
Từ trước, chúng ta vẫn nhận thức chung rằng đặc điểm của hệ thống
chính trị nước ta là tính thống nhất cao dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Hệ thống chính trị nước ta khơng phải là hệ thống của các thiết chế
đối lập nhau về lợi ích. Đảng là một thành viên của hệ thống đó nhưng Đảng
giữ vai trị lãnh đạo. Vai trị lãnh đạo của Đảng là một tất yếu lịch sử không
thể phủ nhận... Trong điều kiện hiện nay, nhận thức đó vẫn khơng sai nhưng
chưa hồn tồn đầy đủ. Sự tham gia của các lực lượng xã hội vào hoạt động
chung của hệ thống chính trị - xã hội đã làm thay đổi tính chất thuần nhất của
hệ thống chính trị truyền thống. Kết quả hoạt động của cả hệ thống này là sản
phẩm của sự tương tác (tác động qua lại) về chính trị - xã hội rất đa dạng.
Trong tính thống nhất của lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn có sự đa dạng và
phong phú về lợi ích của những nhóm xã hội khác nhau. Nền chính trị hiện
đại không thể là sản phẩm của riêng hệ thống chính trị như quan niệm truyền
thống mà tất yếu phải là kết quả của cả hệ thống chính trị - xã hội, trong đó


lợi ích vẫn là động lực chính quy định và thúc đẩy hoạt động của mỗi nhóm
xã hội. Như thế, để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, cần đổi mới mạnh mẽ
phương thức hoạt động của Đảng đồng thời nêu cao vai trò của tất cả các thiết
chế trong tồn bộ hệ thống chính trị - xã hội đó.

Đặc trưng của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam như vừa nêu phản
ánh tính riêng biệt và cả tính phổ biến của hệ thống chính trị - xã hội nước ta
trong mối liên hệ so sánh với hệ thống chính trị - xã hội các nước trên thế
giới. So với hệ thống chính trị trước đây, chúng ta đã ghi nhận sự hiện diện
của các thiết chế xã hội, của quyền lực xã hội trong một hệ thống chung là hệ
thống chính trị - xã hội (Việc khẳng định mối liên hệ thống nhất hữu cơ giữa
các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội với các thiết chế xã hội trong cùng
một hệ thống như vậy có thể được coi là điểm mới trong nhận thức về chính
trị của chúng ta ở giai đoạn hiện nay hay không, tác giả xin được tiếp tục trao
đổi cùng bạn đọc trong những nghiên cứu ở một phạm vi khác).
Với cách nhận thức thống nhất giữa quyền lực chính trị và xã hội,
chúng ta có thể xác định được cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt
Nam. Hệ thống đó gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
quần chúng và các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân.
Trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với
cấu trúc của hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức
xã hội rộng lớn của nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội... Tuy
không trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước
nhưng trong điều kiện của nền dân chủ XHCN, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động ngày càng to lớn đến đời
sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đảng, Nhà nước khơng quản lí trực tiếp
đối với các tổ chức này nhưng có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức đó.


Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và
thực thi tốt hay khơng, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và
lợi ích của các thành viên tổ chức hiệp hội, khơng thể khơng tính đến vai trị
và sự tác động tích cực của các tổ chức xã hội. Với ý nghĩa đó thì có thể quan
niệm, các tổ chức xã hội được coi là hệ thống phản biện của hệ thống chính
trị. Hoạt động tư vấn, giám định và phản biện xã hội đối với đường lối, chủ

trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải được coi là hoạt
động cơ bản và thể hiện sinh động nhất vai trị mới, rất tích cực của các tổ
chức hiệp hội kinh tế - xã hội. Do vậy, cơ chế chính trị - pháp lí để vận hành
mối liên hệ giữa hệ thống chính trị và hệ thống xã hội như đã nêu cũng được
xác định là thành tố cơ bản trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt
Nam hiện nay.

2. Các thiết chế trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam – Đặc điểm,
vai trị
Trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay có thể
phân biệt ba loại thiết chế là:
- Tổ chức chính trị (Đảng cộng sản Việt Nam), Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam;
- Tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng
như Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Cơng đồn, Hội nơng dân, Hội
cựu chiến binh; và một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp như Liên
hiệp các hội khoa học, kĩ thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội hữu nghị Việt
Nam, Hội nhà báo Việt Nam...


- Tổ chức xã hội: Các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp
và các tổ chức xã hội khác...
Các tổ chức chính trị - xã hội thống nhất giữa hai mặt chính trị và xã
hội. Điều này thể hiện sự tập hợp đoàn kết các lực lượng quần chúng đông
đảo để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phương thức
tổ chức và hoạt động của các tổ chức này tuy khác với tổ chức Đảng và các cơ
quan nhà nước nhưng đều gắn chặt với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
do Đảng và Nhà nước giao phó. Các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tổ
chức động viên, triển khai nguồn lực con người cho các mục tiêu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc do Đảng lãnh đạo, Nhà nước thống

nhất quản lí. Cùng với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hợp
thành hệ thống chính trị Việt Nam, trong đó Đảng giữ vai trị và trọng trách là
người lãnh đạo trực tiếp. Trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, với tính
chất chính trị và tính chất xã hội rộng lớn, các tổ chức chính trị - xã hội đóng
vai trị là người tổ chức, vận động đông đảo quần chúng nhân dân thực hiện
các nhiệm vụ đặt ra đối với cách mạng Việt Nam thơng qua những hình thức
phù hợp.
Mỗi loại tổ chức chính trị - xã hội lại có vai trị riêng, chẳng hạn Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị - tổ chức liên hiệp tự nguyện của
các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp
xã hội, các dân tộc, tôn giáo; là tổ chức đại diện cho ý chí đại đồn kết và
nguyện vọng chân chính của nhân dân; nơi tập hợp trí tuệ của con người Việt
Nam yêu nước, nơi thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, phối
hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng
của các tầng lớp nhân dân; giám sát, bảo vệ, tham gia xây dựng nhà nước,
quản lí xã hội. Mặt trận Tổ quốc có chức năng tham chính, tham nghị và giám
sát; đoàn kết nhân dân, chăm lo đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện


dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối
liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng
lớn của giai cấp cơng nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự
nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đồn kết lực lượng, xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt
Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tổng Liên đồn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính
chất giai cấp cơng nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của cơng nhân viên chức lao động; tham gia quản lý

Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục, động viên công nhân viên chức
lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội tập
hợp tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội hậu bị của
Đảng. Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu hết
các cơ quan, đơn vị, tổ chức từ trung ương đến cơ sở nhằm thu hút thế hệ trẻ
vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức tơn
trọng pháp luật cho đoàn viên thanh niên.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giới nữ,
có chức năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng.
Hội đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương,


chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nơng
dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Hội nông dân Việt Nam vận động giáo dục hội viên, nơng dân phát huy
quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt; đại
diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; chăm lo bảo vệ
các quyền và lợi ích của nơng dân Việt Nam.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam là đồn thể chính trị - xã hội, thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,
một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp
luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội. Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết,

tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất,
truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ,
bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ
nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.
Ngoài các tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng được coi là
tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam
(VUSTA), Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam,
Hội Chữ thập đỏ Việt Nam... Đây là điểm có ý nghĩa rất quan trọng đồng thời
cũng là một xu hướng phát triển của các thiết chế xã hội trong thời kì đổi mới,
nhất là ở giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Một số hội nghề nghiệp, hội của các nhà trí thức, các nhà khoa học,
khơng chỉ đơn thuần mang tính chất đồn thể xã hội mà các tổ chức này cũng


đóng vai trị to lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Hơn bao giờ hết, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang động viên và phát huy
cao độ vai trị của đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các doanh nhân trong
việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách phát triển đất nước. Có thể
nói rằng đó là xu hướng tất yếu trong quá trình xây dựng và củng cố nền dân
chủ XHCN ở Việt Nam mà một trong những biểu hiện có tính đặc trưng là sự
tác động tương hỗ dẫn đến sự hài hịa hóa giữa các yếu tố chính trị và kinh tế
- xã hội.
Như vậy, có thể nhận thấy rõ rằng trong hệ thống chính trị - xã hội Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trị vừa là trung tâm đồn kết, tập
hợp đông đảo các lực lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã hội), đại diện
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên vừa thực
hiện vai trị nền tảng chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức động viên
nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
So với các tổ chức xã hội khác, vai trò này của các tổ chức chính trị - xã hội

có tính trực tiếp hơn trong việc phục vụ sự nghiệp cách mạng theo đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bên cạnh các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội truyền thống và những
tổ chức xã hội đã và đang phát triển thành tổ chức chính trị - xã hội như nêu
trên, trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam cịn có hàng trăm tổ chức xã
hội khác. Các tổ chức xã hội loại này đang ngày càng nhiều và gồm các hình
thức tổ chức phong phú như các hiệp hội kinh tế, hội nghề nghiệp, các hội
quần chúng tập hợp theo sở thích, ý nguyện, các tổ chức hoạt động tương trợ
xã hội khơng nhằm mục đích lợi nhuận... Đặc điểm chung của các tổ chức xã
hội là tính phi chính trị và phi lợi nhuận. Điều này có nghĩa, các tổ chức này
hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, bảo vệ và phát triển
lợi ích chung của các thành viên. Các tổ chức này về bản chất sinh ra không
phải để trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.


Bên cạnh tính phong phú, đa dạng là đặc điểm lớn của các tổ chức xã
hội, các tổ chức xã hội cịn có một đặc điểm khác là ngày càng xuất hiện sự
liên kết, tập hợp các lực lượng lớn hơn trên cơ sở những sự tương đồng về lợi
ích và ý nguyện. Đó cũng là xu thế khách quan của xã hội dân sự mà chúng ta
cần biết phát huy điểm tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.
Ngày nay, vai trò của các tổ chức xã hội đang dần được xác định một
cách đúng đắn hơn trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một xã hội dân sự. Không phải chỉ bây
giờ mà từ rất xa xưa, việc quản lí xã hội trước hết và phần lớn vốn thuộc về
chức năng của các tổ chức xã hội (trong đó có cả gia đình). Trong xã hội hiện
đại cũng cần phải như vậy, với tư duy “nhà nước nhỏ, xã hội lớn” thì vị trí của
các tổ chức xã hội được mơ hình hố như một “cái bệ đỡ” lớn, vững chắc cho
sự tồn tại của các thiết chế chính trị là Đảng, Nhà nước. Gốc có to, cây mới
vững bền, đó là một triết lí đơn giản nhưng đầy ý nghĩa đối với hệ thống
chính trị - xã hội Việt Nam.

Trong điều kiện hiện nay, điều đáng chú ý là các hội nghề nghiệp, hiệp
hội kinh tế ngày càng có vị trí, vai trị quan trọng. Và theo nguyên lí về mối
liên hệ giữa kinh tế với chính trị thì các tổ chức hội đồn kinh tế sẽ tác động
mạnh mẽ đến đời sống chính trị, luật pháp của nước ta theo cả hai chiều
hướng tích cực và tiêu cực. Đó cũng là xu hướng có tính khách quan trong sự
phát triển của nền dân chủ hiện nay. Điều này dù không trực tiếp quyết định
thể chế chính trị, luật pháp nhưng việc ban hành và thực thi chính sách, pháp
luật khơng thể khơng tính đến nhu cầu, lợi ích cũng như vai trị tư vấn, phản
biện, giám định xã hội hay sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, các hiệp hội kinh tế vào q trình đó.
Như vậy, trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, các tổ chức xã hội
đóng vai trị năng động tích cực hơn so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập


trung. Các tổ chức xã hội không phải là kênh biệt lập với hệ thống chính trị
mà ngày càng tham gia mạnh mẽ, tác động lớn lao đến kết quả hoạt động của
hệ thống chính trị. Vì thế có thể quan niệm rằng hệ thống xã hội là hệ thống
phản hồi với hệ thống chính trị, giám sát hoạt động của hệ thống chính trị.
Nếu nhìn từ góc độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì cả hai hệ thống chính trị
và hệ thống các tổ chức xã hội đều là những kênh thực hiện quyền lực nhân
dân. Hệ thống chính trị tác động đến xã hội trên cơ sở quyền lực giai cấp - xã
hội, đảm bảo sự định hướng và dẫn dắt, điều hành sự phát triển của cả xã hội.
Do đó, hệ thống chính trị đảm bảo tính thống nhất của ý chí, nguyện vọng và
quyền lực nhân dân. Hệ thống xã hội đảm bảo tính nhân bản và tính đa dạng
của đời sống xã hội. Hệ thống xã hội không phải là hệ thống thụ động chịu sự
tác động của hệ thống chính trị, phụ thuộc hồn tồn vào hệ thống chính trị
mà cũng có vai trị, trách nhiệm chung với sự phát triển tồn diện của đất
nước. Cả hai hệ thống đó khơng thể thiếu vắng và thay thế vai trò cho nhau.
Nếu hệ thống này khơng tốt thì tất yếu dẫn đến sự bấp cập của hệ thống kia và
ngược lại. Vì vậy, cả hai hệ thống chính trị và hệ thống xã hội hòa hợp thành

thể thống nhất được gọi là hệ thống chính trị - xã hội. Tuy nhiên, điểm cần
chú ý trong mối liên hệ biện chứng giữa hai hệ thống này là nếu hệ thống
chính trị khơng có mục đích tự thân thì ngược lại hệ thống xã hội trong khi
hoạt động vì mục tiêu cho chính hệ thống mình (mang tính xã hội) có nhu cầu
và mong muốn tác động đến hệ thống chính trị một cách tự nhiên. Thành ra,
dù khác nhau về phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động nhưng nhìn
tổng thể mục tiêu của cả hai hệ thống cuối cùng đều thống nhất ở chỗ vì con
người, vì một xã hội tốt đẹp.
Điều có ý nghĩa quan trọng có thể rút ra qua những phân tích trên đây
là vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội đối với sự
hình thành và phát triển của tồn bộ hệ thống chính trị - xã hội của đất nước
đã tạo cơ sở khách quan cho các hoạt động tham gia hay phản hồi của các tổ


chức này đến hệ thống chính trị: Đảng và Nhà nước. Đó có thể là các loại hoạt
động khác nhau như tư vấn, giám định, phản biện xã hội...
Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống
chính trị cơ sở
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, hệ thống hành chính của Nhà
nước ta hiện nay có bốn cấp, gồm: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp
xã, trong đó cấp xã (gồm xã, phường, thị trấn) được xác định là cấp cơ sở.
Hệ thống chính trị cấu thành bởi ba bộ phận, gồm: tổ chức đảng, tổ
chức chính quyền, tổ chức mặt trận và các đồn thể chính trị - xã hội. Ba bộ
phận này có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau và mỗi bộ phận có vai
trị, vị trí riêng được thể hiện trong cơ chế tổ chức và phương thức hoạt động
của từng bộ phận. Với vai trò, vị trí và tầm quan trọng của cơ sở, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, coi
việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở là một nhiệm
vụ quan trọng, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, tăng cường
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền và phát huy quyền làm

chủ của nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
I. Thực trạng của hệ thống chính trị cơ sở
Tính đến tháng 12/2012, cả nước ta có 11.120 xã, phường, thị trấn
(9.048 xã, 1.450 phường, 622 thị trấn). Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5 (khóa IX) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính
trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, trên các lĩnh vực tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị ở xã, phường, thị trấn đã đạt được một số kết quả quan trọng.
1. Về nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng


Với vai trò là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị cơ sở, các đảng
bộ, chi bộ ở xã, phường, thị trấn đã nhận thức và xác định rõ vai trị, vị trí,
chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị; đồng thời đảm
bảo vai trị lãnh đạo tồn diện trên mọi lĩnh vực ở cơ sở. Nhiều cấp ủy đã thực
sự đổi mới nội dung, quy trình và xác định được những vấn đề trọng tâm,
trọng điểm trong việc ban hành các nghị quyết. Phương thức lãnh đạo của cấp
ủy đã khắc phục một bước tình trạng bao biện làm thay cơng việc của chính
quyền, hoặc bng lỏng vai trị lãnh đạo. Nhiều tỉnh ủy, thành ủy và đảng ủy
trực thuộc Trung ương đã tập trung chỉ đạo có hiệu quả việc xây dựng tổ chức
cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; quan tâm củng cố các tổ chức cơ sở đảng
yếu kém; kịp thời biểu dương, khen thưởng những đơn vị trong sạch, vững
mạnh tiêu biểu và đảng viên xuất sắc. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở
đảng và đảng viên hàng năm đã đi vào nền nếp. Các cấp ủy đảng đã thực hiện
việc lấy ý kiến đóng góp của các đoàn thể và đại diện nhân dân ở nơi cư trú.
Việc thực hiện thí điểm nhất thể hố chức danh bí thư cấp ủy kiêm chủ tịch ủy
ban nhân dân ở nhiều địa phương đang phát huy hiệu quả.
2. Tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở
Chính quyền cơ sở bao gồm: Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban
nhân dân (UBND). Trong tổ chức và hoạt động của HĐND, hầu hết các xã,
phường, thị trấn đều đảm bảo họp đúng định kỳ theo luật định; chất lượng các

kỳ họp từng bước được nâng lên. Nhiều nơi đã tổ chức được các cuộc giám
sát chuyên đề có trọng tâm, trọng điểm; cơng tác thẩm tra các báo cáo, tờ
trình của UBND tại các kỳ họp của HĐND đảm bảo tính khách quan, trung
thực. Theo kết quả đánh giá hoạt động của HĐND cấp xã nhiệm kỳ 20062011, hầu hết các xã, phường, thị trấn đều đảm bảo đúng luật, chất lượng hoạt
động được nâng lên so với các nhiệm kỳ trước.


Hoạt động của UBND đã phát huy hiệu quả công tác quản lý, điều hành
theo pháp luật. Hầu hết UBND các xã, phường, thị trấn đã ban hành quy chế
làm việc. Phong cách, ý thức trách nhiệm, lề lối làm việc của cán bộ, công
chức, nhất là cán bộ chủ chốt có sự chuyển biến tích cực theo hướng sát dân,
phục vụ nhân dân, từng bước khắc phục tình trạng sách nhiễu, phiền hà nhân
dân. Công tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công
dân đạt tỷ lệ cao. Việc thực hiện pháp lệnh, quy chế dân chủ ở cơ sở đã đem
lại kết quả tốt. Công tác thanh tra nhân dân ở các địa phương thực hiện có
hiệu quả, đã kiến nghị với chính quyền giải quyết tốt các đơn khiếu nại, tố
cáo, hạn chế các đơn thư tồn đọng kéo dài. Hầu hết các thôn, bản đã xây dựng
được quy ước, hương ước và thực hiện có nề nếp; nhiều tỉnh, thành phố có
100% số xã, phường, thị trấn đã bầu ban giám sát đầu tư cộng đồng. Công tác
cải cách thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” của cấp xã đã phát huy hiệu
quả, giải quyết kịp thời các nhu cầu về thủ tục hành chính cho nhân dân địa
phương.
3. Cơng tác mặt trận và các đồn thể
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đã xây dựng được
quy chế hoạt động, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và từng bước đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của
nhân dân. Ở nhiều cơ sở, Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp tốt với các ngành,
đoàn thể thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư” và các hoạt động từ thiện, đền ơn đáp nghĩa; phát huy vai
trị tham gia xây dựng chính quyền, thực hiện cơng tác giám sát, kiểm tra hoạt

động của chính quyền, nhất là đối với các địa phương đang thực hiện thí điểm
không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Trong các kỳ bầu cử HĐND,
Mặt trận Tổ quốc đã thể hiện tốt vai trị hiệp thương, giới thiệu đại biểu có đủ
điều kiện, tiêu chuẩn vào bộ máy của chính quyền, đảm bảo cho chính quyền
hoạt động có hiệu quả.


Trong những năm gần đây, Mặt trận Tổ quốc ở các địa phương đã thực
hiện việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ tịch, phó chủ
tịch HĐND, UBND cấp xã nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt ở cơ sở.
Hoạt động hoà giải của Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở cũng góp phần giải
quyết những mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân, giảm đáng kể các
“điểm nóng” và tình trạng đơn thư khiếu nại vượt cấp.
4. Cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
Với nhận thức về tầm quan trọng của cán bộ, là “cái gốc của mọi công
việc”, từ nhiều năm qua cấp ủy đảng và chính quyền ở các địa phương đã
quan tâm tới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nhất là đào tạo chuẩn
hố về trình độ lý luận chính trị, trình độ chun mơn, nghiệp vụ, nhằm đảm
bảo cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới. Do vậy, đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đã được phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Tính đến cuối năm 2012, cả nước có gần
250.000 cán bộ, cơng chức cơ sở, bình qn mỗi xã, phường, thị trấn có 20
cán bộ; đồng thời đã chuẩn hố theo quy định được trên 70% trong tổng số
cán bộ, công chức. Công tác luân chuyển, tăng cường cán bộ cấp trên về làm
bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã để thay thế số cán bộ
hạn chế về trình độ, năng lực hoặc đưa cán bộ chủ chốt đi luân chuyển để có
thêm thực tiễn công tác, đủ điều kiện cho công tác bổ nhiệm, đề bạt đã được
các địa phương tích cực quan tâm. Để thực hiện trẻ hoá và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, nhiều địa phương có chính sách thu

hút trí thức trẻ, tuyển dụng những sinh viên đã tốt nghiệp các trường cao
đẳng, đại học về công tác ở xã, phường, thị trấn. Đặc biệt, trong năm 2012,
Bộ Nội vụ đã hoàn thành Đề án đưa 600 sinh viên đã tốt nghiệp đại học về
làm phó chủ tịch UBND xã thuộc 62 huyện nghèo trong cả nước.


Bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua trong hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở cịn nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Chức năng, nhiệm vụ
của các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách
nhiệm không rõ ràng; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới và
chưa đồng bộ, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp.
Một số nơi sự phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa chặt
chẽ, hiệu quả hoạt động chưa cao. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
một số tổ chức cơ sở đảng còn yếu, nhất là năng lực vận dụng các chủ trương,
nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước vào tình hình cụ thể của địa
phương. Hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền một số nơi chưa cao;
trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức cấp xã, nhất là các xã
vùng cao, vùng đồng bào dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ sở một số địa phương chưa thực sự
được quan tâm; nội dung, chương trình đào tạo chưa phù hợp với cơng việc ở
cơ sở, cịn chạy theo bằng cấp. Hoạt động của các đồn thể chính trị ở một số
nơi cịn mang tính hình thức, chưa thiết thực; cịn biểu hiện hành chính hóa
trong hoạt động. Cơng tác kiểm tra nắm tình hình cơ sở ở một số địa bàn chưa
thường xuyên, sâu sát, dẫn đến việc phát hiện và xử lý các vấn đề nảy sinh ở
cơ sở cịn bị động. Cơng tác phát triển đảng viên ở cơ sở chưa được quan tâm
đúng mức; một số vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc chi bộ ghép ở
các thơn, bản cịn nhiều. Nội dung và hình thức sinh hoạt chi bộ cịn đơn điệu,
việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm chưa
phản ánh đúng thực chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên ở cơ sở suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nói khơng đi đơi với làm. Chế độ, chính

sách đối với cán bộ cơ sở còn bất cập; cơ sở hạ tầng và điều kiện làm việc
nhiều nơi cịn khó khăn, nhất là các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc…


II. Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống chính
trị cơ sở
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, góp phần bảo đảm ổn định chính trị xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững
quốc phòng - an ninh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, xin đề
xuất một số giải pháp nhằm đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức
trong hệ thống chính trị cơ sở. Cụ thể:
Một là, các đảng bộ, chi bộ ở xã, phường, thị trấn cầnnâng cao nhận
thức và thực hiện đúng vai trò hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị ở cơ
sở. Đảng lãnh đạo phải bằng chủ trương, định hướng, không bao biện làm
thay công việc của chính quyền; phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần
trách nhiệm trong việc thực hiện đường lối của Đảng. Đổi mới phương thức
lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ, trước hết là đổi mới việc ra nghị quyết và chỉ
đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng; đa dạng hóa các nội dung sinh hoạt
của các tổ chức cơ sở đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường
công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên ở cơ sở.
Hai là, đối với chính quyền cơ sở xã, phường, thị trấn, cần có mơ hình
tổ chức hợp lý, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Không tổ chức HĐND
ở phường theo kết quả thực hiện thí điểm ở 10 tỉnh, thành phố trong cả nước;
đồng thời, xác định rõ mơ hình chính quyền đơ thị và chính quyền nơng thơn
đối với xã, phường, thị trấn để có cơ chế quản lý phù hợp với đối tượng quản
lý. Phát huy mạnh mẽ vai trị của cơ quan hành chính trong việc mở rộng và
thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân

bàn, dân làm, dân kiểm tra. Mọi hoạt động của cơ quan hành chính ở cơ sở


phải hướng vào mục tiêu phục vụ dân; giải quyết đúng đắn và nhanh chóng
các cơng việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán
bộ, cơng chức cơ sở có phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và
có trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Phát huy
vai trò tự quản trong cộng đồng dân cư của tổ chức thôn, buôn, khu phố.
Ba là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng, đa dạng hố
các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi
ích thiết thực, chính đáng và hợp pháp của nhân dân. Phát huy vai trò tham
gia xây dựng chính quyền, giám sát các hoạt động của chính quyền, nhất là
đối với các phường không tổ chức HĐND; nâng cao chất lượng phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Mở rộng, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật. Có cơ chế để
nhân dân tham gia, giám sát các hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, chính
quyền và các đồn thể nhân dân một cách thiết thực; tăng cường khối đại
đoàn kết tồn dân, nhất là ở những nơi có đơng đồng bào có đạo, đồng bào
dân tộc ít người. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chế, quy định
và làm rõ mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Đẩy
mạnh thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư”, kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong nội
bộ nhân dân, không để những mâu thuẫn nhỏ tích tụ lâu ngày trở thành “điểm
nóng”.
Bốn là, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống chính
trị cấp cơ sở. Có cơ chế tuyển dụng những trí thức trẻ có đủ tiêu chuẩn về
phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chun mơn vào các cơ quan của
Đảng, chính quyền và các đồn thể chính trị - xã hội. Quan tâm xây dựng đội
ngũ cán bộ cơ sở, nhất là vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào

dân tộc ít người. Thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ


cán bộ, công chức trong các tổ chức của hệ thống chính trị cơ sở; đồng thời đi
đơi với việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với chức danh,
công việc của cán bộ, công chức cơ sở.
Năm là, đối với những cơ sở yếu kém, phức tạp, có biểu hiện vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân và có nhiều đơn thư, khiếu nại, tố cáo hoặc có
diễn biến phức tạp về chính trị - xã hội, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể cần theo dõi, nắm chắc mọi diễn biến để đánh giá đúng
tình hình; tiến hành thanh tra, kiểm tra, kết luận rõ đúng, sai và xử lý nghiêm
những cán bộ, đảng viên sai phạm, đồng thời có giải pháp cụ thể, thiết thực để
sửa chữa, khắc phục, tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động ở các tổ
chức cơ sở đảng và cộng đồng dân cư; kịp thời giải quyết những kiến nghị
chính đáng của nhân dân.
Sáu là, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho
hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là đảm bảo các điều kiện làm việc
cho bộ phận “một cửa” theo chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ
giai đoạn 2011-2020, nhằm đáp ứng với tình hình nhiệm vụ của thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế



×