Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Một số kinh nghiệm trong công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn đạt hiệu quả tại trường THPT Nguyễn Quang Diêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.07 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG THPT
NGUYỄN QUANG DIÊU

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Tân Châu, ngày 21 tháng 12 năm 2019

BÁO CÁO
Kết quả thực hiện sáng kiến
“Một số kinh nghiệm trong công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Ngữ Văn đạt hiệu quả tại trường THPT Nguyễn Quang Diêu”
I. Sơ lược lý lịch tác giả:
- Họ và tên: Phùng Cẩm Sa
Nam, nữ: Nữ
- Ngày tháng năm sinh: 11- 04-1982
- Nơi thường trú: ấp Long Hiệp, xã Long An, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang
- Đơn vị công tác: THPT Nguyễn Quang Diêu
- Chức vụ hiện nay: Tổ trưởng chuyên môn
- Lĩnh vực công tác: giảng dạy Ngữ Văn
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
1. Thuận lợi:
- Ban giám hiệu nhà trường có sự quan tâm sâu sát đến hoạt động dạy và học,
luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh bồi dưỡng nghiên cứu học tập,
thực hành rèn luyện.
- Các giáo viên trong tổ đều trẻ, nhiệt huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm
cao trong cơng tác, có trình độ chun mơn vững vàng, tích cực hăng hái thi đua, tham
gia các phong trào, có tinh thần cầu tiến, tận tâm tận lực với học sinh.
- Tập thể tổ có tinh thần đồn kết, biết giúp đỡ hỗ trợ đồng nghiệp trong cơng
tác; tích cực trao đổi chun mơn học tập để cùng nhau tiến bộ.
- Cơ sở vật chất của trường khá đầy đủ, có mơi trường tự học tốt giúp GV và


HS có nhiều thuận lợi trong hoạt động bồi dưỡng.
- Đa số học sinh có nền nếp học tập tốt, cần cù, siêng năng, biết vươn lên hồn
cảnh khó khăn để đạt kết quả tốt.
2. Khó khăn:
- Phần lớn học sinh đều là con em ở vùng nơng thơn, kinh tế gia đình cịn khó
khăn nên trang bị sách tham khảo, đầu tư cho việc tự học còn rất hạn chế.
- Thời lượng học tập ở buổi chính khóa cịn nhiều, dẫn đến giáo viên và học
sinh bồi dưỡng chưa có nhiều trống để đầu tư, luyện tập.
- Nhiều gia đình học sinh ở nơng thơn ít quan tâm theo dõi việc học tập cũng
như sinh hoạt vui chơi của con em, đa số phó mặc cho nhà trường. Điều đó đã gây ảnh
hưởng khơng nhỏ đến sự hình thành và phát triển nhân cách các em.
1


- GV bồi dưỡng đơi khi cịn kiêm nhiệm nhiều cơng tác khác như: TTCM,
GVCN…, vẫn phải hồn thành tốt mọi cơng việc mà BGH đã phân cơng, vì thế gây
khó khăn cho hoạt động bồi dưỡng.
*Tên sáng kiến: “Một số kinh nghiệm trong công tác quản lý hoạt động bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn đạt hiệu quả tại trường THPT Nguyễn Quang
Diêu”
* Lĩnh vực: Quản lý.
III- Mục đích yêu cầu của đề tài sáng kiến:
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến:
Trường THPT Nguyễn Quang Diêu được thành lập năm 2006 với 26 cán bộ, biên
chế có 01 tổ văn phịng và 02 tổ chuyên môn: tự nhiên và xã hội. Cơ sở vật chất phải
mượn tạm trường THCS Tân An, trường Tiểu học “A” Tân An và Trung tâm dạy nghề
Tân Châu để hoạt động và giảng dạy. Đến năm học 2009 – 2010, trường mới chính thức
có cơ sở riêng khang trang hơn, tuy nhiên cơ sở vật chất và thiết bị dạy học chưa đủ đáp
ứng được hoạt động dạy và học. Sân trường cây xanh chưa phủ khắp, phòng học chưa
trang bị nhiều màn hình LCD để giáo viên ứng dụng CNTT, thư viện nhà trường thiếu

rất nhiều nguồn sách cho học sinh và thầy cô nghiên cứu, tham khảo,....Những khó khăn
ấy đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến hoạt động giáo dục của nhà trường.
Tập thể tổ Ngữ Văn chỉ có 5 giáo viên, tất cả tuổi đời tuổi nghề đều chưa cao,
kinh nghiệm giảng dạy còn nhiều hạn chế, chưa có ai đã từng kinh qua việc bồi dưỡng
học sinh giỏi. Dù vậy, tổ cũng có nhiều thuận lợi do đội ngũ giáo viên trẻ nên rất nhiệt
huyết, hăng hái thi đua lập thành tích, cố gắng phấn đấu để hồn thành tốt nhiệm vụ
được phân cơng. Riêng bản thân tiếp nhận chức vụ tổ trưởng chuyên môn vào năm học
2011-2012 nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong cơng tác quản lý điều hành. Công
việc mới bắt đầu phải vừa học tập kinh nghiệm người đi trước vừa tích lũy từ thực tiễn
dạy học và quản lý tổ. Ban đầu, bản thân chỉ quan tâm những biện pháp nhằm thúc đẩy
quá trình học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn chứ chưa chú
trọng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, dẫn đến chất lượng giáo dục mũi nhọn của nhà
trường chưa cao.
Mặt khác, địa bàn của trường là khu vực nông thôn, nhiều phụ huynh chưa chú
trọng đầu tư học tập cho con em của mình; chất lượng học sinh đầu vào thấp; khả năng
tự học của học sinh chưa cao, các em vẫn còn ỷ lại và trông chờ vào giáo viên. Nhiều
học sinh giỏi nổi bật của trường lại có xu hướng đi thi các ngành nghề thuộc khối tự
nhiên nên chẳng mặn mà đối với môn Ngữ Văn, nhiều em băn khoăn: “Bồi dưỡng vất
vả trong thời gian dài liệu có đạt kết quả, thay vào đó hãy dành thời gian cho khối thi
mà mình đã chọn vào các trường Đại học, Cao đẳng”. Chính vì vậy, cơng tác chiêu
sinh đội tuyển học sinh giỏi đúng tiêu chuẩn phải có thực lực, có niềm đam mê và
nhiệt huyết của giáo viên gặp rất khó khăn.
Đội ngũ trong tập thể tổ đều trẻ, thâm niên nghề cũng như kinh nghiệm trong
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi chưa nhiều, lực lượng có năng lực chun mơn sâu
cịn mỏng gây khó khăn trong cơng tác lựa chọn giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi. Vả
2


lại, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả phải mang tính q trình, bền bỉ và
lâu dài, tuy nhiên tập thể tổ chưa có phương pháp tổ chức phù hợp, kế hoạch bồi

dưỡng cịn mang tính thời vụ, chưa theo một lộ trình đi từ dưới lên trên. Nhiều giáo
viên được phân cơng cịn rất e ngại, xem đó là gánh nặng bởi khi tham gia bồi dưỡng
người dạy phải dành rất nhiều thời gian, tâm sức và cả áp lực về hiệu quả cuối cùng
của công tác bồi dưỡng. Nếu đạt kết quả tốt sẽ được khen thưởng theo quy định và
được tham gia xét những thành tích cấp tỉnh. Ngược lại, nếu khơng có kết quả thì giáo
viên ít nhiều cũng cảm giác nặng nề, mặc cảm với mọi người. Chính vì vậy, tổ rất ít
giáo viên chịu tham gia công tác bồi dưỡng bồi dưỡng học sinh giỏi.
Chính từ những thực trạng đó, chất lượng đạt học sinh giỏi cấp tỉnh ở bộ môn
Ngữ Văn trước đây chưa mang tính ổn định. Cụ thể kết quả qua các năm:
Năm học

2007 – 2008

2008 – 2009

2009 – 2010

2010-2011

HSG cấp
tỉnh

0

0

0

04


2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, tư tưởng của Thân Nhân Trung đã nhấn
mạnh vai trò của các hiền tài đối với sự phát triển hưng thịnh của một đất nước. Ở thời
đại nào đất nước cũng cần người có tài, có đức để góp phần xây dựng tổ quốc giàu,
đẹp. Vì vậy, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo luôn được xem là quốc sách
hàng đầu. Trong đó, cơng tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi là một công tác mũi
nhọn nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn lực, bồi dưỡng nhân tài cho nhà trường nói
riêng và cho địa phương nói chung.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một cơng việc khó khăn và lâu dài, địi hỏi nhiều
cơng sức của thầy và trị. Sự quan tâm, khích lệ kịp thời của cấp trên và biện pháp tổ
chức, quản lý hoạt động bồi dưỡng phù hợp sẽ đạt hiệu quả tích cực, qua đó góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn cho nhà trường và tạo được uy tín của tập thể
tổ trong đơn vị và trong cụm Hội đồng bộ môn.
Với trách nhiệm người quản lý tổ chuyên mơn Văn, bản thân nhận thấy cần có
giải pháp nhằm khắc phục những thực trạng trên để mang lại chất lượng tốt nhất có thể
cho tổ và cho chất lượng giáo dục chung của nhà trường. Phát huy những thuận lợi, thế
mạnh của tổ là giáo viên trẻ, rất nhiệt huyết, hăng hái trong phong trào thi đua, mong
muốn tạo những thành tích cho mình và cho tổ nên về góc độ quản lí, tơi rất mạnh dạn
tạo điều kiện cho những giáo viên có trình độ, năng lực chun mơn tốt và có tinh thần
trách nhiệm tham gia cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
Bên cạnh đó, BGH nhà trường đã xây dựng kế hoạch tổ chức phong trào học
sinh tự học vào các giờ tiết trống; đồng thời xếp thời khóa biểu cho học sinh lên thư
viên đọc sách, nghiên cứu và trang bị thêm phòng đọc mạng cho các em có điều kiện
sưu tầm kiến thức. Đây là những thuận lợi giúp giáo viên và học sinh bồi dưỡng trui
rèn kiến thức, kĩ năng làm bài và từ đó mang lại hiệu quả tốt cho cơng tác bồi dưỡng.

3


Với vai trị của người làm cơng tác tổ chức, quản lí hoạt động tổ chun mơn

Ngữ Văn cùng với kinh nghiệm của người đã từng tham gia công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi Văn, tôi xin chia sẻ đề tài sáng kiến: “Một số kinh ngiệm trong công tác
quản lí hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi mơn Ngữ Văn đạt hiệu quả tại trường
THPT Nguyễn Quang Diêu” nhằm góp phần giúp cho những người quản lí có biện
pháp tổ chức, đào tạo được HSG có chất lượng, qua đó nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước.
3. Nội dung sáng kiến:
3.1. Thời gian thực hiện: Từ năm 2014-2015 đến nay
3.2. Biện pháp tổ chức:
3.2.1. Công tác tuyển chọn giáo viên và học sinh bồi dưỡng:
a. Đối với giáo viên:
- Ý nghĩa: Người thầy có vai trị rất quan trọng trong việc dẫn dắt, định hướng
cho học sinh học tập. Muốn trò giỏi trước hết phải gặp được thầy giỏi. Vì vậy, việc lựa
chọn phân cơng giáo viên bồi dưỡng phù hợp sẽ đem lại kết quả tốt khơng chỉ cá nhân
giáo viên mà cịn cho tập thể tổ. Việc lựa chọn giáo viên bồi dưỡng còn góp phần tạo
điều kiện thuận lợi cho giáo viên có cơ hội phát huy hết tiềm năng của bản thân và hun
đúc tinh thần thi đua lập thành tích trong tập thể tổ. Lòng tự trọng nghề nghiệp sẽ giúp
cho giáo viên không ngừng học tập, bồi dưỡng để nâng cao tay nghề, từ đó góp phần
nâng cao chất lượng chuyên môn cho tổ.
- Cách thức thực hiện:
+ Tiêu chuẩn giáo viên được chọn bồi dưỡng học sinh giỏi: phải có năng lực
giảng dạy tốt, có kiến thức chun mơn sâu, có phương pháp dạy học tích cực mang
lại hiệu quả, có phẩm chất đạo đức tốt đặc biệt có tinh thần trách nhiệm, nhiệt huyết
với nghề, khơng ngại khó, khơng ngại vất vả, biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá
nhân khi tham gia bồi dưỡng.
+ Ở trường THPT Nguyễn Quang Diêu, BGH nhà trường giao nhiệm vụ cho tổ
trưởng chuyên môn chịu trách nhiệm lựa chọn phân công giáo viên bồi dưỡng, đồng
thời chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý công tác bồi dưỡng HSG ở bộ mơn của mình.
Do cơng tác bồi dưỡng HSG rất vất vả, nên đội ngũ tham gia bồi dưỡng bao gồm nhiều
giáo viên giỏi trong tổ tham gia, trong đó một GV bồi dưỡng chính, một GV bồi

dưỡng phụ.
+ Với góc độ TTCM, bản thân mong muốn việc phân cơng phải mang tính dân
chủ, cơng khai, khơng ỷ vào chức vụ, quyền hạn của tổ trưởng mà tự ý ra quyết định.
Vào đầu năm học, tổ sẽ bàn bạc lấy ý kiến, đề cử GV giỏi bồi dưỡng. Từ sự đồng
thuận của tập thể tổ, tổ trưởng chuyên môn sẽ quyết định cuối cùng giáo viên nào bồi
dưỡng học sinh giỏi và lập danh sách GV bồi dưỡng ở các khối gửi cho BGH ra quyết
định chính thức.

4


+ Thực hiện phân công luân phiên giữa các giáo viên, không tập trung cố định
một cá nhân giáo viên nào trong tổ. Nếu xét thấy giáo viên trong tổ có năng lực
chun mơn tốt thì TTCM phải mạnh dạn phân cơng cho giáo viên đó bồi dưỡng để rút
kinh nghiệm.Trong năm học, giáo viên bồi dưỡng chính sẽ tham gia bồi dưỡng ở khối
11, giáo viên bồi dưỡng phụ tham gia bồi dưỡng khối 10.
+ Nếu xét thấy giáo viên bồi dưỡng khối 10 ở năm học này có năng lực tốt và
có tinh thần trách nhiệm cao sẽ được tiếp tục bồi dưỡng cuốn chiếu vào năm học sau, ở
khối 11. Mục đích giúp cho giáo viên bồi dưỡng khối 10 hăng hái thi đua lập thành
tích bởi trách nhiệm luôn đi đôi với quyền lợi. Vả lại, giáo viên bồi dưỡng từ lớp 10 đi
lên sẽ có nhiều thuận lợi trong việc nắm bắt được tư tưởng, nguyện vọng cũng như
năng lực của từng em trong đội tuyển và từ đó tiếp tục phát huy và khắc phục những
ưu điểm, hạn chế của các em.
+ Với chủ trương “Khơng có một giáo viên bồi dưỡng chính, GV bồi dưỡng
phụ nào là lâu dài và cố định”, mặc dù điều đó sẽ giúp cho GV bồi dưỡng theo suốt
các năm để nắm tồn bộ chương trình tồn cấp, như thế sẽ đầu tư lâu dài, chủ động
trong kế hoạch bồi dưỡng nhưng tôi mạnh dạn chọn thực hiện phân công luân phiên
GV giỏi bồi dưỡng. Bởi lẽ, thông qua việc phân công luân phiên bồi dưỡng ở các giáo
viên có năng lực sẽ tạo ra tính thi đua công bằng trong tổ bởi giáo viên nào cũng muốn
khẳng định được giá trị của mình và ghi dấu tên mình vào thành tích chung của tổ.

Người bồi dưỡng sau sẽ nhìn kết quả của người đi trước để làm động lực phấn đấu,
không muốn thua kém đồng nghiệp. Phân cơng ln phiên sẽ giúp giáo viên có trách
nhiệm cao hơn, loại bỏ thói ỷ lại, lơ là, dạy mang tính đối phó, cầm chừng. Phân cơng
ln phiên giữa các giáo viên cịn tạo ra tính kế thừa giữa các thế hệ giáo viên, không
tạo ra sự chênh lệch quá lớn về trình độ kiến thức chun mơn và tạo điều kiện cho
tuổi trẻ phát huy tiềm năng của mình.
+ Lựa chọn phân cơng giáo viên khơng có nghĩa là TTCM khơng tham gia hoạt
động bồi dưỡng. Với vai trị quản lý, TTCM phải đảm nhận nhiệm vụ công bằng như
những GV khác. Bản thân có kinh qua mới có những trải nghiệm, thấu hiểu, đồng cảm
với những áp lực mà giáo viên bồi dưỡng thường hay gặp, từ đó định hướng đúng đắn
cho công tác bồi dưỡng.
b. Đối với học sinh:
- Ý nghĩa:Thực hiện chọn đội tuyển bồi dưỡng giúp cho giáo viên phát hiện
những học sinh có tố chất nổi trội, thực hiện được những tình huống mà giáo viên đưa
ra. Tuyển chọn đúng đối tượng, người dạy sẽ có nhiều thuận lợi trong việc bồi dưỡng
năng khiếu văn chương của các em, công tác bồi dưỡng sẽ giảm được áp lực và đỡ vất
vả hơn. Chất lượng HS tham gia bồi dưỡng cũng là yếu tố quyết định sự thành bại
công tác BDHSG của giáo viên.
- Cách thức thực hiện:

5


+ Học sinh lựa chọn vào trong đội tuyển phải là học sinh có đạo đức, phẩm chất
tốt, có niềm đam mê học tập bộ mơn, có tính cần cù, chịu khó trong học tập, có học lực
bộ mơn đạt loại giỏi, hành văn mạch lạc, chữ viết sáng sủa, trình bày sạch đẹp.
+ Nguồn học sinh giỏi phải được tuyển chọn bắt đầu vào đầu năm học lớp 10,
khi các em vừa mới vào cổng trường THPT. Tổ trưởng chuyên môn chỉ đạo cho các
giáo viên dạy Văn ở các lớp 10 phải nắm bắt được những học sinh đã từng tham gia
hoạt động bồi dưỡng HSG ở cấp THCS đạt giải cấp huyện, cấp tỉnh ở bộ môn Văn.

TTCM, GV bồi dưỡng có thể phối hợp với BGH nhà trường, GVCN lớp 10 để nắm
thông tin thêm, từ đó tư vấn, định hướng các em vào trong đội tuyển kịp thời, tránh
trường hợp o ép các em bồi dưỡng ở mơn mình hoặc bỏ sót những tài năng.
+ Bên cạnh đó, trong q trình giảng dạy, giáo viên bộ mơn Văn cần phát hiện
thêm những học sinh có năng khiếu, tư duy nhạy bén, linh hoạt trong các tình huống
mà giáo viên đưa ra hoặc học sinh có nguyện vọng mong muốn được bồi dưỡng để
tiếp tục bổ sung vào trong đội tuyển.
+ Từ danh sách học sinh ban đầu đã chọn và phát hiện ở giáo viên bộ môn dạy
Văn khối 10, giáo viên bồi dưỡng tập hợp lại, quán triệt tư tưởng để các em cố gắng
phấn đấu trong học tập. Tiếp tục cho học sinh giỏi thực hiện bài văn viết khảo sát chất
lượng đầu năm để giáo viên có những đánh giá ban đầu về các em. Tiếp tục quan sát,
theo dõi học sinh giỏi trong quá trình bồi dưỡng để sàng lọc lại đối tượng, tiến hành
lập danh sách đội tuyển HSG Văn chính thức gửi cho nhà trường ra quyết định.
3.2.2. Cơng tác tư tưởng tác động nhận thức đến giáo viên và học sinh
tham gia công tác bồi dưỡng:
a. Ý nghĩa: Giúp cho giáo viên và học sinh có nhận thức đúng đắn về ý nghĩa
của phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi, từ đó xác định nhiệm vụ, nêu cao tinh thần thi
đua lập thành tích cho cá nhân và cho nhà trường. Khơng ít giáo viên, học sinh có suy
nghĩ ban đầu rất ngần ngại, không khỏi bị áp lực vì thi đua ln có tính cạnh tranh, có
khi thành cơng có khi thất bại. Nỗi lo sợ làm ảnh hưởng đến thành tích của tổ ít nhiều
ln cố hữu trong tư tưởng của mỗi người. Cũng có trường hợp suy nghĩ tham gia cho
có phong trào nên chưa tận tâm tận lực trong hoạt động bồi dưỡng. Do đó, cơng tác tư
vấn, tác động nhận thức của TTCM đến với giáo viên, học sinh bồi dưỡng kịp thời sẽ
là nguồn động viên, khích lệ về mặt tinh thần giúp cho họ có đủ tự tin vượt qua chính
mình, loại bỏ những tâm lý tiêu cực, biến những khó khăn, thử thách thành cơ hội để
rèn luyện và nâng cao năng lực chuyên môn. TTCM cần quán triệt cho giáo viên bồi
dưỡng hiểu công tác bồi dưỡng là trách nghiệm chung của tổ đồng thời còn là phong
trào thi đua để mỗi người đóng góp sức mình vào kết quả chung cho tổ và cho nhà
trường. Qua đó giúp học sinh giỏi được rèn luyện, nâng cao kiến thức, chuẩn bị tốt kỳ
thi Đại học, Cao đẳng. Công tác tăng cường nhận thức đến giáo viên và học sinh tốt sẽ

góp phần mang lại hiệu quả nhất định trong hoạt động BDHSG.
b. Cách thức thực hiện:
- Đối với giáo viên:
6


+ Trong họp tổ, TTCM cần khơi dậy lòng tự trọng nghề nghiệp của giáo viên.
Mỗi giáo viên cần quán triệt việc tự bồi dưỡng, tự cập nhật kiến thức để khơng ngừng
nâng cao trình độ kiến thức, tay nghề của mình, phải là “tấm gương tự học và sáng
tạo” để học sinh noi theo. Hoạt động BDHSG sẽ là môi trường tốt nhất để giáo viên
học tập và thử thách chính mình.
+ Tác động đến giáo viên về cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi là cả một quá
trình lâu dài, bền bỉ, khá vất vả, song kết quả đạt được tốt sẽ mang lại danh dự rất lớn
không chỉ cho cá nhân mà còn cho tập thể. Đặc biệt, giáo viên bồi dưỡng hãy biết nhìn
thành tựu của người đi trước để phát huy và cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao phó. Hãy biết chủ động học tập kinh nghiệm của người đi trước để có phương
pháp giảng dạy phù hợp. Hãy biết gần gũi, quan tâm, thương yêu học sinh để chúng ta
nắm bắt được tâm tư, tình cảm, những khó khăn của học sinh để có biện pháp giúp đỡ
các em kịp thời. Chính sự thương yêu, quan tâm của giáo viên sẽ là động lực thúc
đẩycác em học tập
+ Tác động đến ý thức trách nhiệm của tập thể tổ.Trách nhiệm bồi dưỡng HS
không chỉ riêng cá nhân nào mà là trách nhiệm chung của cả tập thể. Giáo viên có kinh
nghiệm BDHSG khơng nên ích kỉ, giữ “bí kíp” riêng mà phải truyền đạt những kinh
nghiệm cho người bồi dưỡng sau để mang lại kết quả tốt nhất có thể.
- Đối với học sinh:
+ GV nêu lên những thành tích qua các năm của tổ đã đạt được nhằm khơi dậy
niềm tự hào và ý chí phấn đấu của học sinh. Các em sẽ biết noi gương người đi trước
có thói quen học tập, nghiên cứu; không ngại những vất vả, cố gắng trau dồi cả về kiến
thức, kĩ năng làm bài để tiếp tục gặt hái thành tích đem vinh quang về cho thầy cô, cho
nhà trường.

+ GV cần quán triệt về lợi ích, ý nghĩa để HS được tham gia bồi dưỡng hiểu
được đây là hoạt động giúp các em nâng cao kiến thức, rèn kĩ năng làm bài, qua đó tạo
hành trang kiến thức vững chắc giúp các em thi đỗ vào các trường ĐH, CĐ trọng
điểm. Đặc biệt được vào đội tuyển là niềm vinh dự lớn cho bản thân và cho gia đình,
nếu đạt giải HSG cấp tỉnh, các em được vinh danh và mọi người tôn quý, từ đó giúp
HS có được niềm tin, sự phấn khích hơn trong học tập.
3.2.3. Thực hiện xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi:
- Vào đầu năm học, tổ chuyên môn sẽ thống nhất giáo viên bồi dưỡng ở các
khối lớp, trên cơ sở đó, tổ trưởng chuyên môn sẽ lập danh sách phân công giáo viên
tham gia bồi dưỡng HSG để BGH ra quyết định phân công chính thức.
- Trên cở sở kế hoạch hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi của BGH thông qua
hội đồng nhà trường, TTCM chỉ đạo các giáo viên dạy các đội tuyển xây dựng kế
hoạch bồi dưỡng và hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch cho bản thân giúp các em
có hướng học tập tốt hơn.

7


- Kế hoạch bồi dưỡng HSG theo từng khối lớp do GV bồi dưỡng chịu trách
nhiệm chính. Kế hoạch phải thể hiện được mục tiêu, chương trình, nội dung giảng dạy,
thời gian thực hiện, phương pháp bồi dưỡng.
- Về số tiết giảng dạy cho môn Văn theo quy định của BGH là 66 tiết (có 22
tuần, mỗi tuần 3 tiết). Tuy nhiên, để đạt hiệu quả tốt, trên thực tế giảng dạy, giáo viên
bồi dưỡng học sinh rất nhiều tiết vượt xa so với con số cụ thể ở trên. Ở khối 10, giáo
viên sẽ tiến hành bồi dưỡng bắt đầu vào giữa tháng 9, kết thúc vào cuối tháng 4 của
năm học. Ở khối 11, giáo viên bồi dưỡng trong hè cho đến khi học sinh tham gia kỳ thi
HSG. Có thể thấy, giáo viên của trường khơng ngại vất vả, khơng tính tốn mà chỉ
quan tâm đến mục đích cuối cùng là làm sao trang bị tốt nhất cho học sinh tham gia
kỳ thi HSG đạt hiệu quả.
- Trong kế hoạch bồi dưỡng, giáo viên bồi dưỡng có 2 hướng dạy: có thể dạy

theo chuyên đề để giúp học sinh biết xâu chuỗi những kiến thức có liên quan, biết liên
hệ đối chiếu so sánh khi thực hành giải đề; có thể sắp xếp dạy theo đơn vị bài học. Tùy
theo nội dung chuyên đề và bài học mà phân bố thời lượng sao cho hợp lí. Kết thúc
mỗi chuyên đề hoặc một bài học phải tổ chức cho học sinh làm bài kiểm tra có sự giám
sát trực tiếp của giáo viên bồi dưỡng để đánh giá năng lực và rút kinh nghiệm làm bài
giúp các em tiến bộ hơn.
- Chương trình giảng dạy bồi dưỡng đi từ ôn tập kiến thức cơ bản đến việc rèn
luyện các kĩ năng làm bài qua thực hành giải đề về văn nghị luận xã hội, văn nghị luận
những tác phẩm văn chương trong nhà trường và kết hợp bồi dưỡng kiến thức lý luận
văn học, cụ thể:
+ Ở khối 10, giáo viên bồi dưỡng sẽ tập trung rèn cho học sinh kĩ năng đọc, tìm
hiểu đề, kĩ năng lập dàn ý và kĩ năng viết văn nghị luận xã hội với nhiều dạng đề khác
nhau (NLXH về một ý kiến, một danh ngôn, NLXH về một vấn đề được rút ra từ một
bài thơ hay một mẩu chuyện; NLXH về một hiện tượng trong cuộc sống,…). Đan xen
với chuyên đề văn nghị luận xã hội là trang bị kiến thức ở một số chuyên đề về vẻ đẹp
tâm hồn nhân dân lao động trong một số tác phẩm văn học dân gian, chuyên đề về cảm
hứng nhân đạo trong thơ của Nguyễn Du, cảm hứng yêu nước trong thơ Lý – Trần và
thơ của Nguyễn Trãi.
+ Ở khối 11, giáo viên bồi dưỡng chính sẽ tiếp tục trang bị kiến thức Văn học ở
khối 11 và thực hành giải đề sau mỗi đơn vị kiến thức bài học; kết hợp bồi dưỡng kiến
thức lý luận văn học thường gặp như bản chất của văn học, chức năng của văn học,
con người trong văn học, thiên chức và phong cách của nhà văn, đặc trưng của thơ và
văn xuôi…. nhằm giúp cho HSG biết vận dụng kiến thức lý luận để luận giải, cảm thụ
vấn đề trong tác phẩm văn học một cách sâu sắc. Cuối cùng là giai đoạn ôn tập và
kiểm tra tổng hợp các kiến thức mà học sinh đã học.
- Xây dựng kế hoạch kiểm tra lồng ghép với kế hoạch bồi dưỡng kiến thức. Các
tiết kiểm tra bố trí sau mỗi chuyên đề. Tổ chức kiểm tra bằng hình thức kiểm tra
thường xuyên với hỏi – đáp về kiến thức bài học và kiểm tra định kỳ với bài viết văn.
- Ngoài ra, giáo viên cần biên soạn tài liệu bồi dưỡng. Đây được xem là cẩm
nang học tập dành cho HSG. Trên cơ sở đó, các em sẽ đi từ kiến thức cơ bản đến vận

8


dụng kiến tạo kiến thức vào thực hành giải đề, tùy theo năng lực của cá nhân sẽ có
cảm thụ thẩm mĩ riêng. Bên cạnh đó, giáo viên sưu tầm thêm tài liệu tham khảo,
hướng dẫn HS một số trang mạng, website… để HS nghiên cứu, tự học.
3.2.4.Tăng cường trao đổi chuyên môn, chia sẻ kinh nghiệm bồi dưỡng
HSG trong phiên họp tổ:
- Ý nghĩa: Họp tổ chun mơn có vai trò quan trọng trong việc giúp giáo viên
nâng cao chất lượng chun mơn, tháo gỡ những khó khăn trong q trình giảng dạy,
Trong đó, tổ trưởng chun mơn được xem như một thuyền trưởng dẫn dắt, định
hướng các thành viên của mình đi đúng hướng, đạt được mục tiêu chung của tổ. Họp
tổ không đi sâu vào thủ tục hành chính, kiểm điểm tình hình mà quan trọng là dành
thời gian nhiều cho việc thảo luận chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học. Tăng
cường trao đổi chuyên môn về những giải pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu, bồi
dưỡng học sinh giỏi, những bài học khó và phương pháp dạy học hiệu quả sẽ tạo môi
trường học tập tích cực để giáo viên cùng nhau phát triển, cùng nhau tiến bộ.
- Cách thức thực hiện:
+ Vào đầu năm học, TTCM sẽ xây dựng kế hoạch thực hiện một số chuyên đề
dạy học trong năm học, phân công luân phiên giữa các giáo viên trong tổ và dự kiến
thời gian thực hiện. Trong đó, chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ giao cho giáo viên
bồi dưỡng đạt hiệu quả phụ trách thực hiện. Cán bộ bồi dưỡng năm học trước có thể
nêu lên đặc điểm thuận lợi, khó khăn và một số biện pháp tổ chức đạt hiệu quả. Qua
phần báo cáo, tập thể tổ tự đúc kết kinh nghiệm cho riêng mình, từ đó ứng dụng trong
thực tiễn khi được đảm nhận công tác BDHSG.

+ Để việc trao đổi chun mơn đạt hiệu quả, vai trị của TTCM là phải biết
khơi gợi những ý kiến của giáo viên về tình hình dạy học, tình hình bồi dưỡng HSG để
nắm bắt những học sinh yếu, học sinh có tiềm năng, nắm bắt những khó khăn của giáo
viên từ đó đưa ra phương hướng khắc phục những hạn chế, yếu kém. Thực hiện phân

công giáo viên nêu lên một nội dung về kiến thức chun mơn có độ khó để bàn luận.
9


Tránh trường hợp vào họp tổ chỉ TTCM hoạt động là chính. TTCM cần phát huy sức
mạnh trí tuệ và những cái hay của tất cả giáo viên để hoạt động giảng dạy hiệu quả
hơn. Khơng khí trao đổi nên chân tình, cởi mở, thoải mái, khơng bị áp lực và đi đúng
mục đích.
+ Thực hiện nắm bắt những thơng tin mới có liên quan về lĩnh vực chun mơn
phải biết thông tin kịp thời cho giáo viên nắm bắt.
+ Chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng cần biết đề thi HSG cấp tỉnh của những năm học
trước để tham khảo, rút kinh nghiệm. Lưu ý giáo viên những dạng đề thi thường gặp
để định hướng bồi dưỡng phù hợp.
+ Tạo điều kiện cho một số giáo viên bồi dưỡng có kinh nghiệm chia sẻ “bí
kíp”, nêu lên các phương pháp bồi dưỡng có hiệu quả. Cụ thể, trong q trình bồi
dưỡng, giáo viên cần kích thích tư duy phản biện của học sinh bằng cách tăng cường
sự tương tác giữa thầy và trò, thường xuyên tổ chức cho học sinh phân tích, trình bày
một vấn đề trước tập thể, đặt ra những câu hỏi mở để học sinh hùng biện theo quan
điểm cá nhân. Chú trọng thực hành giải bài tập, giao bài tập trước để học sinh lập dàn
ý. Đề thực hành phải đa dạng các dạng đề và giúp chúng ta đánh giá được năng lực
sáng tạo của học sinh. Bên cạnh tăng cường cho HSG thực hành viết văn, giáo viên
cần coi trọng khâu chấm và sửa bài viết. Chấm điểm và trả bài làm của các em, giáo
viên phải phân tích được những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân hạn chế để các em rút
kinh nghiệm trong lần sau. Thực hiện công tác hướng dẫn học sinh cách thức tự học
với việc lưu lại sổ tay học tập những kiến thức bổ ích qua việc tự học ở bạn bè, sách
báo và các trang mạng xã hội…
+ Tổ chức xây dựng ngân hàng đề kiểm tra đọc hiểu, kiểm tra tự luận. Thông
thường giáo viên giảng dạy đều phải tự soạn đề, tự sưu tầm đề, tự nghiên cứu nên cơng
việc rất vất vả. Do đó, TTCM có thể chia sẻ những khó khăn của giáo viên bằng cách
thực hiện xây dựng ngân hàng đề kiểm tra. Mỗi giáo viên đều phụ trách biên soạn đề

theo đơn vị kiến thức bài học được phân công. Công việc tập hợp đề của TTCM có thể
tiến hành trong năm học hoặc sau năm học. Sau khi tập hợp xong, TTCM biên tập và
gửi lên mail tổ để giáo viên tham khảo.
+ Thực hiện kho tư liệu dạy học bằng cách giao lưu chia sẻ tư liệu dạy học sưu
tầm hay, tư liệu bồi dưỡng HSG giữa các GV. Đề xuất với nhà trường trang bị sách
Tuyển đề thi Olimpic, sách BDHSG để GV nghiên cứu, đầu tư chuyên mơn. Tài liệu
này khơng giữ làm của riêng mà có thể pho to cho HSG tham khảo.
3.2.5. Thực hiện ứng dụng mạng xã hội để giáo viên và học sinh tham gia
bồi dưỡng:
- Ứng dụng mạng xã hội tiêu biểu là mạng Zalo, Facebook,… với việc tạo
nhóm sẽ giúp giáo viên và học sinh rút ngắn thời gian bồi dưỡng ở trường học và bồi
dưỡng ở mọi lúc mọi nơi. Tận dụng thời gian rảnh rỗi, cả giáo viên và HS bồi dưỡng
qua mạng xã hội để cùng nhau trao đổi nội dung kiến thức, chia sẻ những bài viết hay,
thực hành giải đề rất tiện lợi. Mạng xã hội cịn giúp giáo viên và nhóm HS bồi dưỡng
nắm thơng tin kịp thời và còn là nơi chia sẻ, tham khảo kho tư liệu học tập bổ ích. Biết
10


khai thác mạng xã hội đúng cách sẽ hỗ trợ đắc lực cho cả giáo viên và học sinh trong
công tác bồi dưỡng HSG.
- Cán bộ bồi dưỡng tạo group đội tuyển và quán triệt mục đích và cách thức sử
dụng phù hợp, tránh trường hợp sử dụng vì mục đích riêng.
3.2.6. Tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ Văn học tạo điều kiện cho HSG bồi
dưỡng tham gia:
a. Ý nghĩa: Câu lạc bộ Văn học là một sân chơi rất bổ ích giành cho những em
học sinh có năng khiếu và có niềm đam mê, hứng thú học tập đối với môn Ngữ văn.
Thông qua hoạt động này, học sinh có nhiều hình thức trải nghiệm sáng tạo nhằm rèn
luyện kĩ năng giao tiếp, bồi dưỡng năng khiếu văn chương, nâng cao tư duy sáng tạo
với các hình thức sinh hoạt được tổ chức. Đây là một định hướng quan trọng góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục tồn diện, góp phần hạn chế học sinh tham gia các tệ nạn

xã hội và thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Trường học thân thiện, học sinh
tích cực”. Đồng thời, tạo được môi trường giao lưu học tập, mở rộng kiến thức, phát
huy sở trường, năng khiếu viết văn, làm thơ, bình luận văn chương cho các em HSG,
góp phần tạo hứng thú học tập và tham gia có hiệu quả trong hội thi HSG cấp tỉnh.
b. Cách thức thực hiện:
- Vào đầu năm học, nhà trường chủ trương mỗi học sinh lựa chọn ít nhất 1 câu
lạc bộ (câu lạc bộ Văn học, CLB Thể dục thể thao, CLB Anh văn, CLB văn nghệ,…)
để tham gia. Mỗi CLB đều có giáo viên cốt cán để tham gia quản lí, chịu trách nhiệm
chính trong việc tổ chức sinh hoạt cho các em. Thời gian tổ chức theo định kỳ và có
xây dựng kế hoạch cụ thể cho BGH ký duyệt.
- Giáo viên bồi dưỡng ở khối 10, khối 11 đều phải vận động HSG bồi dưỡng
của đội mình tham gia vào CLB Văn học. Tập hợp những nhóm HSG sẽ giúp cho
CLB có những thành phần HS ưu tú, nổi trội làm cho buổi sinh hoạt diễn ra có chiều
sâu và chất lượng hơn.
- Trong cơng tác tổ chức sinh hoạt, chủ nhiệm CLB quan tâm một số hình thức
hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm giúp các em rèn luyện các kĩ năng sống, kĩ năng
giao tiếp. Tiêu biểu như:
+ Tổ chức hùng biện xoay quanh một vấn đề có tình huống: Vấn đề đặt ra có
thể là lĩnh vực văn học, xã hội, đạo đức, lối sống, những sự việc gần gũi trong đời sống
hằng ngày. Trong buổi sinh hoạt giáo viên đặt vấn đề, học sinh sẽ cùng nhau tương
tác, bằng những lập luận và chính kiến riêng để phản biện bảo vệ quan điểm của mình.
Nhằm tạo ra khơng khí sơi nổi cho buổi sinh hoạt, chúng tơi chia nhóm, mỗi nhóm sẽ
đứng từ một phía: đúng – sai, lợi – hại, tốt – xấu,…của vấn đề để bình luận. Từ kết quả
tranh luận, giáo viên là người nhận xét và kết luận lại, định hướng cho các em nhận
thức đúng đắn về vấn đề đặt ra
Ví dụ: đề tài “Ngưỡng mộ thần tượng là tốt hay xấu?”, “Tình yêu tuổi học
đường nên hay khơng nên?”, “Tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu truyện là của kẻ say hay
không say?”, “Sử dụng mạng xã hội như thế nào là thông minh?”,…

11



+ Tổ chức cho học sinh thuyết trình: Chủ đề thuyết trình có thể là về tác phẩm
văn học, nhân vật mà em ấn tượng, có thể về vấn đề xã hội. Chủ nhiệm CLB thông báo
trước để học sinh chuẩn bị tốt hoặc thuyết trình theo phát biểu tự do, Người thuyết
trình sẽ thể hiện kĩ năng trình bày vấn đề của mình trước tập thể. Ban tổ chức sẽ thực
hiện bình chọn phần thuyết trình hay nhất và khen thưởng động viên tinh thần của các
em.

+ Tổ chức sân khấu hóa: Học sinh có thể hóa thân vào những hồn cảnh, số
phận, tính cách khác nhau như đóng vai người mẹ, người con, người hàng xóm, người
thầy…tùy theo tình huống xã hội mà giáo viên đưa ra. Trong mỗi tiểu phẩm, học sinh
phải nhập vai ứng xử linh hoạt theo nhận thức, suy nghĩ của mình để mang đến cho
buổi sinh hoạt những thông điệp đầy ý nghĩa. Học sinh có thể đóng vai tác giả hoặc
nhân vật để cùng trải nghiệm, cùng chia sẻ với nhà văn và con người trong tác phẩm
về những suy nghĩ, những cách ứng xử trong cuộc sống.
+ Giới thiệu với bạn
đọc: nhằm giúp học sinh nâng
cao tinh thần văn hóa đọc
sách, tinh thần tự nghiên cứu;
tích lũy được kinh nghiệm,
vốn sống bổ ích; rèn kĩ năng
đọc, viết, nói, nghe. Có thể
giới thiệu một quyển sách, một
bài viết hay, một nhân vật nổi
tiếng…

12



+ Tổ chức trò chơi đố vui Văn học với các câu hỏi về kiến thức Văn học, qua
đó giúp các em củng cố kiến thức và được giải trí, vui chơi lành mạnh.

3.2.7. Thực hiện công tác kiểm tra, đánh giá tình hình bồi dưỡng học sinh
giỏi:
- Ý nghĩa: Nhằm nắm bắt những thuận lợi, khó khăn của giáo viên và học sinh
bồi dưỡng, từ đó có sự đốn đốc, động viên khích lệ giúp cho hoạt động bồi dưỡng của
giáo viên ngày càng có trách nhiệm và hiệu quả hơn. Thơng qua đó, TTCM nắm được
tình hình chung về tiến độ thực hiện kế hoạch bồi dưỡng của giáo viên, những chuyển
biến tích cực của học sinh so với giai đoạn trước đó. Thực hiện đánh giá khách quan,
rút kinh nghiệm, đề ra phương hướng khắc phục kịp thời những tồn tại, hạn chế mà
GV và HS mắc phải.
- Cách thức thực hiện:
+ TTCM thực hiện theo dõi, nắm bắt tình hình bồi dưỡng của giáo viên và học
sinh. Trong các kỳ họp tổ tạo điều kiện cho giáo viên tham gia bồi dưỡng đánh giá lại
công tác bồi dưỡng HSG, những ưu điểm và hạn chế của đội tuyển. Trong q trình
bồi dưỡng nếu có những khó khăn gì phải nêu lên để tổ có thể bàn bạc cùng giải quyết,
hoặc có những đề xuất với BGH nhà trường tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bồi
dưỡng đạt hiệu quả.
+ Chỉ đạo GV bồi dưỡng tăng cường công tác kiểm tra đánh giá năng lực HSG
về kĩ năng làm bài, khả năng tiếp thu kiến thức ở mức độ như thế nào để có biện pháp
thúc đẩy tinh thần thái độ học tập của các em.
3.2.8. Tham mưu với BGH, phối hợp với ĐTN, GVCN, GVBM, cán bộ thư
viện của trường để công tác bồi dưỡng có nhiều thuận lợi:
a. Tham mưu với BGH:

13


- BGH là những người tổ chức, quản lý và chịu trách nhiệm chung trong công

tác bồi dưỡng sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho GV và HS từ việc trang bị cơ sở vật
chất, sách tham khảo, phòng đọc mạng đến việc bố trí tiết tự học và tiết đọc sách tại
thư viện trên thời khóa biểu (cơng việc này đã có sự thống nhất với cha mẹ học sinh và
toàn thể cán bộ giáo viên, nhân viện nhà trường) sẽ giúp cho đội bồi dưỡng có thời
gian luyện tập, rèn kĩ năng làm bài.

- Hằng năm, yêu cầu giáo viên bồi dưỡng lập danh sách HSG gửi cho BGH
nắm bắt và sắp xếp nhóm bồi dưỡng Văn được học chung một lớp. TTCM tham mưu
với BGH thực hiện phân công GV bồi dưỡng là người trực tiếp giảng dạy chính khóa
của lớp đó nhằm giúp cho cả GV và HS có nhiều thuận lợi trong việc bồi dưỡng.
- Vào giai đoạn cuối của công tác ôn tập, sắp diễn ra kì thi HSG cấp tỉnh, xin ý
kiến BGH ra thơng báo cho tồn thể giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm không nên
tạo áp lực về kiểm tra thường xuyên, giao nhiệm vụ không cần thiết để các em HSG có
thời gian tập trung ơn tập. Có thể tạo điều kiện cho học sinh kiểm tra lại sau khi thi
HSG cấp tỉnh nếu HS có nguyện vọng.
- Đề xuất với BGH tăng cường bổ sung các đầu sách nghiên cứu, sách tham
khảo, sách truyện, sách bồi dưỡng, sách tổng hợp các đề thi HSG…để học sinh lên thư
viện trau dồi học tập và thực hành.
b. Phối hợp với ĐTN:
- ĐTN là lực lượng nòng cốt thực hiện các hoạt động ngồi giờ, có sự quản lý
nền nếp đối với các đoàn viên học sinh, cần phải biết danh sách học sinh bồi dưỡng để
khuyến khích, động viên các em vượt qua khó khăn trong học tập, phát huy sức trẻ,
nhiệt huyết để đóng góp cho nhà trường.
14


- Đối với học sinh giỏi đạt giải cấp tỉnh, ĐTN cần chỉ đạo cho bí thư chi đồn
lớp tun dương, khích lệ. Đồng thời quy hoạch các em vào trong thành phần học sinh
ưu tú học lớp Cảm tình Đảng, chuẩn bị nguồn cho năm học 12, các em được giới thiệu
hoặc được đứng vào hàng ngũ của đảng trước khi bước vào cánh cổng của trường Đại

học.
c. Phối hợp với GVCN, GVBM:
- Đối với GVCN: GVCN cần nắm được học sinh bồi dưỡng của lớp mình để
quan tâm, động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho các em học tập. Trong phiên họp
phụ huynh, GVCN trao đổi với PHHS nắm bắt tình hình và quan tâm thúc đẩy việc
học tập của con em.
- Đối với giáo viên bộ môn: Cần phải biết đồng cảm, tạo điều kiện thuận lợi cho
thầy cô và học sinh bồi dưỡng, không nên tạo quá nhiều áp lực đối với các em, phải
biết vì mục đích chung là nhằm góp phần nâng cao công tác bồi dưỡng HSG và chất
lượng giáo dục mũi nhọn của nhà trường.
d. Phối hợp với CB thư viện:
- Nhằm nắm bắt những sách mới, sách hay giới thiệu cho GV và HS cập nhật,
tiếp cận kịp thời, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, rèn kĩ năng thực hành cho học sinh.
- Quan tâm, giúp đỡ HS bồi dưỡng trong quá trình các em tự học ở thư viện.
3.2.9. Thực hiện cơng tác khuyến khích, tun dương giáo viên và học sinh
tham gia bồi dưỡng:
Cơng tác khuyến khích, “biệt nhỡn” nhân tài có ý nghĩa quan trọng trong việc
thúc đẩy động lực, tạo niềm tin, phấn khởi cho giáo viên bồi dưỡng. Với góc độ cán bộ
quản lý cần quan tâm và có sự tuyên dương kịp thời giáo viên đạt thành tích trước tập
thể tổ. Đồng thời, đề nghị BGH nhà trường có khen thưởng đối với cá nhân lập thành
tích xuất sắc trong cơng tác BDHSG.
Đối với giáo viên tham gia bồi dưỡng phải được giảm bớt một số nhiệm vụ
không cần thiết để giáo viên tập trung đầu tư bồi dưỡng cho HS.
Thực hiện tham mưu với BGH tạo điều kiện cho GV bồi dưỡng được dạy thừa
giờ bởi phần lớn GV đã dành rất nhiều thời gian, tâm huyết, cơng sức, tài chính vào
cơng tác bồi dưỡng nên họ cần được bù đắp xứng đáng bằng giá trị vất chất lẫn tinh
thần.
Với học sinh, cán bộ quản lý tổ và GV tham gia bồi dưỡng thực hiện động viên,
tuyên dương kịp thời giúp các em phấn khởi, vui vẻ và tự hào với những cố gắng nỗ
lực mà mình đã phấn đấu.

IV- Hiệu quả đạt được:
1. Trước khi áp dụng sáng kiến:
Trước đây, phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi của tổ còn rất trầm lắng, chưa
tạo sức lan tỏa trong tập thể giáo viên. Nhiều giáo viên đã không tự tin thử thách mình
trong hội thi lớn khi có rất nhiều trường trong tỉnh có đối tượng học sinh giỏi tham gia
thử sức, tranh tài thì việc đạt kết quả là điều khơng dễ dàng. Chính suy nghĩ an phận đã
khiến cho tổ trong thời gian dài rất ít có giáo viên nào đảm nhận công tác bồi dưỡng.
Đến năm 2010 – 2011, hoạt động bồi dưỡng của tổ chính thức bắt đầu và đạt 4 giải (2
15


giải ba, 2 giải khuyến khích), và tiếp tục gặt hái ở năm học 2011-2012, đây là tín hiệu
rất khả quan nhưng chất lượng HSG của tổ vẫn chưa thực ổn định. Đặc biệt, khi Sở
Giáo dục An Giang thay đổi việc cơng nhận HSG cấp tỉnh chỉ được tính theo tỉ lệ 30%
trên tổng số thí sinh HSG dự thi nên kết quả ở những năm tiếp theo chưa thực nổi bật.
Kết quả học sinh giỏi đạt giải cấp tỉnh:
Năm học
HSG cấp
tỉnh

2007 2008
-2008 -2009
0

0

2009 –
2010

20102011


20112012

20122013

20132014

0

04

04

1

0

2. Sau khi áp dụng sáng kiến:
Với những biện pháp tổ chức được thể hiện trong sáng kiến, tôi nhận thấy rằng
kết quả hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi tăng lên đáng kể và mang tính ổn định theo
hằng năm. Kết quả ấy giúp chúng tơi càng có thêm động lực tiếp tục hăng hái thi đua
lập thành tích. Mỗi giáo viên đều có lòng tự trọng nghề nghiệp, xem việc học tập, bồi
dưỡng chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy chủ thể người
học là nhiệm vụ chính trị cơ bản nhất để bản thân ngày càng hoàn thiện.
Hoạt động bồi dưỡng HSG đến nay đã trở thành phong trào sôi động, thu hút rất
nhiều giáo viên và học sinh tham gia phong trào bồi dưỡng. GV khơng cịn tình trạng e
sợ, nhút nhát, khơng dám nhận nhiệm vụ. Tất cả GV đều có tin thần giúp đỡ, hỗ trợ lẫn
nhau để chung tay góp sức hồn thành tốt nhiệm vụ, tạo uy tín, thương hiệu cho tập thể
tổ và đóng góp chất lượng giáo dục mũi nhọn cho nhà trường. Tập thể tổ được BGH
đánh giá là lực lượng GV tiềm năng, có thế mạnh bồi dưỡng HSG và có nhiều đóng

góp cho nhà trường. Trong những năm học qua, tổ Văn đều được BGH tuyên dương là
tập thể tổ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Hoạt động BDHSG đã giúp cho GV nâng cao năng lực chuyên môn, có nhiều
phương pháp giảng dạy mang lại hiệu quả tích cực. Học sinh có mơi trường học tập
lành mạnh, có ý thức tự học vươn lên trong học tập, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng chun mơn của tổ.
Đặc biệt, từ hoạt động bồi dưỡng HSG đạt nhiều thắng lợi, chúng tôi rất phấn
khởi, tự tin, mạnh dạn đăng ký thi đua lập thành tích trong tất cả các phong trào do
trường, do Sở, ngành phát động. Trong đó, có rất nhiều cuộc thi đạt giải cấp tỉnh như
viết SKKN, GV dạy giỏi cấp tỉnh, ĐDDH cấp tỉnh, cuộc thi dạy học tích hợp liên
mơn...
a. Kết quả HSG đạt cấp tỉnh qua các năm học:
Năm học
GV bồi dưỡng
HS bồi dưỡng
Giải Vào vịng 2
2014- 2015 Phạm Thị Kim
Huỳnh Thúy Dương
ba
Đạt
Dung
Tơ Hải Nhi
ba
Đạt
Võ Thị Cẩm Tiên
Ba
Đạt
2015-2016 Phùng Cẩm Sa
Trần Thị Thúy Quyên
Ba

Đạt
16


Lưu Thị Kiều Nhi

2016-2017

Phạm Thị Kim
Dung

2017-2018

Lý Thị Quyền

2018-2019

Phùng Cẩm Sa

Phạm Thị Kim
Dung

Trương Tuấn Kiệt
Hồ Thị Yến Linh
Phạm Thị Thu Dung
Nguyễn Thị Bích Chăm
Nguyễn Thị Kim Duyên
Lê Huỳnh Chi
Trịnh Thị Quế Trân
Trương Thị Ái Nhân

Huỳnh Thu Phương
Huỳnh Thị Thúy Loan
Nguyễn Thị Như Ý
Phạm Thị Ngọc Dung
Võ Thị Chúc Duyên
Trần Thị Như Huỳnh
Tơ Thị Mộng Kiều
Phan Thị Hoa Quỳnh

Đạt

Nhì
Ba
Ba
Ba
Ba
Ba
Nhì
Ba
Ba
Ba
Ba
Ba
Nhì
Nhì
Ba
Ba

Đạt
Đạt

Đạt
Đạt

Đạt
Đạt
Đạt

c. Danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh
- Năm học 2013-2014: có 2 GV đạt danh hiệu GV dạy giỏi cấp tỉnh (Phùng
Cẩm Sa, Phạm Thị Kim Dung).
- Năm 2017 – 2018: có 1 GV đạt danh hiệu GV dạy giỏi cấp tỉnh (Lý Thị
Quyền).
d. Danh hiệu tổ đã đạt được cấp tỉnh: 9 năm liền đạt danh hiệu tập thể lao
động tiên tiến (Từ năm 2010-2011, 2011-2012, 2012-2013, 2013-2014, 2014-2015,
2015-2016, 2016-2017, 2017-2018, 2018-2019)
e. Kết quả HSG cấp tỉnh cũng góp phân nâng cao chất lượng giáo dục mũi
nhọn của nhà trường
Năm học 2011 –
2012
ĐH,CĐ

51,8%

2012 –
2013

2013 –
2014

2014 –

2015

46,8%

54,8%

54,7% 56,6% 51,7% 69,6% 70,28%

20152016

20162017

20172018

20182019

V. Mức độ ảnh hưởng:
1. Phạm vi tác dụng:
Sáng kiến đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo HSG và duy trì thành tích
theo hằng năm của tập thể tổ Ngữ văn tại trường THPT Nguyễn Quang Diêu. Công tác
tổ chức, quản lý trong hoạt động bồi dưỡng tạo được đồng thuận lớn ở tất cả GV, tạo
điều kiện cho GV có năng lực chun mơn tốt phát huy tài năng, thi đua lập thành tích
mang lại kết quả đáng khích lệ cho tổ. Kết quả HSG đã đạt trong những năm học qua
là cả một quá trình phấn đấu, nỗ lực không mệt mỏi của đội ngũ GV trong tổ, làm
động lực cho GV trong tổ càng thêm phấn đấu, nhiệt huyết với nghề, nâng cao lòng tự
17


trọng nghề nghiệp, biết đầu tư nghiên cứu, tìm hiểu sâu kiến thức chuyên môn và đề ra
phương pháp dạy học có hiệu quả.

Sáng kiến đã áp dụng thực tiễn trong nhiều năm học đã tạo ra hiệu quả tích cực
khơng chỉ cho tổ Văn mà cịn cho nhà trường trong việc nâng cao chất lượng giáo dục
mũi nhọn. Tôi nghĩ đối với một số người cho rằng nó khơng mới nhưng có thể góp
phần giúp cho cán bộ quản lý tổ chuyên môn ở các trường THPT cần thay đổi tư duy
trong công tác tổ chức hoạt động bồi dưỡng. Vì đâu đó vẫn suy nghĩ rằng nên chỉ giao
phó cơng tác bồi dưỡng cho TTCM hay một cá nhân GV nào đó để tạo nên tính ổn
định, bề sâu của hoạt động. Thiết nghĩ, ở mỗi trường sẽ có những đặc điểm riêng, vì
thế cách thức tổ chức, quản lý sẽ khác nhau, tuy nhiên, nếu chúng ta biết phát huy thế
mạnh, tiềm năng của tổ sẽ gặt hái được nhiều quả tốt, tạo được uy tín trong nhà
trường, trong cụm HĐBM, được PHHS tin cậy, HS yêu mến.
2. Mức độ khả thi:
Để sáng kiến thực hiện manh lại tính khả thi cao cần đáp ứng các điều kiện cần
thiết sau:
- Sự quan tâm sâu sát của lãnh đạo nhà trường, tạo mọi điều kiện thuận lợi từ
việc trang bị đầu tư CSVC, sách tham khảo, sách nghiên cứu, đến bố trí thời gian trống
để GV và HS thuận lợi trong công tác bồi dưỡng.
- Sự tận tâm, nhiệt huyết của TTCM, giáo viên bộ môn tham gia bồi dưỡng, đặc
biệt có lịng tự trọng cao. Sự đầu tư nghiên cứu sâu về chun mơn và có phương pháp
bồi dưỡng hợp lí là tiêu chí chính yếu quyết định chất lượng bồi dưỡng.
- Đối với học sinh: Cần phải có ý thức thái độ học tập đúng đắn, có phương
pháp học tập hợp lí, biết vươn lên trong học tập, cần cù, chăm ngoan, vâng lời thầy cô.
Nâng cao văn hóa đọc sách báo, sách tham khảo để tích lũy kiến thức và vốn sống;
nâng cao ý thực tự học, tự nghiên cứu, không trông chờ vào GV bồi dưỡng. Chủ động,
tích cực tham gia phát biểu xây dựng bài, nêu lên chính kiến cá nhân trước một vấn đề
nhằm rèn luyện kĩ năng nói, viết. Tăng cường thực hành lập dàn ý, làm bài tập để rèn
kĩ năng làm bài.
- Chính sách đãi ngộ nhân tài của nhà trường phải hợp lí, khen thưởng kịp thời
những cá nhân GV và HS đạt thành tích xuất sắc.
- Sự phối hợp tốt giữa BGH, TTCM, giáo viên bồi dưỡng, GVCN...; Sự định
hướng, dẫn dắt, đào tạo phù hợp của GV bồi dưỡng với HS bồi dưỡng.

VI. Kết luận:
Theo tinh thần Nghị Quyết số 29- NQ/ TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đã
xác định mục tiêu giáo dục theo tinh thần thần đổi mới là phát triển toàn diện năng lực
và phẩm chất của người học. Nghĩa là đào tạo ra những con người có phẩm chất, năng
lực cần thiết như “năng lực công dân, năng lực thực hành và vận dụng kiến thức vào
thực tiễn”. Như vậy hoạt động giảng dạy hiện nay đều hướng đến chất lượng giáo dục
18


đào tạo một thế hệ trẻ có đủ phẩm chất, năng lực cốt lõi góp phần xây dựng đất nước.
Trong đó, hoạt động đào tạo HSG là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm đào
tạo nhân tài cho đất nước. Đào tạo học sinh giỏi ở bậc Trung học phổ thơng là một q
trình mang tính khoa học nghiêm túc, khơng thể chỉ một vài tháng mà phải có tính
chiến lược dài hơi trong suốt cả ba năm học.
Để đạt kết quả tốt cần phải có chiến lược phù hợp của người tham gia công tác
tổ chức và quản lý bồi dưỡng HSG. Thực hiện công tác lựa chọn và phát hiện nhân tố
ưu tú trong đội ngũ thầy cơ, tin tưởng giao phó trách nhiệm đào tạo. Tổ chức tuyển
chọn HSG căn cứ vào kết quả năm học trước, căn cứ vào sự lựa chọn của GVBM
giảng dạy trực tiếp. Tiêu chí GV và HS đúng tiêu chuẩn cùng với công tổ chức giảng
dạy và học tập khoa học sẽ quyết định thành bài của hoạt động bồi dưỡng. Trong q
trình bồi dưỡng sẽ có nhiều khó khăn, cán bộ quản lý phải biết nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng, cùng nhau hỗ trợ giúp GV và HS phấn đấu vươn lên.
TTCM cần phải biết gương mẫu trong tất cả các hoạt động giảng dạy. Tích cực
đầu tư sâu về kiến thức chuyên môn, không ngừng bồi dưỡng nâng cao tay nghề, cùng
với các thành viên trong tổ tham gia cơng tác bồi dưỡng, chia sẻ khó khăn, giảm bớt áp
lực với giáo viên trong những hoạt động mũi nhọn của nhà trường.
Xây dựng khơng khí thân tình, cởi mở, dân chủ trong buổi trao đổi chuyên môn.
Tránh o ép, thiên vị khi phân công nhiệm vụ cho giáo viên trong tổ. Tăng cường khối
đoàn kết, phát huy sức mạnh trí tuệ của tập thể tổ để cùng nhau phát triển.

Có thể nói, trong nhiều năm học qua, tổ Ngữ Văn liên tiếp gặt hái nhiều thành
quả tốt đẹp là nhờ vào sự phấn đấu, tận tâm, tận lực của các giáo viên trong tổ. Với
lòng tự trọng nghề nghiệp không cho phép chúng tôi an phận mà phải biết cầu tiến
vươn lên. Điều mà chúng tôi đạt được khơng chỉ là kết quả HSG mà cịn là tinh thần
đoàn kết, biết quan tâm, chia sẻ với nhau trong công việc, tinh thần thi đua, nhiệt huyết
của tuổi trẻ. Chính vì vậy, nhiều năm liền, tổ Văn ln được nhà trường khen thưởng
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và được lãnh đạo Sở công nhận danh hiệu Tập thể lao
động tiên tiến.
Trên đây chỉ là một số kinh nghiệm bước đầu mà bản thân đã thực hiện trong
quá trình quản lý hoạt động trong những năm học qua có hiệu quả. Bài viết chắc cịn
thiếu sót và chưa đầy đủ, mong đồng nghiệp cùng tham khảo và góp ý.
Tơi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.
19


Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến
Người viết sáng kiến

Phùng Cẩm Sa

20



×