Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Bảo hộ và khai thác thương mại quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.78 KB, 16 trang )

29. BẢO HỘ VÀ KHAI THÁC THƢƠNG MẠI QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC
PHẨM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT DÂN GIAN
PROTECTION AND COMMERCIAL EXPLOITATION ON THE COPYRIGHT OF FOLK
ARTISTIC AND LITERARY WORKS
Nguyễn Thị Tuyết Nga1
TÓM TẮT: Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là kết tinh văn hóa truyền thống của
một dân tộc chứa đựng nhiều giá trị to lớn đối với con ngƣời. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đã
ghi nhận tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là một trong các loại hình tác phẩm đƣợc bảo
hộ quyền tác giả. Tuy nhiên, loại hình này có nhiều đặc điểm khác biệt so với các tác phẩm
khác nên việc bảo hộ và khai thác thƣơng mại quyền tác giả cịn gặp nhiều bất cập, khó khăn.
Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian, phân tích những vƣớng mắc hạn chế trong quá trình thực thi pháp luật, từ
đó đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy hiệu quả việc bảo hộ và khai thác thƣơng mại.
Từ khóa: Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, khai thác thƣơng mại, quyền tác giả,
quyền tài sản, cộng đồng
ABSTRACT: Folk artistic and literary works play an important role in the life's
traditional culture of a nation and bring great value to people. Vietnam Intellectual property
stipulates that folk artistic and literary work is a type of protected works by copyright law.
However, this type has special characteristics, the protections and commercial exploitation on
copyright meet difficulties and challenges. This article focuses on analyzing the current status
of the law on copyright for folk artistic and literary works, analyzing limitations on law
enforcement. Therefore, some measures to enhance the protection and commercial exploitation
of folk artistic and literary works
Keywords: Folk artistic and literary works, commercial exploitation, copyright,
community.

1

ThS., Trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh; Emai:

385




1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ của
truyền thông, các hoạt động thƣơng mại du lịch, văn hóa nghệ thuật có sử dụng các chất liệu
dân gian dần trở nên phổ biến và thịnh hành ở nhiều quốc gia đang phát triển trong đó có Việt
Nam. Làm thế nào để khai thác lợi ích kinh tế hiệu quả gắn với việc phát huy và giữ gìn những
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc đặt ra nhiều vấn đề mang tính cấp thiết. Trên thế giới
việc bảo hộ tri thức truyền thống và văn hóa dân gian bằng hệ thống luật sở hữu trí tuệ đã đƣợc
nhiều quốc gia ghi nhận nhƣng lại gây ra những tranh luận trái chiều rõ rệt về bản chất, chủ
thể, phạm vi và thời hạn bảo hộ của loại hình này. Trong khi một số học giả ủng hộ cho việc
bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian nhƣ các đối tƣợng sở hữu trí tuệ thông
thƣờng, một số khác lại đề xuất nên bảo hộ bằng một hệ thống pháp lý khác. Tại Việt Nam,
Luật sở hữu trí tuệ ban hành năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019) đã ghi nhận tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian là một trong những loại hình tác phẩm đƣợc bảo hộ quyền
tác giả.
2. Khái niệm, đặc điểm của tác phẩm phẩm văn học nghệ thuật dân gian
Trong tiếng Anh, từ thông dụng để chỉ về văn hóa dân gian hay văn hóa truyền thống là
“Folklore” và thuật ngữ này đƣợc định nghĩa dƣới nhiều góc độ khác nhau.
Nguồn gốc của từ Folklore đƣợc giải thích là sự hợp thành bởi thành tố “Volk” tức là con
ngƣời, là cƣ dân của một quốc gia và từ “Lore” là truyền thống, kiến thức phổ biến của địa
phƣơng2
Khuyến nghị về Bảo vệ Văn hóa Truyền thống và Văn hóa Dân gian của Unesco năm 1989
có đƣa ra định nghĩa3 “Folklore (or traditional and popular culture) is the totality of traditionbased creations of a cultural community, expressed by a group or individuals and recognized
as reflecting the expectations of a community in so far as they reflect its cultural and social
identity; its standards and values are transmitted orally, by imitation or by other means. Its

2

Graham Dutfield (2003), Protecting Traditional Knowledge and Folklore June 2003, Intellectual Property Rights and

Sustainable Development UNCT AD Issue Paper No. I, International Centre for Trade and Sustainable Development, p.20
3
Unesco
(1989),
Recommendation
on
the
Safeguarding
of
Traditional
Culture
and
Folklore,
truy cập ngày
1/8/2021

386


forms are, among others, language, literature, music, dance, games, mythology, rituals,
customs, handicrafts, architecture and other arts”.
Tạm dịch: Văn hóa dân gian (hay văn hóa truyền thống và đại chúng) là tổng thể các sáng
tạo dựa trên truyền thống của một cộng đồng văn hóa, đƣợc thể hiện bởi một nhóm hoặc cá
nhân và đƣợc công nhận là phản ánh mong đợi của một cộng đồng từ trƣớc đến nay vì chúng
phản ánh bản sắc văn hóa và xã hội của nó; các tiêu chuẩn và giá trị của nó đƣợc truyền miệng,
bằng cách bắt chƣớc hoặc bằng các phƣơng tiện khác. Các hình thức của nó là ngơn ngữ, văn
học, âm nhạc, khiêu vũ, trò chơi, thần thoại, nghi lễ, phong tục, thủ công mỹ nghệ, kiến trúc và
các nghệ thuật khác”.
Tại Việt Nam, thuật ngữ văn hóa dân gian hay văn học dân gian chỉ xuất hiện vào những
năm 50 của thế kỷ XX, cịn trƣớc đó các tài liệu sƣu tầm có liên quan chỉ lƣu hành những tên

gọi riêng lẻ nhƣ truyện đời xƣa, truyện cƣời, truyện cổ tích... Ngƣời sử dụng chỉ mặc nhiên coi
tên gọi về một thể loại có tính bao qt về một bộ phận văn học truyền miệng trong dân gian từ
đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác mà thôi. Sau này, các nhà nghiên cứu
mới dịch từ “folklore” trong tiếng Anh sang Tiếng Việt thành Văn hóa dân gian (tƣơng ứng
với thuật ngữ Folklore theo nghĩa rộng của từ này) bao gồm toàn bộ các lĩnh vực văn hóa vật
thể và phi vật thể của nhân dân (chủ yếu là văn hóa dân gian truyền thống). Bên cạnh đó,
Folklore cịn đƣợc hiểu là văn nghệ dân gian (hay Folklore văn nghệ) bao gồm cả nghệ thuật
tạo hình (nhƣ hội họa, điêu khắc, nặn tƣợng...) và nghệ thuật biểu diễn hay diễn xƣớng (nhƣ
văn học, âm nhạc, vũ đạo, sân khấu dân gian...)4
Thật sự, để đƣa ra một định nghĩa chính thức về “folklore” trong tiếng Anh hay “văn hóa
dân gian” trong tiếng Việt là cơng việc vơ cùng khó khăn, phức tạp khó nhận đƣợc sự đồng
thuận chung của tất cả. Chỉ có thể nhận ra những điểm chung trong các định nghĩa này khi
nhắc đến văn hóa dân gian là những biểu hiện mang tính truyền thống, đặc trƣng mang đậm
bản sắc của một cộng đồng, một dân tộc nhất định.
Chính vì điều này mà Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới Wipo khơng đƣa ra định nghĩa chính
thức nào về “folklore” nhƣng có định nghĩa về những “biểu hiện văn hóa truyền thống”
(Traditional Cultural Expressions) hay “biểu hiện của văn hóa dân gian” (expressions of
folklore nhƣ sau „expressions of folklore‟ as: „… productions consisting of characteristic
4

Trần Tùng Chinh (2013), Tài liệu giảng dạy văn học dân gian Việt Nam, Trƣờng Đại học An Giang, tr. 3

387


elements of the traditional cultural heritage developed and maintained by a community, or by
individuals reflecting the traditional artistic expectations of such a community, in particular:
(i) verbal expressions, such as stories, poetry, signs, symbols and indications; (ii) musical
expressions, such as songs and instrumental music; (iii) expressions by actions, such as
dances, plays and rituals; and tangible expressions, such as paintings, carvings, sculptures,

pottery, mosaic, jewelry, basket weaving, textiles, carpets, handicrafts, musical instruments
and architectural forms”5
Tạm dịch: Biểu hiện của văn hóa dân gian nhƣ các tác phẩm bao gồm các yếu tố đặc trƣng
của di sản văn hóa truyền thống đƣợc phát triển và duy trì bởi một cộng đồng, hoặc bởi các cá
nhân phản ánh kỳ vọng nghệ thuật truyền thống của một cộng đồng đó, cụ thể là: (i) các biểu
hiện bằng lời nói, chẳng hạn nhƣ truyện, thơ, dấu hiệu, biểu tƣợng và chỉ dẫn ; (ii) các biểu
hiện âm nhạc, chẳng hạn nhƣ các bài hát và nhạc cụ; (iii) các biểu hiện bằng hành động,
chẳng hạn nhƣ các điệu múa, vở kịch và các nghi lễ; và biểu hiện hữu hình, chẳng hạn nhƣ
tranh vẽ, chạm khắc, tác phẩm điêu khắc, đồ gốm, đồ khảm, đồ trang sức, đan rổ, hàng dệt,
thảm, đồ thủ công mỹ nghệ, nhạc cụ và hình thức kiến trúc
Trên cơ sở tiếp cận gợi ý của WIPO, tại khoản 1, Điều 23, Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019) đã đƣa ra định nghĩa về “tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian” nhƣ sau:
Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền thống của
một nhóm hoặc các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng
đặc điểm văn hóa và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền bằng cách mô
phỏng hoặc bằng cách khác. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian bao gồm:
a) Truyện, thơ, câu đố;
b) Điệu hát, làn điệu âm nhạc;
c) Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi;
d) Sản phẩm nghệ thuật đồ họa, hội họa, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và
các loại hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào.

5

WIPO (2004), Traditional cultural expressions/expressions of folklore legal and policy options, Intergovernmental
committee on intellectual property and genetic resources, traditional knowledge and folklore Sixth Session, March 15 to 19,
Geneva truy cập ngày ngày 5/8/2021

388



Từ định nghĩa trên của Luật có thể thấy tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian có những
đặc trƣng cơ bản sau đây:
Một là, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian mang tính sáng tạo của tập thể. Tính tập
thể thể hiện qua q trình sáng tác và lƣu truyền tác phẩm trong nội dung và hình thức tác
phẩm. Q trình sáng tác ban đầu có thể do một ngƣời, một nhóm ngƣời tạo ra vì những mục
đích khác nhau. Sau đó các tác phẩm đƣợc các thành viên khác trong cộng đồng làng xã sử
dụng có điều chỉnh, diễn giải, biểu đạt hoặc mô phỏng lại theo ngơn ngữ, theo kỹ năng, hiểu
biết của mình. Q trình này tiếp diễn qua nhiều ngƣời, nhiều vùng miền tạo thành những tác
phẩm với các phiên bản khác nhau. Do đó tác phẩm dân gian đƣợc xem là sản phẩm sáng tạo
chung của tập thể, của cộng đồng
Hai là, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể
hiện tƣơng xứng đặc điểm văn hóa và xã hội của họ. Trong q trình tiếp nhận và lƣu truyền
một tác phẩm nhất định thì chỉ những tác phẩm phù hợp với tâm lý tập thể, với tƣ tƣởng tình
cảm, với khát vọng mong muốn của tập thể, ngƣời ta mới lƣu giữ, chuyển tải lại cho ngƣời
khác, cho thế hệ tiếp nối. Các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian của Việt Nam thƣờng gắn
chặt với các hoạt động sản xuất nông nghiệp, xây dựng, thêu thùa, đan lát, các hoạt động sinh
hoạt thƣờng ngày nhƣ ru con, nhƣ tỏ tình hay các hoạt động mang tính nghi lễ tơn giáo, lễ
hội… Vì thế các tác phẩm này không phải chỉ là văn học - nghệ thuật mà nó cịn là triết lí lịch
sử, luân lí, tín ngưỡng, khoa học thường thức... là kho tàng trí khơn và kinh nghiệm sống của
nhân dân về mọi phương diện (chăn nuôi, trồng trọt, dạy con cái, làm nhà, khí tượng, thiên
văn...)6
Ba là, các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đƣợc lƣu giữ bằng trí nhớ và truyền tải
bằng hình thức truyền miệng hoặc mơ phỏng lại. Đây là cơ chế sáng tạo, truyền bá và tiếp nhận
của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Đối với các tác phẩm thể hiện bằng ngôn từ thì
truyền miệng là cơ chế chính. Ngun nhân của cơ chế này có thể do giai đoạn đầu chƣa có
chữ viết hoặc các tác phẩm thƣờng ra đời trong lúc ngẫu hứng, trong bối cảnh sản xuất, sinh
hoạt đời thƣờng, trong các buổi hát hò, đối đáp hay trong các câu chuyện kể của bà cháu, của
hàng xóm láng giềng nên việc ghi chép lại là không cần thiết…cũng nhờ tính truyền miệng này

lại mang đến cho các tác phẩm văn học dân gian những giá trị độc đáo riêng nhƣ phát huy tối
6

Hoàng Tiến Tựu (1990), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, tr.15

389


đa vỏ âm thanh của ngôn từ, tạo ra sự sống động, thực chất gắn với một bối cảnh cụ thể. Đối
với các loại hình nghệ thuật dân gian khác nhƣ vở diễn, nghi lễ, nhạc cụ… thƣờng đƣợc lƣu
truyền lại bằng các phƣơng tiện trực quan nhƣ quan sát hoặc bắt chƣớc hoặc thông qua đào tạo,
biểu diễn …
Bốn là, các loại hình của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian rất đa dạng và phong phú
có thể chia thành bốn nhóm gồm: nhóm biểu hiện bằng ngơn từ nhƣ các thể loại ca dao, truyền
thuyết, sử thi, tục ngữ, truyện tiếu lâm…; nhóm biểu hiện bằng âm nhạc nhƣ dân ca, chèo,
tuồng, cải lƣơng, quan họ…; nhóm biểu hiện bằng hành động nhƣ các điệu múa sạp, múa xịe,
các nghi lễ …và nhóm biểu hiện thơng qua vật thể nhƣ tranh vẽ, nhạc cụ, các hàng thủ công
mỹ nghệ…
3. Quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian
Hiện nay, các quốc gia có nhiều quan điểm khác nhau về việc bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Một số ý kiến cho rằng không nên xem tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là một đối
tƣợng đƣợc bảo hộ nhƣ các tác phẩm văn học nghệ thuật khác. Lý giải điều này nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng việc bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian bằng quyền tác giả là
không phù hợp7 bởi các lý do. Thứ nhất, về thời hạn bảo hộ: theo công ƣớc Bern thời hạn bảo
hộ quyền tác gia tối thiểu là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời trong khi
đó có những tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian có tuổi đời lên tới cả ngàn năm. Thứ hai,
về tính nguyên gốc (nguyên bản) của tác phẩm. Để đƣợc bảo hộ quyền tác giả thì điều kiện
tiên quyết là tác phẩm đó phải là sản phẩm do chính tác giả sáng tạo ra một cách độc lập không

sao chép từ chủ thể khác. Các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian lại có tính dị bản, bản
thân việc sáng tạo lƣu truyền các tác phẩm dân gian thƣờng là sự kế thừa, bắt chƣớc biến đổi từ
tác phẩm gốc ban đầu. Thứ ba, về tính định hình của tác phẩm. Các tác phẩm đƣợc bảo hộ
quyền tác giả phải đƣợc thể hiện dƣới một hình thức vật chất nhất định. Tuy nhiên các tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian lại đƣợc lƣu giữ chủ yếu bằng con đƣờng truyền miệng hay
7

Xem Christine Haight Farley (1997), Protecting Folklore of Indigenous Peoples: Is Intellectual Property the Answer,
Connecticut Law Review 30, no. 1, p1-58; Paul Kuruk (1999), Protecting Folklore under Modern Intellectual Property
Regimes: A Reappraisal of the Tensions between Individual and Communal Rights in Africa and the United States, 48 AM.
U. L. REV. 769.

390


mơ phỏng khơng cố định trong một hình thức hữu hình nào. Thứ tƣ, về chủ sở hữu, trong khi
luật bản quyền bảo hộ quyền của cá nhân đối với tác phẩm và bản quyền đƣợc xem là phần
thƣởng khuyến khích thành quả lao động, sáng tạo của cá nhân thì chủ thể của tác phẩm văn
học nghệ thuật dân gian lại mang tính tập thể, tính cộng đồng.
Trái ngƣợc với quan điểm trên, nhiều quốc gia trên thế giới đã ghi nhận tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian là đối tƣợng đƣợc bảo hộ quyền tác giả. Việc bảo hộ các tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian trƣớc hết xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tiễn. Rất nhiều quốc gia
đang phát triển phải đối mặt với tình trạng các di sản truyền thống bị xâm phạm, bị khai thác
thƣơng mại mà không tôn trọng các lợi ích kinh tế, khơng tơn trọng những giá trị văn hóa lâu
đời của nơi mà chúng bắt nguồn. Việc tạo ra một cơ chế pháp lý nhằm bảo vệ các tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gia, chống lại việc sử dụng tự do thậm chí là “chiếm đoạt” các thành
quả sáng tạo của ngƣời bản địa, của cộng đồng địa phƣơng là điều cần thiết. Luật sở hữu trí tuệ
và bản quyền đƣợc xem là cơng cụ phù hợp để bảo vệ hợp pháp các biểu hiện văn hóa truyền
thống. Bởi lẽ, bản chất của các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian và các tác phẩm đƣợc
bảo hộ quyền tác giả khác đều là sản phẩm của q trình sáng tạo. Chúng có hình thức biểu

hiện giống nhau cụ thể nhƣ các bài ca dao, truyền thuyết, sử thi… có cùng hình thức với tác
phẩm văn học; các bài dân ca, cải lƣơng, chèo có cùng hình thức với tác phẩm âm nhạc; các
tranh vẽ, sản phẩm thủ cơng có cùng hình thức với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng…Hơn nữa,
chúng có cùng cách thức khai thác, sử dụng nhƣ công bố tác phẩm, sao chép, định hình bằng
bản ghi âm, ghi hình, làm tác phẩm phái sinh, phân phối nhập khẩu tác phẩm…Mặc dù, tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian có nhiều điểm khơng tƣơng thích hồn tồn với điều kiện
bảo hộ quyền tác giả nhƣng hệ thống pháp luật có thể ghi nhận các điểm khác biệt đó là ngoại
lệ. Việc thiết kế và triển khai một hệ thống pháp lý hoàn toàn mới để bảo vệ các tác phẩm văn
học nghệ thuật dân gian là vô cùng tốn kém8, không thật sự phù hợp và cũng không cần thiết
với điều kiện của các quốc gia đang phát triển hiện nay. Dƣới góc độ pháp luật quốc tế, hiện tại
chƣa có một điều ƣớc quốc tế chính thức nào đƣợc thơng qua về việc bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian nhƣng trong các hội thảo, diễn đàn giữa WIPO và
UNESCO đã có nhiều khuyến nghị về việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
8

Juan Andres Fuentes (2003), Protecting the Rights of Indigenous Cultures under the Current Intellectual Property
System: Is It a Good Idea, John Marshall Review of Intellectual Property Law 3, no. 1, p. 102

391


nghệ thuật dân gian. WIPO cũng đã ban hành nhiều văn bản hƣớng dẫn, đề xuất các điều
khoản mẫu cho các quốc gia khi ban hành các điều luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian9.
Tại Việt Nam, từ năm 2005 khi Luật sở hữu trí tuệ đƣợc ban hành đã có những quy định
liên quan đến việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian và cho
đến nay sau các lần sửa đổi năm 2009, 2019 thì các quy định này khơng thay đổi; Có 2 điều
luật đề cập trực tiếp đến tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là Điều 14 và Điều 23. Cụ thể,
tại khoản 1 Điều 14, Luật đã liệt kê 12 loại hình tác phẩm đƣợc bảo hộ quyền tác giả trong đó
có loại hình tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Tại khoản 1, Điều 23 Luật đã đƣa ra định

nghĩa và phân loại tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian nhƣ phân tích ở phần trên và theo
hƣớng dẫn của Nghị định 22/2018/NĐ-CP thì điều kiện bảo hộ các tác phẩm thuộc loại hình
nghệ thuật ngôn từ đƣợc quy định ở điểm a, khoản 1, Điều 23 và các tác phẩm thuộc loại hình
nghệ thuật biểu diễn nhƣ chèo, tuồng, cải lƣơng, múa rối, điệu hát, làn điệu âm nhạc; điệu múa,
vở diễn, trò chơi dân gian, hội làng, các hình thức nghi lễ dân gian đƣợc quy định tại điểm b, c,
khoản 1 Điều 23 của Luật sở hữu trí tuệ khơng phụ thuộc vào việc định hình. Trƣờng hợp này
đƣợc xem nhƣ là ngoại lệ áp dụng đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian so với điều
kiện bảo hộ các tác phẩm khác là phải thể hiện dƣới một hình thức vật chất nhất định.
Tại khoản 2 Điều 23 Luật đƣa ra yêu cầu “Tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá
trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian”.
Sử dụng tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đƣợc Nghị định 22/2018 giải thích đó là
việc sƣu tầm, nghiên cứu, biểu diễn, giới thiệu giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian, còn dẫn chiếu xuất xứ nghĩa là phải chỉ ra nguồn gốc, địa danh của cộng đồng
cƣ dân nơi tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đƣợc hình thành.
Việc ghi nhận tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là một loại hình tác phẩm đƣợc bảo hộ
quyền tác giả là điều cần thiết và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên với các quy định
trong văn bản Luật và Nghị định hƣớng dẫn nhƣ hiện nay còn khá chung chung, gây lúng túng
trong quá trình thực thi. Pháp luật Việt Nam hiện hành chƣa có quy định về chủ sở hữu của tác
9

Xem
/> /> />
392


phẩm văn học dân gian, chƣa quy định về nội dung bảo hộ và thời hạn bảo hộ cụ thể; thậm chí
các quy định hiện hành cũng gây ra nhiều cách hiểu khác nhau về việc sử dụng tác phẩm văn
học dân gian có phải thanh tốn tiền bản quyền không. Cách hiểu thứ nhất cho rằng, với quy
định của điều 23 Luật sở hữu trí tuệ thì bất kỳ tổ chức cá nhân nào cũng có quyền sử dụng tác

phẩm văn học nghệ thuật dân gian một cách tự do chỉ cần tuân thủ theo việc "dẫn chiếu xuất xứ
của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị đích thực của tác phẩm". Nghĩa là, luật chỉ
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tinh thần đối với tác phẩm dân gian chứ không yêu cầu các nghĩa vụ
kinh tế, bao gồm việc trả tiền bản quyền”10. Cách hiểu thứ hai là việc sử dụng tác phẩm văn học
nghệ thuật phải tuân theo các quy định về bảo hộ quyền tác giả nhƣ các tác phẩm khác bao gồm
cả việc áp dụng các trƣờng hợp “sử dụng tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền” theo
Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ. Đồng nghĩa với việc khi sử dụng tác phẩm trong các trƣờng hợp khác
ngoài phạm vi này phải xin phép và trả tiền bản quyền11.
Trƣớc đây trong trong Nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
có ghi nhận “Ngƣời sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải thoả thuận về việc
trả thù lao cho ngƣời lƣu giữ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian và đƣợc hƣởng quyền tác
giả đối với phần nghiên cứu sƣu tầm, giới thiệu của mình. Tuy nhiên khi Nghị định 22/2018
có hiệu lực từ ngày 10/4/2018 đã thay thế cho Nghị định 100/2006 lại khơng có điều khoản
nào đề cập đến nội dung này.
Rõ ràng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện tại về việc bảo hộ tác phẩm văn học
dân gian bằng hệ thống quyền tác giả cịn nhiều hạn chế cần có những sửa đổi bổ sung để
đảm bảo mục tiêu của việc bảo hộ là gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống,
chống lại việc khai thác sử dụng tác phẩm dân gian một cách bất hợp pháp gây tổn hại hoặc
ảnh hƣởng đến lợi ích kinh tế, lợi ích văn hóa của cộng đồng, của quốc gia dân tộc.
4. Tiềm năng khai thác thƣơng mại quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian tại Việt Nam

10

Tuổi trẻ online, Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm VHNT dân gian còn nhiều tranh cãi , truy cập ngày 31/7/2021
11
Đồn Thanh Nơ (2014), Thực hiện pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm văn học dân gian hiện nay, Luận
án tiến sỹ Luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.30.


393


Việc khai thác thƣơng mại quyền tác giả đối với một tác phẩm văn học nghệ thuật bất kỳ
thƣờng đƣợc thực hiện thông qua việc chuyển nhƣợng quyền sở hữu hoặc chuyển giao quyền
sử dụng tác phẩm. Với những đặc trƣng của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian thì hình
thức khai thác thƣơng mại có thể áp dụng là chuyển giao quyền sử dụng hay nói cách khác là
thực hiện việc cấp phép sử dụng cho các đối tƣợng có liên quan để thu tiền bản quyền.
Hiện nay, nhiều nƣớc trên thế giới đã có quy định về thu tiền bản quyền từ hoạt động cấp
phép sử dụng cho các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đặc biệt là tại các quốc gia châu
Phi. Điển hình nhƣ tại Công gô, các tác phẩm dân gian là di sản quốc gia, một tổ chức đƣợc
gọi là "Body of author" có trách nhiệm thu tiền bản quyền, đại diện cho quyền lợi của tác giả
và giám sát việc sử dụng tác phẩm dân gian. Trƣớc khi trình diễn trƣớc cơng chúng, sao chép,
hoặc phóng tác văn học dân gian vì mục đích thƣơng mại, phải đƣợc cấp phép. Các khoản tiền
bản quyền thu đƣợc từ hoạt động cấp phép đƣợc sử dụng để hỗ trợ cho các tác giả thực hiện
việc sƣu tầm, lƣu giữ và thực hiện các mục tiêu văn hóa và xã hội. Tại Cộng hòa Trung Phi,
Văn phòng Bản quyền Trung Phi (thuộc Bộ văn hóa, nghệ thuật, du lịch và pháp ngữ) là cơ
quan cấp phép khai thác thƣơng mại văn hóa dân gian. Việc khai thác tác phẩm văn học dân
gian mà không đƣợc cho phép trƣớc là vi phạm pháp luật. Tiền bản quyền thu từ việc sử dụng
tác phẩm văn học dân gian đƣợc phân bổ giữa tác giả và văn phịng bản quyền theo cơng thức:
Đối với tác phẩm văn học dân gian thì lệ phí đƣợc chia đơi cho ngƣời biên soạn (sƣu tầm) tác
phẩm và văn phòng bản quyền, đối với tác phẩm chuyển thể từ văn học dân gian thì 75% cho
tác giả và 25% cho Văn phịng bản quyền. Phần kinh phí mà Văn phịng bản quyền thu đƣợc sẽ
sử dụng phần cho các mục đích văn hóa và phúc lợi12. Tại Nigeria, các biểu hiện văn hóa dân
gian là di sản của cộng đồng. Quyền hạn cho phép thực hiện những hoạt động liên quan đến
các biểu hiện văn hóa dân gian đƣợc trao cho Hội đồng bản quyền Nigeria. Bất kỳ tổ chức cá
nhân nào sử dụng các biểu hiện văn hóa dân gian vì mục đích thƣơng mại hoặc mục đích khác
ngồi bối cảnh truyền thống mà không đƣợc sự cho phép của Hội đồng bản quyền đều cấu
thành hành vi vi phạm pháp luật. Ngồi trách nhiệm dân sự thì cá nhân cịn phải chịu trách
nhiệm hình sự dƣới hình thức phạt tiền không quá N100,000.00 (Naira Nigeria) hoặc phạt tù 1


12

Paul Kuruk (1999), Protecting Folklore under Modern Intellectual Property Regimes: A Reappraisal of the Tensions
between Individual and Communal Rights in Africa and the United States, American University Law Review 48, p.769-850

394


năm hoặc cả phạt tù và phạt tiền, đối với tổ chức thì mức phạt khơng q N500,000.00 (Naira
Nigeria)13.
Việt Nam là một quốc gia giàu truyền thống văn hóa, sở hữu đa dạng các loại hình tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian tƣơng tự nhƣ các nƣớc châu Phi nên Việt Nam có nhiều
tiềm năng để khai thác thƣơng mại quyền tác giả đối với các nhóm tác phẩm sau:
Một là, nhóm tác phẩm truyện, thơ, câu đố nhƣ thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, vè,
ca dao, tục ngữ… nhóm tác phẩm này thƣờng đƣợc sử dụng chủ yếu dƣới hình thức làm tác
phẩm phái sinh nhƣ tuyển chọn, hợp tuyển, biên soạn lại để xuất bản. Trên thị trƣờng sách hiện
nay có rất nhiều ấn phẩm về tác phẩm văn học dân gian đặc biệt các thể loại sách về truyện cổ
tích, đồng dao cho trẻ em đƣợc nhiều nhà xuất bản khai thác và phát hành với số lƣợng lớn.
Hai là, nhóm tác phẩm điệu hát, làn điệu âm nhạc. Việt Nam có nhiều loại hình âm nhạc
dân gian gắn liền với các vùng miền đặc trƣng nhƣ chèo, dân ca Bắc bộ, dân ca quan họ Bắc
Ninh, dân ca Phú Thọ, dân ca Thanh Hóa, ví dặm Nghệ Tĩnh, nhã nhạc cung đình Huế, ca Huế,
đờn ca tài tử Nam bộ … Đây là nhóm tác phẩm đƣợc khai thác đa dạng và phong phú nhất.
Các tác phẩm này đƣợc sử dụng để biểu diễn trực tiếp trong các chƣơng trình nghệ thuật, trong
các tour du lịch, đƣợc sử dụng làm MV ca nhạc, làm clip quảng cáo hoặc đƣợc ghi âm, ghi
hình phát sóng trên các phƣơng tiện truyền thơng.
Ba là, nhóm điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trị chơi. Có thể kể các điệu múa nhƣ múa
Xòe của dân tộc Thái, múa sạp của dân tộc Mƣờng, múa Bài Bông của huyện Phú Xuyên – Hà
Nội, múa khăn, múa đội nƣớc của dân tộc Chăm … nghi lễ Then của dân tộc Tày, nghi lễ chầu
văn vùng Bắc trung bộ…các tác phẩm thuộc nhóm này chủ yếu đƣợc sử dụng trong các

chƣơng trình văn hóa, nghệ thuật ; thời gian gần đây đƣợc sử dụng trong các chƣơng trình du
lịch trải nghiệm khám phá văn hóa vùng miền…
Bốn là, sản phẩm nghệ thuật đồ họa, hội họa, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và các
loại hình nghệ thuật khác nhƣ tranh dân gian Đông Hồ của huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh ; nghệ thuật gốm của ngƣời Chăm – huyện Bắc Bình,Tỉnh Bình Thuận, hoa văn trên
trang phục truyền thống của ngƣời Mông Hoa tỉnh Sơn La, dệt thổ cẩm của ngƣời Cơ Tu… các

13

Ikechukwu Magnus Olueze (2000), Protection of Expressions of Folklore as a Vehicle for Cultural Dissemination under
Nigerian Law, International Legal Practitioner 25, no. 2, p. 64-67

395


tác phẩm thuộc nhóm này thƣờng bị sử dụng bất hợp pháp nhƣ làm giả hay sao chép mẫu mã

Trên thực tế, việc sử dụng các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian nói trên đã mang lại
cho các nhà xuất bản, công ty du dịch, công ty tổ chức biểu diễn và các tổ chức cá nhân khác
những lợi ích to lớn về mặt kinh tế trong khi đó các chủ thể này lại khơng thực hiện việc xin
phép cũng nhƣ không thực hiện các nghĩa vụ tài chính nào đối với cộng đồng sở hữu tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc khai thác quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian chƣa hiệu quả nhƣ sự hạn chế trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà
nƣớc, của các tổ chức Hội nghề nghiệp liên quan đến quản lý các tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian, nhận thức của chính quyền địa phƣơng, cộng đồng dân cƣ nơi lƣu giữ tác phẩm hay
nhận thức của xã hội về việc tôn trọng bảo vệ pháp luật quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
dân gian chƣa cao…trong đó ngun nhân chính là xuất phát từ những vƣớng mắc về pháp
luật. Vì vậy bài viết tập trung đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật sau đây.
5. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về khai thác thƣơng mại quyền tác giả đối với

tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian
Từ các phân tích về đặc trƣng của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, thực trạng pháp
luật và tiềm năng khai thác thƣơng mại quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian, chúng tôi cho rằng cần có những quy định riêng biệt chi tiết hơn, cụ thể hơn về pháp luật
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Trƣớc hết, chúng tôi đề xuất nên
bãi bỏ Điều 23 của Luật sở hữu trí tuệ hiện hành vì nhƣ đã phân tích ở trên điều luật này thiếu
tính hệ thống với các điều luật khác về việc bảo hộ quyền tác giả nên gây vƣớng mắc bất cập
trong quá trình thực thi. Thay vào đó chỉ cần giữ lại quy định tại Điều 14 ghi nhận tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian là một trong các loại hình tác phẩm đƣợc bảo hộ và thực hiện việc
ban hành Nghị định hƣớng dẫn về việc bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian nhƣ
khoản 4, Điều 14 đã quy định là “Chính phủ hƣớng dẫn cụ thể về các loại hình tác phẩm quy
định tại khoản 1 Điều này”. Về chi tiết của văn bản hƣớng dẫn có thể cân nhắc các nội dung
sau:
Một là, xác định rõ mục đích và nguyên tắc của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian
396


Mục đích của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là
giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng chống lại sự chiếm
dụng và sử dụng trái phép các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, thúc đẩy sự sáng tạo,
phát triển văn hóa nghệ thuật dân gian trên cơ sở tôn trọng những lợi ích kinh tế, tinh thần của
cộng đồng, của quốc gia, dân tộc.
Nguyên tắc bảo hộ phải đảm bảo phù hợp với các quy định pháp luật của quốc tế và quốc
gia liên quan đến chế định quyền tác giả, đảm bảo sự cân bằng hài hịa lợi ích giữa cộng đồng,
địa phƣơng, lợi ích của ngƣời sử dụng và lợi ích chung của quốc gia dân tộc.
Hai là, quy định về đối tƣợng và điều kiện bảo hộ của tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian
Về đối tƣợng và điều kiện bảo hộ quy định giống nhƣ khoản 1, điều 23 của Luật sở hữu trí
tuệ và khoản 1,2,3 Điều 18, Nghị định 22/2018/NĐ-CP có hiệu lực hiện hành. Các quy định

này đã thể hiện rất cụ thể, chi tiết và rõ ràng.
Ba là, quy định rõ về chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian
Xác định chủ sở hữu quyền tác giả là vấn đề vơ cùng khó khăn và phức tạp do các đặc điểm
rất đặc thù của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian nhƣ tính tập thể, tính dị bản, tính mơ
phỏng. Tuy nhiên, khơng phải vì khó mà khơng có quy định về vấn đề này đƣợc. Pháp luật
Việt Nam hiện tại chỉ đề cập đến nguồn gốc của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là sáng
tạo tập thể mà chƣa chỉ rõ cụ thể là tập thể nào.
Theo kinh nghiệm của các nƣớc trên thế giới thì chủ sở hữu tác phẩm dân gian có thể là
Nhà nƣớc hoặc cộng đồng địa phƣơng và các cá nhân hoặc tổ chức đƣợc công nhận trong các
cộng đồng đó, họ đƣợc ủy thác việc lƣu giữ hoặc bảo vệ tri thức truyền thống và các biểu hiện
văn hóa phù hợp với luật tục và tập quán của cộng đồng. Theo đề xuất của Hội văn nghệ dân
gian Việt Nam thì chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian bao
gồm: Cộng đồng làng xã, nghệ nhân dân gian, ngƣời thực hành, ngƣời nghiên cứu sƣu
tầm14Tuy nhiên theo chúng tôi xuất phát từ các đặc điểm của văn học nghệ thuật dân gian Việt
Nam thì chủ sở hữu quyền tác giả chỉ nên ghi nhận là cộng đồng công xã. Đây là đƣợc xem là
14

Đồn Thanh Nơ (2014), Thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, Luận án tiến
sỹ, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tr.31

397


khuôn viên khởi nguồn sáng tạo, là nơi lƣu giữ truyền bá tác phẩm. Với các chủ thể khác nhƣ
nghệ nhân dân gian, ngƣời thực hành có thể đƣợc bảo hộ quyền liên quan đến quyền tác giả
với tƣ cách là ngƣời biểu diễn; với ngƣời nghiên cứu, sƣu tầm có thể đƣợc bảo hộ quyền tác
giả đối với bộ sƣu tập nghiên cứu của mình nhƣ tác phẩm phái sinh từ tác phẩm gốc là tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Bốn là, quy định về nội dung bảo hộ

Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian cũng cần đƣợc bảo hộ cả quyền nhân thân và quyền
tài sản
Về quyền nhân thân của tác phẩm ngoài việc yêu cầu dẫn chứng xuất xứ cần bổ sung việc
bảo vệ toàn vẹn tác phẩm, cấm sửa chữa cắt xén, xuyên tạc gây ảnh hƣởng đến giá trị tác
phẩm, ảnh hƣởng đến truyền thống, uy tín của cộng đồng đƣợc xem là chủ sở hữu tác phẩm.
Về quyền tài sản của tác phẩm cần quy định về việc phải xin phép trả tiền thù lao khi sử
dụng vì mục đích thƣơng mại đối với các tác phẩm văn học dân gian.
Năm là, quy định về thời hạn bảo hộ
Thời hạn bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là vĩnh viễn không nên giới hạn số
năm cụ thể. Đối với tác phẩm phái sinh của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian thì thời hạn
bảo hộ vẫn áp dụng nhƣ các tác phẩm bình thƣờng.
Sáu là, quy định về tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả quyền liên quan thực hiện việc
cấp phép, thu tiền bản quyền
Với điều kiện hiện tại, việc quản lý quyền đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian
nên giao cho một cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền, cụ thể có thể hình thành một bộ phận phụ
trách quản lý tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian trực thuộc Cục bản quyền tác giả. Vì các
tác phẩm nghệ thuật dân gian của mỗi cộng đồng cũng là di sản văn hóa truyền thống của quốc
gia. Mục đích chính của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm dân gian là phát huy và
giữ gìn văn hóa truyền thống chung của quốc gia dân tộc. Do đó, việc giao cho một cơ quan
Nhà nƣớc có thẩm quyền, có chuyên môn sẽ mang lại hiệu quả thực thi cao hơn so với việc
giao cho một tổ chức, xã hội hoặc cộng đồng địa phƣơng. Về tỷ lệ phân chia số tiền bản quyền
thu đƣợc giữa cộng đồng và cơ quan quản lý hay mức phí bản quyền thu từ các cá nhân tổ
chức có sử dụng tác phẩm văn học dân gian vì mục đích thƣơng mại phải có sự nghiên cứu,

398


khảo sát chuyên sâu hơn để đƣa ra quy định cụ thể phù hợp với mục đích, nguyên tắc bảo hộ,
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam.
6. Kết luận

Bảo hộ và khai thác thƣơng mại quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian là việc cần thiết và có nhiều ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay khi có nhiều hoạt động du
lịch, thƣơng mại nghệ thuật sử dụng loại hình tác phẩm này mà khơng tơn trọng lợi ích kinh tế,
lợi ích tinh thần văn hóa của cộng đồng sở hữu tác phẩm. Trở ngại lớn nhất cho việc khai thác
thƣơng mại quyền tác giả hiện nay là các quy định của pháp luật hiện hành vì vậy cần phải
hồn thiện pháp luật theo hƣớng ban hành Nghị định riêng về việc bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian với các nội dung cụ thể bao gồm mục đích, nguyên tắc
bảo hộ, đối tƣợng bảo hộ, phạm vi bảo hộ, thời hạn bảo hộ và thành lập cơ quan quản lý quyền
tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian trực thuộc Cục bản quyền.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trần Tùng Chinh (2013), Tài liệu giảng dạy văn học dân gian Việt Nam, Trƣờng

đại học An Giang
2.

Christine Haight Farley (1997), Protecting Folklore of Indigenous Peoples: Is

Intellectual Property the Answer, Connecticut Law Review 30, no. 1, p1-58
3.

Graham Dutfield (2003), Protecting Traditional Knowledge and Folklore A

review of progress in diplomacy and policy formulation, International Centre for Trade and
Sustainable Development (ICTSD).
4.

Ikechukwu Magnus Olueze (2000), Protection of Expressions of Folklore as a


Vehicle for Cultural Dissemination under Nigerian Law, International Legal Practitioner 25,
no. 2, p. 64-67
5.

Juan Andres Fuentes (2003), Protecting the Rights of Indigenous Cultures under

the Current Intellectual Property System: Is It a Good Idea, John Marshall Review of
Intellectual Property Law 3, no. 1, p. 102
6.

Đồn Thanh Nơ (2014), Thực hiện pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ đối với tác

phẩm văn học dân gian hiện nay, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
399


7.

Phan Tấn Pháp, Nguyễn Nho Hoàng (2012), Quyền sở hữu trí tuệ đối với tác

phẩm văn học nghệ thuật dân gian, Dân chủ và Pháp luật. Bộ Tƣ pháp, Số 7/2012, tr. 28 32.
8.

Paul Kuruk (1999), Protecting Folklore under Modern Intellectual Property

Regimes: A Reappraisal of the Tensions between Individual and Communal Rights in Africa
and the United States, American University Law Review 48, no.4.
9.


Tuổi trẻ online (2005), Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm VHNT dân gian

còn nhiều tranh cãi , truy cập ngày 31/7/2021
10.

Hoàng Tiến Tựu (1990), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, trang 15

11.

UNESCO (1989), Recommendation on the Safeguarding of Traditional Culture

and Folklore, />URL_ID=13141&URL_DO=DO_TOPIC&URL_SECTION=201.html truy cập ngày
1/8/2021
12.

WIPO (2004), Traditional cultural expressions/expressions of folklore legal and

policy options, Intergovernmental committee on intellectual property and genetic resources,
traditional

knowledge

and

folklore

Sixth

Session,


March

15

to

19,

Geneva, />truy cập ngày 1/8/2021
13.

WIPO (2004), Traditional cultural expressions/expressions of folklore legal and

policy options, Intergovernmental committee on intellectual property and genetic resources,
traditional

knowledge

and

folklore

Sixth

Session,

March

15


to

19,

Geneva, />truy cập ngày 5/8/2021.

400



×