Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SK Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 5-6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.92 MB, 16 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH THĨI QUEN TỰ PHỤC VỤ
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON HẠNH PHÚC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
“ Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”
Thực vậy trẻ em là chủ tương lai của đất nước. Một đất nước muốn phát
triển vững mạnh phải có con người, có đủ sức khoẻ, có trí tuệ đồng thời để đáp
ứng với sự phát triển không ngừng của sự ngiệp giáo dục, việc chăm sóc giáo
dục trẻ mầm non là vơ cùng quan trọng.
Bác Hồ kính u đã nói:
"Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ biết học hành là ngoan."
Đúng như vậy trẻ em như một cây non. Cây non được sự chăm sóc tận tình
của người lớn thì cây sẽ lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này trẻ thành người tốt. Chính
vì vậy ngành học mầm non ln coi trọng sự nghiệp chăm sóc - giáo dục trẻ, đây
là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung.
Muốn thực hiện được nhiệm vụ to lớn này thì mỗi nhà giáo dục, mỗi một cơ
giáo, người mẹ thứ hai của trẻ, thì phải làm sao hình thành cho các cháu bước
đầu có một đức tính tốt để sau này trẻ trở thành người cơng dân tốt.
Đặc biệt là trẻ 5 – 6 tuổi, trẻ thường muốn làm những việc mình thích, hay
bắt chước người lớn và muốn làm người lớn. Bên cạnh đó, phụ huynh thường
ln coi trẻ cịn rất nhỏ và non nớt nên nuông chiều con quá mức, khiến trẻ chỉ
biết hưởng thụ; sau này trở thành người có tính ích kỉ, vụng về, thiếu tự tin trong
cuộc sống. Vì vậy vai trò của người lớn chúng ta là rất quan trọng, đặc biệt đối
với giáo viên mầm non, cô là người hướng trẻ tới những hành vi đúng, tránh xa
những thói hư tật xấu. Một ngày các cháu đến trường với cô từ sáng đến chiều
mọi sinh hoạt học hành, ăn ngủ đều do cô giáo hướng dẫn. Một tay cô giáo
chăm, một tay cơ giáo dạy bảo. Vì vậy cần hình thành cho trẻ thói quen tự phục
vụ ngay từ khi học lớp mẫu giáo.

1




Bản thân tôi là giáo viên mầm non lại trực tiếp giảng dạy trẻ 5 - 6 tuổi.
Ngay từ đầu năm học tơi đã xác định được vai trị và nhiệm vụ của mình sẽ là
người hướng lái cho các cháu có một thói quen tốt, một nề nếp tốt. Trong thời
gian đầu q trình làm quen, trị chuyện, hoạt động và gần gũi trẻ tôi thấy nhiều
trẻ lớp tôi còn nhút nhát, ỉ lại, lười vân động, các cháu chưa có nề nếp, chưa có
tính tự lập. Mọi hoạt động của trẻ đều do cô giáo phục vụ hay nhắc trẻ làm. Trẻ
chưa có tính tự giác, chưa chủ động trong các hoạt động, chưa phát huy được
tính tự giác của mình. Từ những nhận thức trên là một giáo viên mầm non đang
phụ trách ở lớp trẻ 5 - 6 tuổi, tơi băn khoăn suy nghĩ mình phải làm như thế nào
để giúp trẻ hình thành thói quen tự phục vụ. Vì vậy tơi mạnh dạn tìm “Một số
biện pháp giúp hình thành thói quen tự phục vụ cho trẻ 5 - 6 tuổi tại trường Mầm
non Sao Mai” nhằm giúp trẻ biết tự phục vụ bản thân trong sinh hoạt của mình.
NHỮNG THUẬN LỢI, KHĨ KHĂN
*Thuận lợi
Ban Giám hiệu luôn tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên về chuyên môn, cơ sở
vật chất, đồ dùng trang thiết bị dạy học, động viên sự sáng tạo của giáo viên,
khích lệ chị em ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào các hoạt động chăm sóc giáo
dục trẻ.
Giáo viên nắm vững phương pháp, có trình độ trên chuẩn, sớm được tiếp
cận với các hoạt động giáo dục mầm non mới, được tham gia vào các lớp học
bồi dưỡng chuyên môn của Phòng Giáo dục, của nhà trường, sáng tạo trong cách
dạy và làm đồ dùng, đồ chơi.
Lớp đủ diện tích cho trẻ hoạt động.
Đa số phụ huynh nhiệt tình, quan tâm đến việc chăm sóc dạy dỗ trẻ .
Trẻ 5 - 6 tuổi đã đủ sức khỏe để làm một số cơng việc tự phục vụ bản thân.
* Khó khăn.
Bảng khảo sát đầu năm trong thói quen tự phục vụ hàng ngày của trẻ


Nội dung các hoạt động

Số trẻ

Tỷ lệ %

Thói quen cất đồ dùng đồ chơi

17/34

50

Thói quen tự xúc cơm, cất chén đúng chỗ quy định

13/34

38, 23

Trẻ ngủ nề nếp, biết lấy và cất gối giúp cơ

16/34

47, 05

Trẻ có thói quen lau mặt.

14/34

41, 17


Trẻ có thói quen đánh răng sau khi ăn, sau khi ngủ dậy.

17/34

50

Trẻ có thói quen rửa tay theo 6 bước

19/34

55, 88

2


Qua thực tế của trường, của lớp và của địa phương tơi cịn gặp nhiều khó
khăn như sau:
Số lượng trẻ trong lớp đơng mà lớp chỉ có một giáo viên nên việc rèn luyện
thói quen tự phục vụ gặp nhiều khó khăn.

Một số trẻ khi đến lớp trẻ mang theo thói quen ở nhà, khơng tự giác cất đồ
dùng, đồ chơi mà đợi cha mẹ làm cho.

Khi trẻ ngồi học xong không biết cất đồ dùng, xếp ghế gọn gàng.

Một số trẻ chưa biết cách rửa mặt, rửa tay.
3


Đến giờ ăn, nhiều trẻ chưa biết xúc ăn khiến cơ phải đút cho từng cháu, khi

cơ khơng đút thì trẻ cứ ngồi chờ cô. Ăn xong trẻ chưa biết xếp chén, cất ghế
đúng nơi quy định.

Giờ ngủ trẻ không biết lấy và cất gối, nệm.

50 % trẻ chưa biết đánh răng sau khi ăn xong và sau khi thức dậy.
4


Một số trẻ chưa học qua lớp Chồi nên các kỹ năng tự phục vụ của trẻ hầu
như khơng có mà hồn tồn phụ thuộc vào bố mẹ và cơ giáo.
Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi bé việc rèn thói
quen tự phục vụ cho trẻ chưa quan trọng nên ở nhà các cháu được nng chiều
muốn gì được nấy, nên trẻ có thói quen ỉ lại .

Nhiều phụ huynh cho con nghỉ học thường xuyên khiến việc rèn trẻ lại càng
khó khăn hơn.
Những thực trạng trên gây khó khăn trong việc rèn luyện thói quen phục vụ
cho trẻ 5 - 6 tuổi.
II. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Để khắc phục những khó khăn trên thì vấn đề rèn luyện thói quen tự phục
vụ ban đầu cho trẻ phải được chú trọng thường xuyên liên tục, ở lứa tuổi này
giáo viên là người quan trọng nhất vì thời gian trẻ ở trường với cơ nhiều hơn
thời gian trẻ ở nhà với cha mẹ.
Do vậy nhiệm vụ chính của tơi là làm sao tìm ra hình thức rèn luyện thói
quen tự phục vụ cho trẻ phù hợp nhất và sử dụng hình thức một cách tốt nhất.

5



1. Bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn về việc rèn luyện thói quen
tựu phục vụ cho trẻ ( 5-6 tuổi).
Muốn đưa chất lượng về việc rèn luyện thói quen tự phục vụ cho trẻ đạt
hiệu quả cao, xuất phát từ tình hình thực tế, dựa vào đặc điểm sinh lý của trẻ để
đi sâu nghiên cứu, tìm tịi, tham khảo những tài liệu có nội dung về đề tài, học
hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, của bản thân, nhận thức đúng đắn, hiểu được
tầm quan trọng của vấn đề, nắm vững tình hình cụ thể của lớp, của trẻ. Tích cực
tham khảo qua tài liệu, sách báo, internet, tạp chí giáo dục mầm non, cần chịu
khó kiên trì và sáng tạo trong từng bài dạy, từng tiết học và sáng tạo trong việc
làm nhiều đồ dùng đồ chơi cho trẻ…Xác định rõ những khó khăn và điều kiện
thuận lợi của nhà trường, của lớp, của bản thân. Từ đó tìm ra biện pháp thực
hiện hữu hiệu nhất.

2. Cơ làm gương cho trẻ:
Hàng ngày trẻ đến lớp phần lớn thời gian trong ngày trẻ được học tập và
sinh hoạt cùng cô. Cô giáo vừa là bạn vừa là người mẹ hiền thứ hai của trẻ cùng
chơi, cùng học, chăm chút cho trẻ từ bữa ăn, giấc ngủ. Vì vậy vai trị của cơ giáo
6


rất quan trọng trong việc hình thành những thói quen, nề nếp cho trẻ. Cô là tấm
gương cho trẻ noi theo.

Ở lớp, việc sắp xếp, trang trí lớp phải sạch sẽ, ngăn nắp, đẹp.

Khi đến lớp cô giáo cất gọn gàng túi sách, mũ, dép và khi trẻ đến thấy cô
xếp gọn gàng trẻ sẽ xếp gọn gàng theo cô.
Trong giờ học khi dạy học xong cô cất gọn gàng đồ dùng của cô và nhắc trẻ
xếp gọn gàng đồ dùng của trẻ vào đúng nơi quy định .
Ví dụ :

- Các bé ơi! Mình treo cặp ở đâu?
- Cây bút chì màu phải để trong hộp bút nhé.
Trong mọi hoạt động học tập, sinh hoạt cô giáo luôn là tấm gương trong
việc giữ gìn sạch sẽ mơi trường, lớp học. Không vứt rác bừa bãi, bỏ rác vào
đúng nơi quy định.
7


Thường xuyên cùng trẻ vệ sinh trong và ngoài lớp học, lau dọn đồ dùng đồ
chơi, nhổ cỏ, nhặt rác quanh lớp học, sân trường. Khi được giúp cô trẻ thấy
mình được làm việc có ích, thích được làm việc, từ đó hình thành cho trẻ một
thói quen, nề nếp giữ gìn vệ sinh chung.

Ví dụ:
- Trước giờ ăn cơ rửa tay trước khi chia cơm và nhắc trẻ rửa tay sạch sẽ
theo 6 bước trước khi ăn cơm. Ăn cơm xong nhắc trẻ cất ghế, cất bát, lau mặt,
uống nước, đánh răng.

8


\

- Rèn cho trẻ thói quen rửa tay bằng xà phòng khi tay bẩn, trước khi ăn, sau
khi đi vệ sinh.

- Khi trẻ chơi xong nhắc trẻ cất dọn đồ chơi đúng nơi quy định.

9



Hình thành cho trẻ nề nếp gọn gàng, dần dần trẻ có một thói quen tốt làm
đâu gọn đấy.
3. Rèn thói quen tự phục vụ trong mọi hoạt động, mọi lúc, mọi nơi.
Mỗi ngày đến lớp trẻ đều được tham gia với các nội dung hoạt động: giờ
ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập, vui chơi, giờ đón, giờ trả trẻ... mọi sinh hoạt đều là
những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này để đưa các cháu vào
nề nếp thói quen khơng phải là chuyện dễ và đơn giản. Muốn tạo cho trẻ có
được thói quen thường xuyên cô phải luôn nhẹ nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ
để uốn nắn trẻ hoặc thơng qua bài hát, bài thơ, câu chuyện, trị chơi,…có nội
dung nói về nề nếp, thói quen, cơ cũng có thể sử dụng để trẻ phần nào liên hệ tới
bản thân mà ngoan hơn và biết vâng lời cô giáo. Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ
của cô, trẻ được uốn nắn kịp thời thường xuyên, liên tục do đó việc rèn luyện
thói quen tự phục vụ cho trẻ trong mọi hoạt động mọi lúc, mọi nơi mang lại hiệu
quả cao hơn, các cháu ngoan và nề nếp hơn.
Giờ đón trẻ, khi trẻ đến lớp cô nhắc nhở trẻ chào cô, chào cha mẹ, cất đồ
dùng cá nhân : dép, cặp, mũ,…đúng nơi quy định.
Giờ thể dục sáng, cô nhắc trẻ dọn dẹp đồ chơi ra sân tập thể dục.
Trong giờ hoạt động ngồi trời, cơ hướng dẫn để trẻ biết tự lấy đồ chơi ra
chơi và cất đồ chơi đúng chỗ khi chơi xong.
Giờ họat động có chủ đích cơ giáo kết hợp giáo dục rèn luyện thói quen tự
phục vụ, giáo dục ý thức sử dụng đồ dùng đồ chơi.
Ví dụ: Trong giờ phát triển nhận thức (Làm quen với Tốn) cơ nhắc trẻ cất
rổ đồ dùng sau khi dùng xong.
Qua bài thơ, bài hát rèn cho trẻ thói quen khi chơi xong biết cất dọn đồ chơi
và để đúng nơi qui định.
Ví dụ:
“Bạn ơi hết giờ rồi
Nhanh tay cất đồ chơi,
Nhẹ tay thôi bạn nhé.

Cất đồ chơi đi nào”.
Hoặc :
“Giờ chơi hết rồi.
Nào các bạn ơi.
Ta cùng cất dọn
Đồ dùng đồ chơi
Vào nới quy định”.
Trong các tiết học cơ ln khuyến khích động viên trẻ tự tin, mạnh dạn, biết
hoạt động độc lập và hoàn thành sản phẩm của mình. Cơ giáo là người dẫn dắt
trẻ hoạt động từ đó trẻ nắm được vai trị, nhiệm vụ của mình. Trẻ hứng thú và
10


tích cực hơn hoạt động vận động nhanh nhẹn hoạt bát hơn, rèn luyện sự khéo léo
của đôi bàn tay. Phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, trẻ sẽ chủ động trong mọi
hoạt động không ỉ lại người khác. Biết tự mình hồn thành một bức tranh theo ý
tưởng của mình, một bài tập, một vai chơi. Mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình về
một sự vật hiện tượng.
Ví dụ:
- Trong giờ tạo hình, trẻ biết tự mình hồn thành bức tranh vẽ ngơi nhà.
- Qua câu chuyện, bài thơ trẻ biết nhận xét những việc làm tốt, chưa tốt.
Từ các mơn học giáo dục trẻ có nề nếp, thói quen tốt, biết lấy và cất đồ
dùng đồ chơi đúng nơi quy định, giữ gìn đồ dùng đồ chơi. Sắp xếp đồ dùng đồ
chơi ngăn nắp gọn gàng. Biết làm những việc tự phục vụ mình. Hình thành cho
trẻ một thói quen tốt .
Ví dụ:
- Trong giờ phát triển nhận thức ( Khám phá môi trường xung quanh ) Chủ
đề: Bản thân - tìm hiểu về các bộ phận cơ thể, cơ giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ
sinh cá nhân biết lấy khăn lau mặt, lau tay.
- Giờ phát triển thẩm mỹ (Âm nhạc): Bài hát “ Thật đáng yêu" , giáo dục trẻ

biết đánh răng, rửa mặt sau khi thức dậy.
- Trong giờ phát triển ngôn ngữ ( Làm quen với tác phẩm văn học ): Bài thơ
“ Cơ dạy ” Giáo dục trẻ giữ gìn đôi bàn tay sạch sẽ, biết rửa tay khi tay bẩn.
Cô cũng thường xuyên phân công và theo dõi trẻ trực nhật, nói rõ vai trị
của những trẻ trực nhật. Người thực hiện nhiệm vụ trực nhật phải làm chu đáo
và có trách nhiệm với việc được phân cơng. Tổ trực nhật trong giờ học sẽ lấy đồ
dùng phát cho các bạn, thu dọn và cất đồ dùng đồ chơi. Rèn cho trẻ thói quen nề
nếp, sự cố gắng, sáng tạo và đề cao tinh thần trách nhiệm của mình với tập thể
Ví dụ : Cơ cho trẻ phát bút, lấy vở, xếp bàn ghế, lau bảng, thu bài…
Trong giờ hoạt động góc cơ nhắc trẻ lấy, cất đồ dùng gọn gàng, động viên
trẻ hồn thành vai chơi.
Ví dụ:
- Góc Phân vai (Cô bán hàng vui vẻ): Trẻ biết tự bày hàng ra bán, chơi xong
biết cất đồ dùng, đồ chơi lên kệ.
- Góc xây dựng trẻ hồn thành cơng trình, khơng bỏ dở cơng trình của
mình.
Ngay trong giờ ăn, ngủ, đi vệ sinh cần hình thành cho trẻ thói quen rửa tay,
lau mặt, đánh răng .
Vi dụ: Trước giờ ăn cô cho trẻ rửa tay theo 6 bước:
- Bước 1: Làm ướt 2 bàn tay bằng nước sạch, xoa xà phòng vào lòng bàn
tay. Chà sát hai lòng bàn tay vào nhau.

11


- Bước 2: Dùng ngón tay và lịng bàn tay cuốn xoay lần lượt từng ngón của
lịng bàn tay kia và ngược lai.
- Bước 3: Dùng lòng bàn tay này chà sát chéo lên mu bàn tay kia và ngược
lại.
- Bước 4: Dùng đầu ngón tay của bàn tay này miết vào kẽ giữa cuả bàn tay

kia và ngược lại.
- Bước 5: Chụm 5 đầu ngón tay của bàn tay này cọ vào lòng bàn tay kia
bằng cách xoay đi xoay lại.
- Bước 6: Rửa cho tay sạch hết xà phịng dưới nguồn nước sạch. Lau tay
khơ bằng khăn sạch.
Ngồi rửa tay, cô cũng hướng dẫn và cho trẻ thực hiện việc đánh răng đúng
quy trình.
Giờ ngủ cơ nhắc nhở trẻ tự lấy gối nằm ngủ, cất gối và đánh răng sau khi
ngủ dậy.
Giờ vệ sinh- trả trẻ, trẻ biết tự thay và gấp quần áo cất vào cặp. Biết chào cô
giáo, cha mẹ, lấy đồ dùng cá nhân về.
Để hình thành cho trẻ khả năng tự kiềm chế, thói quen tự phục vụ trong các
giờ hoạt động ngoài trời, vệ sinh cá nhân cô luôn là người hướng dẫn và thực
hiện cùng trẻ. Cô vừa hướng dẫn, vừa làm vừa trị chuyện với trẻ tạo cho trẻ mơi
trường gần gũi, thân mật và từ đó trẻ tự tin, mạnh dạn và hoạt bát hơn.
Ví dụ: Cơ cùng trẻ nhổ cỏ, chăm sóc cây cảnh, nhặt rác sân trường, lau rửa,
sắp xếp giá đồ chơi, gấp chăn, chiếu, tự rửa mặt phơi khăn…
Như Bác Hồ đã nói: “ Tuổi nhỏ làm việc nhỏ tuỳ theo sức của mình ”. Vì
vậy tơi ln khuyến khích động viên trẻ tự hoạt động, tự phục vụ bản thân mình
từ những cơng việc nhỏ nhất. Và từ đó hình thành cho trẻ có thói quen tự phục
vụ.
Tóm lại: Trong việc rèn luyện thói quen tự phục vụ cho trẻ khơng phải nói
mà có được, mà cơ giáo là người phải thật sự nhiệt tình, nhẹ nhàng dìu dắt trẻ
dần dần từng bước, nhẹ nhàng, ân cần, âu yếm với trẻ để trẻ coi cô là người mẹ
thứ hai của trẻ, để trẻ tự tin hứng thú thực hiện các công việc tự phục vụ bản
thân.
4. Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày.
Trẻ giai đoạn 5- 6 tuổi với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ phát triển mạnh, trẻ
hay tò mò và thích bắt chước người lớn, giáo viên phải ln tôn trọng trẻ và hết
sức công bằng, sử dụng khen, chê đúng mực. Khen và chê có tác dụng mạnh đến

hành vi vâng lời của trẻ, nhưng không nên khen quá đáng mà chê trách chung
chung khiến trẻ mất lòng tự ái.
Ví dụ: Cơ khen những trẻ biết tự xúc cơm ăn: Hôm nay bạn Tiến Thịnh rất
giỏi, đã tự xúc cơm ăn .

12


Trong mọi việc làm của trẻ cô kịp thời khen ngợi trẻ “ Con giỏi lắm, con đã
lớn thật rồi ”. Tạo cho trẻ một ý nghĩ mình đã lớn đã làm được nhiều việc và
mình là người có ích. Từ đó trẻ sẽ hoạt động tích cực hơn, hứng thú hơn.
Thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện và mọi lúc mọi nơi, cũng có thể
giúp trẻ có thói quen nề nếp tốt hơn hoặc cơ khơng nên chê trẻ trước tập thể lớp,
mà nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ về một số nề nếp chưa tốt hay trong lớp còn
một vài cháu hay nhõng nhẽo, không nghe lời cô do sự nuông chiều của ông bà,
bố mẹ. Vào ngày cuối tuần cô giáo sẽ tun dương trước lớp các bạn ngoan,
khơng khóc nhè, các bạn có ý thức tốt biết giữ gìn vệ sinh thân thể, biết cất đồ
chơi vào đúng nơi qui định.
Ví dụ: Cô thấy bạn Minh, bạn Vy, bạn An rất giỏi hôm nay đã biết tự đánh
răng sau khi ăn xong, cả lớp khen bạn nào.
Do được cô tạo điều kiện giúp đỡ, rèn luyện mà mà tính ỉ lại của trẻ mất
dần và trẻ đã thực sự biết làm một số công việc tự phuc vụ cho bản thân.
5. Tuyên truyền phối hợp với phụ huynh.
Để phụ huynh hiểu đựơc tầm quan trọng của việc giúp trẻ có những thói
quen tự phục vụ cho trẻ, cơ giáo cần phải kết hợp mơi trường giáo dục với mơi
trường gia đình bằng cách tuyên truyền, trao đổi. Từ đó giúp trẻ hình thành thói
quen tự phục vụ ở nhà và ở trường.
Muốn làm được điều đó tơi đã phải lên kế hoạch rõ như:
Trong các giờ đón và trả trẻ, cơ trao đổi và nắm bắt tình hình của các cháu
ở nhà và từ đó cơ sẽ có những biện pháp với từng trẻ.

Tổ chức họp phụ huynh đầu năm cô thơng báo đặc điểm tình hình trường
lớp, nội dung dạy trẻ 5 - 6 tuổi, nhấn mạnh điểm khó khăn của lớp để kịp thời
cùng phụ huynh uốn nắn trẻ.
Ngoài góc trao đổi với phụ huynh hàng tháng, cơ giáo cịn có trách nhiệm
trao đổi với phụ huynh bằng sổ bé ngoan.
Tuyên truyền với phụ huynh về sự phát triển của trẻ, nội quy, nề nếp lớp
học. Trao đổi thực tế nhận thức và khả năng của từng cháu cho phụ huynh thấy
khả năng của con mình và từ đó tìm ra giải pháp tốt nhất để hình thành cho trẻ
một thói quen tự phục vụ bản thân.
Cơ trao đổi, giải thích cho phụ huynh hiểu tầm quan trọng của việc hình
thành cho trẻ thói quen tự phục vụ, khuyến khích phụ huynh để trẻ tự làm một
số cơng việc tự phục vụ như: tự đánh răng, rửa mặt, lấy chén, xếp ghế,….và
không nên làm hộ trẻ để trẻ không ỉ lại. Phụ huynh động viên trẻ biết giúp cha,
mẹ những công việc nhà vừa sức với trẻ như trông em, nhặt rau, quét nhà…và
khen ngợi khi trẻ làm. Nhắc nhở phụ huynh không cho cháu nghỉ học nhiều. Cô
thường xuyên trao đổi với phụ huynh để nắm bắt được tình hình của trẻ để động
viên, khuyến khích trẻ kịp thời.
Ví dụ: Trong giờ nêu gương cơ nêu tên những bạn chăm ngoan biết giúp đỡ
bố mẹ để các bạn noi theo.
13


Xây dựng tốt góc tuyên truyền tại lớp, thường xuyên thay đổi nội dung
tuyên truyền để phụ huynh nắm được thơng tin chính xác và gần nhất.
Thơng báo lịch sinh hoạt hàng tuần để phụ huynh kết hợp dạy trẻ ở nhà.
Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về những trường hợp cá biệt để phụ
huynh có kế hoạch giáo dục trẻ thêm.
III. KẾT QUẢ VÀ VIỆC PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG VÀO THỰC TIỄN
1. Kết quả :
Sau thời gian thực hiện các biện pháp trên, tôi nhận thấy kết quả đạt được

như sau:
* Đối với giáo viên:
- Bản thân tôi đã nhận thức về tầm quan trọng của việc rèn luyện thói quen
tự phục vụ cho trẻ 5-6 tuổi.
- Khác hẳn với trước đây, việc hình thành rèn luyện thói quen tự phục vụ
cho trẻ 5 – 6 tuổi đã dễ dàng hơn nhiều.
* Đối với trẻ:
- Kết quả so sánh về việc thực hiện một số hình thức rèn luyện thói quen tự
phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ :

Số trẻ

Tỷ lệ

đầu
năm

Tỷ lệ %

Số trẻ
cuối năm

Thói quen cất đồ dùng đồ chơi

17/34

50

33/34


97, 05

Thói quen tự xúc cơm, cất chén
đúng chỗ quy định

13/34

38, 23

32/34

94, 11

Trẻ ngủ nề nếp, biết lấy và cất gối
giúp cơ

16/34

47, 05

33/34

97, 05

Trẻ có thói quen lau mặt.

14/34

41, 17


32/34

100

Trẻ có thói quen đánh răng sau khi
ăn, sau khi ngủ dậy.

17/34

50

34/34

100

Trẻ có thói quen rửa tay theo 6
bước

19/34

55, 88

33/34

100

Nội dung các hoạt động

%


Ngoài những kết quả nêu trên đa số trẻ đến lớp đã biết tự thay và gấp quần
áo cất vào cặp.
Biết giữ gìn lớp học, đồ dùng, đồ chơi sạch sẽ.
14


Trẻ biết kê ghế trước các giờ học, giờ ăn.
Biết tự đi vệ sinh khi thấy có nhu cầu.
Trẻ biết nhặt rác, bỏ rác vào thùng rác, tự rửa tay, chân khi thấy bẩn.
* Đối với phụ huynh:
Phụ huynh vui mừng, phấn khởi khi về nhà trẻ đã biết tự phục vụ bản thân
như: Tự thay và mặc quần áo, sau khi chơi biết cất đồ chơi, trước khi ăn biết rửa
tay, sáng ngủ dậy biết đánh răng,..
Phụ huynh hưởng ứng cùng giáo viên, như mang hình ảnh trẻ làm cơng việc
nhỏ ở gia đình cho cơ kịp thời động viên trẻ :
Ví dụ : Bạn Khoa hơm nay biết tự rửa tay, đánh răng rửa mặt rất giỏi, các
bạn hoan hơ nào !..
Phụ huynh có điều kiện trao đổi với nhau nhiều hơn trong việc giáo dục trẻ
lao động tự phục vụ, chương trình phát thanh tuyên truyền của trường vào buổi
chiều được phụ huynh hưởng ứng một cách tích cực.
2. Phổ biến ứng dụng:
Từ kết quả trên nhà trường đã áp dụng rộng rãi sáng kiến cho các lớp khối
Lá trường Mầm non Sao mai qua các chuyên đề.
Theo tơi để rèn luyện thói quen tự phục vụ trong sinh hoạt hằng ngày cho
trẻ đạt kết quả tốt, trước hết cơ phải là người có tâm huyết với nghề, ln có ý
thức học hỏi, trau dồi kiến thức chun mơn. Ln tìm tịi nghiên cứu các
phương pháp, hình thức để dạy trẻ phù hợp và đạt kết quả cao.
Rèn cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt quan tâm đến trẻ chậm, trẻ cá biệt,
không phân biệt giữa các trẻ.
Nghiên cứu tham khảo tài liệu, không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ

chun mơn.
Bản thân giáo viên luôn là tấm gương tốt, mẫu mực trong mọi hoạt động:
Lời ăn, tiếng nói, việc làm.
Giáo viên trao đổi thường xuyên với phụ huynh những gì trẻ làm được và
chưa làm được để cùng tìm ra nguyên nhân và cách dạy trẻ tốt nhất.
Giáo viên luôn tạo cơ hội cho trẻ tự làm các việc phù hợp với khả năng của
trẻ và có hành vi văn hóa.
Trên đây là một số kinh nghiệm đã triển khai thực hiện tại lớp tôi (5 – 6
tuổi). Qua đây tôi rất mong được các cấp lãnh đạo và bạn đồng nghiệp đọc, góp
ý, xây dựng bổ sung thêm để giúp tơi có được bài học kinh nghiệm tốt hơn để áp
dụng trong quá trình cơng tác của bản thân, đặc biệt nâng cao chất lượng của
việc rèn luyện thói quen tự phục vụ cho trẻ 5 – 6 tuổi ngày một tốt hơn.
Năm Căn, ngày 23 tháng 12 năm 2016
Người viết
15


16



×