Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tài liệu Tiểu luận"Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.8 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

TIỂU LUẬN
Đề tài:


Công ty cổ phần và vai trò của nó trong
phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
I. Khái niệm, sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần 2
II. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay 6
CHƯƠNG II. VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt Nam 9
II. Vai trò công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay 12
III. Thực trạng quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam 13
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH QUÁ
TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
I. Các yếu tố khó khăn và cản trở quá trình hình thành
và cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam 19
II. Các giải pháp và kiến nghị 19
KẾT LUẬN 24
2
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
LỜI NÓI ĐẦU
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành vầ phát triển của
nền kinh tế thị trường . Do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn


đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát
triển mạnh của nền kinh tế thị trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những
năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII , mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là
nước Pháp . Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế , nhất là trong giai đoạn
mà cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Đến
những năm đầu thế kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất phổ biến
ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ
khi đất nước được thống nhất , do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh .
Mặt khác do cơ chế kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà
việc khôi phục nền kinh tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều
hạn chế. Do đó mà đại hội Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của
nền kinh tế Việt nam. Đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, Nó không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc
nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế và quan hệ sở hữu mà còn
làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh tế mới đó là CTCP. Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992 đều khẳng định: Nền kinh tế nước ta hiện
nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều
thành đó, kinh tế quốc doanh được xác định giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần
kinh tế khác hoạt động theo luật và bình đẳng trước pháp luật
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đối với nước ta là tương đối mới.
Trước đây chưa có Luật doanh nghiệp thì nó hoạt động theo Luật công ty. Khi Luật
doanh nghiệp ra đời (tháng 12 năm 1999) thì công ty cổ phần được xác định đầy đủ
và rõ ràng hơn, là một trong 4 loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật
doanh nghiệp. Cũng chính từ đó mà công ty cổ phần phát triển mạnh hơn và ngày
càng phát huy được những ưu thế của nó trong nền kinh tế. So với các loại hình
doanh nghiệp khác thì công ty cổ phần rất có ưu thế trong việc huy động nguồn vốn
nhàn rỗi trong công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường chứng khoán ở
nước ta thì công ty cổ phần là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho sự hoạt động
của thị trường này. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển .

Với vai trò và tầm quan trọng của công ty cổ phần ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay, em mạnh dạn chọn đề tài "Công ty cổ phần và vai trò của nó trong
phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay". Để thực hiện được để tài này em xin chân
thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thày giáo Nguyễn Việt Tiến.
3
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
I. KHÁI NIỆM, SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN
1. Khái niệm
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh
và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình trên cơ sở tự nguyện để
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận
2. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ 16 ở các nước tư bản phát triển như
một nhu cầu khách quan của lịch sử. Trong suốt mấy trăm năm qua các công ty cổ
phần đã chiếm một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Quá
trình lịch sử hình thành và phát triển của hình thức công ty cổ phần trên thế giới có
thể được mô tả theo sơ đồ sau:
2.1. Giai đoạn mầm mống
4
Các giai đoạn hình
th nh CTCP trên thà ế giới
Giai đoạn
mầm mống
- Góp vốn
theo nhóm
bạn
- Hoạt động

liên kết
lỏng lẻo
Giai đoạn
hình th nhà
- Bắt đầu
phát h nh à
cổ phiếu
- Bước đầu
xuất hiện
giao dịch
chứng
khoán
- Hoạt động
có tổ chức
lớn hơn
Giai doạn
phát triển
- Công ty cổ
phần phổ
biến ở các
nước tư bản
chủ nghĩa
-Các hình
thức đa quốc
gia
- Hình th nh à
trung tâm t i à
chính quốc
tế -Giao dịch
chứng khoán

sôi động
Giai đoạn
trưởng th nhà
- Hình thức
công ty xuyên
quốc gia, đa
quốc gia
- Thu hút công
nhân mua cổ
phiếu
- Cơ cấu công
ty cổ phần
ho n thià ện,
pháp luật ho n à
thiện
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Trong những năm đầu của phuơng thức sản xuất TBCN các nhà tư bản lập
ra các xí nghiệp TBCN riêng lẻ, hoạt động độc lập thuê mướn công nhân và bóc lột
lao động làm thuê. Dần dần cùng với sự phát triển của sức sản xuất và chế độ tín
dụng họ đã liên kết với nhau, dựa trên quan hệ nhân thân (gia đình) và chữ tín góp
vốn kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Từ doanh nghiệp nhóm bạn dần dần phát
triển thành doanh nghiệp góp vốn. Năm 1553 công ty cổ phần đầu tiên ở Anh thành
lập với số vôn 6000 bảng Anh phát hành 240 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu là 25 bảng
Anh để tổ chức đội buôn gồm 3 chiếc thuyền lớn tìm đường sang Ấn Độ theo h-
ướng Đông Bắc.
Năm 1801 tại Luân Đôn sở giao dịch chứng khoán chính thức ra đời tạo ra
thị trường chứng khoán. Thị truờng chứng khoán liên quan tới doanh nghiệp cổ
phần bao gồm cả cổ phần tư nhân và doanh nghiệp cổ phần do Nhà nước đứng ra
thành lập. Theo Các Mác "Trong bước đầu của nền sản xuất TBCN một số ngành
sản xuất đòi hỏi một số tư bản tối thiểu mà lúc đó từng cá nhân riêng lẻ chưa thực

hiện được. Tình hình đó dẫn đến Nhà nước phải trợ cấp Mặt khác điều đó cũng
dẫn đến việc thành lập những nơi nắm giữ độc quyền do pháp luật thừa nhận để
kinh doanh trong những ngành công nghiệp và thương nghiệp nhất định". Như vậy
trong giai đoạn này công ty cổ phần có hai loại:
+ Doanh nghiệp góp vốn hoặc doanh nghiệp nhóm bạn
+ Doanh nghiệp do Nhà nước lập bằng hình thức phát hành trái khoán (Ở Mỹ
gọi là cổ phần công cộng) hoặc doanh nghiệp Nhà nước góp vốn.
2.2. Giai đoạn hình thành
Trong nửa đầu thé kỷ XIX các công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời
với hình thức tổ chức và hình thức phân phối riêng của chúng. Những quy định cơ
bản về công ty cổ phần đã ra đời (ở Pháp vào những năm 1806). Công ty cổ phần
được thành lập rộng khắp trong các ngành nghề không chỉ trong thương nghiệp mà
trong giai đoạn trước ở các ngành chế tạo, các lĩnh vực giao thông vận tải đường
sông, đưòng sắt.
Cổ phiếu phát hành có thể bán trao tay, loại giao dịch chứng khoán này có
lúc vượt ra ngoài biên giới quốc gia thu lợi nhuận theo hình thức lợi tức định kỳ.
Một số doanh nghiệp lớn của tư bản tư nhân bắt đầu phát hành cổ phần, tách người
đại biểu quyền sở hữu (hội đồng quản trị) và người kinh doanh (giám đốc) ra làm
hai. Các sở giao dịch chứng khoán cũng hình thành phổ biến ở các nước Phương
Tây tuy nhiên trước những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần còn ít và hình
thức chưa đa dạng, quy mô còn nhỏ.
2.3. Giai đoạn phát triển
Sau những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần phát triển rất nhanh phổ
biến ở tất cả các nước tư bản, các ngành có quy mô sản xuất mở rộng, tập trung tư
bản diễn ra với tốc độ chưa từng có, ra đời các tổ chức độc quyền như Các ten –
Xanh đê ca – Cơ vốt. Các công ty nắm giữ cổ phần khống chế ra đời tạo thành kết
cấu chuỗi. Công ty mẹ công - ty con – công ty cháu hình thành một tập đoàn doanh
nghiệp xuyên quốc gia.
Đến năm 1930 số công ty cổ phần của Anh là 86000, 90% tư bản chịu sự
khống chế của công ty cổ phần. Ở Mỹ 1909 có tổng số 262000 công ty cổ phần.

Đến năm 1939 số công ty cổ phần ở Mỹ chiếm 51,7% trong tổng số các xí nghiệp
nông nghiệp và 92,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
2.4. Giai đoạn hình thành
5
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Sau chiến tranh thế giớ thứ hai công ty cổ phần có những đặc điểm mới:
- Dùng hình thức cổ phần để lập ra các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia để
liên hợp kinh tế và quốc tế hoá cổ phần hình thành các tập đoàn doanh nghiệp quốc
tế
- Thu hút công nhân viên chức mua cổ phần thực hiện " chủ nghĩa tư bản nhân
dân" để làm dịu mâu thuẫn giữa lao động và tư bản đồng thời thu hút vốn một cách
thuận lợi
- Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần tại các nước ngày càng hoàn thiện, pháp luật
ngày càng kiện toàn và mỗi nước đều có những đặc điểm riêng
3. Điều kiện để hình thành công ty cổ phần
Muốn hình thành công ty cổ phần phải có một số điều kiện nhất định trong
đó những điều kiện sau là thiết yếu :
3.1. Tồn tại sở hữu khác nhau về vốn
Công ty cổ phần là công ty có nhiều người đứng sở hữu. Nếu công ty chỉ
thuộc một chủ sở hữu thì dù chủ sở hữu đó là một cá nhân hay một tổ chức thì đó
không phải là công ty cổ phần mà thuộc một loại hình công ty khác có thể là công
ty tư nhân, công ty TNHH một thành viên hay Công ty liên doanh ( nếu chủ sở hữu
là Nhà nước)
3.2. Những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lợi nhuận
Đây là hình thức đầu tư mạo hiểm nhất so với các hình thức đầu tư khác như
mua công trái, trái phiếu, gửi ngân hàng Trong kinh doanh có khả năng bị phá sản
nhưng bù lại là hình thức đầu tư có hứa hẹn nhất và không bị lạm phát với món tiền
lớn
3.3. Lợi nhuận thu được phải có đủ sức hấp dẫn người có vốn tham gia kinh
doanh

Nếu lợi nhuận trong kinh doanh mang lại lớn hơn lợi tức ngân hàng hoặc lợi
tức do đầu tư vào các lĩnh vực khác và lớn hơn đủ mức cần thiết thì người có vốn
mới sẵn sàng góp vốn vào công ty cổ phần để tham gia kinh doanh
3.4. Phải có sự nhất trí thành lập công ty
Những người có vốn muốn tham gia kinh doanh phải thoả thuận được với
nhau để cùng góp vốn và đứng ra thành lập công ty cổ phần trên cơ sở những quy
định của pháp luật. Nếu không thoả thuận được thì công ty cổ phần không thể thành
lập được
4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần
4.1. Cổ phần, cổ phiếu và cổ đông
Vốn của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các
cổ phần. Chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận
quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu có thể
ghi tên hoặc không ghi tên. Giá trị của mỗi cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu. Cổ
phiếu bảo đảm cho người chủ sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty
tương ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu
Một công ty chỉ được phép phát hành một số lượng cổ phiếu nhất định. Cổ
phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi do công ty phát hành hình thành nên vốn cổ phần
của công ty. Cổ phiếu chứng minh tư cách thành viên của những người góp vốn
vào công ty cổ phần, những thành viên này gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua
một hoặc nhiều cổ phiếu. Quyền và trách nhiệm, lợi ích của mỗi cổ đông phụ thuộc
vào số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số lượng cổ phiếu
6
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
khống chế thì có thể nắm được quyền chi phối mọi hoạt động cuả công ty.Theo
điều 51 và 53 của Luật doanh nghiệp Việt Nam thì :
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác trừ cổ đông sở
hữu cổ phần ưu đãi. Và trong ba năm đầu từ khi thành lập công ty cổ đông sáng lập
chỉ được chuyển nhượng cổ phần nếu được sự đồng ý của Đại hội Đồng cổ đông
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn

chế số lượng tối đa
- Cổ đông có hai loại là cổ đông ưu đãi và cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông
có các quyền cơ bản như : tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc thẩm
quyền của Đại hội đồng cổ đông ( mỗi cổ phần có một phiếu biểu quyết), được
nhân cổ tức với mức theo quy định của Đại hội đồng cổ đông Cổ đông hoặc
nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất
là 6 tháng hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định của điều lệ công ty có quyền đề
cử người vào Hội đồng Quản trị và Ban kiểm soát, yêu cầu triệu tập họp Đại hội
đồng cổ đông
4.2. Cơ cấu tổ chức và điều hành hoạt động của công ty cổ phần
Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần nên các cổ đông không
thể trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại
diện làm nhiệm vụ trực tiếp quản lý công ty bao gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng
quản trị, Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát. Đại hội cổ đông là cơ quan quyết
định cao nhất của công ty, là Đại hội của những cổ đông sở hữu đối với công ty cổ
phần. Đại hội cổ đông có 3 hình thức là: Đại hội hội đồng cổ đông thành lập, Đại
hội đồng cổ đông bất thường và Đại hội hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị là bộ
máy quản lý của công ty cổ phần bao gồm những thành viên có trình độ chuyên
môn cao và quản lý giỏi để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ do Đại hội hội đồng cổ
đông giao phó. Số thành viên do Đại hội cổ đông quyết định và được ghi vào điều
lệ của công ty. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định
mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ các vấn đề thuộc
thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng Quản trị tự bầu chủ tịch Hội đồng
và chủ tịch Hội đồng Quản trị có thể kiêm Tổng giám đốc công ty nếu điều lệ công
ty không có qui định khác.
Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và
chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền
hạn được giao. Về thực chất giám đốc điều hành là người làm thuê cho chủ tịch Hội
đồng Quản trị. Giám đốc không làm việc theo nhiệm kỳ mà theo thời hạn hợp đồng
ký kết với chủ tịch Hội đồng Quản trị.

Ban kiểm soát có vai trò giám sát các hoạt động của công ty. Số lượng uỷ
viên kiểm soát theo qui định trong điều lệ của công ty. Những người này không
phải là thành viên của Hội đồng Quản trị và giám đốc.
Phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần: Trong công ty cổ phần quan hệ
phân phối được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đông và phụ thuộc
vào lợi nhuận của công ty. Lợi nhuận của công ty sau khi dùng cho các khoản
chung cần thiết, phần còn lại được chia đều cho các cổ đông tỷ lệ với phần vốn góp
của họ và gọi là cổ tức.
5. Các loại công ty cổ phần trên thế giới.
Ở các nước khác nhau công ty cổ phần có thể khác nhau về tên gọi. Ở Pháp
là công ty vô danh, ở Anh là công ty TNHH ( company Ltd ). Ở Mỹ nó được gọi là
7
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
công ty kinh doanh ( comercial – coorporation). Ở Nhật Bản là công ty chung cổ
phần ( Habusiki Haishu) Tuy nhiên xét về bản chất chung không có gì khác
nhau lớn.
II. VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC
DÂN
1. Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan
Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực
lượng nào mà là một quá trình kinh tế khách quan do các nguyên nhân sau:
1.1. Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ và tập trung tư bản ngày
càng cao
Trong nền sản xuất hàng hoá quy luật giá trị tác động mạnh đến sự cạnh
tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản buộc họ phải tìm cách cải tiến nâng cao trình độ
kỹ thuật nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm tạo cho giá trị
hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn giá trị hàng hoá xã hội thì mới có thể tiếp tục
tồn tại và
phát triển. Điều này thường chỉ những nhà tư bản lớn, có quy mô sản xuất ở mức

độ nhất định mới có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại làm cho năng suất
lao động tăng lên do đó mới có thể thắng được trong cạnh tranh. Còn nhứng nhà tư
bản nào có giá trị hàng hoá cá biệt cao hơn mức giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị
thua lỗ và phá sản. Để tránh điều này các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ vốn
để mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị tạo điều kiện nâng
cao năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm. Song đây là một biện pháp rất khó
thực hiện do việc tích tụ vốn phải mất một thời gian khá dài, vì thế các nhà tư bản
vừavà nhỏ phải thoả hiệp liên minh với nhau để tập trung tư bản cá biệt của họ lại
thành một tư bản lớn đủ sức cạnh tranh và dành ưu thế với các nhà tư bản khác.
Chính từ hình thức tập trung vốn này các công ty cổ phần dần dần hình thành và
phát triển ngày càng mạnh mẽ

8
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
1.2. Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí, của tiến bộ kỹ thuật
tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần hình thành và phảt triển
Công ty cổ phần ra đời rất sớm ( thế kỷ 16) nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ
19 mới phát triển một cách rộng rãi và trở thành phổ biến trong các nước tư bản.
Công ty cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong
nền kinh tế thị trường
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và do trình độ kỹ thuật ngày càng phát
triển cao đòi hỏi tư bản cố định tăng lên và vì thế quy mô tối thiếu mà một nhà tư
bản phải có để có thể kinh doanh trong điều kiện bình thường cũng như ngày càng
lớn hơn. Một nhà tư bản cá biệt không thể đáp ứng được số vốn đó phải có sự liên
minh tập trung nhiều tư bản cá biệt còn đang phân tán trong nền kinh tế bằng cách
góp vốn để cùng kinh doanh. Với sự tập trung vốn như vậy đã hình thành công ty
cổ phần. Mặt khác do kỹ thuật ngày càng phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn đã thu
hút được các nhà tư bản đổ xô vào các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng mới này

bằng cách di chuyển tư bản từ các ngành, lĩnh vực và các ngành kinh doanh kém
hiệu quả. Điều này càng gây ra nhiều khó khăn cho các nhà tư bản khi thực hiện di
chuyển vốn bởi vì họ không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay các xí nghiệp đang có để
thu hồi và chuyển vốn sang xây dựng ngay một doanh nghiệp mới mà chỉ có thể rút
bớt và chuyển dần từng bộ phận mà thôi. Quy luật đó có thể kéo dài và do vậy họ
có thể mất thời cơ. Mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết bằng cách các nhà tư bản cá
biệt liên minh với nhau, cùng nhau góp vốn để xây dựng các doanh nghiệp lớn,
cùng chung mục tiêu đi tìm lợi nhuận siêu ngạch họ đã gặp nhau và nhanh chóng
thoả thuận cùng nhau góp vốn để thành lập công ty cổ phần để cùng kinh doanh
1.3. Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về
quản lý
Sản xuất càng phát triển, trình độ kỹ thuật ngày càng cao, cạnh tranh càng
khốc liệt thì sự rủi ro trong kinh doanh đe doạ phá sản đối với các doanh nghiệp
ngày càng lớn. Để tránh những rủi ro này các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản
của mình tham gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều công ty khác nhau. Điều
này có thể làm cho họ chia sể sự thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Mặt khác
do cùng được một số đông người quản lý nên tập trung phát huy được sức mạnh trí
tuệ của nhiều người trách được rủi ro và thành công hơn trong kinh doanh
1.4. Sự phát triển của tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và
phảt triển
Kinh tế hàng hoá phát triển dẫn tới sự ra đời và phát triển của nhiều loại thị
trường trong đó có thị trường vốn . Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan
hệ tiền tệ mà người chủ sở hữu tiền tệ cho người khác vay trong một thời gian nhất
định để thu hồi một món lời gọi đó là lợi tức
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng có một vai trò to lớn trong quá trình
cạnh tranh làm giam chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.Tín dụng
còn có vai trò, động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần
bởi vì:
-Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể thực hiện được nếu
không có thị trường tiền tệ phát phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và

dân cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
9
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
-Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều
chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi
khi còn do bản thân ngân hàng tiến hành.
Tóm lại, công ty cổ phần là quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự
hình thành và phát triển kinh tế thị trường , nó là kết quả tất yếu của quá trình tập
trung tư bản. nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển nền đại công
nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản.
2.Vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân.
Với những đặc điểm rất riêng của mình công ty cổ phần có vai trò quan
trong đối với việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
- Công ty cổ phần có khả năng tập trung vốn nhanh chóng với quy mô lớn để thực
hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh khổng lồ mà không nhà tư bản riêng biệt
nào có thể tự mình làm nổi. Các Mác đã đánh giá vai trò nàycủa công ty cổ phần
như sau: "Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một nhà tư bản riêng
lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày
nay thế giới vẫn không có đường sắt. Ngược lại qua công ty cổ phần sự tập trung đã
thực hiện được việc đó chỉ trong nháy mắt"
- Công ty cổ phần góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn bởi vì : Thứ
nhất, do hình thức tự cấp phát tài chính bằng huy động vốn đã đề cao trách nhiệm
của doanh nghiệp nâng cao sự quan tâm đến sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Mặt khác
do sức ép của cổ đông do việc đòi chia lãi cổ phần và muốn duy trì giá cổ phiếu cao
trên thị trường chứng khoán khiến doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiêụ quả
sử dụng đồng vốn. Thứ hai, là do lợi nhuận của các công ty cổ phần là khác nhau
trong các lĩnh vực khác nhau thúc đẩy nên có thể dẫn dắt tiền vốn nhàn rỗi từ nhiều
kênh khác nhau trong xã hội vào các ngành, các lĩnh vực có năng suất lao động và
tỷ suất lợi nhuận cao làm cho vốn được phân bổ và sử dụng có hiệu quả trong nền
kinh tế

- Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù đã hạn chế được
những tác động tiêu cực về kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng
khủng hoảng. Chế độ đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của rủi ro thua
lỗ. Vốn tự có của công ty huy động thông qua việc phát hành cổ phiếu là vốn của
nhiều cổ đông do đó san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông. Nhờ vậy khi công ty cổ phần
phá sản hậu quả về mặt kinh tế xã hội được hạn chế ở mức thấp nhất. Cách thức
huy động vốn của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tài chính có
thể mua cổ phiếu, trái phiếu ở các công ty ở nhiều ngành khác nhau nên giảm bớt
được tổn thất khi công ty bị phá sản so với việc đầu tư vào một công ty. Cơ chế
phân bổ rủi ro này đã tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn đầu tư vào
một công ty làm cho nền kinh tế phát triển và có xu hướng ổn định hơn.
- Việc phát hành chứng khoán của công ty cổ phần cùng với việc chuyển nhượng
mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của
thị trường chứng khoán – trái tim của thị trường vốn. Ý nghĩa căn bản của thị
trường chứng khoán là ở chỗ : Đó là nơi các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được
nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, là nơi khai thông các
nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư, là cơ chế phân bổ các
nguồn vốn đầu tư phù hợp với yêu cầu của một nền kinh tế thị trường, và còn là cơ
sở quan trọng để Nhà nước qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt
động của nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu lựa chọn
10
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
- Công ty cổ phần đảm bảo sự tham gia của đông đảo của công chúng, lại có cơ
cấu tổ chức quản lý chắt chẽ, phân định rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kinh
doanh nên đã tạo điều kiện cho người lao động tham gia quản lý công ty một cách
thực sự, sử dụng được những giám đốc tài năng, đảm bảo được quyền lợi, lợi ích và
trách nhiêm của chủ sở hữu, đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, thực
hiện tốt nguyên tắc " ai giỏi nghề gì làm nghề ấy " giúp mọi người được làm việc ở
vị trí thích hợp để có thể phát huy hết tài năng sáng tạo vốn có của mình
- Công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia đầu tư

của nước ngoài. Với một nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển thì việc
đó thu hút nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý thông qua liên doanh liên
kết với nước ngoài là vô cùng cần thiết để phát triển kinh tế trong nước
11
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
CHƯƠNG II

VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành là tất yếu khách quan.
Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện khi nước ta chuyển sang
nền kinh tế nhiều thành phần. Sự hình thành công ty cổ phần ở nước ta là một thực
tế khách quan, một xu hướng tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước la phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy
nước ta cần phải hình thành công ty cổ phần dựa trên một số căn cứ sau :
1.1. Sự hạn chế và kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của một số doanh
nghiệp Nhà nước.
Trong thời gian 10 năm đổi mới một số doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
không hiệu quả còn nhiều hạn chế. Nằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
doang nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Động lực lợi ích
là mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp, của người có vốn cũng như người lao động.
Nó là cơ sở bên trong thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, đòi hỏi phải tìm đến một hình thức kinh tế thích hợp là công ty cổ
phần bởi trong công ty cổ phần quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản được phân
tách rõ ràng nên cơ chế phân phối lợi ích được giải quyết tương đối ổn thoả.
1.2 Nhu cầu cải cách hệ thống DNNN để nâng cao vai trò chủ đạo của Kinh tế
Nhà nước.
Hiện nay khu vực DNNN kinh doanh với hiệu quả rất kém ( Chiếm 70%
tổng số vốn của nền kinh tế xong chỉ tạo ra 40% GDP ). Vì vậy việc cải cách hệ

thống DNNN theo hướng đa dạng hoá sở hữu, cải tiến quản lý và nâng cao hiệu quả
là cấp bách hơn bao giờ hết, bởi có như thế DNNN mới vươn lên giữ vai trò chủ
đạo, đảm bảo cho các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo XHCN, ổn định
chính trị – xã hội và vững bước đi lên XHCN. Một trong những biện pháp cải cách
DNNN hiện nay ở Việt nam là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy quá
trình hình thành công ty cổ phần từ cổ phần hoá DNNN là xu hướng tất yếu hiện
nay.
1.3. Nhu cầu huy động vốn của các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước để
phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH Đất nước.
Đặc biệt của cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần là có thể thu hút các
nguồn vốn quy mô lớn của các ngân hàng đến các nguồn vốn vô cùng nhỏ của các
tầng lớp dân cư. Cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần ở trình độ xã hội hoá rất
cao so với huy động vốn của ngân hàng, đây là cách huy động vốn tiên tiến nhất
phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế hiện đại.
1.4. Sự hình thành công ty cổ phần là sự phát triển hợp với xu thế thời đại
Hiện nay xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước đã diễn ra ở mọi nước trên thế giới . Trong bối cảnh đó, sự giao
lưu, hoà nhập, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia là tất yếu khách quan. Một trong
các hình thức liên kết kinh tế giữa các quốc gia dưới hình thức góp vốn kinh doanh
là công ty cổ phần vì đây là hình thức kinh tế có trình độ xã hội hoá rất cao, phù
12
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quốc tế hoá đời sống kinh tế
của nhiều quốc gia.
2. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt nam
Trong lịch sử hình thành và phát triển có hai phương pháp để thành lập các
công ty cổ phần đó là thành lập mới các công ty cổ phần và cổ phần hoá các doanh
nghiệp Nhà nước đã có.
Do nền kinh tế Việt nam hiện nay có những đặc điểm cụ thể, riêng biệt so
với các các nước khác trên thế giới nên việc thành lập mới các công ty cổ phần

không được chú trọng phát triển. Hiện nay ở Việt nam, kinh tế quốc doanh đang
nắm vai trò chủ đạo, hiện có 7500 doanh nghiệp nhà nước, nắm giữ khoảng 80% tài
sản quốc gia, 90% lao động lành nghề và cán bộ khoa học kỹ thuật, 95% tín dụng
nhà nước. Nhưng có đến 20% -30% doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, ngoài ra
đây còn là khu vực có rất nnhiều tiêu cực như lãng phí , quân liêu làm thất thoát tài
sản Mục tiêu cải cách hệ thống DNNN đẻ nâng cao vai trò chủ đạo của nó trong
nền kinh tế quốc dân đã và đang được đề ra một cách bức bách. Chính việc cải cách
hệ thống DNNN bằng cách cổ phần hoá là con đường khả thi và có hiệu quả nhất
đang được Đảng và Nhà nước ta quán triệt nên chúng ta chỉ tập chung đi sâu vào
việc hình thành các công ty cổ phần bằng cách cổ hoá các DNNN.
Việc cổ phần hoá các DNNN được tiến hành theo ba phương thức sau: một
là giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu theo quy
định nhằm thu hút vốn để phát triển , hai là bán một phần hiện có của doanh
nghiệp, ba là tách một bộ phận của doanh nghiệp đã đủ điều kiện cổ phần hoá.
Từ tháng 11năm 1987 trong Quyết định 217 của HĐBT Chính phủ đã xác
định chủ trương thí điểm bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên các DNNN. Song
phải sang đầu những năm 1990 , chủ trương này mới thực sự được triển khai trong
thực tế. Có thể chia quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta thành ba giai đoạn sau
đây:
Giai đoạn thí điểm (1992-1995) : Thực hiện chỉ thị 202/ CT ngày 8/6/1992 của
chủ tịch Hội đồng bộ trưởng về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty
cổ phần và chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 về xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần
hoá doanh nghiệp và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN.
Trong bước đầu hoạt động , các công ty cổ phần mới thành lập này đều thu được
những kết quả sản xuất kinh doanh khả quan .
Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá (từ tháng 5/1996 đến tháng 6/1998): Từ kết quả
thí điểm của giai đoạn trước, ngày7/5/1996 Chính phủ đã ban hành nghị định 28/CP
về chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần. Nghị định này đã tạo nên
khuôn khổ pháp lý đầy đủ để tiến hành cổ phần hoá DNNN , công tác cổ phần hoá
được các cấp các ngành quan tâm hơn .

Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hoá (từ tháng6\1998): Nghị định 44/CP ngày
29/06/1998 đã thay thế nghị định 28/CP với tinh thần tạo đông lực mạnh mẽ hơn
cho doanh nghiệp và người lao đọng làm ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần
hoá, đơn giản hoá các thủ tục chuyển sang công ty cổ phần. Trong bước đầu hoạt
động , các công ty cổ phần đều phát triển được sản xuất kinh doanh , không những
đảm bao được việc làm mà còn thu hút thêm lao động, thu nhập của người lao động
được nâng cao .
3. Các loại công ty cổ phần ở Việt Nam
13
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Loại công ty cổ phần đầu tiên chúng ta đề cập đến đó là công ty cổ phần
quốc doanh . Đây là một giải pháp để khắc phục khuyết tật của hình thức sở hữu
nhà nước và tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý trong khu vực quốc doanh. Công ty cổ
phần quốc doanh gồm nhiều chủ sở hữu : Nhà nước, những người lao động trực
tiếp trong công ty cổ phần , các cá nhân và các tổ chức khác Một đặc điểm quan
trọng là nhà nước nắm giữ cổ phần khống chế để chi phối các hoạt động của các
công ty cổ phần do đó được gọi là các công ty cổ phần quốc doanh. Người thay
mặt nhà nước với tư cách là một cổ đông trong Hội đồng quản trị có vai trò, quyền
hạn, trách nhiệm rõ ràng hơn so với vai trò chủ sở hữu gắn với bộ máy Nhà nước
và viên chức Nhà nước. Ngoài ra do cũng là công ty cổ phần nên nó có đầy đủ các
vai trò , đặc điểm của công ty cổ phần đã nêu .
Loại công ty cổ phần thứ hai là công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài.
Chúng ta đều biết rằng công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ
đầu tư của nước ngoài. Do đó với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện
nay, sự ra đời của công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài đặc biệt quan trọng.
Điểm khác cơ bản của loại hình công ty cổ phần này sovới công ty cổ phần quốc
doanh đó là sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài vào mọi bộ phận của
công ty. Mặc dù vậy. do nước ta dịnh hướng phát triển một nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước nên trong các công ty cổ phần loại này chủ yếu vẫn là
Nhà nước nắm cổ phiếu khống chế.

Loại công ty cổ phần thứ ba : là công ty cổ phần 100% vốn nước ngoài. Đó
là những công ty cổ phần do các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài lập nên ở Việt
nam. Cũng có thể là một công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài nhưng sau
một thời gian làm ăn, các cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài dần dần nắm
được toàn bộ số cổ phiếu của công ty .
Ta cũng cần phân biệt được công ty cổ phần với công ty hợp doanh và công
ty trách nhiệm hữu hạn – hai loại công ty này đang tồn tại khá phổ biến ở Việt
Nam. Điểm khác nhau cơ bản nhất giữa chúng đó là công ty hợp danh và công ty
TNHH nhiêù thành viên không được phát hành cổ phiếu và trái phiếu trong quá
trình kinh doanh. Trong trường hợp thiếu vốn thì công ty chỉ có thể huy động các
cổ đông góp thêm mà thôi . Việc đóng góp này do Đại hội cổ đông quyết định.
14
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
II. VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
HIỆN NAY
Công ty cổ phần ra đời và phát triển khá sớm ở các nước tư bản chủ nghĩa,
đối với nước ta công ty cổ phần xuất hiện muộn hơn nhiều. Chỉ từ sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI với việc thực hiện chủ trương đổi mới quản lý kinh tế
của Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta
mới bắt đầu xuất hiện một số công ty cổ phần với quy mô nhỏ bé, trình độ thấp và
đang trong giai đoạn sơ khai. Từ đó đến nay công ty cổ phần phát triển tương đối
mạnh mẽ và đã khẳng định được vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế Việt
Nam
Ở nước ta điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển
kinh tế là cần phải huy động được nguồn vốn lớn. Huy động vốn trong nhân dân
vừa là giải pháp cấp bách vừa là giải pháp cơ bản trong chiến lược tạo vốn cho từng
doanh nghiệp hiện nay. Điều này chỉ thực hiện được thông qua công ty cổ phần.
Bởi vì so với công ty cổ phần thì hai hình thức huy động vốn chủ yếu ở nước ta
hiện nay là hệ thống quỹ tiết kiệm và tín phiếu kho bạc còn nhiều nhược điểm ( cả
với người gửi và người đi vay ). Thứ nhất, nếu huy động vốn qua hệ thống tiết

kiệm, tín dụng thì chi phí và lãi suất cao gây khó khăn cho người sử dụng vốn vì
phải thông qua nhiều khâu chi phí nghiệp vụ và lợi tức tăng lên. Huy động vốn
thông qua công ty cổ phần giảm được chi phí không cần thiết tạo điều kiện thuận
lợi cho việc sử dụng vốn cũng như bảo vệ quyền lợi người có vốn. Thứ hai, gửi tiền
vào quỹ tiết kiệm hoặc mua tín phiếu tuy có lãi suất ổn định, hạn chế phần nào rủi
ro nhưng người có vốn hoàn toàn mất khả năng chi phối việc sử dụng vốn, không
được hưởng những may mắn của việc sử dụng đồng vốn đó. Khi mua cổ phiếu, tuy
phải chịu sự rủi ro ở mức độ nhất định nhưng lại được hưởng may mắn mà lúc nào
cũng có trong thương trường. Hơn nữa các cổ đông lại có quyền lực trong Đại hội
cổ đông và khi điều kiện cùng khả năng cho phép họ có thể được bầu vào các cơ
quan lãnh đạo của công ty. Do đó việc mua cổ phiếu hấp dẫn hơn
Ngoài ra công ty cổ phần còn là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự
đầu tư của nước ngoài. Nước ta hiện nay đang cần thiết thu hút vốn đầu tư nước
ngoài cho sự nghiệp phát triển kinh tế, hình thức liên doanh góp vốn cổ phần với
nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam có đủ sức mạnh về mọi mặt vốn, tiềm
lực vật chất kỹ thuật, năng lực quản lý
Hệ thống DNNN ở nước ta hiện nay đang hoạt động kém hiệu quả một phần
vì không xác định rõ ai là chủ sở hữu đích thực. Đây là nguyên nhân gây ra sự lãnh
đạm, thiếu trách nhiệm ,thiếu kỷ cương, kỷ luật của người lao động, sự giảm sút về
năng suất, chất lượng và hiệu quả, thiếu minh bạch trong phân phối thu nhập. Còn
trong công ty cổ phần quyền sở hữu và quyền sử dụng được xác định rõ ràng nên
cơ chế phân phối lợi ích được giải quyết thoả đáng. Lợi ích của người lao động và
người có vốn gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh của công ty nên trở thành
động lực cơ sở bên trong thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty
Hiện nay quá trình cổ phần hoá ở nước ta đang được triển khai khá mạnh
mẽ. Việc hình thành công ty cổ phần thông qua cổ phần hoá góp phần nâng cao vai
trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước bởi chỉ có thế mới nâng cao được hiệu quả của
các doanh nghiệp Nhà nước. Hơn nữa Nhà nước với hình thức tham dự cổ phần của
15

§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
mình có thể nhanh chóng can thiệp nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế thúc đẩy sự phát
triển và điều tiết thị trường một cách có hiệu quả
Công ty cổ phần ra đời còn góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển thị
trường chứng khoán ở Việt Nam. Tháng 7 năm 1998 đã đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Đồng
thời với việc ban hành nghị định 48 /1998 /NĐ-CP về chứng khoán và thị trường
chứng khoán, Chính phủ đã ký quyết định số 127 /1998 /QĐ-TTg về thành lập hai
Trung tâm Giao dịch chứng khoán tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, phát đi
hiệu lệnh khởi động thị ttrường chứng khoán. Thông qua thị trường chứng khoán,
các nhà kinh doanh có thể huy động mọi nguồn tiết kiệm trong dân cư. Nó là cơ sở
quan trọng để Nhà nước thông qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào
hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu đã lựa chọn. Thiếu thị
trường chứng khoán sẽ không có nền kinh tế thị trường phát triển. Song sự ra đời
của nó không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người mà là kết qủa của sự phát
triển chung về kinh tế xã hội, trong đó sự ra đời và phát triển, hoạt động một cách
hoàn hảo của các công ty cổ phần giữ vai trò quyết định.
III. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở VIỆT NAM.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được bắt đầu thí điểm từ cuối
năm 1991. Quá trình cổ phần hoá ở nước ta về cơ bản có thể chia làm hai giai đoạn:
1. Thời kỳ thí điểm cổ phần hoá (6/1992 đến hết năm 1996)
Thực hiện Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, các Bộ, ngành đã hướng dẫn doanh nghiệp
nhà nước đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần. Trên cơ sở số
lượng doanh nghiệp nhà nước đã đăng ký, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng chính phủ) đã chọn 7 doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm
chuyển thành công ty cổ phần, đó là:
1. Nhà máy xà phòng Việt Nam (Bộ công nghiệp)
2. Nhà máy diêm Thống nhất (Bộ công nghiệp)

3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Bộ Nông
nghiệp).
4. Xí nghiệp Chế biến gỗ Lạng Long Bình (Bộ nông nghiệp),
5. Công ty Vật tư Tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại).
6. Xí nghiệp Sản xuất Bao bì (Thành phố Hà Nội).
7. Xí nghiệp Dệt da may Lagamex (Thành phố Hồ Chí Minh).
Sau một thời gian làm thử, 7 DNNN được Chính phủ chọn làm thí điểm đều
xin rút lui, hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá như Lagamex, nhà
máy Xà phòng Việt Nam Hơn 30 doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ tài chính để thí
điểm thực hiện cổ phần hoá và 3 doanh nghiệp nhà nước xin chuyển thành công ty
TNHH theo chỉ thị 84/TTg. Có 5 doanh nghiệp nhà nước được phép chuyển sang
công ty cổ phần, đó là:
1. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ giao thông).
16
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
2. Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (TP Hồ Chí Minh)
3. Công ty cổ phần giầy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp).
4. Công ty cổ phần Chế biến hàng Xuất khẩu Long An (Tỉnh Long An)
5. Công ty cổ phần Chế biến Thức ăn Gia súc (Bộ công nghiệp).
Trong một thời gian thực hiện thí điểm cổ phần hoá, tuy số lượng các doanh
nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần còn ít song giai đoạn thí điểm đã
đem lại một số kết quả đáng chú ý:
• Quá trình thí điểm cổ phần hoá đã huy động được một lượng vốn quan trọng
trong nhân dân. Qua bán cổ phiếu, nhà nước đã thu được 14,165 tỷ đồng tiền mặt
nộp vào Ngân sách. Đây là số vốn quan trọng làm tăng tài sản thuộc sở hữu Nhà
nước để đầu tư vào chiều sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của
hệ thống DNNN
• Tại các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 100% cán bộ công nhân viên tham gia
mua cổ phiếu. Khi người lao động có vốn trong công ty, lợi ích của họ gắn với lợi
ích công ty vì vậy họ làm việc với trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình. Mặt khác

họ cũng yêu cầu Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành phải chỉ đạo và tổ chức
để công ty hoạt động có hiệu quả.
• Hiệu quả của các công ty này tăng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu kinh tế như doanh
thu tăng bình quân 56,9%/năm; lợi nhuận tăng 70,2%; nộp Ngân sách tăng
89%/năm; tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 14,10%.
• Vốn của các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Tính bình quân vốn của
các doanh nghiệp mỗi năm tăng 45%.
• Người lao động trong các doanh nghiệp này tăng 46,8%, thu nhập của người
lao động tăng 20%/năm.
• Nhà nước vẫn giữ được vai trò lãnh đạo doanh nghiệp nhờ duy trì tỷ lệ cổ
phiếu chi phối, giám sát các hoạt động bằng luật pháp và nội dung các điều lệ hoạt
động phù hợp với quy định của Nhà nước.
Tính đến hết thời gian thí điểm cổ phần hoá (hết năm 1996) tổng số doanh
nghiệp nhà nước được chuyển sang công ty cổ phần là 12 doanh nghiệp. Dưới đây
là danh sách các doanh nghiệp và một số chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp đó
sau thời gian cổ phần hoá.
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển GEMADEPT
Chỉ tiêu Đơn vị Trước CPH Sau CPH
1992 1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 11.120 16.530 24.134 47.538 65.046
2. Nộp NS Tr.đồng 3.336 3.750 8.700 16.530 25.117
3. Lãi Tr. đồng 3.400 3.700 8.800 15.200 23.000
4. Thu nhập bình 1000 đồng 850 900 1.200 1.400 2.000
17
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
quân người/tháng
5. Lao động Người 56 320
(Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính.)
Công ty đại lý Liên hiệp vận chuyển chuyển làm dịch vụ vận chuyển từ kho
của người gửi đến kho cuả người nhận bằng các phương tiện đường bộ, đường

thuỷ, đường biển tới các cảng quốc tế. Công ty là một trong những doanh nghiệp
đầu tiên ở nước ta được tiến hành thí điểm cổ phần hoá. Doanh nghiệp này được
chính thức chuyển sang công ty cổ phần vào ngày 01/07/1993. Tổng số vốn điều lệ
của công ty sau cổ phần hoá là 6.207.655.000 đồng được chia thành 31.038 cổ
phiếu với mệnh giá 200.000; trong đó tỷ lệ cổ phần của nhà nước là 18%, của cán
bộ công nhân viên chức trong công ty là 77%, của cổ đông ngoài là 5%. Sau 3 năm
hoạt động kể từ ngày chuyển sang công ty cổ phần, số lao động của công ty tăng từ
56 người (năm 1993) lên 320 người (năm 1996). Doanh thu năm 1996 tăng gấp gần
4 lần so với năm 1993, nộp ngân sách của công ty cũng tăng từ 3.750 (1993) lên
25.117 (1996) tức khoảng 6,6 lần, thu nhập người lao động tăng từ 900.000 (năm
1993) lên 2. 000.000 (năm 1996).
Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) được thành lập năm 1987 trên cơ sở công
ty liên hợp Thiết bị lạnh trực thuộc Sở công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Ngay
từ khi mới thành lập, công ty đã tổ chức lại bộ máy gọn nhẹ, hoạt động theo nguyên
tắc hạch toán duy nhất, năng động trong quản lý sản xuất kinh doanh. Công ty đã
mạnh dạn nhập các thiết bị lạnh với phương thức trả chậm, tiêu thụ nhanh hàng
nhập, thanh toán kịp thời và đầy đủ phần nợ trả chậm cho bên nước ngoài. Cũng
chính từ thành công trong hoạt động ngoại thương, tích tụ và tập trung tư bản được
hình thành, công ty đã thành lập 2 công ty liên doanh: Công ty liên doanh
CERVICO (liên doanh với công ty MEKONG - một công ty Việt kiều ở Đức)
nhằm lắp ráp thiết bị lạnh trong nước, vốn đầu tư là 820.000 USD. Công ty liên
doanh REEYOUNG (liên doanh với công ty BOUYONG của Nam Triều Tiên)
chuyên sản xuất túi sách xuất khẩu, vốn đầu tư 1.600.000 USD. Trong những năm
trước cổ phần hoá, công ty hoạt động thực sự có hiệu quả. Công ty luôn dự đoán
đúng nhu cầu của thị trường trong nước nên đã tạo được một số lượng hàng hoá,
thiết bị vật tư dự trữ đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, tạo được niềm tin và
giữ được uy tín với khách hàng. Tháng 11/1993 theo quyết định số 1707/QĐ - UB
của UBND TP Hồ Chí Minh, Công ty Cơ điện lạnh chính thức được chuyển sang
công ty cổ phần. Tổng số vốn điều lệ mới thành lập của công ty là 16 tỷ đồng được
chia thành 160.000 cổ phần với mệnh giá một cổ phiếu là 100.000 đồng, Nhà nước

chiếm tỷ lệ cổ phần là 30% (gồm 4 đại diện cổ đông), cán bộ công nhân viên chức
trong công ty là 50% (gồm 212 cổ đông), các cổ đông ngoài công ty là 20% (gồm
238 cổ đông). Cổ đông là cán bộ công nhân công ty được mua không quá 5% tổng
số cổ phiếu, cổ đông ngoài công ty không được mua quá 0,5% tổng số cổ phiếu.
Như vậy cổ đông là cán bộ công nhân viên công ty không được mua cổ phần quá
800 triệu đồng, cổ đông ngoài công ty không được mua cổ phần quá 800 triệu.
Ngoài ra, các cổ đông là nhân viên công ty còn được vay tiền với lãi suất ưu đãi,
được chia quỹ khen thưởng và phúc lợi còn lại để có thể mua cổ phiếu. Ba năm sau
khi cổ phần hoá, tổng số vốn của công ty tăng từ 16 tỷ đồng (năm 1993) lên 30 tỷ
đồng (năm 1996), doanh thu năm 1996 tăng gấp 5 lần so với năm 1993. Số lao
18
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
động năm 1996 tăng hơn 3 lần so với những năm công ty chưa được cổ phần hoá.
Tổng thu nhập của người lao động đạt 1.800.000/cổ phần. Công ty đang nghiên cứu
sẽ bán tiếp cổ phần ưu đãi cho 2/3 số công nhân mới được tuyển vào làm, nhằm thu
hút thêm số người có tay nghề cao. Năm 1996, công ty được nhà nước cho phép
phát hành thử trái phiếu chuyển đổi bằng ngoại tệ và bán cho các nhà đầu tư nước
ngoài với tổng giá trị 5 triệu USD, lãi suất 4,5%/năm. Các trái phiếu được chuyển
đổi thành cổ phiếu trong quý 3/1996, trái chủ được chuyển thành cổ đông sẽ không
được tham gia Hội đồng quản trị.
Chỉ tiêu Đơn vị tính Trước CPH Sau CPH
1992 1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 42.000 45.000 77.000 214.000 277.000
2. Nộp NS Tr. đồng 2.570 54.370 13.126 48.000 61.000
3. Lãi Tr. đồng 6.800 7.300 11.300 21.300 5.000
4. Thu nhập
bình quân
người/tháng
1000đồng 774 1.200 1.400 1.500 1.800
5. Lao động Người 200 800

(Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính)
Công ty cổ phần giầy Hiệp An là doanh nghiệp chuyên sản xuất các loại giày
dép phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Công ty được chuyển sang công
ty cổ phần tháng 8/1994 với tổng giá trị doanh nghiệp là 4,793 tỷ đồng. Trong đó
Nhà nước giữ 30% vốn cổ phần, cán bộ công nhân công ty giữ 35,5%, cổ đông
ngoài doanh nghiệp giữ 34,8%. Doanh thu năm 1996 tăng xấp xỉ gấp 2 lần với năm
1993, nộp ngân sách năm 1996 tăng 5,3 tỷ đồng so với năm 1993. Thu nhập người
lao động tăng từ 420.000đ/ người/ tháng lên 1.200.000/người/tháng. Dưới đây là
một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của công ty
Chỉ tiêu Đơn vị tính Trước CPH Sau CPH
1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 11.200 13.493 18.624 25.639
2. Nộp ngân sách Tr. đồng 2.100 2.800 5.200 8.100
3. Lãi Tr. đồng 2.718 3.152 5.412 7.918
4. Thu nhập bình quân
người/tháng
1000 đồng 420 470 850 1.200
5. Lao động Người 380 400
(Nguồn: Ban cổ phần Bộ tài chính)
2. Thời kỳ sau thí điểm (từ cuối năm 1996 đến nay)
19
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Thực hiện Nghị định 28/CP (7/5/1996) về chuyển các DNNN sang công ty cổ
phần ( CTCP), thời kỳ sau thí điểm cổ phần hoá (từ cuối năm 1996 đến tháng 2
năm 1999) đã có 134 doanh nghiệp được chuyển sang CTCP, tính chung cả thời kỳ
thí điểm hiện nay có tất cả 146 doanh nghiệp (theo báo cáo của Ban cổ phần hoá,
bộ tài chính). Từ bảng danh sách (phụ lục), chúng ta thấy tốc độ cổ phần hoá diễn
ra còn chậm, số các DNNN chuyển sang CTCP “nhỏ giọt” trong các năm 1993 -
1997, cụ thể năm 1993: 2 donah nghiệp; năm 1994: 1 doanh nghiệp; năm 1995: 2
doanh nghiệp; năm 1996: 7 doanh nghiệp và năm 1997: 4 doanh nghiệp. Sang năm

1998 đã có sự tiến bộ: 102 doanh nghiệp. Như vậy số doanh nghiệp chuyển sang
CTCP năm 1998 lớn hơn nhiều so với số doanh nghiệp chuyển sang CTCP của các
năm trước cộng lại. Song kế hoạch đề ra là thực hiện cổ phần hoá thành công 150
doanh nghiệp trong năm 1998 thì con số 102 CTCP chưa đạt được mục tiêu đề ra.
Bước sang năm 1999, Chính phủ đặt ra kế hoạch sẽ thực hiện cổ phần hoá
thêm khoảng 400 doanh nghiệp. Theo Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung
ương thì từ đầu năm đến nay đã có thêm 42 doanh nghiệp nhà nước chuyển sang
công ty cổ phần với tổng số vốn điều lệ gần 180 tỷ đồng. Trong số đó có gần 23
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp xây dựng, 10 doanh nghiệp dịch vụ thương
mại, 3 doanh nghiệp giao thông vận tải và 5 doanh nghiệp nông - lâm - thuỷ sản.
Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chỉ có 3 doanh nghiệp có vốn
điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên là công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn thuộc Tổng công ty
xi măng (38 tỷ đồng), công ty cổ phần điện cơ thuộc Tổng công ty điện lực Việt
Nam (25 tỷ đồng) và công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tân Định thuộc thành phố Hồ
Chí Minh (10 tỷ đồng). Các địa phương và ngành triển khai cổ phần hoá tích cực
nhất là tỉnh Bình Định (4 doanh nghiệp), thành phố Hồ Chí Minh (4 doanh nghiệp),
Tổng công ty cà phê (3 doanh nghiệp), Tổng công ty xi măng Việt Nam (2 doanh
nghiệp) Trong số 34 doanh nghiệp hoàn thành thủ tục bán cổ phiếu đã có 12
doanh nghiệp không có cổ phần của Nhà nước và 27 doanh nghiệp có cổ phần của
cổ đông ngoài doanh nghiệp. Như vậy, theo kế hoạch đặt ra cho năm 1999 là sẽ cổ
phần hoá từ 400 - 600 doanh nghiệp thì con số 42 doanh nghiệp nhà nước mới được
cổ phần hoá từ đầu năm đến nay chỉ bằng 1/10 kế hoạch. Và từ giờ đến cuối năm,
chúng ta phải cổ phần hoá thêm hơn 300 doanh nghiệp nữa.
Kết quả bước đầu.
• Về phía doanh nghiệp, nhìn chung hoạt động của công ty cổ phần sau khi cổ
phần hoá đều có hiệu quả, các chỉ tiêu tăng nhiều lần so với khi còn là DNNN biểu
hiện trên cả 3 mặt lợi ích của: lao động - doanh nghiệp - Nhà nước. Việc huy động
vốn của công ty cổ phần chủ yếu đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng
suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn trước, đem lại lợi nhuận cao hơn. Cơ
câú vốn sở hữu trong các công ty cổ phần, tỷ lệ vốn sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ

cao nhất so với các sở hữu khác. Nhà nước nắm từ 18% đến 51% (Bình quân 41%)
cổ phần công ty; cổ đông là người lao động từ 18% đến 50% cá biệt có doanh
nghiệp trên 70% (bình quân 30%) cổ phần công ty; số cổ phần còn lại là thuộc cổ
đông ngoài xã hội nắm giữ (bình quân 29%).
• Về phía Nhà nước, ngoài việc Nhà nước tăng thu các khoản thu từ doanh
nghiệp như thuế lợi tức do doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nhà nước còn thu
được một lượng vốn từ các nguồn phát sinh trong quá trình cổ phần hoá như số thu
về tiền bán cổ phiếu. Ví dụ số thu về cổ phần hoá tính đến hết năm 1997 như sau:
20
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Tiền thu về bán cổ phiếu: 30. 207 triệu đồng
Lợi tức của Nhà nước tại các công ty cổ phần: 6.995 triệu đồng
Lãi tiền vay mua chịu cổ phần Nhà nước: 522 triệu đồng.
Tổng cộng: 37. 724 triệu đồng.
• Về phía người lao động: người lao động đã gắn được kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình với lợi ích của bản thân, của doanh nghiệp, đồng thời
được tạo điều kiện làm chủ doanh nghiệp. Thu nhập của người lao động cao hơn
khi còn là DNNN từ 1,5 - 2 lần, bên cạnh đó người lao động còn nguồn thu từ lợi
tức cổ phần khoảng 22% - 24%/năm.
Việc làm của người lao động được đảm bảo, hơn thế ngoài số lao động cũ, các
công ty cổ phần còn thu hút thêm nhiều lao động ngoài xã hội vào làm việc. Trong
một số công ty cổ phần, người lao động đã đề cử đại diện của mình tham gia quản
lý điều hành doanh nghiệp. Theo kết quả khảo sát của chương trình hỗ trợ phát
triển dự án Mêkông (Mekong Project Development Facility - MPDF) năm 1998
trong 13 doanh nghiệp được khảo sát đã thành lập Hội đồng quản trị; 3 công ty
người ngoài đại diện cho cán bộ công nhân viên đảm nhận chủ tịch Hội đồng và
giám đốc điều hành, 2 công ty khác giữ 1 trong 2 trọng trách trên.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH VÀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP.

I. CÁC YẾU TỐ KHÓ KHĂN VÀ CẢN TRỞ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM.
Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá ở
nhiều nước đang phát triển và Đông Âu là khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Đối
với Việt Nam cũng như vậy, khi hàng chục năm khu vực này được coi là đối tượng
cải tạo XHCN. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ
chậm phát triển kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình
đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi
người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng
vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu do đó làm cho việc tiến hành chương trình cổ
phần hoá ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình
thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý
tương ứng.
Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng
một thị trường tài chính thực sự trong đó có thị trường chứng khoán. Như trên đã
trình bày, thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của
các công ty cổ phần trong một nền kinh tế thị trường: nó vừa là điều kiện vừa là
21
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
tấm gương phản chiếu sự ra đời và hoạt động của các công ty cũng như huy động
vốn trên thị trường tài chính.
II. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
1. Về tư tưởng quan điểm cổ phần hoá
Đối với các doanh nghiệp: người lãnh đạo (giám đốc, phó giám đốc) hầu hết
là do chế độ bổ nhiệm mà có, do vậy khi chuyển sang công ty cổ phần không dễ gì
giữ được chức vụ đó trước Đại hội cổ đông. Sau khi cổ phần thì những quyền lực
quan trọng nhất thuộc về Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị công ty. Giám đốc
doanh nghiệp Nhà nước trước đây giả sử có tái cử làm giám đốc điều hành thì chỉ
đóng vai trò thực thi của hai tổ chức nói trên mà thôi. Hội đồng của giám đốc có sự
giám sát chặt chẽ của Ban kiểm soát (như đã nêu ở chương một) của Hội đồng quản

trị công ty. Lẽ đương nhiên thu nhập của giám đốc sẽ bị giảm xuống, không còn
hấp dẫn, quyền hành lại bị hạn chế. Chắc chắn trước ngưỡng cửa cổ phần hoá, các
vị giám đốc quốc doanh ít nhiều đều có tâm tư mắc mớ, ít nhiệt tình đối với phương
án cổ phần hoá. Còn với khả năng xấu hơn, vị trí công tác của giám đốc có thể bị
thay đổi, thậm chí có thể bị mất việc thì hậu quả còn tồi tệ hơn.
Chính vì lẽ đó giám đốc các DNNN thường có tâm lý không muốn cổ phần
hoá, chuyển đổi sở hữu, mặc dù đã nhận thức được khó khăn trong cạnh tranh thị
trường, và biết rằng doanh nghiệp có thể nguy cơ suy sụp trong cuộc cạnh tranh thị
trường ngày một gay gắt. Tâm lý chung của các vị giám đốc DNNN là “còn nước
còn tát”, tát được ngày nào hay ngày đó.
Còn về phía người lao động, họ sau khi cổ phần hoá có thể bị mất việc, hoặc
quyền lợi không được đảm bảo, đặc biệt là vấn đề mua, mua chịu và được cấp cổ
phiếu. Thế là từ trên xuống dưới kết thành những mảng trong nhận thức và hành
động. Để đảm bảo an toàn và giữ được “ghế”, tránh được nguy cơ “đi chệch hướng
XHCH”, thượng sách là không sắn tay vào công tác này.
Làm thế nào để giải toả những vướng mắc về tư tưởng quan điểm và nhận
thức trên đây? Trước hết, phải tạo sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương cổ
phần hoá DNNN.
Một là, cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước không dẫn đến nguy
cơ chệch hướng XHCN và làm suy yếu kinh tế nhà nước, bởi lẽ: Trong cơ cấu kinh
tế quốc dân, Nhà nước vẫn nắm giữ các DNNN thuộc các ngành then chốt, trọng
yếu tạo nền tảng cho nền kinh tế quốc dân và sức mạnh của Nhà nước XHCN. Xét
trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tài sản Nhà nước không bị suy giảm mà
còn có khả năng tăng nhờ lợi tức cổ phần của Nhà nước và sự đóng góp của các
công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả vào ngân sách Nhà nước. Quá trình cổ phần
hoá được tiến hành dưới sự lãnh đạo tập trung của Đảng và sự chỉ đạo chặt chẽ của
nhà nước XHCN.
Hai là, cổ phần hoá không làm ảnh hưởng đến quyền lợi và vị trí của mỗi
người trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào
hoạt động của doanh nghiệp. Đó là một trong những mục tiêu cổ phần hoá mà

chúng ta thực hiện. Để có thể đưa những nhận thức đúng đắn trên đây đến tất cả các
cơ quan lãnh đạo các ngành, các cấp, đến từng doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ
công nhân viên lao động làm việc trong doanh nghiệp, Nhà nước cần đẩy mạnh hơn
22
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
nữa việc tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về chủ
trương, mục tiêu, quan điểm cũng như lợi ích về sự cần thiết của cổ phần hoá trong
quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường.
2. Về môi trường pháp lý cho việc cổ phần hoá.
Môi trường pháp lý của nhà nước bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật
trực tiếp và gián tiếp liên quan đến cổ phần hoá. Từ khi chủ trương cổ phần hoá các
DNNN được đề cập lần đầu tiên trong Nghị quyết Hội nghị lần 2 - Ban chấp hành
Trung Ương Đảng khoá 7 (tháng 11/1991) cho đến nay đã có tổng cộng 27 văn bản
pháp quy trực tiếp liên quan đến cổ phần hoá.
Về số lượng, tuy các văn bản pháp lý trực tiếp chỉ đạo quá trình cổ phần hoá
như vậy là khá nhiều, nhưng chưa có một văn bản pháp lý nào đủ tầm quyết sách
để có thể tiến hành một quá trình cổ phần hoá trên diện rộng như luật, pháp lệnh.
Đối với các văn bản gián tiếp liên quan đến cổ phần hoá thì còn thiếu mảng luật về
chứng khoán, kinh doanh chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Về chất lượng, một số nội dung trong các văn bản hướng dẫn chưa rõ ràng,
thiếu cụ thể, nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát như: trách nhiệm của
các Bộ, ngành, các địa phương trong việc chỉ đạo cổ phần hoá; thẩm quyền của đại
diện chủ sở hữu với việc cổ phần hoá; cổ phần hoá là tự nguyện hay bắt buộc; việc
bán cổ phần cho người nước ngoài có quy định nhưng chưa có văn bản hướng dẫn
cụ thể.
Để giải quyết những vấn đề tồn tại về chính sách pháp luật trên đây, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cần phải lắng nghe ý kiến từ phía các doanh nghiệp
đã hoàn tất và đang hoàn tất cổ phần hoá và cả những doanh nghiệp chưa tiến hành
cổ phần hoá để cụ thể hoá, chi tiết hoá những điểm còn “chung chung”, ban hành
thêm những quy định còn thiếu. Đòi hỏi sự đồng bộ của hệ thống văn bản pháp quy

ngay trong điều kiện hiện nay là điều không thực tế, song đã đến lúc chúng ta phải
có ngay một bộ luật cổ phần hoá hoặc luật công ty cổ phần bởi vì chưa có luật,
chưa có pháp lệnh thì chưa có căn cứ pháp lý để thực hiện, chưa có căn cứ để ban
hành các văn bản pháp quy dưới luật, và như vậy việc thực hiện sẽ rất khó khăn.
Bên cạnh đó, việc dự thảo và sớm ban hành luật về chứng khoán, kinh doanh chứng
khoán và thị trường chứng khoán cũng sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá
và việc hình thành thị trường vốn ở nước ta.
3. Hệ thống các cơ quan quản lý công tác cổ phần hoá.
Về tổng thể, bộ máy quản lý hành chính về cổ phần hoá tổ chức chỉ đạo chưa
tập trung, thiếu tính nhất quán giữa Trung Ương và địa phương, giữa các Bộ,
Ngành. Ví dụ có những doanh nghiệp đã làm xong thủ tục nhưng chính quyền địa
phương vẫn không cho phép hoạt động, gây khó khăn không ít cho doanh nghiệp
cổ phần, tạo tâm lý chản nản trong các cổ đông vì trong vòng 2 năm đó vốn không
được luân chuyển (như công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An, công ty chế biến
thức ăn gia súc VIFOCO )
Để giải quyết, Nhà nước phải mở rộng quyền hạn cũng như trách nhiệm của
ban chỉ đạo Trung Ương cổ phần hoá. Hoặc Nhà nước có thể thành lập một Tổng
cục chủ quản hoặc tương đương như vậy chuyên trách về cổ phần hoá để điều
chỉnh quá trình cổ phần hoá DNNN và hoạt động của công ty cổ phần. Cơ quan
23
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
chuyên trách này sẽ chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo và có đủ thẩm quyền để giải
quyết các vấn đề liên quan đến cổ phần hoá cũng như phối hợp hoạt động của các
Bộ, Ngành và các cơ quan hữu quan, đồng thời cũng phải quy định rõ quyền hạn
và nhiệm vụ của các cấp cơ quan này, tránh sự “chồng chéo, lấn sân” của nhau,
tránh tình trạng cấp trên “bàn vào”, cấp dưới “bàn ra” như trong thời gian vừa qua
dẫn tới sự chán nản của các DNNN muốn cổ phần hoá. Một yêu cầu quan trọng nữa
là phải tập trung về đây các cán bộ có năng lực chuyên môn, có trình độ, quy định
rõ rằng về trách nhiệm của từng người.
Tăng cường hơn nữa vai trò chủ đạo của Trung Ương. Chính phủ phải đẩy

mạnh việc kiện toàn tổ chức bộ máy chỉ đạo cổ phần hoá từ Trung Ương đến địa
phương theo hướng gọn nhẹ, thiết thực, đồng thời tăng cường sự kiểm tra, giám sát
của Nhà nước trong quá trình cổ phần hoá để đảm bảo đúng chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
4. Chính sách đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Cần quy định một số ưu đãi thiết thực đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Chẳng hạn cho phép tách số tài sản không còn giá trị sử dụng và có tài sản không
phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh ra khỏi giá trị doanh nghiệp nhằm trợ
giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng trong quá trình hoạt động. Những tài sản
này sẽ được chuyển giao lại cho nhà nước để xử lý phù hợp với pháp luật hiện
hành. Nếu doanh nghiệp có yêu cầu đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất theo
phương án được duyệt thì cho phép doanh nghiệp sử dụng một phần số tiền bán cổ
phiếu ngoài phạm vi cổ phần giữ lại thuộc sở hữu nhà nước theo hình thức vay tín
dụng của ngân sách.
4.1. Xoá bỏ sự phân biệt đối xử không hợp lý giữa doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Các DNNN rõ ràng là còn được hưởng ưu đãi của nhà nước nhiều hơn công ty
cổ phần nói riêng và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói chung về XNK, về địa
điểm, tín dụng, vay vốn ngân hàng. Để có thể thực sự xoá bỏ sự phân biệt đối xử
không hợp lý giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhà nước cần phải
từng bước xoá bỏ sự bao cấp dành cho các DNNN, cần có những quy định nhằm
nâng cao vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, khuyến khích các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh phát triển bằng những biện pháp cụ thể như: chính sách thuế,
quyền XNK, vay vốn ngân hàng, tạo điều kiện cho khu vực này liên doanh với
nước ngoài, qua đó tạo môi trường bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, giữa đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài góp phần đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá ở Việt
Nam.
4.2. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá.
Theo thông tư số 50 TC/TCDN, gia trị doanh nghiệp cổ phần hoá được xác
định bằng công thức:

Giá trị doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp = sau khi kiểm kê + (-) giá trị lợi thế + chi phí tiến
hành CPH đánh giá lại.
24
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Theo công thức nói trên, mọi tài sản doanh nghiệp đều được kiểm kê đánh giá
lại theo giá hiện hành. Song theo số liệu điều tra thống kê, ở hầu hết các DNNN,
trình độ máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu từ 2 - 3 thế hệ, thậm chí có doanh
nghiệp lạc hậu từ 4 - 5 thế hệ. Mặt khác, thông tư 50 TC/TCDN quy định “Toàn bộ
tài sản cố định sau khi đã kiểm kê và được tính trên giá sổ sách doanh nghiệp căn
cứ vào chất lượng còn lại và giá hiện hành của từng tài sản, giá trị tài sản vô hình
để xác định lại giá trị tài sản thực còn”. Vấn đề ở đây là xác định giá hiện hành.
Như chúng ta đều biết, tiêu chuẩn để đánh giá giá trị vật chất có nhiều nhưng tựu
chung lại có thể sử dụng các tiêu chuẩn sau: giá trị mua vào, giá trị thanh lý, giá trị
đổi mới, giá trị nhượng bán. Chính vì vậy, nhà nước nên quy định cụ thể “giá hiện
hành” trong việc đánh giá lại giá trị tài sản.
4.3. Thủ tục cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay, thủ tục hành chính để cổ phần hoá một DNNN còn khá rườm rà,
tốn kém. Một DNNN trị giá 2 tỷ đồng chuyển sang công ty cổ phần mà hàng chục
lượt đoàn cán bộ đến kiểm tra, kiểm toán, thẩm định kiểm toán rồi sau đó mới
trình Bộ, Ngành , UBND tỉnh thành phố, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
biết bao cửa ải mà doanh nghiệp phải chịu đựng. Mỗi cửa ải kéo dài không biết bao
nhiêu thời gian. Điều này có lẽ không phải do một cơ quan hay một cá nhân nào mà
do mỗi khâu chậm một ít, do thiếu trách nhiệm, thiếu nhiệt tình và quan liêu. Việc
loại bỏ những thủ tục rườm rà, xây dựng một quy trình cổ phần hoá DNNN gọn
nhẹ, quản lý chặt chẽ và tránh được những chi phí do doanh nghiệp phải bỏ ra do
làm ảnh hưởng tới túi tiền của ngân sách là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó việc
phối hợp của các cơ quan chức năng, thống nhất quá trình chỉ đạo thực hiện từ TW
tới các Bộ, ngành, địa phương, cơ sở sẽ góp phần tích cực đẩy nhanh tiến trình cổ
phần hoá.



25

×