Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Tài liệu Báo cáo thực tập “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng Đồng Bằng Sông Hồng” pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.39 KB, 84 trang )


Báo cáo tốt nghiệp


Đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng
Đồng Bằng Sông Hồng”

1
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. Khái niệm vùng 7
1.2. Vùng kinh tế 8
1.3. Cở sở lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế 9
1.3.1. Các quan niệm, khái niệm tăng trưởng kinh tế 9
1.3.2. Phát triển kinh tế 18
1.3.3. Phát triển bền vững 23
THỰC TRẠNG KINH TẾ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
2.1. Những hạn chế khó khăn của vùng ĐBSH 27
2.1.1. Đất chật, người đông, chất lượng lao động chưa cao, và có sức ép giải quyết
việc làm lớn 27
2.1.2. Kết cấu hạ tầng (nhất là giao thông, điện) chưa tạo đủ điều kiện để phát triển
nhanh và hiệu quả cao 28
2.1.3. Cơ cấu ngành nghề chưa hiện đại, trình độ công nghệ còn thấp, hiệu suất phát
triển chưa cao dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp 30
2.1.4. Tổ chức lãnh thổ đã có bước phát triển nhưng còn tồn tại nhiều bất hợp lý 32
2.1.5. Tâm lý phát triển chưa hình thành rõ nét và phát huy tác dụng 34
2.1.6. Sự cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc 34
2.2. Tiềm năng và lợi thế của vùng ĐBSH 35
2.2.1. Vùng ĐBSH có thực lực và trình độ phát triển khá hơn so với nhiều vùng trong


cả nước 35
2.2.2. Vùng ĐBSH có lợi thế về quy mô dân số, lực lượng lao động dồi dào và tay
nghề khá ở trong những ngành nghề quan trọng 36
2.2.3. Vùng ĐBSH có vị trí và địa hình thuận lợi để phát triển 37
2.2.4. Vùng ĐBSH có một hệ thống đô thị và các cơ sở tương đối mạnh 38
2.3. Thực trạng phát triển kinh tế vùng ĐBSH thời kỳ 2000- 2008 39
2.3.1. Kinh tế 39
2.3.2. Xã hội 67
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG
3.1. Một số biện pháp phát triển kinh tế của các địa phương trong vùng ĐBSH 72
3.1.1 Phối hợp trong huy động vốn đầu tư phát triển 72
3.1.2. Phối hợp trong phát triển đào tạo sử dụng lao động 72
3.1.3. Phối hợp trong rà soát, sửa đổi, bổ xung và ban hành thực hiện cơ chế chính
sách tài chính, chính sách đầu tư, cơ chế bù và giải phóng mặt bằng 72
3.1.4. Phối hợp trong việc thiết lập hệ thống thông tin và cung cấp thông tin vùng 73
3.1.5. phối hợp trong việc hình thành các tour du lịch vùng ĐBSH 73
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSH 74
3.2.1. Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu kinh tế 74
3.2.2. Giải pháp về phát triển doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh 74
3.3.3. Giải pháp về giáo dục - đào tạo phát triển nguồn nhân lực 77
3.2.4. Giải pháp về phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ 77
3.2.5. Giải pháp về sử dụng hợp lý tài nguyên đất 79
3.2.6. Giải pháp về cải cách hành chính 79

2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Vùng ĐBSH là vùng có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã
hội như: Thủ đô Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng đã hình thành trung tâm

đầu não chính trị của nhà nước, cơ quan điều hành của các Tổ chức kinh
tế lớn và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu và triển khai của quốc gia. Có thể
nói vùng ĐBSH có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã
hội nhất cả nước. Tuy nhiên thực tế cho thấy tình hình kinh tế - xã hội
của vùng lại thua xa vùng Đông Nam Bộ. Tuy nhiên do năng lực cũng
như trình độ lý luận của bản thân còn thấp nên em chỉ nghiên cứu và
phân tích tình hình kinh tế của vùng ĐBSH nhằm đưa ra giải pháp để
phát triển kinh tế của vùng.
Xuất phát từ thực tế nêu trên nên khi đi thực tập tốt nghiệp em đã
chọn đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh
tế vùng Đồng Bằng Sông Hồng”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá thực trạng kinh tế vùng ĐBSH
- Đưa ra được một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng
Đồng bằng sông Hồng
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này nghiên cứu các vấn đề tiềm năng, hạn chế, đánh giá thực
trạng kinh tế của vùng Đồng bằng sông Hồng

3

Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian
Đề tài được tiến hành trên vùng Đồng bằng sông Hồng
- Phạm vi thời gian
Đề tài sử dụng các số liệu từ năm 2005 đến 2008
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

Xuất phát từ quan điểm sự vật luôn luôn vận động và phát triển, các
hiện tượng, các quá trình hoạt động của các sự vật đều có liên quan đến nhau
và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Phương pháp này giúp cho việc xem
xét, phân tích đánh giá các hoạt động kinh tế cơ bản trong mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau. Qua phương pháp này chúng ta xem xét hoạt động kinh
tếtrong mối quan hệ với các hoạt động khác.
4.2. Phương pháp thu thập số liệu
Đề tài này sử dụng những số liệu liên quan tới quá trình nghiên cứu đề
tài mà đã được chính thức công bố ở các cấp, ngành,… Cụ thể, những nguồn
số liệu này được thu thập từ Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
4.3. Phương pháp xử lý, phân tích số liệu
- Phương pháp toán: khoá luận chủ yếu dùng phương pháp này để tính
toán số liệu, các kết quả tính toán đều được thực hiện trên excel.
- Phương pháp thống kê: khoá luận sử dụng phương pháp này để nêu ra
các vấn đề cần được phân tích, đánh giá.
- Phương pháp bình quân: khoá luận sử dụng phương pháp này trong
phân tích tốc độ tăng trưởng.
4.4. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh (so sánh theo thời gian, giữa các ngành kinh tế…)
để xác định mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích, phản ánh chân thực
hiện nghiên cứu giúp cho việc tổng hợp tài liệu, tính toán các chỉ tiêu được

4
đúng đắn cũng như giúp cho việc phân tích tài liệu được khoa học, khách
quan, phản ánh đúng nội dung cần nghiên cứu.

5
4. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, đề tài nghiên cứu được chia
thành 3 chương:

-Chương I: Lý luận chung về phát triển kinh tế
-Chương II: Thực trạng kinh tế vùng Đồng bằng sông Hồng
-Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng
Đồng bằng sông Hồng

6
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. Khái niệm vùng
Cho đến nay có rất nhiều khái niệm về vùng nhưng đều có thể coi: vùng
như là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, có một sắc thái dặc thù nào đó, hoạt
động như một hệ thống do có mối quan hệ tương đối chặt chẽ giữa các thành
phần cấu tạo nên nó (cụ thể như các luồng trao đổi vật chất, năng lượng, thông
tin…) cũng như mối quan hệ có chọn lọc với không gian các cấp bên ngoài.
Các thuộc tính cơ bản của vùng:
- Là một phần của bề mặt trái đất, hơn nữa chiếm không gian nhất định
(không gian ba chiều). Một số không gian này là không gian tụ nhiên, không
gian kinh tế, không gian xã hội,…
- Có phạm vi giới tuyến nhất định: phạm vi có lớn nhỏ là căn cứ vào
các yêu cầu khác nhau, hệ thống chỉ tiêu khác nhau để chia; giới tuyến của
vùng thường có đặc trưng mang tính quá độ, là một “dải đất” từ biến lượng tới
biến chất.
- Có hình thức kết cấu hệ thống nhất định: tính phân cấp hoặc tính
nhiều cấp, tính phân tầng. Do vậy vùng có mội quan hệ trên với dưới, phải với
trái, mỗi vùng nhỏ là một phần hợp thành của một vùng lớn.
- Vùng là một tồn tại khách quan: là cái mà để căn cứ vào đó theo yêu
cầu và đối tượng khác nhau để phân chia, là sự phản ánh chủ quan nhận thức
của con người đối với thế giới khách quan.
- Tính đồng nhất tương đối: thể hiện trong các đặc điểm tự nhiên và
các đặc điểm lịch sử. Các đặc điểm sau này được bảo tồn thông qua những gia

tài văn hóa như trong các kiến trúc nhà ở, nếp sinh hoạt, văn hóa dân gian,…
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội và sự sinh lợi của lãnh thổ ảnh
hưởng lớn tới kích thước của vùng.

7
Tóm lại: Vùng là một hệ thống bao gồm các mối liên hệ giữa các bộ
phận hợp thành với các dạng liên hệ địa lý, kinh tế, xã hội,…bên trong cũng
như bên ngoài hệ thống.
1.2. Vùng kinh tế
Vùng kinh tế là một thực thể tồn tại khách quan, sự phát triển lực lượng
sản xuất quyết định nội dung, trình độ và mức độ phát triển vùng. Các vùng
kinh tế hình thành do kết quả của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ, tồn
tại và phát triển một cách khách quan.
Xét về góc độ bản chất của vung kinh tế thì “Vùng kinh tế là một bộ
phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân, có những dấu hiệu sau:
chuyên môn hóa những chức năng kinh tế quốc dân cơ bản,tính tổng hợp: được
hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận cấu thành
quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của vùng, coi vùng như
là hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ chức trong bộ máy quản lý lãnh thổ nền
kinh tế quốc dân”
Cơ sở hình thành và phát triển vùng là các yếu tố tạo vùng, trong đó yếu
tố tiền đề là phân công lao động lãnh thổ. Sự phân công lao động theo ngành đã
kéo theo quá trình phân công lao đông theo lãnh thổ. Từ chỗ mỗi vùng đều sản
xuất nhiều loại sản phẩm để tự túc, tự cấp đến chỗ mỗi vùng chỉ sản xuất một
hay một số loại sản phẩm nhất định để trao đổi với vùng khác. Yếu tố phân
công lao động xã hội theo lãnh thổ là yếu tố lý giải quá trình tạo vùng dưới góc
độ triết học và kinh tế chính trị học, do việc luận chứng và kích thích cơ bản sự
phân bố lực lượng sản xuất một cách hợp lý.
Nội dung của vùng kinh tế bao gồm cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ. Cơ
cấu ngành của vùng đó là mối quan hệ giữa các ngành chuyên môn hóa, ngành

phát triển tổng hợp (bao gồm các ngành phục vụ, hỗ trợ cho chuyên môn hóa,
cấu trúc hạ tầng). Cơ cấu lãnh thổ của vùng đó là những mối quan hệ giữa hạt
nhân với lớp vỏ trong và lớp vỏ ngoài. Đó là quan hệ giữa trung tâm vùng với
các vùng ngoại vi và ranh giới vùng, sức hút của trung tâm tới đâu thì ranh giới

8
vùng tới đó.
Vùng kinh tế hình thành và phát triển dưới sự chi phối của các yếu tố tạo
vùng khách quan; vùng là một phạm trù lịch sử.
1.3. Cở sở lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.3.1. Các quan niệm, khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh quy mô tăng
lên hay giảm đi của nền kinh tế ở năm này so với năm trước đó hoặc của thời
kỳ này so với thời kỳ trước đó. Tăng trưởng kinh tế có thể biểu hiện bằng qui
mô tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng. Qui mô tăng trưởng phản ánh sự gia
tăng lên hay giảm đi nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý
nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm của nền kinh
tế giữa năm hay các thời kỳ. Để đo lường tăng trưởng kinh tế người ta thường
dùng hai chỉ số chủ yếu: phần tăng, giảm quy mô của nền kinh tế (tính theo
GDP), hoặc tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính theo GDP).
Ngày nay, tăng trưởng kinh tế được gắn với chất lượng tăng trưởng. Mặt
số lượng của tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở qui mô, tốc độ của tăng trưởng.
Còn mặt chất lượng của tăng trưởng kinh tế là tính qui định vốn có của nó, là sự
thống nhất hữu cơ làm cho hiện tượng tăng trưởng kinh tế khác với các hiện
tượng khác. Chất lượng tăng trưởng được qui định bởi các yếu tố cấu thành và
phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành nên tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới, Chương trình phát triển của Liên hợp
quốc và một số nhà kinh tế học nổi tiếng được giải thưởng Nobel gần đây như
G.Becker, R.Lucas, Amrtya Sen, J.Stiglitz, thì cùng với quá trình tăng trưởng,

chất lượng tăng trưởng biểu hiện tập trung ở các tiêu chuẩn chính sau đây:
- Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong dài hạn và tránh
được những biến động từ bên ngoài.
- Thứ hai, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, được thể hiện ở sự đóng
góp của yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp TFP cao và không ngừng gia tăng.

9
- Thứ ba, tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
- Thứ tư, tăng trưởng đi kèm theo với phát triển môi trường bền vững.
- Thứ năm, tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới, đến
lượt nó thúc đẩy tăng trưởng ở tỷ lệ cao hơn.
- Thứ sáu, tăng trưởng phải đạt được mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội
và giảm được đói nghèo.
Như vậy, khi nghiên cứu quá trình tăng trưởng, cần phải xem xét một
cách đầy đủ hai mặt của hiện tượng tăng trưởng kinh tế là số lượng và chất
lượng của tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế với tốc độ và chất lượng cao là
mong muốn của mọi quốc gia và của cả nhân loại trên thế giới. Sau đây chúng
ta xem xét một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế.
1.3.1.1. Các quan điểm về tăng trưởng kinh tế
 Quan điểm cổ điển về tăng trưởng kinh tế:
Lý thuyết cổ điển về tăng trưởng kinh tế do các nhà kinh tế học cổ điển
nêu ra mà các đại diện tiêu biểu là Adam Smith và David Ricardo. Adam Smith
(1723-1790) được coi là người sáng lập ra kinh tế học và là người đầu tiên
nghiên cứu lý luận tăng trưởng kinh tế một cách có hệ thống. Trong tác phẩm
“Của cải của các quốc gia”, ông đã nghiên cứu về tính chất, nguyên nhân tăng
trưởng kinh tế và làm thế nào để tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng. Nội
dung cơ bản của tác phẩm này là:
- Học thuyết về “Giá trị lao động”, ông cho rằng lao động là nguồn gốc
cơ bản để tạo ra của cải cho đất nước.

- Học thuyết về “Bàn tay vô hình”, theo ông nếu không bị chính phủ
kiểm soát, người lao động sẽ được lợi nhuận thúc đẩy để sản xuất ra dịch vụ và
hàng hóa cần thiết và thông qua thị trường tự do này, lợi ích cá nhân sẽ gắn liền
với lợi ích xã hội. Từ đó ông cho rằng Chính phủ không có vai trò thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.

10
- Lý thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc “Ai có gì được nấy”,
theo nguyên tắc này, tư bản có vốn thì được lợi nhuận, địa chủ có đất đai thì
thu được địa tô, công nhân có sức lao động thì nhận được tiền công.
Theo Adam Smith, chính lao động được sử dụng trong những công việc
có ích và hiệu quả là nguồn gốc tạo ra giá trị cho xã hội. Số công nhân “hữu ích
và hiệu quả” cũng như năng suất của họ phụ thuộc vào lượng tư bản tích luỹ.
Adam Smith coi sự gia tăng tư bản là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế.
Nếu Adam Smith được coi là người sáng lập ra Kinh tế học thì David
Ricardo (1772-1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Ông kế thừa các
tư tưởng của Adam Smith, và chịu ảnh hưởng tư tưởng về dân số học của T.R
Malthus (1776-1834). Những quan điểm cơ bản của David Ricardo về tăng
trưởng kinh tế được thể hiện như sau: Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng
nhất, các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn,
trong từng ngành và phù hợp với một trình độ kỹ thuật nhất định, các yếu tố
này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ cố định, không thay đổi.
David Ricardo cho rằng trong nông nghiệp, năng suất cận biên của đất
đai, tư bản, lao động đều giảm dần. Theo Ricardo, bất cứ biện pháp nào có thể
thúc đẩy việc nâng cao năng suất cận biên như: cải tạo nông nghiệp, áp dụng
máy móc, nhập ngũ cốc giá rẻ, giảm thuế và chi tiêu công cộng, đều làm tăng
lợi nhuận, từ đó tăng tỷ lệ hình thành tư bản, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy
xuất phát từ góc độ phân phối thu nhập để nghiên cứu tăng trưởng kinh tế,
nhưng ông vẫn đặc biệt nhấn mạnh tích luỹ tư bản là nhân tố chủ yếu quyết
định sự tăng trưởng kinh tế còn các chính sách của Chính phủ không có tác

động quan trọng tới hoạt động của nền kinh tế.
 Quan điểm của K.Marx về tăng trưởng kinh tế:
K.Marx (1818-1883) không những là một nhà xã hội, chính trị học, lịch
sử và triết học xuất chúng mà còn là một nhà kinh tế học xuất sắc. Theo Marx
các yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai, lao động, vốn và tiến bộ
kỹ thuật. Marx đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị

11
thặng dư. Theo Marx, sức lao động đối với nhà tư bản là một loại hàng hóa đặc
biệt, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động không giống như giá trị sử dụng
của các loại hàng hóa khác, vì nó có thể tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị của bản
thân nó, giá trị đó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Về yếu tố kỹ thuật, Marx cho rằng tiến bộ kỹ thuật làm tăng số máy móc
và dụng cụ lao động dành cho người thợ, nghĩa là cấu tạo hữu cơ tư bản C/V có
xu hướng ngày càng tăng. Do các nhà tư bản cần nhiều vốn hơn để khai thác
tiến bộ kỹ thuật, để nâng cao năng suất lao động của công nhân nên các nhà tư
bản phải chia giá trị thặng dư thành hai phần: một phần để tiêu dùng cho nhà tư
bản, một phần để tích luỹ phát triển sản xuất. Đó là nguyên nhân tích luỹ của
chủ nghĩa tư bản.
Marx bác bỏ ý kiến về “cung tạo nên cầu”, theo ông khủng hoảng kinh tế
là một giải pháp nhằm khôi phục lại thế thăng bằng đã bị rối loạn. Các chính
sách kinh tế của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng, đặc
biệt là chính sách khuyến khích nâng cao mức cầu hiện có.
 Quan điểm tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế:
Cuối thế kỉ 19 là thời kì đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học
kỹ thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học ra đời, cùng với nó nhiều nguồn tài
nguyên quí được đưa vào khai thác làm cho kinh tế thế giới có bước phát triển
mạnh mẽ. Sự chuyển biến này có ảnh hưởng mạnh đến các nhà kinh tế, hình
thành một trường phái kinh tế mới mà ngày nay ta gọi là trường phái tân cổ
điển, đứng đầu là Alfred Marshall (1842-1924), tác phẩm chính của ông là

“Các nguyên lý của kinh tế học”, xuất bản năm 1890, do đó thời điểm này
được coi như mốc đánh dấu sự ra đời của trường phái tân cổ điển.
Các nhà kinh tế tân cổ điển bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất
trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và
vốn, họ cho rằng vốn và lao động có thể thay thế cho nhau, và trong quá trình
sản xuất có thể có nhiều cách kết hợp giữa các yếu tố đầu vào. Đồng thời họ
cho rằng tiến bộ khoa học kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển

12
kinh tế. Do chú trọng đến các nhân tố đầu vào của sản xuất, lý thuyết tân cổ
điển còn được gọi là lý thuyết trọng cung.
Điểm giống với các nhà kinh tế cổ điển, các nhà kinh tế tân cổ điển cho
rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi nền kinh tế có biến động thì sự
linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí
sản lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động. Họ cũng cho rằng
Chính phủ không có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế.
 Quan điểm của Keynes về tăng trưởng kinh tế:
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp
đã diễn ra thường xuyên, nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
1929-1933 đã chứng tỏ rằng học thuyết “Tự điều tiết” nền kinh tế của các
trường phái cổ điển và tân cổ điển là thiếu xác thực, lý thuyết về “Bàn tay vô
hình” của A.Smith tỏ ra kém hiệu quả. Điều này đòi hỏi các nhà kinh tế phải
đưa ra các học thuyết mới phù hợp hơn. Năm 1936, sự ra đời của tác phẩm “Lý
thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của John Maynard Keynes (1883-
1946) đánh dấu sự ra đời của học thuyết kinh tế mới.
Keynes cho rằng có hai đường tổng cung: đường tổng cung dài hạn AS-
LR phản ánh mức sản lượng tiềm năng, và đường tổng cung ngắn hạn AS-SR
phản ánh khả năng thực tế. Cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức
sản lượng tiềm năng, mà thường cân bằng dưới mức sản lượng tiềm năng.
Keynes cũng đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản lượng.

Theo ông, thu nhập của các cá nhân được sử dụng cho tiêu dùng và tích luỹ.
Nhưng xu hướng chung là khi mức thu nhập tăng thì xu hướng tiêu dùng trung
bình sẽ giảm, xu hướng tiết kiệm trung bình tăng. Việc giảm xu hướng tiêu
dùng sẽ làm cho cầu tiêu dùng giảm. Ông cho rằng đây chính là một trong
những nguyên nhân cơ bản dẫn dến sự trì trệ trong hoạt động kinh tế.
Mặt khác, Keynes cũng cho rằng đầu tư đóng vai trò quyết định đến qui
mô việc làm, khối lượng đầu tư phụ thuộc lãi suất cho vay và năng suất cận
biên của vốn. Keynes sử dụng lý luận về việc làm và sản lượng do cầu quyết

13
định để giải thích mức sản lượng thấp và thất nghiệp kéo dài trong những năm
30 ở hầu hết các nước công nghiệp phương Tây, do đó lý thuyết này còn gọi là
thuyết trọng cầu.
Qua phân tích tổng quan về việc làm, Keynes đã đi đến kết luận: muốn
thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp, Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng
các chính sách kinh tế, những chính sách này nhằm tăng cầu tiêu dùng. Ông
cũng cho rằng Chính phủ có vai trò to lớn trong việc sử dụng những chính sách
kinh tế: chính sách thuế, chính sách tiền tệ, lãi suất nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
 Quan điểm hiện đại về tăng trưởng kinh tế:
Các nhà kinh tế học hiện đại ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn
hợp, trong đó thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức
kinh tế, nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu
cực của thị trường. Thực chất nền kinh tế hỗn hợp là sự xích lại gần nhau của
học thuyết kinh tế tân cổ điển và học thuyết kinh tế của Keynes. Những ý
tưởng cơ bản của học thuyết này được trình bày trong tác phẩm “Kinh tế học”
của P.Samuelson xuất bản năm 1948.
Kinh tế học hiện đại quan niệm về sự cân bằng kinh tế theo mô hình của
Keynes, nghĩa là sự cân bằng của nền kinh tế thường dưới mức tiềm năng,
trong điều kiện hoạt động bình thường của nền kinh tế vẫn có lạm phát và thất

nghiệp. Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức lạm phát có
thể chấp nhận được. Sự cân bằng này của nền kinh tế được xác định tại giao
điểm của tổng cung và tổng cầu.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của
mô hình kinh tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất. Họ cho rằng
tổng mức cung (Y) của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của
sản xuất: lao động (L), vốn sản xuất (K), tài nguyên thiên nhiên được sử dụng
(R), khoa học công nghệ (A). Nói cách khác hàm sản xuất có dạng:
Y= F (L,K,R,A ) (1.1)

14
Lý thuyết trên chọn hàm sản xuất dạng Cobb-Douglas để thể hiện tác động của
các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế:
(1.2)
(1.3)
Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng GDP
k, l, r là tốc độ tăng trưởng các yếu tố đầu vào.
a là phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ.
Để tăng trưởng sản xuất, các nhà sản xuất có thể lựa chọn công nghệ sử
dụng nhiều vốn, hoặc công nghệ sử dụng nhiều lao động. Samuelson cho rằng
một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế hiện đại là “kỹ thuật công
nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn”. Do đó vốn là cơ sở để
phát huy tác dụng của các yếu tố khác: vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, để có
công nghệ tiên tiến. Vì vậy trong phân tích và dự báo kinh tế ngày nay hệ số
ICOR được coi là cơ sở để xác định tỷ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
và (1.4)
Trong đó: k - hệ số ICOR (tỷ lệ gia tăng vốn và đầu ra).
tương ứng là mức gia tăng vốn và mức gia tăng đầu ra.
s: là tỷ lệ tiết kiệm.

g: là tốc độ tăng trưởng.
Samuelson cũng đề cập đến các yếu tố tác động đến tổng mức cầu như cách
tiếp cận của Keynes:
Y = f (C, G, I, NX) (1.5)
Trong đó:
C - tiêu dùng của các hộ gia đình
G - chi tiêu của chính phủ

15
I - tổng đầu tư
NX - xuất khẩu ròng
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trường là yếu tố cơ
bản điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng cung và
tổng cầu tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm - tỷ lệ thất nghiệp, mức
giá - tỷ lệ lạm phát, đó là cơ sở để giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế:
sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào.
Mặt khác vai trò của Chính phủ ngày càng được coi trọng. Việc mở rộng
kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước, không chỉ vì thị
trường có những khuyết tật, mà còn vì xã hội đặt ra mục tiêu mà thị trường dù
có hoạt động tốt cũng không thể đáp ứng được. Theo Samuelson, trong nền
kinh tế hiện đại, Chính phủ có bốn chức năng cơ bản: thiết lập khuôn khổ pháp
luật; xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô; tác động vào việc phân bổ tài
nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế; thiết lập các chương trình tác động tới
việc phân phối thu nhập.
 Quan điểm về nền kinh tế tri thức và tăng trưởng kinh tế:
Định nghĩa và đặc trưng của nền kinh tế tri thức cho đến thời điểm này
vẫn chưa có ý kiến thống nhất. Theo OECD và APEC (2000), nền kinh tế tri
thức được định nghĩa như sau : Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản
sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng
trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.

Theo giáo sư Đặng Hữu (2004), nền kinh tế tri thức có 10 đặc trưng chủ
yếu sau:
- Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Theo ông trong 15 năm qua các ngành
kinh tế dựa vào tri thức đang phát triển nhanh; các ý tưởng đổi mới và công
nghệ là chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc
sống.

16
- Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên
tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành kinh tế tri thức
đều phải dựa vào công nghệ mới để phát triển.
- Việc ứng dụng thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập mạng
thông tin đa phương tiện phủ khắp đất nước. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã
hội đều có tác động của công nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất lượng
và hiệu quả.
- Các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển.
- Xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hóa.
- Xã hội thông tin là một xã hội học tập.
- Vốn quí nhất của nền kinh tế tri thức là tri thức.
- Sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu thúc đẩy sự
phát triển.
- Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa.
- Sự thách thức đối với văn hoá. Trong nền kinh tế tri thức – xã hội
thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá là động lực thúc
đẩy kinh tế xã hội.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), có bốn trụ cột của nền kinh tế tri thức,
hay bốn tiên đề cốt yếu để một nước có thể tham gia vào nền kinh tế tri thức,
đó là:
− Giáo dục và đào tạo theo tiêu chuẩn cao.
− Cơ sở hạ tầng thông tin năng động, hữu hiệu, thuận lợi cho việc truyền

bá xử lý thông tin.
− Môi trường kinh tế và thể chế thuận lợi cho việc lưu thông các dòng tri
thức, khuyến khích đầu tư vào công nghệ thông tin và truyền thông.
− Hệ thống đổi mới, là hệ thống tổ chức và cơ chế chính sách nhằm liên
kết chặt chẽ các cơ quan nghiên cứu, trường đại học, các doanh nghiệp và các

17
tổ chức xã hội nhằm tăng cường khả năng nghiên cứu, áp dụng nhanh tri thức
tạo ra các công nghệ mới.
1.3.2. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là khái niệm có nội dung phản ánh rộng hơn so với
khái niệm tăng trưởng kinh tế. Nếu như tăng trưởng kinh tế về cơ bản chỉ là sự
gia tăng thuần tuý về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: GNP,
GNP/đầu người hay GDP, GDP/đầu người… thì phát triển kinh tế ngoài việc
bao hàm quá trình gia tăng đó, còn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu
sắc hơn, đó là những biến đổi về mặt chất của nền kinh tế – xã hội, mà trước
hết là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại
hóa và kèm theo đó là việc không ngừng nâng cao mức sống toàn dân, trình độ
phát triển văn minh xã hội thể hiện ở hàng loạt tiêu chí như: thu nhập thực tế,
tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, trình độ dân trí, bảo vệ môi
trường, và khả năng áp dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật vào phát triển
kinh tế – xã hội.
Với nội hàm rộng lớn trên đây, về cơ bản khái niệm phát triển kinh tế đã
đáp ứng được các nhu cầu đặt ra cho sự phát triển toàn diện nhiều lĩnh vực kinh
tế, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên như đã biết, trong khoảng hơn hai thập niên
vừa qua, do xu hứớng hội nhập, khu vực hoá, toàn cầu hoá phát triển ngày càng
mạnh mẽ hơn nên đã nảy sinh nhiều vấn đề dù là ở phạm vi từng quốc gia, lãnh
thổ riêng biệt, song lại có ảnh hưởng chung đến sự phát triển của cả khu vực và
toàn thế giới, trong đó có những vấn đề cực kỳ phức tạp, nan giải đòi hỏi phải
có sự chung sức của cả cộng đồng nhân loại, ví dụ như: môi trường sống, thiên

tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng bố… Từ đó đòi hỏi sự phát triển của mỗi
quốc gia, lãnh thổ và cả thế giới phải được nâng lên tầm cao mới cả về chiều
rộng và chiều sâu của sự hợp tác, phát triển. Thực tiễn đó đã thúc đẩy sự ra đời
một khái niệm mới về phát triển mang nội hàm phản ánh tổng hợp hơn, toàn
diện hơn tất cả các khái niệm về tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế…, đó là
khái niệm phát triển bền vững.

18
 Lý thuyết Linear- Stages:
Ý tưởng về các giai đoạn phát triển khác nhau xuất hiện từ thế kỷ 18.
Adam Smith lần đầu tiên cho rằng tất cả các xã hội đều trải qua 4 giai đoạn, cụ
thể là săn bắn, hái lượm, sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng hoá. Theo Karl
Marx, tất cả các xã hội đều phải trải qua, đó là chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư
bản, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Mô hình tăng trưởng về phát triển
của Walt W. Rostow là một điểm cộng thêm thuộc ý tưởng này.
Trong đầu những năm 1950, khi thế giới đang khôi phục lại từ sự tàn phá
của Thế Chiến Hai và hầu hết những nước là thuộc địa của các nước phát triển
đều được độc lập, có một nhu cầu lớn về các chính sách phát triển đối với các
nước mới độc lập này. Để chống lại đe doạ lan rộng từ chế độ cộng sản, các
nước tư bản phát triển cố gắng đưa ra các đề xuất chính sách cứng rắn đối với
các nước mới độc lập, các đề xuất này nhằm đưa các nước kém phát triển đi
theo chiều hướng phát triển. Thành công của Kế hoạch Marshall của Mỹ nhằm
giúp các nước mới thành lập ở các nước Tây Âu là thực tế và kinh nghiệm lịch
sử của nước phát triển trong việc chuyển đổi các xã hội nông nghiệp sang các
nước công nghiệp hiện đại có thể có những bài học quan trọng cho các nước
đang phát triển, dẫn đến việc hình thành các lý thuyết giai đoạn của Rostow.
Theo Rostow, việc chuyển đổi từ kém phát triển đến phát triển có thể được
nhận thấy trong hàng loạt các bước hay giai đoạn thông qua đó tất cả các nước
phải đi đến. Ông miêu tả ba giai đoạn này là:
- Xã hội truyền thống: Giai đoạn này là giai đoạn đầu tiên của sự phát

triển, như các xã hội săn bắn và hái lượm của Adam Smith hay các xã hội
phong kiến của Marx.
- Giai đoạn chuẩn bị cho sự cất cánh: Đây là giai đoạn bắt đầu có sự tiết
kiệm. Một hay hai lĩnh vực sản xuất hàng hoá quan trọng với tiềm năng phát
triển lớn được chú ý đến và đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cũng
được thực hiện.

19
- Giai đoạn cất cánh: Giai đoạn này là giai đoạn quan trọng nhất trong 5
giai đoạn của mô hình Rostow. Lĩnh vực này có thể được nhận biết nhờ 3 đặc
điểm chính, đó là:
Một sự gia tăng trong tỷ lệ đầu tư sản xuất từ 5% hay thấp hơn, trở
thành 10% hay nhiều hơn thu nhập quốc dân.
Sự phát triển của một hay hai lĩnh vực sản xuất quan trọng hơn với một
tỷ lệ tăng trưởng cao.
Sự tồn tại hay xuất hiện nhanh chóng của các khuôn khổ về thể chế, xã
hội và chính trị làm nẩy sinh các động lực cho sự mở rộng khu vực hiện đại.
- Hướng tới giai đoạn trưởng thành: Đây là giai đoạn khi mà tất cả các
cản trở đối với giai đoạn cất cánh không còn và xã hội đã tự đi vào con đường
tăng trưởng kinh tế bền vững.
- Thời đại tiêu dùng: Đây là giai đoạn cuối cùng. Một khi đã đạt được tới
giai đoạn này thì tất cả các vấn đề mà các nước kém phát triển phải đối mặt với
cũng sẽ qua và các xã hội sẽ đạt tới một giai đoạn tiêu dùng rộng lớn hơn.
 Mô hình tăng trưởng Harrod-Domar:
Nền tảng lý thuyết của Lý Thuyết Giai Đoạn của Rostow và trọng tâm của
thuyết đó về sự tiết kiệm xuất phát từ mô hình tăng trưởng Harrod-Domar (H-
D).
Phương trình chính của mô hình H-D là:
Trong đó: Y là thu nhập quốc dân
s là tỷ suất tiết kiệm

k tỷ lệ vốn-sản lượng
Vì thế vế bên trái của biểu thức này là tỷ lệ gia tăng của thu nhập quốc dân. Với
một k luôn ổn định và vì thế tỷ lệ gia tăng thu nhập quốc dân tương ứng với tỷ
suất tiết kiệm của nền kinh tế. Ví dụ, nếu tỷ lệ vốn-sản lượng là 3, khi đó tỷ lệ
tăng trưởng là 5%, tỷ suất tiết kiệm sẽ là 15%. Nếu như tỷ suất tiết kiệm chỉ là

20
5%, khi đó 10% kia có thể vay mượn nước ngoài hay từ viện trợ nước ngoài.
Đây là một luận cứ cơ bản đằng sau kế hoạch Marshall và kế hoạch này đã rất
thành công.
Chỉ trích về mô hình Các giai đoạn:Mô hình các giai đoạn đã quá đề cao
tiết kiệm. Tuy tiết kiệm và đầu tư là các điều kiện cần cho sự phát triển nhưng
chúng không được coi là điều kiện duy nhất.
Các mô hình thay đổi cơ cấu:Các mô hình thay đổi cơ cấu nhấn mạnh
đến nhu cầu của một sự thay đổi về cơ cấu trong xã hội. Các mô hình này
không mâu thuẫn với ý tưởng của mô hình các giai đoạn nhưng chúng triển
khai các mô hình chức năng phức tạp để chỉ ra các thay đổi về cơ cấu trong xã
hội có thể đưa nền kinh tế hướng tới con đường phát triển bền vững như thế
nào. Với tiêu đề này chúng ta sẽ chỉ tìm hiểu mô hình của Arthur Lewis. Mô
hình này có tên: "Phát triển kinh tế với các nguồn cung lao động vô hạn"
Cuộc cách mạng Phụ thuộc-Quốc tế: Khi lý thuyết phát triển hiện thời
không mang lại bất cứ thay đổi nào trong cuộc sống của người dân ở các nước
đang phát triển, thì sự bất bình gia tăng giữa các nhà kinh tế ở các nước đang
phát triển đã dẫn đến sự xuất hiện của các lý thuyết phát triển khác. Các lý
thuyết này trở nên phổ biến đối với các nhà kinh tế ở các nước đang phát triển
trong những năm 1970, dần được biết đến như “Cuộc cách mạng Phụ thuộc-
Quốc tế”. Ý tưởng cơ bản đằng sau Cuộc cách mạng Phụ thuộc-Quốc tế là các
nước thế giới thứ ba bị dàn xếp trong một mối quan hệ phụ thuộc và thống trị
với các nước giàu, và các nước giàu vô tình hay cố ý góp phần vào việc duy trì
quan hệ này và hiện trạng đó được duy trì. Các ý tưởng đã triển khai dưới tiêu

đề mở rộng của Cuộc cách mạng Phụ thuộc-Quốc tế (được biết đến rộng rãi
hơn là các lý thuyết phụ thuộc), có thể được phân thành 3 nhóm nhỏ sau đây:
 Mô hình phát triển tân thực dân (Neocolonial Dependence Model):
Đây là một ảnh hưởng gián tiếp của tư duy chủ nghĩa Mác. Những người
tin vào lý thuyết này cấp tiến nhiều hơn là những người theo hai nhóm nhỏ kia.
Theo lý thuyết này, sự kém phát triển của các nước thế giới thứ ba được coi là

21
kết quả của hệ thống chủ nghĩa tư bản quốc tế bất công cao hay các mối quan
hệ giữa nước giàu-nước nghèo. Các nước giàu thông qua các chính sách vô tình
hay cố ý bóc lột đã làm tổn thương đến các nước đang phát triển. Các nước
giàu và một giai cấp thống trị chóp bu ở các nước đang phát triển, những người
này được coi là tác nhân của các nước giàu, chịu trách nhiệm về hiện trạng kém
phát triển ở các nước đang phát triển. Không giống với các lý thuyết giai đoạn
hay các mô hình về sự thay đổi cơ cấu, các lý thuyết này coi tình trạng kém
phát triển là kết quả của các cản trở bên trong như đầu tư, tiết kiệm thiếu hụt
hay thiếu cơ sở hạ tầng, trình độ hay giáo dục, các thành tố của mô hình phụ
thuộc thực dân mới coi sự kém phát triển như là một hiện tượng xuất phát từ
nguyên nhân bên ngoài. Biện pháp giải quyết là khởi xướng các cuộc đấu tranh
cách mạng nhằm lật đổ giới thượng lưu hiện thời của các nước đang phát triển
và tổ chức lại hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới nhằm giải phóng các nước thế
giới thứ ba khỏi sự kiểm soát trực tiếp và gián tiếp của các nước thế giới thứ
nhất và các thế lực áp bức trong nước.
 Mô hình biến hoá sai (False Paradigm Model):
Những người đứng đằng sau lý thuyết này về bản chất kém cấp tiến hơn.
Họ tin là mặc dầu các nước phát triển có các ý định tốt trong việc giúp đỡ các
nước đang phát triển, nhưng các nhà tư vấn về chính sách của họ đơn giản
không phù hợp trong tình hình các nước đang phát triển chủ yếu bởi họ không
kết hợp chặt chẽ với các đặc điểm về thể chế văn hoá và xã hội đơn nhất của
các nước đang phát triển. Kết quả là các chính sách này không gây ra bất cứ kết

quả cuối cùng nào.
 Luận điểm Phát triển-Kép:
Đây là sự mở rộng của khái niệm về thuyết nhị nguyên được bàn đến
rộng rãi ở các nền kinh tế phát triển. Bằng các từ ngữ đơn giản nó thể hiện mối
quan hệ giữa các nước giàu và nước nghèo chỉ là một cái nhìn toàn cầu về
thuyết nhị nguyên mà chúng ta thấy trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống.

22
Sự nối kết giữa các nhân tố siêu cường và tiểu cường, là các nhân tố siêu cường
hơn tuy ít hay không có tác dụng lôi lên các nhân tố tiểu cường hơn. Đôi khi
trong thực tế, nó có thể thực sự dìm xuống (TQ hiệu đính: TQ gọi đây là lý
thuyết "an phận". Nghĩa là trong đời sống, có người giàu thì có người nghèo, có
người tốt thì có người xấu, cho nên có nước giàu thì phải có nước nghèo.
Nhưng lý thuyết "an phận" này vi phạm ngụy biện "trắng đen". Thế giới này
đâu chỉ đơn giản giữa giàu nghèo, tốt xấu, siêu cường và tiểu cường.)
1.3.3. Phát triển bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Năm 1987, trong Báo
cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Hội đồng Thế giới về Môi trường và
Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được định nghĩa
“là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây
trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio
de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển
bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định
“phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và
hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nền tảng là tăng
trưởng kinh tế), phát triển xã hội (mục tiêu là thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (mục
tiêu là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường;

phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng
trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp
lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất
lượng môi trường sống trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, vì vậy
đã được các quốc gia trên thế giới đồng thuận xây dựng thành Chương trình
nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái

23
đất về Môi trường và phát triển được tổ chức năm 1992 ở Rio de Janeiro
(Braxin), 179 nước tham gia Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về
môi trường và phát triển bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Chương trình nghị
sự 21 (Agenda 21) về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới
trong thế kỷ XXI. Hội nghị khuyến nghị từng nước căn cứ vào điều kiện và đặc
điểm cụ thể để xây dựng Chương trình nghị sự 21 ở cấp quốc gia, cấp ngành và
địa phương. Mười năm sau, tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển
bền vững tổ chức năm 2002 ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi), 166 nước
tham gia Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố Johannesburg và Bản Kế hoạch
thực hiện về phát triển bền vững. Hội nghị đã khẳng định lại các nguyên tắc đã
đề ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện đầy đủ Chương trình nghị sự 21
về phát triển bền vững.
Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ
chức tại Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 đến nay đã có 113 nước trên thế
giới xây dựng và thực hiện chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp
quốc gia và 6.416 chương trình nghị sự 21 cấp địa phương, đồng thời tại các
nước này đều đã thành lập các cơ quan độc lập để triển khai thực hiện chương
trình này. Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Việt Nam Thái Lan,
Singapore, Malaysia…đều đã xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21
về phát triển bền vững.
Về phía Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm qua đã luôn nhận

thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với
Việt Nam mà còn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của
toàn cầu. Chính phủ ta đã cử nhiều đoàn cấp cao tham gia các Hội nghị nói trên
và cam kết thực hiện phát triển bền vững; đã ban hành và tích cực thực hiện
“Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-
2000″ (Quyết định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá
trình phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm phát triển bền vững đã được
khẳng định trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ

24
Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội
dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm
phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”. Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện
của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam
và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 là: “Phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ
và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi
trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Gần đây, Đại hội X (2006) của
Đảng cũng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn phát triển hơn 20
năm đổi mới vừa qua và đó cũng là tư tưởng chỉ đạo về phát triển kinh tế – xã
hội nước ta giai đoạn 5 năm 2006-2010 và kể cả nhiều năm tiếp theo. Trong đó,
bài học đầu tiên đã được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh là “Bài học về phát triển
nhanh và bền vững”. Phát triển bền vững rõ ràng đã và đang trở thành đường lối,
quan điểm của Đảng và định hướng chính sách phát triển của Nhà nước. Để thực
hiện mục tiêu phát triển bền vững, những năm vừa qua đã có nhiều chỉ thị, nghị
quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được

ban hành và triển khai thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh
vực này đã được tiến hành và thu được những kết quả bước đầu. Nhờ đó, nhiều
nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành
xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.
Như vậy là theo từng thang bậc tiến trình phát triển của lý thuyết kinh tế
học phát triển hiện đại mà các khái niệm cơ bản nhất của lý thuyết này như đã đề
cập ở những nét khái quát nhất trên đây đã cho thấy, cho đến thời điểm này thì
phát triển bền vững đã và đang còn là khái niệm được sử dụng phổ biến nhất trên
toàn thế giới đương đại và nội hàm phản ánh của nó là rất rộng lớn, sâu sắc.

25

×