Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Lý luận chung về gia đình và liên hệ với vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.53 KB, 15 trang )

1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………...3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………….3
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu…………………………….3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn đề tài…………………………………….4
NỘI DUNG
Phần 1: Phần lý luận…………………………………………………....4
1.1: Khái niệm , cơ sở và chức năng của gia đình…………………....…..4
1.1.1: Khái niệm về gia đình……………………………………....4
1.1.2: Vị trí của gia đình trong xã hội…………………...………...5
1.1.3: Chức năng của gia đình……………………………………..6
1.2: Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội....8
Phần 2: Phần liên hệ thực tiễn và liên hệ bản thân………………...….9
2.1: Một số vấn đề của gia đình Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải
pháp…………………………………………………………………….....9
2.2: Vai trò của người phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay..............11
2.3: Liên hệ bản thân với vai trò một người con trong gia đình.................13
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tàì.
Gia đình, một tiếng gọi thân thương quen thuộc đối với mỗi chúng ta.
Trải qua bao thế hệ, bao năm tháng lịch sử, gia đình ở Việt Nam được hình


thành và phát triển trên những chuẩn mực về xã hội và tinh hoa về văn hóa.
Có thể nói gia đình là vấn đề được mọi dân tộc quan tâm trong mọi thời đại.
Chủ tịch kính u Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nhiều gia đình cộng lại mới
thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt
nhân của xã hội là gia đình”. Gia đình có vai trị quan trọng trong việc ni
dưỡng và hình thành nhân cách của một con người bởi đây là nơi trao cho ta
tình thương, cũng là nơi dạy dỗ, giáo dục ta. Gia đình khơng chỉ đơn thuần là
mái nhà, tổ ấm mà còn là một tế bào khơng thể thiếu trong xã hội. Những
truyền thống văn hóa quý giá, đạo đức làm người được ông cha ta truyền dạy
ngàn đời thông qua lớp lớp thế hệ gia đình lớn nhỏ. Đảng và Nhà nước ta
cũng rất coi trọng gia đình, đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã nhấn
mạnh: “Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng
các thành viên của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là tổ
ấm của mọi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”. Văn hóa gia đình cũng
là nền tảng văn hóa của xã hội. Trong gia đình, con cái được cha mẹ dạy về
cách sống, nề nếp, cách ứng xử giao tiếp, cách cư xử giữa các thành viên
trong gia đình với nhau và cách cư xử với xã hội. Các thế hệ đi trước dạy cho
con cháu những nét đẹp văn hóa xưa cũ và hịa hợp với chuẩn mực hiện đại.
Do đó, nếu giáo dục gia đình khơng tốt sẽ dẫn đến nhiều hành vi, suy nghĩ
không chuẩn mực của trẻ nhỏ. Đất nước Việt Nam ta trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội dưới tác động của nhiều yếu tố: phát triển nền kinh tế thị
trường theo hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
gắn liền với kinh tế tri thức,... nên gia đình ở Việt Nam cũng có nhiều biến đổi
về cấu trúc, quan hệ nhưng vẫn giữ chức năng, vai trò quan trọng trong phát


3

triển đất nước. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng được nhìn nhận
một cách khác đi ngày nay. Có thể thấy gia đình và vai trị của người phụ nữ

trong gia đình là yếu tố rất quan trọng và nó ln là một vấn đề được quan
tâm, vậy nên em đã chọn đề tài: “Lý luận chung về gia đình và liên hệ với vai
trị của người phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là em mong muốn làm rõ được
chức năng, vai trị của gia đình và người phụ nữ trong xã hội Việt Nam ngày
nay. Nêu ra những ảnh hưởng của gia đình đối với mỗi con người và giải pháp
cho một số vấn đề còn tồn tại trong gia đình và xã hội hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
• Nêu ra được khái niệm gia đình.
• Nêu rõ mối quan hệ trong gia đình và gia đình đối với xã hội.
• Vai trị của người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
• Thực trạng, nguyên nhân tác động đến gia đình ngày nay.
• Đưa ra những biện pháp khắc phục.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu gia đình trong xã hội Việt
Nam ngày nay và vai trò của người phụ nữ.
Phạm vi nghiên cứu: xã hội và phụ nữ Việt Nam ngày nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Quan điểm của chủ nghĩ Mác – Lenin về vấn đề gia đình trong thời kỳ
quá độ lên xã hội chủ nghĩa.


4

Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật với các phương pháp như: thống nhất logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn đề tài.
Ý nghĩa lý luận: Nhấn mạnh vai trị của gia đình đối với mỗi cá nhân và

xã hội.
Ý nghĩa thực tiễn: Nhận thức được rõ vai trò của gia đình, trách nhiệm
xây dựng gia đình, mối quan hệ giữa cá nhân, gia đình, xã hội. Làm cho mỗi
gia đình ngày một hồn thiện và xã hội Việt Nam ngày một phát triển văn
minh, tiến bộ.
NỘI DUNG
PHẦN I: PHẦN LÝ LUẬN
1.1: Khái niệm, cơ sở và chức năng của gia đình.
1.1.1: Khái niệm về gia đình.
Theo wikipedia: “Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn
bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống, nuôi dưỡng và/hoặc giáo dục”.
C.Mác và Ph.Angghen đã cho rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ
đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sơi, nảy nở. Đó là
quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái và đó là gia đình”.
Từ những định nghĩa trên, ta có thể thấy gia đình là mái ấm của mỗi
con người, khơng ở đâu ta được đùm bọc, yêu thương, che chở vô điều kiện
như gia đình. Chính gia đình là nơi con người từng bước trưởng thành, gắn
kết với nhau hình thành những mối quan hệ về tình thân, huyết thống, máu
mủ ruột thịt. Cơ sở để tạo nên một gia đình bắt nguồn từ hai mối liên hệ cơ


5

bản. Trước hết là hôn nhân vợ chồng, xuất phát từ tình cảm đi đến hơn nhân
và là mối quan hệ huyết thống, chung dòng máu như cha – mẹ, ông – bà, con
– cháu,..... Những mối quan hệ này tồn tại nhờ sự gắn bó, liên kết, đồn kết,
phụ thuộc lẫn nhau về nghĩa vụ, tình cảm, trách nhiệm của mỗi cá nhân về
mặt pháp lý, đạo lí. Gia đình là một tổng thể mang tính tồn cầu, nó phụ thuộc

vào các nền văn hóa, chế độ xã hội và bản sắc dân tộc khác nhau. Vậy nên
khơng có một khái niệm duy nhất nào về gia đình cho mọi hồn cảnh, mọi
thời đại.
Tuy nhiên, ta có thể hiểu một cách khái quát rằng gia đình là một cộng
đồng đặc biệt, được hình thành và duy trì dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng và nghĩa vụ với nhau giữa các thành viên trong gia
đình.
1.1.2: Vị trí của gia đình trong xã hội.
Gia đình là tế bào khơng thể thiếu của xã hội. Gia đình là một nhân tố
quyết định đến sự vận động, phát triển và tồn tại của xã hội. Gia đình là một
đơn vị nhỏ nhất, đầu tiên để tạo nên xã hội, mối quan hệ gắn bó giữa gia đình
với nhau là hơn nhân và huyết thống. Gia đình là để tái tạo ra con người, nếu
khơng có gia đình thì không thể sản sinh ra con người, mà nếu không sản sinh
ra con người thì xã hội khơng thể tồn tại và phát triển được, đây là điều tất
yếu sẽ sảy ra. Giữa xã hội và gia đình có một mối quan hệ không thể tách rời.
Muốn xây dựng xã hội tốt thì phải xây dựng một gia đình tốt, gia đình mang
bản chất xã hội sâu sắc.
Gia đình là tổ ấm mang lại giá trị hạnh phúc cho mỗi cá nhân. Gia đình,
nơi chúng ta được sinh ra và lớn lên, nơi sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục,
dạy dỗ, yêu thương, chăm sóc ta. Việc dạy dỗ và những tình yêu thương mà ta
nhận được từ gia đình là tiền đề cho sự hình thành và phát triển nhân cách, thể
lực, trí lực của một cơng dân. Nó quyết định con người đó khi trưởng thành
có phải là một cơng dân tốt, giúp ích cho xã hội hay khơng. Chỉ khi được phát


6

triển và lớn lên trong một gia đình đầm ấm, hạnh phúc, n bình thì cá nhân
mới có thể trở thành một người có những tiêu chuẩn về đạo đức, văn hóa,
trình độ phát triển cùng với thời đại.

Gia đình là khâu nối trung gian giữa các thành viên với xã hội. Mỗi cá
nhân trong gia đình khơng chỉ có nhu cầu quan hệ với gia đình mà cịn phải
quan hệ bên ngồi xã hội. Mỗi thành viên khơng chỉ là người trong gia đình
mà cịn là một thành viên của xã hội. Gia đình là cộng đồng đầu tiên đáp ứng
nhu cầu quan hệ của cá nhân, mỗi cá nhân sẽ được học cách cư xử với người
xung quanh và xã hội tại đây. Gia đình cũng là nơi xã hội tác động, phản ánh
vào một trong số các cá nhân để ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực. Mỗi cá
nhân có thể hịa nhập với cộng đồng chung thơng qua quan hệ với gia đình.
1.1.3: Chức năng của gia đình.
Chức năng tái sản xuất ra con người, đây là một chức năng đặc biệt chỉ
có ở gia đình. Nó nhằm duy trì nịi giống, cung cấp sức lao động cho xã hội,
duy trì sự trường tồn của xã hội. Đây là một chức năng tự nhiên của con
người, tuy nhiên để duy trì nó một cách tốt nhất để đáp ứng như cầu xã hội thì
nó cịn dựa vào trình độ phát triển, mức độ kinh tế và chính sách dân số của
mỗi quốc gia. Đối với nước ta, chức năng sinh đẻ cịn cần hạn chế vì đất nước
vẫn còn kém phát triền và nền kinh tế chưa cao, đời sống xã hội chưa thực sự
ở mức cao, mức tốt nhất.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng, đây là chức năng nhằm đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình, góp phần vào sự phát triển toàn
xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự tồn tại của nền
kinh tế nhiều thành phần, gia đình trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Đảng và
Nhà nước luôn khuyến khích các gia đình làm giàu chân chính từ lao động
của mình. Sự tồn tại của nền kinh tế gia đình cịn phát huy hiệu quả sức lao
động của gia đình và tạo ra của cải vật chất. Gia đình cịn là đơn vị tiêu dùng,


7

việc tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ, mua bán thương mại làm tăng sức tái sản
xuất, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước.

Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đây là một chức năng đào tạo, dưỡng
dục ra những công dân tốt nhất. Lợi ích của gia đình gắn với lợi ích của xã
hội, trẻ em là búp măng, là mầm non tương lai của đất nước. Giáo dục nơi gia
đình là giáo dục về tri thức, kinh nghiệm sống, đạo đức, lối sống, nhân cách,
thẩm mỹ,... Chăm lo, nuôi dưỡng trẻ em khơng chỉ là vì huyết thống mà cịn
vì nghĩa vụ, trách nhiệm của gia đình với xã hội. Chức năng ni dưỡng và
giáo dục có ảnh hưởng lâu dài đến các thành viên trong gia đình, từ khi sinh
ra tới khi trưởng thành và về già. Đối với chức năng này, gia đình góp phần to
lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của xã hội, nguồn lao động
chính của xã hội.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình, đây
là chức năng có tính văn hóa – xã hội của gia đình. Các thành viên trong gia
đình hiểu biết về tâm lý, sinh hoạt của nhau để đối xử với nhau một cách chân
thành, tế nhị, tạo tâm lý thoải mái, vui vẻ, hạnh phúc. Nhiều vấn đề phức tạp
liên quan đến giới tính, tuổi tác, sự căng thẳng mệt mỏi về thể xác và tâm hồn
trong lao động, ... thì mơi trường gia đình là nơi giải quyết có hiệu quả nhất.
Tuy nhiên nếu khơng hiểu cho nhau, thì chính gia đình có thể là nơi tạo ra áp
lực, ức chế cho mỗi thành viên. Cần biết sống và tổ chức cuộc sống gia đình,
chủ yếu là xử lý các mối quan hệ sao cho dân chủ, bình đẳng, hịa thuận. Gia
đình tồn tại và phát triển tác động đến tiến bộ của xã hội, là nơi lưu giữ,
truyền lại những tinh hoa văn hóa, truyền thống tốt đẹp. Gia đình là nơi mỗi
cá nhân chúng ta có thể đặt hết tâm tư tình cảm, tâm sự của mình vào để nhận
được sự an ủi, đồng cảm, tiếp thêm sức mạnh. Sự sẻ chia, giúp đỡ lần nhau
trong gia đình sẽ tạo sợi dây gắn kết cho các thành viên. Việc duy trì tình cảm
giữa các thành viên trong gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và
phát triển của xã hội.


8


1.2: Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cơ sở kinh tế - xã hội: Chế độ tư hữu, ấp bức bóc lột bị xóa bỏ, phụ nữ
được giải phóng, đời sống tinh thần, vật chất được nâng cao, xã hội ngày một
hoàn thiện, nâng cao mức sống. Tạo dựng nền kinh tế bình đằng, biến lao
động tư nhân trong gia đình thành lao động trực tiếp, người phụ nữ cũng lao
động và cũng có quyền bình đẳng đóng góp. Lao động gia đình là sự giúp ích
cho xã hội ngày một phát triển, nền kinh tế - công nghệ ngày một tiên tiến.
Cơ sở chính trị - văn hóa: xây dựng gia đình trong thời kì quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội là việc thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Không phân biệt nam hay nữ,
giàu hay nghèo, giải phóng phụ nữ khỏi những quan niệm cổ hủ, lạc hậu, bảo
vệ hạnh phúc gia đình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời cùng toàn dân chăm
lo xây dựng gia đình, coi trọng việc xây dựng và bảo vệ gia đình, hơn nhân.
Đây cũng là một trong những việc quan trọng trong sự nghiệp xâu dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Về văn hóa, việc nâng cao nhận thức, dân trí, thường
xuyên được giáo dục giới tính, hiểu biết về hơn nhân, tình u, gia đình càng
ngày càng được coi trọng. Các kiến thức tích lũy được làm nền tảng cho
chuẩn mực mới, giá trị mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình cho phù hợp
trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa thể hiện rõ nét nhất ở pháp luật về hơn nhân, gia đình, chính sách xã
hội,.....
Chế độ hôn nhân tiến bộ, đổi mới: Hôn nhân là tự nguyện, là xuất phát
từ tình cảm đơi lứa,sự tin tưởng lẫn nhau và dẫn đến hôn nhân. Khơng cịn sự
sắp đặt của gia đình như trước. Hơn nhân một vợ một chồng bình đẳng, bảo
vệ hạnh phúc, tơn trọng, có nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau. Hôn nhân được
đảm bảo về pháp lý, trên cơ sở pháp luật hiện hành, mọi gia đình đều có
quyền hết hơn tự do và li hơn chính đáng.


9


PHẦN II: PHẦN LIÊN HỆ THỰC TIỄN VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN
2.1: Một số vấn đề của gia đình Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải
pháp.
Những biến đổi chức năng gia đình: Chức năng tái sản xuất ra con
người. Trước đây gia đình ln quan niệm phải có con trai và nặng nề về vấn
đề nam nữ, nhưng giờ đây đã có nhiều gia đình khơng cịn nặng nề về vấn đề
này. Tuy nhiên thì sự mất cân bằng giới tính vẫn xảy ra, theo bà Hà Thị
Huỳnh Anh chuyên gia của Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA về Giới và
Nhân quyền: “mỗi một năm ở Việt Nam có khoảng 40.800 trẻ em gái khơng
được sinh ra. Con số này được tính dựa trên sự khác biệt giữa con số ước tính
trẻ em gái phải được sinh ra theo quy luật tự nhiên và số trẻ em gái thực tế
được sinh ra trong một năm”. Điều này chứng tỏ vấn đề nam nữ chỉ được
giảm bớt chứ chưa hề được xóa bỏ hồn tồn.
Sự biến đổi về quy mơ, kết cấu gia đình: trước đây, một gia đình
thường chung sống nhiều thế hệ: Ông – bà; bố - mẹ; con – cháu; đơi khi cịn
có thể là cơ – chú; cậu – mợ;... nhưng trong xã hội hiện nay thì mơ hình gia
đình ngày một được thu nhỏ lại, nó cịn được gọi là gia đình hạt nhân chỉ gồm
bố mẹ và con cái. Mơ hình gia đình đơn khơng chỉ phổ biến ở thành thị mà
cịn phổ biến ở nơng thơn. Tuy nhiên thì với sự đổi mới về kinh tế, xã hội phát
triển, con người lại chạy theo tìm kiếm lợi ích mà đánh mất tình cảm giá đình,
khiến cho các mối quan hệ trong gia đình ngày một rời rạc, lỏng lẻo, mọi
người dành ít thời gian quan tâm, chăm sóc nhau hơn,....
Sự biến đổi về chức năng giáo dục: Trong thời đại công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thì giáo dục gia đình địi hỏi hơn nữa về chất lượng. Mỗi gia đình
đều có xu hướng đầu tư về giáo dục cho con cái ngày một tăng lên, giáo dục
gia đình khơng chỉ nằm trong việc ứng xử, đạo đức nữa mà còn cả những kiến
thức về xã hội, khoa học, công nghệ, để trẻ nhỏ dễ hòa nhập hơn với cộng
đồng. Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt về vấn đề việc làm yêu cầu chất lượng



10

tốt hơn về đầu tư giáo dục trẻ nhỏ. Gia đình khơng phải nơi duy nhất để đào
tạo trẻ nhỏ nhưng do nhiều sự tiêu cực trong xã hội và nhà trường ngày nay
gia tăng thì gia đình – ngơi trường đầu đời của trẻ nhỏ là quan trọng nhất. Đây
là một vấn đề vẫn chưa có nhiều giải pháp tại Việt Nam. Ở đơ thị thì phụ
huynh thường quan tâm và chăm sóc vấn đề giáo dục cho con cái hơn ở miền
múi và nơi các dân tộc thiểu số. Có thể do tại miền núi, dân trí họ chưa được
cải thiện nên việc dạy dỗ con cái vẫn theo truyền thống xưa và ít sự đổi mới.
Cịn đối với những gia đình ở thành thị có học vấn và thu nhập cao, họ thường
quan tâm đến giáo dục con cái sát xao hơn. chúng ta cần phải thấy rằng trong
q trình xã hội biến đổi nhanh chóng, trong gia đình đang nảy sinh nhiều xáo
trộn trong chức năng dưỡng dục con cái và xã hội hóa. Việc giáo dục trẻ nhỏ
của lớp trẻ còn nhiều sự bất đồng so với thế hệ ông bà. Chúng ta cần phải
nuôi dạy con cái dựa trên sự tiến bộ của khoa học công nghệ và kết hợp
những tinh hoa từ thế hệ trước.
Sự biến đổi về quan hệ hôn nhân: Trước đây, người phụ nữ thường chịu
đựng và nghe theo lời của chồng, những trong thời kì đổi mới, họ đã có những
suy nghĩ mới và có quyền lên tiếng hơn. Trong hơn nhân xưa thì thường rất ít
hoặc hiếm mới có thể thấy chia tay, nhưng ngày nay, khi tình cảm đã hết hoặc
vợ chồng chung sống khơng có cảm xúc, nhiều mâu thuẫn, họ có thể dễ dàng
ly hơn. Dưới sự phát triển của khoa học công nghệ và sự tác động của nhiều
thứ trong xã hội đã làm gia tăng tỉ lệ ly hơn, quan hệ tình dục trước kết hơn,
vợ chồng trong gia đình có mối quan hệ ngồi luồng,.. từ đó khiến nhiều
người khó khăn hơn khi đi đến quyết định hôn nhân.
Sự biến đổi về quan hệ giữa các thế hệ: Xã hội càng phát triển, trẻ em
cũng theo đó mà tiếp xúc với bên ngồi sớm hơn, đây là việc tác động vừa
tích cực vừa tiêu cực. Khi được tiếp xúc với xã hội sớm, trẻ em có thể trưởng
thành hơn và nhìn nhận thế giới một cách chân thực hơn. Tuy nhiên thì tiếp

xúc với xã hội quá sớm khi chưa đủ kiến thức và hiểu biết thì cũng có ảnh


11

hưởng không tốt. Bằng chứng là tỉ lệ phạm tội ở trẻ em ngày một tăng cao,
theo báo cáo năm 2012, Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang cho biết: “Trong
số 122.277 bị can bị khởi tố có tới 9904 bị can dưới 18 tuổi (chiếm 8,1%, tăng
7,4% so với năm 2011)”. Đối mặt với những tình trạng đó, bố mẹ phải có
nghĩa vụ, trách nhiệm dạy dỗ và giáo dục con cái từ nhỏ. Nhưng đây cũng là
một vấn đề nan giải vì những khác biệt và mẫu thuẫn thế hệ, mỗi thế hệ có
một suy nghĩ khác nhau, điều đó dẫn đến tình cảm gia đình lỏng lẻo, khơng có
sự gắn kết. Sống dưới mơ hình gia đình hạt nhân, đơi khi trẻ nhỏ khơng có
nhiều tình cảm với ông bà, thế hệ trước, vậy nên cha mẹ là cầu nối quan trọng
trong mối quan hệ giữa ông bà và con cháu. Con cháu phải giữ được chữ hiếu,
đây là một truyền thống, lối sống tốt đẹp của Việt Nam ta, nó cần được giữ
gìn và lưu truyền. Cuộc sống xô bồ buộc ta phải biết chân quý tình cảm gia
đình hơn, vì đây là nơi ta có thể tâm sự, nhận được sự yêu thương vô điều
kiện.
2.2: Vai trị của người phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay.
Trong gia đình, vai trị của người phụ nữ là vơ cùng quan trọng, gia
đình có hạnh phúc, có êm ấm và phát triển hay khơng một phần cũng là do
người phụ nữ. Trước đây, vai trò của người phụ nữ khơng được đề cao, họ chỉ
có thể ở nhà và làm việc nội chợ còn trụ cột chính trong gia đình là người đàn
ơng. Người xưa có câu: “ xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, câu nói này
mang hàm ý người phụ nữ ln phải nghe theo người đàn ông khi đã được gà
cho họ, nếu chồng chết thì sẽ phải theo con trai. Thân phận của người phụ nữ
khơng được đề cao mà hồn tồn phụ thuộc vào người đàn ơng, thậm chí
người đàn ơng cịn có thể dạy vợ hay đánh đập vợ, thì người phụ nữ vẫn
khơng được phép phản kháng. Vai trò của người phụ nữ thời bấy giờ chỉ là

sinh đẻ và phục vụ chồng con, họ khơng có quyền cho chính bản thân mình,
khơng có tiếng nói. Tuy nhiên thì vai trị của họ vẫn ngầm được hiện lên,
trong một gia đình, ta thấy sự gọn gàng, ngăn nắp, thì ít nhiều cũng ảnh


12

hưởng đến con cái và các thành viên. Ngày nay, khi đất nước bước vào thời kì
quá độ xã hội chủ nghĩa, người phụ nữ đã hiện lên rất rõ ràng với vai trị quan
trọng của mình trong gia đình và cả trong xã hội. Càng ngày, phụ nữ càng
tham gia nhiều vào các hoạt động xã hội, họ có tiếng nói, họ đứng lên bảo vệ
nhân quyền, dân quyền cho chính bản thân. Người phụ nữ được bình đẳng
trong gia đình của họ, họ cũng có tiếng nói, có quyền tham gia quyết định
trong gia đình. Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển, rất nhiều công
cụ máy móc giúp đỡ cho việc nội trợ nhưng những thứ đó vẫn kh thể thay thế
được cơng việc của người phụ nữ. Trong gia đình Việt Nam hiện nay, người
phụ nữ vừa làm nội trợ, vừa làm kinh tế, cũng có một số người họ chỉ làm
kinh tế và khơng làm cơng việc nội trợ - khi đó họ đã trở thành một trụ cột
trong gia đình. Khơng thể phủ nhận sự thật nếu khơng có người phụ nữ trong
gia đình thì thật sự mọi thứ sẽ rất khó khăn và bị đảo lộn. Ngơi nhà có gọn
gàng, tinh tươm, đời sống tinh thần của các thành viên có phịng phú, vui tươi
hay không đều là nhờ người phụ nữ. Họ chăm sóc, ni dạy, giáo dục con cái,
là chỗ dựa tinh thần cho người chồng. Trong gia đình truyền thống nếu có ơng
bà, người phụ nữ lúc này có thiên chức làm người con, phụng dưỡng và chăm
lo cho bố mẹ già. Khi mang thiên chức là một người mẹ, họ dịu dàng, chu
đáo. Khi mang thiên chức là một người vợ, họ ân cần, lắng nghe, thấu hiểu và
u thương. Người phụ nữ họ ln qn mình để chăm sóc cho gia đình, vun
đắp cho tổ ấm của bản thân. Họ san sẻ những khó khăn, áp lực với chồng
mình, họ ln mang một trái tim u thương và sự bao dung, độ lượng. Một
nhà tư tưởng đã từng nói: “Trái tim của người phụ nữa khơng bao giờ già cỗi

và một khi nó khơng u nữa thì đó là nó đã ngừng đập”. Người phụ nữ, họ
hết mực yêu thương con cái “đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ”, họ là
tấm gương cho con cái noi theo, là người động viên mỗi khi con khó khăn, là
nơi con cái có thể tâm sự chút bớt nỗi buồn. Mẹ là một người sẽ dạy cho con
biết những cách cư xử, cách sống, cách nhìn nhận cuộc sống. Phụ nữ, họ cũng
là trụ cột gia đình, họ san sẻ gánh nặng vật chất, kinh tế với chồng, điều này


13

giúp cho xã hội giảm sự đói nghèo, nâng cao mức sống của gia đình. Người
phụ nữ cũng là một người quản lí trong gia đình, một người biết thu chi hợp lí
sẽ giúp gia đình có chất lượng sống tốt hơn. Họ cũng là sợi dây liên kết gắn
bó tình cảm mỗi thành viên trong gia đình với nhau, họ rất giỏi trong việc
lắng nghe và giúp mỗi thành viên trong gia đình có hướng đi tốt nhất. Người
phụ nữ là nơi phát huy giá trị tinh thần và giữ gìn truyền thống văn hóa.
Người phụ nữ họ dạy con cách ứng xử văn hóa, kính trên nhường dưới, yêu
thương các em và tôn trọng người lớn. Nơi lưu giữ, truyền lại những câu ca
dao dân ca thông qua lời du tiếng hát. Họ đóng vai trị quan trọng trong việc
thực hiện bình đẳng giới, nâng cao khả năng của bản thân, nuôi dạy các con
không phân biệt giới tính, đối xử cơng bằng. Một gia đình hạnh phúc, đầm ấm
là nhờ vai trò của người phụ nữ rất lớn.
2.3: Liên hệ bản thân với vai trò một người con trong gia đình.
Ai trong mỗi người chúng ta đều có trong mình thứ quan trọng nhất.
Em cũng vậy, thứ quan trọng nhất đối với em chính là gia đình. Gia đình là
một tiếng gọi thiêng liêng, yêu thương, nghe đến thơi ta đã cảm nhận được sự
thân thuộc. Tình cảm gia đình là tình cảm khơng có thứ gì thay thế được, tình
cảm ấy ln nhắc nhở em phải hướng tới những người thân yêu của mình,
phải thực hiện thật tốt đạo làm con, đạo làm cháu. “Đi khắp thế gian không ai
tốt bằng mẹ, gánh nặng cả cuộc đời không ai khổ bằng cha”, đúng vậy, không

ai tốt với bản thân chúng ta như bố mẹ chúng ta, không ai tin tưởng, lo toan
cho chúng ta như bố mẹ. Họ là những người đã hy sinh hết cả tuổi xn của
mình vì con để cho con có cuộc sống đầy đủ, không thua kém ai. Để đền đáp
lại sự hy sinh, công lao ấy, em luôn tự nhắn nhủ bản thân phải có trách nhiệm
với bản thân, với gia đình. Bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm của con cái là
vâng lời cha mẹ, yêu thương, sẻ chia và chăm sóc họ. Là một sinh viên cịn
ngồi trên ghế nhà trường, em sẽ cố gắng học tập, rèn luyện, tích lũy thêm kiến
thức cho bản thân thật tốt để khơng phụ lịng cha mẹ, thầy cơ. Em sẽ cố gắng


14

tránh xa các tệ nạn, tật xấu, cám dỗ,... cố gắng học hỏi về kĩ năng sống, cách
ứng xử đúng mực với mọi người trong xã hội.
KẾT LUẬN
Một đất nước có phát triển tốt, một dân tộc có mạnh hay khơng là phụ
thuộc vào gia đình. Gia đình và sự phát triển của xã hội có liên quan chặt chẽ
đến nhau, ràng buộc nhau không thể tách rời nhau. Khi xã hội thay đổi, gia
đình cũng thay đổi, gia đình mạng bản chất xã hội, khi gia đình tốt thì xã hội
sẽ phát triển mạnh mẽ và tốt đẹp lên, khi xã hội tốt đẹp lên thì cũng có những
ảnh hưởng tích cực đến gia đình. Gia đình là tổ ấm, là nơi nương tựa của tất
cả các thành viên. Tuy nhiên khi xã hội thay đổi, mơ hình gia đình cũng ngày
một đổi thay, có thể tình cảm gia đình sẽ khơng cịn như trước nữa thì càng là
sự thách thức đối với việc giáo dục gia đình. Trách nhiệm vượt qua những thử
thách đó là của tồn dân, các gia đình nhỏ trong đại gia đình Việt Nam dân
chủ cộng hòa. Đặc biệt là lớp trẻ chúng ta, những con người mang trong mình
niềm tin và sự nhiệt huyết sục sôi phải luôn cố gắng, không ngừng vươn lên.
Chúng ta, những người gánh trên vai tương lai của một đất nước, một dân tộc
phải hết mình gìn giữ bản sắc văn hóa gia đình, dù cho xã hội có thay đổi ra
sao cũng phải cố gắng vun đắp tổ ấm ấy. Bởi đây là nơi ta có thể thỏa mãn

nhu cầu về tình cảm, tình thân, về vật chất mà khơng cần phải đề phịng dè
chừng gì cả.


15

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt:
1. Giáo trình CNXHKH của Học viện Chính trị quốc gia.
Tài liệu trực tuyến:
1. Trần Tuyết Ánh (2020), “Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà
nước.... đến nay”.
/>PSU
2. Hà Thị Huỳnh Anh (2020), “Mỗi năm Việt Nam có khoảng... được
sinh”
/>fbclid=IwAR0rJ8MIDS166dZ90Jqxr8iTUj97lcswWvyMB9yA3bRAE
nd6NuqeEceYVCw
3. Trần Đại Quang (2012), “Đôi điều suy nghĩ về biện pháp xử lý người
chưa thành niên phạm tội”.
/>CatPK=4&NewsPK=297&fbclid=IwAR0r7s7JfqNlR4cKdmNheKuOX
03sp_tSwy3oTQYB3zl9qW2AlB75g4_w81U



×