Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tài liệu Tiểu luận: "Tình hình hoạt động của hệ thống tín dụng nông nghiệp Việt Nam" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.52 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

Tiểu luận
Đề tài:


Tình hình hoạt động của hệ thống tín dụng
nông nghiệp Việt Nam
1
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 2
1.1.Tính cấp thiết của đề tài 2
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
2.1 Phương pháp thu thập thông tin 4
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, nông nghiệp được coi là nền
móng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt khi Việt Nam thực hiện chính
sách mở cửa, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Thương mại nông nghiệp
2
đã đóng góp lớn vào nguồn thu ngoại tệ, tăng thu nhập cho khu vực nông nghiệp, cải
thiện đời sống của người dân nông thôn.
Một trong những điều kiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp để phát
triển kinh tế nông thôn là phải tích lũy tư bản để có thể tái sản xuất mở rộng. Trong đó,
tín dụng chính thống cho nông nghiệp là công cụ chủ yếu, hiệu quả kích thích các hoạt
động tạo thu nhập, giúp người nông dân có vốn đầu tư và tái sản xuất mở rộng, từ đó
giúp người nông dân vượt khỏi đói nghèo và vươn lên làm giàu.
Tín dụng rất cấn thiết đối với các hộ nông nghiệp nhỏ ở nông thôn so với các
nghề khác bởi vì
khoảng


thời gian giữa lúc sử dụng đầu vào và mùa thu hoạch dài,
trong quá trình sản xuất gặp phải rất nhiều rủi ro. Điều đó liên quan đến cả kinh phí
mua
đầu vào (giống, thuê làm đất,…) lẫn lao động. Đối với các hộ nhỏ yêu cầu vốn
lưu động đó rất
khó
có thể tìm thấy từ nguồn tiền tiết kiệm và cần phải tiếp cận
nguồn tín dụng ngắn hạn.
Trong những năm gần đây, tín dụng Việt Nam đặc biệt là tín dụng chính thống
cho nông nghiệp đã có những bước phát triển đáng kể về quy mô, nguồn vốn, đối
tượng vay vốn… Đạt được những thành công đó là nhờ có hệ thống ngân hàng cùng
các tổ chức tín dụng như: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng
chính sách xã hội, quỹ tín dụng nhân dân,… đã tạo thành kênh huy động vốn cho vay
tại chỗ đưa nguồn vốn đến những hộ nông dân có nhu cầu, từ đó có cơ hội vươn lên
phát triển sản xuất, thoát nghèo và làm giàu.
Theo đánh giá của các ngân hàng trong 3 năm gần đây, tín dụng nông nghiệp -
nông thôn tuy đã có những bước phát triển đáng kể nhưng số vốn mà các tổ chức tín
dụng đã cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp – nông thôn mỗi năm vẫn còn quá
nhỏ so với nhu cầu thực tế. Cần phải có một hệ thống tín dụng nông thôn vững mạnh
để đáp ứng được nhu cầu vốn cho nông nghiệp tạo nên đà phát triển kinh tế nông thôn.
Xuất phát từ vấn đề trên chúng em chọn đề tài “tình hình hoạt động của hệ
thống tín dụng nông nghiệp Việt Nam ” làm đề tài nghiên cứu của chúng em.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung:
Tìm hiểu hoạt động của hệ thống tín dụng cho nông nghiệp ở Việt Nam
Mục tiêu cụ thể:
+ Nhu cầu về vốn trong hoạt động nông nghiệp
3
+ Tình hình hoạt động của hệ thống tín dụng nông nghiệp Việt Nam trong thời
gian qua

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1. Đối tượng:
Hệ thống tín dụng chính thống cho cho nông nghiệp nông thôn (chủ yếu là các
tổ chức tín dụng chính thống tại Việt Nam: Ngân
hàng
nông nghiệp và phát triển
nông thôn (NH NN&PTNT hay VBARD) và Ngân hàng chính sách

hội
(VBSP), Quỹ tín dụng nhân dân.
1.3.2. phạm vi nghiên cứu
- Về không gian:
Thông tin trong đề tài được thu thập tổng hợp ở Việt Nam
- Về thời gian:
Số liệu được sử dụng trong nghiên cứu của đề tài là số liệu do điều tra thu thập
thông tin từ internet trong năm 2005-2010, các số liệu đã được công bố.
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập số liệu, thông tin thứ cấp: Các tài liệu liên quan đến mục tiêu nghiên
cứu đã được công bố, lấy từ sách, báo và trên internet .
4
2.2 Phương pháp phân tích số liệu
Phương pháp thống kê so sánh: so sánh quy mô, cơ cấu vốn, nhu cầu vốn, tình
hình phát triển của tín dụng chính thống cho nông nghiệp qua các năm từ 2005-2009.
Mục tiêu Phương pháp Kết quả
Nhu cầu về vốn trong
hoạt động nông nghiệp
Thu thập thông
tin, phân tích đánh giá
Nhu cầu về vốn

hiện nay càng tăng
Tình hình họat động của
hệ thống tín dụng cho nông
nghiệp nông thôn ở Việt Nam
trong thời gian qua
Thu thập thông
tin, phân tích quy mô,
tình hình biến động và
các yếu tố ảnh hưởng
Thực trạng họat
động tín chính thống
cho nông nghiệp hiện
nay. Thành tựu và
hạn chế của hệ thống
tín dụng
PHẦN 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thị trường tín dụng nông thôn ở Việt Nam ngự trị bởi h ai ngân hàng quốc
doanh là ngân
hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn (NH NN&PTNT hay
VBARD), ngân hàng chính sách

hội (VBSP) và hệ thống các quỹ tín dụng nhân
dân.
5
3.1. Tình hình kinh tế nông nghiệp Việt Nam năm 2009
* Sản xuất nông nghiệp phát triển và tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất nông, lâm
nghiệp và thủy sản năm 2009 ước tăng 4,2% so năm 2008 (năm 2008 tăng 5,6%),
trong đó nông nghiệp tăng 3,5%, lâm nghiệp tăng 2,8% và thủy sản tăng 4,5%. Trong
bối cảnh có nhiều khó khăn do thiên tai lớn gây thiệt hại nặng nề, nhất là ở các tỉnh

miền Trung và Tây Nguyên, thì đây là điều rất đáng ghi nhận, song hạn chế vẫn còn
nhiều.
* Trong trồng trọt, sản lượng lúa cả năm ước đạt 39,3 triệu tấn, là mức cao nhất từ
trước đến nay và tăng hơn nửa triệu tấn so với năm 2008. Mặc dù diện tích gieo cấy
giảm do rét đậm trong vụ đông xuân các tỉnh phía Bắc và ảnh hưởng của mưa lũ lớn
trong vụ hè thu và vụ mùa, nhưng nhờ năng suất lúa tăng nên sản lượng tăng cả 3 vụ
trong năm. Sản xuất ngô tiếp tục phát triển toàn diện cả diện tích, năng suất nên sản
lượng tăng khoảng 400 nghìn tấn so với năm 2008.
* Sản lượng lương thực có hạt năm 2009 đạt trên 44 triệu tấn, tăng khoảng 700 nghìn
tấn so với năm 2008, là mức cao nhất từ trước đến nay. Lương thực bình quân nhân
khẩu đạt khoảng 513 kg/người, tăng 11 kg so với năm 2008 (502kg), dù dân số tăng
hơn 1 triệu người. Do đó an ninh lương thực quốc gia được bảo đảm ổn định trong mọi
tình huống. Lượng gạo xuất khẩu cả năm đạt hơn 6 triệu tấn, tăng 33% so với năm
2008. Thiếu đói giáp hạt giảm 31% về số hộ, giảm 27,6% về số khẩu so với năm 2008,
dù thiên tai, bão lũ gây thiệt hại nặng nề hơn. Sản xuất rau, màu, cây công nghiệp, cây
ăn quả tiếp tục phát triển và tăng trưởng khá. Sản lượng cà-phê nhân vượt 1 triệu tấn,
cao su mủ khô trên 700 tấn…
* Chăn nuôi phát triển toàn diện cả về gia súc, gia cầm. Giá trị sản xuất chăn nuôi
năm 2009 ước tăng 7,5% và cao hơn tốc độ tăng năm 2008 (6%) và các năm trước đó.
* Lâm nghiệp vẫn phát triển trong khó khăn. Diện tích trồng rừng tập trung đạt trên
220 nghìn ha, tăng 5% so với năm 2008, sản lượng gỗ khai thác đạt 3.520 nghìn m
3
.
Diện tích rừng bị cháy, bị phá chỉ có 3.500 ha, tỷ lệ rừng được che phủ đạt 39,5%, cao
hơn năm 2008.
Tuy bão lũ nhiều, nhưng nuôi trồng và đánh bắt thủy sản vẫn phát triển và tăng
trưởng tốt. Sản lượng thủy sản cả năm đạt trên 4,9 triệu tấn, tăng 4,5% so với năm
2008, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 2,6 triệu tấn, sản lượng đánh bắt trên 2,3 triệu
tấn, đều cao hơn năm 2008. Sản xuất thủy sản không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
6

trong nước, mà còn tăng số lượng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả năm
ước đạt 4,3 tỉ USD, mức cao nhất từ trước đến nay và tăng so với năm 2008.
Tuy nhiên, hạn chế của nông, lâm nghiệp và thủy sản 2009 là tính bền vững chưa
cao. Trong sản xuất, xu hướng tự phát chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn phổ
biến. Diện tích lúa vụ thu đông (vụ 3 ở vùng đồng bằng sông Cửu Long) vẫn phát triển
tự phát, chưa ổn định. Sản lượng các cây trồng khác tăng – giảm không ổn định, nhất
là cây vụ đông ở vùng đồng bằng sông Hồng, như cây bông, mía, cà-phê, cao-su…
Chăn nuôi trâu, bò đều giảm và tình trạng nhập bò ngoại (Thái Lan) với số lượng lớn
không qua kiểm dịch đang tiềm ẩn nguy cơ lây lan dịch bệnh, nhưng chưa có biện
pháp quản lý của các ngành, các địa phương. Nuôi trồng và khai thác thủy sản vẫn
chưa ổn định cả về diện tích mặt nước, kỹ thuật, con giống, ngư trường, ngư cụ, tàu
thuyền… nên tốc độ tăng trưởng đã chậm lại so với các năm trước.
3.2. Nhu cầu về vốn trong hoạt động nông nghiệp
Khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam chiếm hơn 70% dân số nhưng chỉ
chiếm 17% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của hệ thống tổ chức tín dụng. Kinh tế thị
trường phát triển, nông nghiệp, nông thôn và người nông dân càng khó có cơ hội tiếp
cận với các nguồn tài chính - tín dụng, tuy nhiên nguồn tín dụng đó hầu như chưa đáp
ứng được nhu cầu vốn hiện tại của người dân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn. Nguồn tài chính đầu tư cho nông nghiệp nông thôn hiện nay chưa được
tương xứng với quy mô và tầm quan trọng của nông nghiệp.
Trong sản xuất nông nghiệp với chu kỳ sản xuất kinh doanh dài, quá trình sản
xuất lại có thể gặp nhiều rủi ro do khi toến hành sản xuất luôn cần một khoản vốn nhất
định (cần nguồn vốn lớn). Nhưng đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, những hộ
gia đình không thể tự đáp ứng được nhu cầu vốn đó. Người nông dân Việt Nam với
thu nhập thấp (khoảng 800.000 đ/người/tháng), trong khi đó tình hình biến động của
giá cả và lạm luôn có xu hướng tăng cao thì khả năng tích lũy của những người nông
dân là rất thấp, không thể nào có đủ vốn để đầu tư tái sản xuất mở rộng quy mô. Trong
khi đó xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp lại phải cần có đủ số
nguồn vốn cần thiết, do vậy nhu cầu về vốn trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn
ngày càng rất lớn.

Theo các chuyên gia, tăng trưởng tín dụng trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp
thời gian qua tuy có tốc độ nhanh nhưng mới đáp ứng khoảng 40% nhu cầu vay vốn
7
của các tổ chức kinh tế và hộ gia đình. Tỷ lệ hộ nông dân được vay vốn chỉ đạt khoảng
70% và gặp nhiều vướng mắc trong quy định về thế chấp, thu hồi nợ.
Thực tế cho thấy, do các kênh tín dụng còn phân tán, việc cho vay ưu đãi được
thực hiện qua nhiều đầu mối (Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng Nông nghiệp và
PTNT, Ngân hàng Chính sách Xã hội) với nhiều mức lãi suất cho vay khác nhau nên
khách hàng thiếu thông tin đầy đủ để tiếp cận khoản vay ưu đãi. Thêm nữa, nhu cầu
vay cao nhưng ngân hàng không đáp ứng nổi. Điển hình như làng nghề xã Chuyên Mỹ
(Phú Xuyên - Hà Nội), nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất lên tới 50 tỉ đồng, trong khi
quỹ tín dụng của xã có số dư nợ cho vay 11 tỉ đồng, vốn vay của Agribank khoảng 7 tỉ
đồng. Vì thế, người dân cần vốn phải đi vay ngoài với lãi suất cao. Đối với những hộ
làm kinh tế trang trại, tuy mức vay không thế chấp khoảng 10 triệu đồng, nhưng vẫn
còn thấp so với nhu cầu để phát triển sản xuất. Đặc biệt, trong việc tiếp cận nguồn tín
dụng nông thôn, nhiều hộ nông dân phản ánh tình trạng “cò” tín dụng làm khó người
vay. Thêm vào đó, cán bộ ngân hàng nhiều nơi vẫn coi giá trị tài sản bảo đảm tiền vay
là điều kiện tiên quyết khi xem xét cho vay mà không tính đến hiệu quả của dự án, khả
năng trả nợ của người vay Gia đình ông Nguyễn Văn Huệ ở thôn Lại Hoàng (Gia
Lâm - Hà Nội) vay 20 triệu đồng từ quỹ Hội Phụ nữ để đầu tư phát triển chăn nuôi.
Tuy nhiên, do chưa nắm vững kỹ thuật, lại gặp nhiều rủi ro nên gia đình ông đã trắng
tay. Nợ cũ chưa trả xong, tài sản thế chấp không còn nên ông không thể vay tiếp. ông
than thở: “Khi chưa thể hoàn trả vốn vay từ ngân hàng mà muốn khôi phục sản xuất,
chúng tôi đành phải tiếp tục vay từ quỹ Hội Phụ nữ với lãi suất cao hơn, cho dù thủ tục
tục cho vay thường đơn giản và nhanh chóng. Dù vậy, chúng tôi vẫn phải chấp nhận”.
Mặt khác, đến nay Quyết định số 67 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính
sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp có một số điểm không phù
hợp với thực tế. Chẳng hạn, nếu không có bảo đảm nông dân chỉ được vay tối đa đến
10 triệu đồng nhưng hiện nay là quá thấp, không phù hợp với nhu cầu vốn cho sản
xuất, kinh doanh của các hộ nông dân.

Xã Đông Yên, Quốc Oai, Hà Tây (cũ) bình quân thu nhập chỉ đạt có 3,6 triệu
đồng/người, tỷ lệ nghèo toàn xã 32,6%. Chủ tịch Hội Nông dân xã Vũ Văn Chỉ cho
hay, những tổ chức hội như của ông đều nhận uỷ thác của ngân hàng Chính sách để
cho hộ nghèo vay trung bình mỗi hộ 7-10 triệu đồng với lãi suất 0,65%/tháng trong
thời gian 24 tháng. Khoản vay tương đối ít, thời gian lại eo hẹp. Nuôi con gà, con lợn
8
còn có thể quay vòng vốn được nhưng chăn bò, chăn trâu như lời ông Chỉ từ khi mua
về đến lúc nó “nhớ giống” cũng phải 1 năm, “nhớ giống” xong may mắn chửa cũng
trên 9 tháng, cộng với thời gian nuôi đến tuổi xuất chuồng độ 5-6 tháng nữa là đã trên
hai năm rưỡi. Nếu như trả theo thời hạn vay là 24 tháng thì người dân phải bán bò
đúng giai đoạn đẻ, khả năng sinh lời chưa có. Thuận buồm, xuôi gió còn thế, huống hồ
đầu tư trong nông nghiệp, lợi nhuận thấp đã đành còn rủi ro lớn, không thể nói trước.
Rủi ro ấy được chia làm hai loại: rủi ro dịch bệnh và rủi ro thị trường. Tỷ như trước
đây dân Đông Yên có 40 hộ được vay ngân hàng bò với mức 4 triệu/hộ. Lúc ấy bò
đang đắt, mỗi con có giá khoảng 8-10 triệu đồng nên muốn mua dân lại phải vay nóng
đến hơn một nửa bên ngoài. Sau hai năm bỏ bao công sức chăm sóc, khi dân bán cả bò
lẫn bê chỉ được cỡ 6 triệu đồng, lỗ nặng. Anh Nguyễn Văn Tiềm (thôn Đông Hạ) vay
được 6 triệu đầu tư mua bò và lợn nái bảo: “Con bò còn cắt cỏ cho ăn được nhưng lợn
cứ phải ăn cám nên vay được có 6 triệu thì thiếu quá, phải vay ngoài đến 20 triệu.
Nông dân ở đâu hưởng lợi từ hạt thóc chứ ở ngoài Bắc ruộng ít, đủ ăn đã là may. Thời
buổi lạm phát, mọi thứ bổ lên đầu chúng tôi nên phải bán thóc. Hạt thóc bán đầu vụ rẻ
mạt, cuối vụ đong ăn giá lại tăng vọt”. Thê thảm hơn là gia cảnh của anh Nguyễn Văn
Tuấn, vay chương trình bò cao sản được 4 triệu, vay ngoài thêm 1 triệu mua con bò,
đùng cái nó ốm, bán chạy được 2,4 triệu. Dồn vốn nuôi con lợn mẹ cũng hỏng nốt nên
anh tiếp tục vay lãi ngoài để gom đủ 7 triệu mua một con bò, mới lấy giống. Nhìn ngôi
nhà tuệch toạc, gia chủ áo quần rách như bị chó cắn, tôi cứ ám ảnh mãi bởi câu nói của
anh: “Sợ lắm rồi, có cho vay cũng không dám vay nữa”. Ông Nguyễn Công Liêu -Tổ
trưởng tổ vay vốn thôn Đông Hạ bảo: “Có hàng mấy trăm hộ dân nhưng bình bầu,
nâng lên, đặt xuống mãi mới có 18 hộ nghèo được vay vốn. Hiệu quả của những lần
vay vốn này còn hạn chế do vay được quá ít, thời gian chưa đủ quay vòng vốn, do rủi

ro trong nông nghiệp nhưng người nghèo họ sòng phẳng lắm, vẫn vay ngoài để đập
vào trả nợ”. Ngoài chương trình vay hộ nghèo, ở thôn còn có 4 hộ được vay làm
biogas theo chương trình nước sạch, vệ sinh môi trường. Số lượng vay cực ít, nghề
chăn nuôi của thôn lại đang phát triển mạnh gây ô nhiễm môi trường nên đường làng
ngõ xóm, cống rỗng trong làng, ngoài ngõ ngập ngụa phân trâu, phân bò đến ngộp thở.
Quyết định số 497/QĐ-TTg (ngày 17-4-2009) về hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy
móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp…trong thời gian vừa qua tuy đã xoa
dịu một phần nào “cơn khát” vốn cho nông dân nhưng những hạn chế về quy định, thủ
9
tục của quyết định khiến nhiều nông dân không tiếp cận được nguồn vốn kích cầu của
chính phủ theo quyết định.
Hiện nay, nhiều nông dân ở ĐBSCL vẫn đang rất khát vốn đầu tư máy móc thiết
bị, vật tư… phục vụ sản xuất kinh doanh dù chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn theo
quyết định 497/QĐ-TTg được triển khai nhiều tháng qua. Thực tế cho thấy việc tập
trung nguồn vốn kích cầu cho nông dân rất cần thiết nhưng đầu tư cách nào để phát
huy tối đa hiệu quả, tránh ào ạt theo phong trào, gây lãng phí lớn… Nông dân Huỳnh
Văn Hận, ấp Trường Đông, xã Tân Thới, huyện Phong Điền, Cần Thơ nói: “Mới hôm
trước tôi đến Ngân hàng Nông nghiệp huyện xin vay tiền mua máy gặt đập liên hợp
theo Quyết định 497 của Chính phủ thì được cán bộ nơi đây khẳng định là vay mua bất
kỳ thứ gì cũng phải thế chấp. Khi vay phải có tài sản giá trị bằng 50% giá tiền sản
phẩm cần mua để thế chấp. Hiện nay, bằng khoán đất đang thế chấp Ngân hàng Phát
triển nhà thì làm sao vay mới theo QĐ 497 được?”.
Nông dân Nguyễn Văn Hiếu, xã Trung Kiên, quận Ô Môn, TP Cần Thơ băn khoăn:
“Tôi đi hỏi thủ tục vay vốn không lãi suất để mua máy cày công suất lớn nhưng khi
cán bộ ngân hàng cho biết điều kiện là phải mua máy Việt Nam sản xuất thì tôi hơi lo
nên chưa quyết định. Vả lại, cày ruộng thuê cho bà con nông dân thì khó có thể hoàn
vốn cho ngân hàng trong vòng 2 năm, nếu kéo dài thì lại phải chịu lãi suất như quy
định”.
Nông dân Nguyễn Văn Khanh ở xã Phú Hữu A, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang
cho biết: “Tôi đang cần vốn để đầu tư lắp đặt hệ thống máy tưới nước, phân bón,

thuốc, kỹ thuật… cho 1 ha bưởi 5 roi đặc sản nhưng kẹt 1 điều là tài sản có giá trị thế
chấp là giấy đỏ đã nằm trong ngân hàng. Đến tết năm 2010, tôi bán mùa bưởi thì dư
sức trả nợ nhưng tiếc một điều là khi đó đã hết thời hạn giải ngân vay ưu đãi…”.
ông Lê Văn Lực, nông dân xã Đông Hiệp (Cờ Đỏ – Cần Thơ) nói: “nếu mua một máy
bơm nước giá trị chỉ vài triệu đồng thì nông dân không ngồi chờ gói hỗ trợ. Nhưng khi
mua máy cày, máy cắt… với giá trị vài trăm triệu thì thời gian phải trả vốn trong hai
năm, khó lo kịp nên ít người dám vay”.
Ông Trần Hoàng Minh (Tư Minh), nông dân sản xuất lúa giống ở huyện Thoại Sơn
(An Giang) canh tác 4ha lúa, mỗi năm sản xuất 60 - 70 tấn lúa giống các loại. Lúa
giống nhưng khi bán cho nông dân khác về hình thức cũng giống như bán lúa hàng
10
hoá. Vì thế, Tư Minh muốn hạt giống của mình làm ra phải có bao bì riêng, ghi rõ xuất
xứ và một số thông tin vắn tắt về loại giống đó, tóm lại Tư Minh muốn làm thương
hiệu riêng cho cho hạt giống của mình. Tuy nhiên, để làm như vậy, theo Tư Minh, vấn
đề đầu tiên là hoàn thiện máy móc trang thiết bị khép kín quy trình sản xuất. “Máy gặt
đập, lò sấy, xe tải nhỏ…, ước tính vốn đầu tư khoảng 300 triệu đồng. Mình làm gì có
vốn để đầu tư các loại máy móc được xem là tài sản cố định ấy”, Tư Minh nói.
Cá nhân đã thế, với mô hình làm ăn tập thể cũng không khá hơn. Phó Chủ nhiệm Hợp
tác xã (HTX) Nông nghiệp Bình Hoà (Thanh Bình - Đồng Tháp) Nguyễn Văn Mẫm,
than vãn: “HTX có 560 ha đất trồng lúa, với 2 cái máy gặt đập liên hợp mỗi năm mới
chỉ giải quyết khâu gặt đập cho tối đa 20% diện tích lúa của xã viên. Nếu vay được
vốn theo chương trình của Chính phủ sẽ tiếp tục đầu tư trang bị thêm máy gặt để giải
quyết bức xúc thiếu lao động khi vào mùa thu hoạch”. Ông Phạm Văn Tới, Phó Chủ
tịch Hội Nông dân huyện Chợ Gạo (Tiền Giang) cho biết, nhu cầu vốn trong nông dân
rất lớn nhưng tập trung nhiều ở khâu thu hoạch. Toàn huyện Chợ Gạo hiện có chưa tới
80 máy gặt, trong đó chỉ có khoảng 7 máy gặt đập liên hợp, còn lại là máy gặt xếp dãy.
Với số lượng này, hằng năm yêu cầu cơ giới hoá khâu thu hoạch chỉ mới thực hiện
được khoảng 40% - 50% diện tích.
Nhu cầu vay vốn để sản xuất của người nông dân là rất lớn, nhất là vào thời điểm
trước, trong và sau thu hoạch, người dân rất cần vốn để để sản xuất cho vụ sau hoặc

mở rộng sản xuất, hoặc để tìm một hướng làm ăn mới. Đặc biệt là trong thu hoạch
không thể bỏ qua vai trò của các thương lái, ngay cả các DN và nông dân có hợp đồng
bao tiêu sản phẩm vẫn phải thông qua các thương lái như một cầu nối không thể thiếu.
Thương lái thiếu vốn, nông dân cũng khó tiêu thụ được sản phẩm. Chính vì vậy vẫn
cần một cơ chế tín dụng cho nhóm này.
Chẳng hạn như ở Đà Nẵng thời điểm thu hoạch vụ lúa đông xuân và một vấn đề thời
sự được bàn bạc nhiều trên các cánh đồng là chuyện lúa đã phơi khô, đóng bao
sẵn sàng nhưng vẫn vắng bóng người mua. Có hai lý do chính là thương lái thiếu
vốn và thị trường nông sản (lúa gạo) đang hồi phục nhưng chưa đủ mạnh để họ
tiến hành thu mua rộng rãi. Nên vấn đề vốn và thông tin về gói kích cầu nông
nghiệp của Chính phủ đang mở ra nhiều hy vọng để tăng thu nhập cho nông dân,
tạo nên một chiến lược phát triển cho nông nghiệp. Năm nay lúa được mùa với
năng suất bình quân dự kiến khoảng trên 50 tạ/ha. Thế nhưng nông dân chưa hẳn đã
11
vui bởi giá lúa rớt xuống còn 4.500 đồng/kg, đã thế thương lái lại không tổ chức thu
mua khiến lượng lúa thu hoạch về, nhiều hộ không có nơi cất, đành đóng bao chất đầy
một góc nhà. Trong khi ở vụ lúa trước, giá lúa đạt 6.000-6.200 đồng/kg, thương lái thu
mua lúa tươi ở ngay ngoài đồng. Bà Lương Thị Thiệp ở xã Hòa Tiến, Hòa Vang cho
biết, khi bà ngỏ ý với thương lái vấn đề mua lúa, nhiều người đã từ chối vì đang thiếu
vốn và những người đi thu mua lúa sẵn sàng cho nông dân mượn một số tiền để đầu tư
cho vụ hè thu, chứ họ chưa đủ sức để cân lúa đại trà. Nhu cầu vốn không chỉ dừng lại
ở thương lái mà hầu như người nông dân nào được hỏi cũng bày tỏ nguyện vọng có
một nguồn vốn để đầu tư mở rộng sản xuất, hoặc tìm một hướng làm ăn mới. Ông
Nguyễn Văn Hòa ở tổ 2 thôn Yến Nê 1, xã Hòa Tiến triển khai mô hình trồng nấm
rơm được 9 năm nay, có 2 trại nuôi. Trại chính với hơn 250 mô nấm, mỗi lần cho thu
hoạch khoảng 25-30kg, mỗi tháng 2 vụ. Giá nấm tính trung bình khoảng 35.000
đồng/kg cho ông một mức thu nhập tương đối khá và ổn định. Ông đã hai lần vay tiền
ngân hàng để đầu tư cho trại nấm và khi biết tin Chính phủ sẽ hỗ trợ nông dân mức lãi
suất ưu đãi trong thời gian tới, ông dự định vay mở thêm trại, mua nhiệt kế dùng đo
nhiệt độ trại nấm, sửa sang lại nhà xưởng… và trồng thêm nấm sò, nấm bào ngư,

những loại mà thị trường khá ưa chuộng. Hiện Câu lạc bộ Nấm của xã Hòa Tiến có 20
thành viên, trại sản xuất khá nhỏ nên tiềm năng phát triển vẫn còn rất lớn. Theo ý kiến
của ông Hòa, cả thành phố có hàng trăm hộ dân triển khai làm mô hình trồng nấm thì
vẫn chưa đáp ứng hết nhu cầu thị trường, chưa kể nhiều tiểu thương ở một số huyện
lân cận của Quảng Nam thường xuyên tìm đến chợ đầu mối Hòa Cường thu mua nấm
của nông dân.
Gặp nhiều nông dân ở huyện Hòa Vang cũng như các quận có sản xuất nông nghiệp,
bà con đều ngỏ ý được vay vốn với mức lãi suất thấp để đầu tư mua một số loại máy
móc phục vụ sản xuất như máy cày, máy tuốt, thậm chí cả máy gặt đập liên hợp trị giá
khoảng 100 triệu đồng. Ông Nguyễn Quang Nga, Chủ tịch Hội Nông dân thành phố
Đà Nẵng cho rằng, nhu cầu vốn của nông dân khá cao vì hầu hết trên các lĩnh vực
nông nghiệp đều thiếu vốn, nếu chính sách ưu đãi vốn cho nông nghiệp của Chính phủ
được triển khai rộng rãi sẽ tạo ra hàng nghìn việc làm, tăng thu nhập cho nông dân.
3.3. Tình hình hoạt động tín dụng nông nghiệp
3.3.1 Tình hình hoạt động
12
Hoạt động tín dụng nông nghiệp, nông thôn thời gian gần đây đã có những bước
phát triển nhất định. Mạng lưới cho vay nông nghiệp, nông thôn ngày càng mở rộng,
thể hiện ở việc các ngân hàng như NHNNo&PTNT, Ngân hàng chính sách xã hội, Hệ
thống quỹ tín dụng nhân dân…đều mở rộng mạng lưới cho vay trong lĩnh vực này.
Hệ thống Agribank, Ngân hàng Chính sách xã hội và hệ thống quỹ tín dụng nhân
dân chiếm 85% dư nợ cho vay khu vực nông nghiệp. Nguồn vốn, doanh số cho vay và
dư nợ tín dụng ngày càng tăng (đến 31/10/2008, dư nợ cho vay lĩnh vực này đạt
294.853 tỷ đồng, chiếm 23% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế). Đối tượng tiếp cận
nguồn vốn tín dụng cũng ngày càng mở rộng với trên 9 triệu hộ dân và doanh nghiệp ở
nông thôn đã tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng
+ Ngân hàng chính sách xã hội:
Ngày 04/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng
Phục vụ người nghèo sau khi tách ra khỏi Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn (NHNo&PTNT) để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội được

quy định tại Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ. NHCSXH
chính thức khai trương vào ngày 11/3/2003.
Là một tổ chức tín dụng Nhà nước, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, nhằm
góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, vì mục tiêu
công bằng xã hội, nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, truyền thống nhân nghĩa của
dân tộc Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội đã trở thành người bạn đồng hành
giúp người nghèo và các đối tượng chính sách, những người không đủ điều kiện để
tiếp cận với vốn tín dụng thương mại, có cơ hội để tiến kịp với sự phát triển của xã
hội.
Đến năm 2008 NHCSXH đã nhận bàn giao 3 chương trình tín dụng ưu đãi do
NHNo&PTNT, Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Công thương chuyển qua; triển khai
thêm 7 chương trình mới của Chính phủ; nhận uỷ thác 13 triệu EUR và 53 triệu USD
của các tổ chức quốc tế, 1.400 tỉ đồng của các địa phương cho các chương trình, dự án
phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo.
Tính đến ngày 30/6/2008, tổng nguồn vốn của NHCSXH đạt 45.000 tỉ đồng, tăng
gấp 5 lần so với cuối năm 2002. Tổng dư nợ đạt 42.200 tỉ đồng, tăng gấp gần 5 lần
trong 5 năm. Trong đó, 90% nguồn vốn được đầu tư cho 4 chương trình: hộ nghèo,
vùng khó khăn và giải quyết việc làm. Có hơn 9,1 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn,
13
góp phần giúp gần 1,4 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; tạo thêm 1,9 triệu việc làm
mới; xây dựng hơn 820.000 công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn…
Nợ xấu, nợ quá hạn giảm dần từ 13,75% khi nhận bàn giao (đầu năm 2003) xuống còn
2% (cuối năm 2007). Tỉ lệ sử dụng nguồn vốn đạt trên 95%; tỉ lệ thu lãi cũng đạt trên
95% số lãi phải thu.
Năm 2009, mặc dù gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế, song toàn hệ
thống NHCSXH đã nỗ lực phấn đấu, tập trung thực hiện kế hoạch tăng trưởng tín dụng
trên cơ sở huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước giao; tích cực
triển khai các chương trình, dự án tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính
sách góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Đặc biệt, thực hiện
Nghị quyết 30a của Chính phủ về giảm nghèo nhanh, bền vững tại 62 huyện nghèo

trong cả nước, đã có 144.000 hộ nghèo được vay vốn dư nợ gần 700 tỷ đồng với lãi
suất cho vay bằng 0%.
Bên cạnh đó, VBSP cũng hoàn thành tốt các chủ trương của Chính phủ về cho
vay hỗ trợ lãi suất, cho vay đối với thương nhân hoạt động thương mại tại VKK.
VBSP cũng thực hiện quyết liệt Đề án 30 của Chính phủ về đơn giản hoá thủ tục hành
chính trong quản lý Nhà nước, nhằm cắt giảm những thủ tục hành chính trong quan hệ
với khách hàng. Đó là giải pháp phát hành Sổ vay vốn và Biên lai thu lãi tiền vay, đơn
giản hoá thủ tục, giúp tăng cường quản lý vốn hiệu quả.
Phát huy những kết quả đã đạt được, năm 2010 toàn hệ thống VBSP tập trung
huy động nguồn vốn và cho vay các chương trình ưu đãi, đảm bảo chỉ tiêu tăng trưởng
tín dụng được Thủ tướng giao. Trong đó, đảm bảo có cơ cấu nguồn vốn ngân sách Nhà
nước chiếm 50% trong tổng nguồn vốn; huy động nguồn vốn trả lãi, chú trọng nguồn
vốn 2% của các tổ chức tín dụng; huy động nguồn vốn trung và dài hạn ngoài thị
trường. Đối với công tác cho vay, năm 2010 VBSP thực hiện chỉ tiêu tập trung vào các
dự án chính như: cho vay hộ nghèo, cho vay đối với HSSV có hoàn cảnh khó khăn,
cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở triển khai mạnh mẽ cho vay qua thẻ ATM đối với
tín dụng HSSV. Để hoàn thành các mục tiêu trên, VBSP đề nghị Chính phủ cấp bổ
sung vốn điều lệ lên 12.000 tỷ đồng. Đặc biệt, Nhà nước cần đứng ra huy động trái
phiếu chuyển cho VBSP cho vay các chương trình tín dụng. Đồng thời, cho phép
VBSP tích cực triển khai huy động tiền gửi tiết kiệm dân cư.
+ Quỹ tín dụng nhân dân:
14
Bắt đầu từ một chương trình thí điểm chịu sự giám sát của NHNN vào tháng
7/1993, QTDND là một loại hình kinh tế hợp tác xã (HTX) hoạt động trong lĩnh vực
tiền tệ - tín dụng - ngân hàng theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về kết quả hoạt động, trong những năm qua QTDND đã thực hiện tốt mục tiêu tương
trợ giữa các thành viên, phát huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên để giúp
nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện
đời sống.
Hoạt động của QTDND không vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu là tương trợ

giúp đỡ thành viên, tạo điều kiện về vốn, tư vấn cho họ trong mở rộng sản xuất kinh
doanh, phát triển kinh tế đặc biệt là kinh tế nông nghiệp. Vì vậy, trong những năm qua
QTDND đã phát huy vai trò huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư để cho vay các thành
viên và hộ nghèo không phải là thành viên cư trú trên địa bàn hoạt động. Thực tế
chứng minh rằng, ở những nơi có QTDND, hàng ngàn hộ nông dân đã có cơ hội thuận
lợi để tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng, gửi tiền nhàn rỗi và vay vốn khi cần thiết.
Đồng vốn của QTDND đã giúp cho thành viên và hộ nghèo mở rộng sản xuất kinh
doanh, phát triển ngành nghề, cải thiện sinh hoạt, nâng cao đời sống. Đồng vốn của
QTDND đã giúp cho nhiều vùng cây công nghiệp, cây con đặc sản, các trang trại quy
mô lớn được hình thành và phát triển.
Đồng vốn của QTDND đã khơi dậy tiềm năng kinh tế của nhiều địa phương,
nhiều ngành nghề đặc biệt là nghề truyền thống được phục hồi, vườn tạp được cải tạo,
tăng năng suất cây trồng vật nuôi, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và tạo ra nhiều sản phẩm hàng
hoá cho xã hội.
Hoạt động của QTDND trong những năm qua đã góp phần tích cực trong công
cuộc xoá đói giảm nghèo, hạn chế tệ nạn cho vay nặng lãi và các hình thức biến tướng
của nó ở nông thôn. Thông qua việc cho vay hỗ trợ vốn QTDND đã tạo điều kiện cho
nhiều hộ nông dân thoát khỏi đói nghèo, nhiều hộ vươn lên làm giàu, nhiều thành viên
trở thành những điển hình sản xuất kinh doanh giỏi; đời sống dân cư nói chung và của
các thành viên QTDND nói riêng không ngừng được cải thiện. Kết quả hoạt động của
QTDND đã thực sự góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở nhiều
địa phương, làm cho bộ mặt nông thôn Việt Nam ngày càng đổi mới. Nhiều QTDND
đã tích cực tham gia vào các hoạt động cộng đồng như đóng góp quỹ tình nghĩa, quỹ
15
từ thiện, trao học bổng cho trẻ em nghèo vượt khó… trong đó một số QTDND có
doanh số hoạt động lớn, thu nhập cao có điều kiện đã tham gia tích cực vào phong trào
“đền ơn đáp nghĩa”, “lá lành đùm lá rách”…, niềm tin của người dân đối với Đảng và
Nhà nước càng được tăng thêm. Đặc biệt, ở nhiều địa phương đồng vốn của QTDND
cũng đã góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại hình kinh tế HTX, tổ

hợp tác khác.
Hiện nay, trong cả nước đã có rất nhiều QTDND có doanh số hoạt động lớn,
nhiều quỹ có nguồn vốn và dư nợ cho vay trên 100 tỷ đồng. Hệ thống QTDND đã có
một đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm và khả năng quản trị điều
hành, tác nghiệp để nâng cao chất lượng hoạt động. Nhiều QTDND có khả năng tài
chính để nâng cao cơ sở vật chất, xây dựng trụ sở làm việc khang trang, mua sắm trang
thiết bị phục vụ hoạt động, nhất là các trang thiết bị tin học, ứng dụng khoa học công
nghệ đáp ứng yêu cầu của hoạt động ngân hàng. Nhờ đó, hiệu quả hoạt động cũng như
uy tín của QTDND ngày càng được nâng cao.
Năm 2006, Các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hoạt động chủ yếu trên địa bàn xã,
phường, thị trấn ở nông thôn, đã thu hút 1.098.754 thành viên tham gia. Tổng nguồn
vốn đạt 9.408.494 triệu đồng (tăng so với cùng kỳ năm trước 28,9%), trong đó vốn huy
động 6.256.223 triệu đồng (tăng so với cùng kỳ năm trước 31,2%), chiếm 66,5% tổng
nguồn vốn. Bên cạnh công tác nguồn vốn, các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ngoài việc
chủ động nắm bắt nhu cầu vay vốn của thành viên, còn tư vấn cho thành viên mở rộng
ngành nghề sản xuất, kinh doanh, từng bước góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế của địa phương. Tổng dư nợ cho vay đạt 8.209.443
triệu đồng (tăng so với cùng kỳ năm trước 27,6% và bằng 87,3% nguồn vốn), trong đó
dư nợ cho vay trung hạn là 948.431 triệu đồng (tăng 54,4% so với cùng kỳ năm trước).
Do đặc điểm hoạt động trên địa bàn nông thôn nên cơ cấu dư nợ tập trung vào cho vay
sản xuất nông nghiệp, chiếm 55,2% dư nợ, cho vay ngành nghề chiếm 30,1%, cho vay
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và đối tượng khác chiếm 14,7%.
Đến 30/4/2009, các QTDND cơ sở trong cả nước đã thu hút được 1.472.187
thành viên tham gia (bình quân 1.436 thành viên/quỹ) với tổng nguồn vốn hoạt động là
19,4 nghìn tỷ đồng, trong đó nguồn vốn huy động tiền gửi tại chỗ của dân cư là 14,7
nghìn tỷ đồng (bình quân 14,4 tỷ đồng/quỹ) chiếm tỷ lệ 76,1 %/tổng nguồn vốn hoạt
động và chiếm 99,8%/tổng nguồn vốn huy động tiền gửi; cho vay thành viên với dư nợ
16
đạt 16,2 nghìn tỷ đồng chiếm 83,9%/tổng sử dụng vốn (trong đó cho vay sản xuất
nông nghiệp 56,1%, cho vay ngành nghề 32,7%/tổng dư nợ cho vay).

+ Ngân
hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn:
Thành lập ngày 26/3/1988, hoạt động theo Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam,
đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (AGRIBANK)
hiện là Ngân hàng thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư
vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với các lĩnh vực khác của
nền kinh tế Việt Nam.
Thực hiện thành công chủ trương đưa ngân hàng tiếp cận sát dân, đáp ứng nhu
cầu vốn của các doanh nghiệp và hộ nông dân, NHNo & PTNT VN ngoài hơn 2000
chi nhánh còn có hệ thống mạng lưới hơn 700 ngân hàng lưu động và hơn 200 nghìn
tổ nhóm vay vốn, tiết kiệm ở khắp mọi nơi từ đồng bằng đến miền rừng núi, hải đảo.
NHNo & PTNT Việt Nam đã ban hành các chính sách cho vay, giải quyết thủ tục đơn
giản, giúp người dân được vay vốn thuận lợi. Một số đối tượng không phải thế chấp tài
sản bao gồm hộ vay dưới 10 triệu đồng, hộ vay sản xuất trang trại dưới 30 triệu đồng,
hộ vay nuôi trồng thuỷ sản dưới 50 triệu đồng, HTX xuất khẩu nông sản tới 500 triệu
đồng, hộ vay khắc phục dịch cúm gia cầm dưới 50 triệu đồng…
Agribank luôn xác định nông nghiệp, nông thôn và nông dân là thị trường truyền
thống và ưu tiên số 1. Đến cuối tháng 10/2008, Agribank có tổng dư nợ cho vay nền
kinh tế đạt 265.000 tỷ đồng, trong đó trên 70% đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.
Bên cạnh gần 10 triệu hộ nông dân, Agribank còn quan hệ với gần 80.000 chủ trang
trại và trên 3 vạn doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Vốn tín dụng của Agribank đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP trong nông
nghiệp bình quân 4-4,5%/ năm, đưa nước ta từ nước phải nhập khẩu lương thực đến
nay trở thành nước đứng trong “top” đầu về xuất khẩu gạo. Nguồn vốn cho vay của
Agribank còn tạo công ăn việc làm, xoá đói, giảm nghèo, hạn chế tái nghèo, góp phần
giảm tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2007 xuống còn 14,7% (theo chuẩn nghèo mới).
Với chức năng chuyên doanh của mình, Ngân hàng luôn là chỗ dựa quan trọng về vốn
cho bà con nông dân để phát triển sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống. Đồng thời,
để giúp nông dân giảm bớt thiệt hại và tiếp tục phát triển sản xuất khi thiên tai, dịch

bệnh, mất mùa, rớt giá xảy ra, Chính phủ đã chỉ đạo Agribank khoanh nợ, dãn nợ, xoá
17
nợ cho bà con nông dân. Đó là những dẫn chứng điển hình cho thấy vai trò quan trọng
của Agribank trong vấn đề phát triển “tam nông”.
Năm 2009, Agribank đã nỗ lực vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt mục tiêu với
tổng nguồn vốn đạt 434.331 tỉ đồng, tổng dư nợ nền kinh tế đạt 354.112 tỉ đồng, trong
đó dư nợ cho vay phục vụ nông nghiệp, nông thôn đạt 241.858 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng
68,3%.
Bước vào năm 2010, Agribank đã dành 10.000 tỷ đồng để đầu tư cho vay phục
vụ nông nghiệp, nông thôn. Dự kiến trong quý I/2010, Agribank sẽ tiếp tục bổ sung
vốn 3.200 tỷ đồng để đầu tư cho vay các nhu cầu thu mua lương thực, cá tra, cá ba sa,
cà phê xuất khẩu. Để tiếp tục khẳng định là tổ chức tín dụng hàng đầu ở khu vực Tam
nông, Hội đồng quản trị Agribank vừa ban hành Quyết định số 1469 phê duyệt Đề án
"Agribank mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông dân, nông
thôn đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020".
3.3.2. Thành tựu và tồn tại
3.3.2.1. Những kết quả đạt được:
Mục tiêu của hoạt động tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn là đáp
ứng đầy đủ, kịp thời, có hiệu quả nguồn vốn cho nhu cầu phát triển toàn diện lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của người
nông dân.
Để đạt được mục tiêu này, trong thời gian qua hoạt động tín dụng nông nghiệp,
nông thôn đã có những bước phát triển nhất định, thể hiện ở việc:
+ Mạng lưới tín dụng nông nghiệp nông thôn ngày càng gia tăng
+ Doanh số cho vay và dư nợ tín dụng ngày càng tăng
* Mạng lưới tín dụng nông nghiệp nông thôn ngày càng gia tăng
Nhờ có mạng lưới kinh doanh trải rộng cùng với việc áp dụng hình thức cho vay
theo nhóm, phối hợp với những tổ chức quần chúng để cung cấp các dịch vụ tài chính,
… đối tượng khách hàng được phục vụ cũng như các kênh dẫn vốn tới hộ sản xuất,
doanh nghiệp cũng được mở rộng, phát triển khắp các vùng kinh tế của đất nước.

18
Bảng1: Quy mô của các tổ chức tín dụng (năm 2008)
Tổ chức tín dụng Mạng lưới Nguồn vốn
Ngân
hàng
nông nghiệp
và phát triển nông thôn
hơn 2000 chi nhánh 386.800 tỉ đồng
Ngân hàng chính sách

hội
+ 65 chi nhánh cấp
tỉnh và Sở giao dịch
+ 601 phòng giao
dịch cấp huyện
+ 8.649 điểm giao
dịch cấp xã
Hơn 48.000 tỉ
đồng
Quỹ tín dụng nhân dân 1.015 quỹ tín dụng 16.674 tỷ đồng
Hoạt động tín dụng đã thực sự gắn với làng, bản, xóm thôn, gần gũi với bà con
nông dân. Vốn cho vay đã tạo thêm nghề mới, khôi phục các làng nghề truyền thống,
góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển sản xuất
hàng hoá, công nghiệp, dịch vụ.
Với số vốn đầu tư hàng ngàn tỉ đồng các ngân hàng thương mại và tổ chức tín
dụng đã giúp hàng vạn hộ nông dân đẩy mạnh sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vật nuôi theo mùa vụ và tiếp tục mở rộng ngành nghề góp phần làm tăng thu nhập và
cải thiện đời sống. Nhờ mở rộng đầu tư tín dụng cùng với vốn tự có và sức lao động đã
giúp họ có điều kiện khai thác tiềm năng kinh tế tự nhiên của mỗi vùng, từng bước
hình thành các vùng chuyên canh lúa, hoa màu và cây công nghiệp có tỷ suất hàng hóa

cao, như ở các vùng lúa đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, vùng cây
công nghiệp dài ngày (chè, cà phê) ở Tây Nguyên, vùng cây ăn quả lâu năm ở các tỉnh
Trung du và miền núi phía Bắc…
Nhằm thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, ngân hàng còn đầu tư vốn khuyến
khích các trang trại mở rộng quy mô sản xuất, thu hút lao động có việc làm. Trong
những năm gần đây, thực tế cho thấy kinh tế trang trại đóng vai trò quan trọng trong
sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản. Ngày càng xuất hiện nhiều hộ nông dân sản xuất
hàng hóa có quy mô lớn, tập trung. Ngân hàng đã giúp cho các đối tượng vay để trang
trải chi phí giống, cải tạo vườn, ao, chuồng, thậm chí cả chi phí trả công lao động thời
vụ. Vốn bình quân cho vay một trang trại từ 200 triệu đến 300 triệu đồng, có trang trại
vay đến 500 triệu đồng, năm 2008 cả nước có trên 120699 trang trại (tăng gấp 2 lần so
với năm 2001), với số diện tích đất sử dụng là 663,5 ngàn ha, đã tạo việc làm thường
19
xuyên cho 395 ngàn lao động. Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây
Nguyên là những vùng có nhiều đất đai, mặt nước thuận lợi để mở rộng quy mô trồng
trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, nên ba vùng này có số lượng trang trại nhiều
nhất (chiếm đến 70%).
* Nguồn vốn cho vay nông nghiệp nông thôn ngày càng tăng
Trên địa bàn nông thôn hiện nay, ngoài các nguồn vốn cho vay từ các định chế tài
chính vi mô, thì nguồn vốn tín dụng chủ lực phục vụ nông nghiệp nông thôn là nguồn
vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng, mà chủ lực là NHNNo&PTNT, Quỹ Tín dụng
nhân dân, NHCSXH. Nguồn vốn này thường hiện diện dưới 02 hình thức đó là cho
vay thông thường và vay ưu đãi (theo chính sách của Nhà nước, hoặc theo các chương
trình dự án của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF,…).
Trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ, hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, với hệ
thống mạng lưới rộng khắp, các TCTD đã đẩy mạnh cho vay lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn. Dư nợ tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn liên tục
tăng qua các năm. Nếu như năm 1998 (trước khi ban hành Quyết định số 67/QĐ-TTg),
dư nợ cho vay chỉ có 34.000 tỷ đồng, thì đến cuối năm 2008 con số này đã đạt hơn
250.000 tỷ đồng, tăng hơn 7 lần, tốc độ tăng dư nợ cho vay bình quân 20%/năm.

(Nguồn: />Bảng 2: Tổng dư nợ cho vay khu vực nông nghiệp của các tổ chức tín dụng
Đơn vị tính: tỷ đồng
Tổ chức tín dụng
Tổng dư nợ cho vay
Năm 2008 Năm 2009
NHNN-PTNT
237.679
242.062
NHCSXH 42.200 72.660
QTDND 14.142 16.200
Mặc dù có những biến động về kinh tế - xã hội, đặc biệt là năm 2008 nền kinh tế thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã biệt khủng hoảng nhưng nguồn vốn tín dụng
cho nông nghiệp nông thôn vẫn tăng trưởng qua các năm, từ năm 2008 đến năm 2009
20
tăng mạnh hơn nữa là do nhà nước có những chủ trương, chính sách hỗ trợ lãi suất,
tăng nguồn vốn vay cho người nông dân để họ có vốn đầu tư mua máy móc, vật tư…
phát triển sản xuất, để nông nghiệp vượt qua giai đoạn khủng hoảng (năm 2008 -
2009) và phát triển hơn, ổn định hơn nữa trong những năm tiếp theo.
Chẳng hạn như các quyết định 131, QĐ 443, QĐ 479 và 662 của Chính phủ về hỗ trợ
lãi suất vốn vay ưu đãi cho nông dân. Theo đó, Nhà nước sẽ hỗ trợ lãi suất 100% và
4% đối với các khoản vay ngắn, trung hạn bằng đồng Việt Nam để các tổ chức, cá
nhân mua sắm máy móc, thiết bị, phương tiện, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và
vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn.
+ Chỉ tính riêng Agribank, năm 2008 Tổng dư nợ của ngân hàng là hơn 334.760 tỉ
đồng, tăng 18,8% so với đầu năm, trong đó cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm
71%. (Nguồn: />trong-nam-2008)
tính đến 31/12/2009, dư nợ cho vay khu vực nông nghiệp, nông thôn là 242.062 tỷ
đồng, chiếm 68,36% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Bước vào năm 2010, Agribank
đã dành 10.000 tỷ đồng để đầu tư cho vay phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Dự kiến
trong quý I/2010, Agribank sẽ tiếp tục bổ sung vốn 3.200 tỷ đồng để đầu tư cho vay

các nhu cầu thu mua lương thực, cá tra, cá ba sa, cà phê xuất khẩu
(nguồn: />Vốn tín dụng của Agribank đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP trong nông nghiệp
bình quân 4-4,5%/ năm, đưa nước ta từ nước phải nhập khẩu lương thực đến nay trở
thành nước đứng trong “top” đầu về xuất khẩu gạo. Nguồn vốn cho vay của Agribank
còn tạo công ăn việc làm, xoá đói, giảm nghèo, hạn chế tái nghèo, góp phần giảm tỷ lệ
hộ nghèo đến cuối năm 2007 xuống còn 14,7% (theo chuẩn nghèo mới). Với chức
năng chuyên doanh của mình, Ngân hàng luôn là chỗ dựa quan trọng về vốn cho bà
con nông dân để phát triển sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống. Đồng thời, để giúp
nông dân giảm bớt thiệt hại và tiếp tục phát triển sản xuất khi thiên tai, dịch bệnh, mất
mùa, rớt giá xảy ra, Chính phủ đã chỉ đạo Agribank khoanh nợ, dãn nợ, xoá nợ cho bà
con nông dân. Đó là những dẫn chứng điển hình cho thấy vai trò quan trọng của
Agribank trong vấn đề phát triển “tam nông”
+ Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam: Tính đến 30/6/2008, tổng dư nợ của VBSP
đạt 42.200 tỷ đồng, 90% tổng nguồn vốn cho vay hộ nghèo, vùng nghèo, học sinh sinh
viên và giải quyết việc làm”. (nguồn: />21
Đến hết tháng 12/2009, tổng dư nợ các chương trình tín dụng đạt 72.660 tỷ đồng, tăng
20.149 tỷ đồng so với năm 2008 và đạt 89,67% kế hoạch được giao. Cũng nhờ những
đồng vốn này, đã có 9,1 triệu lượt hộ nghèo được vay, góp phần giúp 1,4 triệu hộ thoát
nghèo; thu hút 1,9 triệu người lao động; 750 nghìn học sinh sinh viên hoàn cảnh khó
khăn được vay vốn; xây dựng hơn 820 nghìn công trình nước sạch, vệ sinh môi trường
nông thôn. (Nguồn: /> + Đến tháng 12/2008 tổng dư nợ cho vay của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân đạt
14.142 tỷ đồng, gấp 196 lần, trong đó cho vay thành viên là 14.141 tỷ đồng chiếm
99,98%, dư nợ cho vay sản xuất nông nghiệp chiếm 56,7%, ngành nghề chiếm 28,5%,
cho vay sinh hoạt chiếm tỷ lệ 7,9%; nợ xấu chiếm tỷ lệ 0,53% so với tổng dư nợ; hàng
năm số hộ gia đình được vay vốn ngày càng tăng: năm 2007 là 786 ngàn lượt thành
viên vay vốn, năm 2008 là 785.698 lượt vay vốn, nhờ đó số cá nhân, hộ gia đình gia
nhập QTDND ngày càng tăng, đến cuối năm 2008 đã có 1.349.804 thành viên gia
nhập, tức là chiếm gần 1/10 số hộ gia đình hiện có, số vốn cho vay bình quân là 13
triệu đồng/1 món vay; do nguồn vốn huy động hầu hết là ngắn hạn nên QTDND chỉ
tập trung cho vay ngắn hạn, nhờ sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như ADB

và các tổ chức quốc tế khác tài trợ vốn trung và dài hạn cho hệ thống QTDND thông
qua QTDTW, đến cuối năm 2008, đạt 1,422 tỷ đồng chiếm 10,1% tổng dư nợ.
(nguồn: />Tính đến 30/4/2009, các QTDND cơ sở trong cả nước đã thu hút được 1.472.187 thành
viên tham gia (bình quân 1.436 thành viên/quỹ) với tổng nguồn vốn hoạt động là 19,4
nghìn tỷ đồng, trong đó nguồn vốn huy động tiền gửi tại chỗ của dân cư là 14,7 nghìn
tỷ đồng (bình quân 14,4 tỷ đồng/quỹ) chiếm tỷ lệ 76,1 %/tổng nguồn vốn hoạt động và
chiếm 99,8%/tổng nguồn vốn huy động tiền gửi; cho vay thành viên với dư nợ đạt 16,2
nghìn tỷ đồng chiếm 83,9%/tổng sử dụng vốn (trong đó cho vay sản xuất nông nghiệp
56,1%, cho vay ngành nghề 32,7%/tổng dư nợ cho vay).
(Nguồn: />Với những đồng vốn vay của QTDND mặc dù còn ít ỏi nhưng cũng đã giúp cho nhiều
hộ nông dân phát triển sản xuất, ổn định đời sống và thoát nghèo.
Thị trường tín dụng nông nghiệp, nông thôn được mở rộng, tăng được tỷ trọng số hộ
vay và mức dư nợ bình quân/hộ. Các hộ nông dân vay vốn được giải quyết nhanh
chóng, những thủ tục phiền hà đã giảm bớt, không còn tình trạng phải chờ đợi như
22
những năm trước đây. Dự kiến đến 31/12/2009, vốn tín dụng đầu tư cho phát triển
nông nghiệp, nông thôn ước đạt 6.293 tỷ đồng, chiếm 21,7% tổng dư nợ cho vay toàn
địa bàn, tăng 798 tỷ đồng so đầu năm, với khoảng 319.450 hộ dân cư và 6.950 doanh
nghiệp còn dư nợ. Trong đó, cho vay chi phí trồng trọt, chăn nuôi ước đạt 1.998 tỷ
đồng; cho vay phát triển ngành nghề nông thôn ước đạt 1.088 tỷ đồng; cho vay chế
biến, bảo quản nông, lâm, thủy hải sản ước đạt 374 tỷ đồng; cho vay nhập khẩu phân
bón 158 tỷ đồng và chi phí đánh bắt hải sản 101 tỷ đồng
Có được bước phát triển trên, có thể nói là do sự hỗ trợ về mặt chính sách, vốn
của Chính phủ, của NHNN. Như chính sách ưu đãi về lãi suất, ưu đãi về điều kiện vay
vốn, nguồn vốn hỗ trợ cho những rủi ro do hạn hán, mất mùa, lũ lụt, thị trường tiêu thụ
gặp khó khăn. Gần đây nhất, khi lạm phát gia tăng, suy giảm kinh tế toàn cầu….
NHNN thực thi chính sách tiền tệ hướng tới mục tiêu kiềm chế lạm phát, hoặc chống
suy giảm kinh tế đều cân nhắc đến việc hỗ trợ cho lĩnh vực đầu tư tín dụng này, sao
cho ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tiền tệ là thấp nhất. Ngoài ra là sự quan tâm
của các cấp chính quyền địa phương ; sự nhận thức về tâm quan trọng trong đầu tư

phát triển nông nghiệp nông thôn của bản thân các định chế tài chính, của các tổ chức
tài chính nước ngoài…
3.3.2.2 Những hạn chế trong hoạt động tín dụng nông thôn hiện nay.
Hoạt động tín dụng nông nghiệp, nông thôn, tuy đạt được những kết quả nhất
định, song so với mức tăng tín dụng chung còn thấp. Điều đó cho thấy, tín dụng nông
nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu và mục tiêu phát triển nông nghiệp,
nông thôn, hiệu quả của tín dụng ngân hàng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn còn chưa cao, chưa gắn kết được giữa nông nghiệp với công nghiệp
chế biến và thị trường tiêu thụ.
Chi phí giao dịch tại ngân hàng hiện quá cao đối với đại bộ phận dân cư. Chi phí
giao dịch này đã đẩy lãi suất cho vay tăng và làm tăng gánh nặng nợ nần của nông dân.
Bởi nếu không tăng lãi suất, các tổ chức tài chính sẽ phải đối mặt với khả năng thua lỗ.
Mạng lưới tài chính còn chưa vươn tới vùng sâu vùng xa. Đa số người nghèo ở
đây chưa được cán bộ tín dụng tiếp cận. Hơn nữa, lượng vốn cũng chưa đủ để đáp ứng
nhu cầu vay của người dân nông thôn có mức sống trung bình.
23
Những quy định mới về thế chấp tài sản và không phải thế chấp đã tháo gỡ một
phần khó khăn khi người vay thiếu tài sản thế chấp, nhưng vẫn bất cập đối với một bộ
phận nông dân kinh doanh trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ và cả người nghèo.
Quỹ bảo lãnh doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đi vào cuộc sống.
Bên cạnh đó, cơ chế, thủ tục vay rườm rà cũng khiến bà con ngại đến ngân hàng,
các tổ chức tín dụng. Những bất cập này đang là rào cản lớn trong quá trình phát triển
thị trường tín dụng nông thôn đầy tiềm năng.
Sở dĩ như vậy là do :
– Trong hoạt động sản suất nông nghiệp còn chứa đựng nhiều rủi ro, do diễn biến
thời tiết phức tạp, khó lường, dịch bệnh, sâu bệnh luôn dình dập, thị thường tiêu thụ
sản phẩm nông sản, thực phẩm chưa ổn định…Tất cả những điều đó đã gây những khó
khăn nhất định cho việc mở rộng đầu tư tín dụng của các định chế tài chính.
- Thu nhập của các hộ nông dân còn thấp, cùng với việc xử lý quyền sử dụng đất
của người nông dân còn có những bất cập, nên việc cho vay các khoản vốn lớn để mở

rộng sản xuất của hộ gia đình nông thôn là rất hạn chế. Với chính sách cho vay không
có đảm bảo đến 100 triệu không đủ để thúc đẩy việc mở rộng sản suất của các hộ gia
đình, để chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nông nghiệp, nông thôn.
- Công nghệ ngân hàng, cũng như mạng lưới viễn thông mới chỉ phát triển ở các
vùng đô thị, đông dân, còn vùng sâu, vùng xa còn chưa phát triển, nên cũng rất hạn
chế đến việc tiếp cận tín dụng của người dân, cũng như các định chế tài chính khó có
thể mở rộng mạng lưới của mình.Và điều đó cũng giải thích tại sao các sản phẩm, dịch
vụ ngân hàng tại khu vực nông thôn còn nghèo nàn, chủ yếu là tín dụng truyền thống,
các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng nông nghiệp còn rất
hạn chế, gần như mới phát triển ở mức thử nghiệm, sản phẩm tín dụng của ngân hàng
chưa bao gồm các dịch vụ hỗ trợ đi kèm,….
-Bên cạnh đó, phần lớn người dân ở vùng nông thôn, đặc biệt là ở khu vực miền
núi, vùng sâu, vùng xa, dân trí không đồng đều; chưa tiếp cận được tiến bộ khoa học
kỹ thuật nên nếu như không có một sự đảm bảo, tư vấn về việc làm kinh tế, phát triển
sản xuất từ phía người cung cấp vốn thì chắc chắn họ sẽ hạn chế tiếp cận với vốn vay.
Ngoài ra, vì chưa có các sản phẩm bảo hiểm đi kèm nên nếu có sự biến động lớn về
giá cả, thị trường tiêu thụ, thiên tai, dịch bệnh,…. thì khả năng trả nợ ngân hàng của
24
người dân cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nên các ngân hàng chỉ cho vay nhỏ giọt
và vay cầm chừng.
- Quy trình cung cấp tín dụng còn phức tạp, chưa phù hợp với trình độ của người
dân đặc biệt là các thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp là đất đai. Các tổ chức tín
dụng chính thức thường yêu cầu người đi vay phải thế chấp tài sản, phổ biến nhất là
đất hay nhà có kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc ít nhất phải có giấy
chứng nhận tạm thời quyền sử dụng đất do huyện cấp, và đôi khi yêu cầu cả bảo lãnh
của chính quyền địa phương. Tuy hầu hết các nông hộ đều có đất, nhiều hộ không thể
đem đất thế chấp cho ngân hàng để vay tiền vì chưa có “sổ đỏ” hoặc để xin được một
giấy chứng nhận thì mất rất nhiều thời gian. Thủ tục phiền hà và quy định rắc rối là
một cản trở lớn đối với người dân có trình độ văn hóa thấp, và làm nảy sinh những tệ
nạn như cò vay vốn, phát triển hình thức tín dụng nặng lãi, và không đáp ứng kịp thời

vốn cho hoạt đông sản xuất kinh doanh.
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng nông thôn
Thứ nhất: Tăng cường nguồn vốn vay hỗ trợ do nhu cầu vay vốn hiện nay lớn
hơn mức cho vay quy định.
Thứ hai: Có cơ chế xử lý rủi ro triệt để cho người nghèo vay vốn khi gặp rủi ro
bất khả kháng. Điều đó có nghĩa khi những đối tượng vay vốn gặp phải thiên tai
nặng nề, ốm đau kéo dài, tai nạn lao động, thiệt hại về người thì Chính phủ nên xoá
nợ cho họ tạo điều kiện cho họ tiếp tục vươn
lên.
Thứ ba: Mạng lưới tín dụng cần phải phát triển hơn nữa, đến tận vùng sâu vùng
xa trên khắp cả nước, để giảm chi phí giao dịch cho người dân. Đội ngũ nhân viên của
các tổ chức tín dụng cần tư vấn, hướng dẫn cho nông dân cả về các thủ tục vay vốn
cũng như phương hướng phát triển kinh tế
25

×