Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

PHÂN TÍCH QUAN HỆ CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.33 KB, 23 trang )

Học phần: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN

ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH QUAN HỆ CẠNH TRANH VÀ ĐỘC
QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. LIÊN HỆ
THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY


1

LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những quy luật phổ biến nhất trong nền kinh tế thị trường là
cạnh tranh. Nếu không có sự cạnh tranh sẽ khơng xuất hiện sự sinh tồn và
phát triển này, đồng nghĩa với việc bất kỳ lĩnh vực nào cũng xuất hiện cạnh
tranh. Trải qua quãng thời gian dài cùng với sự biến đổi từ nền kinh tế cũ sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam cũng phải tuân
theo quy luật canh tranh. Hiện nay, cùng với xu hướng phát triển hội nhập
kinh tế quốc tế, tăng cường hợp tác phát triển với các nước trong và ngoài khu
vực, Việt Nam đã và đang thực hiện tốt công tác hội nhập. Điều này tạo điều
kiện thuận lợi để tiếp thu những tiến bộ khoa học kĩ thuật, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Tuy
nhiên, bên cạnh việc mang lại nhiều lợi ích thì chúng ta cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức. Với năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh
nghiệp và các sản phẩm chủ lực còn thấp và chịu sức ép cạnh tranh với các
doanh nghiệp và sản phẩm nước ngoài ngay cả trên thị trường nội địa. Bên
cạnh đó việc hội nhập kinh tế cũng mang lại nhiều bất lợi trong việc đảm bảo
quốc phịng – an ninh, an tồn xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Độc quyền là sự chi phối thị trường của một hay nhiều công ty hoặc một
tổ chức kinh tế về một loại sản phẩm trên một đoạn thị trường nhất định. Hiện
nay nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, một số yếu tố bất
hợp lí của mơ hình kinh tế cũ vẫn cịn tồn tại địi hỏi cần có giải pháp cụ thể
trong thời gian tới. Một trong số những vấn đề đó là tình trạng độc quyền của


các doanh nghiệp nhà nước. Độc quyền và cạnh tranh có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Nguyên nhân dẫn tới độc quyền thường do cạnh tranh không
lành mạnh. Độc quyền sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều đến cạnh tranh và phát
triển kinh tế.


2

Bởi vậy, làm sao để có một mơi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm
soát được vấn đề độc quyền là một trong những vấn đề quan trọng của nền
kinh tế Việt Nam hiện nay. Chính vì sự cấp thiết của vấn đề nêu trên mà em
đã chọn đề tài “Phân tích quan hệ cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh
tế thị trường và Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay “cho bài tiểu luận
nghiên cứu của mình.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1. Khái niệm
Cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất,
nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, thương nhân…) nhằm giành lấy
những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình.
Cạnh tranh là quy luật bắt buộc của nền kinh tế hàng hoá; biểu hiện sự
đối lập giữa những người sản xuất hàng hoá, sự tác động lẫn nhau của nhiều
tư bản, chi phối hành động của từng người sản xuất. Có nền kinh tế hàng hoá
tất nhiên tồn tại cạnh tranh. Và cơ sở khách quan của cạnh tranh là sự khác
nhau về lợi ích kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá.
Kinh tế thị trường phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên

thường xuyên, quyết liệt hơn.


3

1.2. Cạnh tranh nội bộ ngành
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh
trong cùng một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hóa. Đây là một trong
những phương thức để thực hiện lợi ích của doanh nghiệp trong cùng một
ngành sản xuất.
Biện pháp cạnh tranh của các doanh nghiệp ra sức cải tiến kỹ thuật, đổi
mới cơng nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ thấp giá trị
cá biệt của hàng hóa, làm cho giá trị hàng hóa của doanh nghiệp sản xuất ra
thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó.
Kết quả của cạnh tranh nội bộ ngành là hình thành giá trị thị trường của
từng loại hàng hóa. Cùng một loại hàng hóa được sản xuất ra trong các doanh
nghiệp sản xuất khác nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện trang bị kỹ thuật,
trình độ tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề của người lao động,…) khác nhau,
cho nên hàng hóa sản xuất ra có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị
trường các hàng hóa phải bán theo một giá thống nhất, đó là giá cả thị trường.
1.3. Cạnh tranh giữa các ngành
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh
doanh giữa các ngành khác nhau.
Cạnh tranh giữa các ngành, vì vậy, cũng trở thành phương thức để thực
hiện lợi ích của các chủ thể thuộc các ngành sản xuất khác nhau trong điều
kiện kinh tế thị trường.
Cạnh tranh giữa các ngành là phương thức để các chủ thể sản xuất kinh
doanh ở các ngành sản xuất khác nhau tìm kiếm lợi ích của mình. Mục đích
của cạnh tranh giữa các ngành là nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất.



4

Biện pháp cạnh tranh giữa các ngành là các doanh nghiệp tự do di
chuyển nguồn lực của mình từ nghành này sang ngành khác, vào các ngành
sản xuất kinh doanh khác nhau.
1.4 Tác động của cạnh tranh đối với nền kinh tế thị trường
Tác động tích cực
Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất. Trong
nền kinh tế thị trường, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các chủ thể sản xuất
kinh doanh khơng ngừng tìm kiếm và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ
mới vào sản xuất, từ đó kéo theo sự đổi mới về trình độ tay nghề, tri thức của
người lao động. Kết quả là, cạnh tranh thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội
phát triển nhanh hơn.
Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Trong
nền kinh tế thị trường, mọi hành vi của mọi chủ thể kinh tế đều hoạt động
trong môi trường cạnh tranh. Hơn nữa, mọi hoạt động của các chủ thể kinh
tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều nhằm mục đích lợi nhuận tối đa,
muốn vậy ngồi việc hợp tác, họ cũng cạnh tranh với nhau để có được những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh để thu được lợi nhuận cao
nhất. Thơng qua đó, nền kinh tế thị trường khơng ngừng được hồn thiện hơn.
Thứ ba, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bố các
nguồn lực. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc tiếp cận các nguồn lực phải dựa
trên nguyên tắc cạnh tranh để phân bổ vào chủ thể có thể sử dụng hiệu
quả hơn cả. Theo đó, các chủ thể sản xuất kinh doanh phải thực hiện cạnh
tranh để có được cơ hội sử dụng các nguồn lực để phục vụ cho sản xuất kinh
doanh.
Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu xã hội. Trong
nền kinh tế thị trường, mục đích của các chủ thể kinh tế là lợi nhuận cao nhất,



5

mà người tiêu dùng là người cuối cùng quyết định chủng loại, số lượng và
chất lượng của hàng hóa trên thị trường. Chỉ có những sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ mà người tiêu dùng lựa chọn chọn thì mới bán được và do đó người
sản xuất mới có lợi nhuận. Vì vậy, những người sản xuất phải tìm mọi
cách tạo ra khối lượng sản phẩm đa dạng, dồi dào, phong phú, chất lượng
tốt, giá thành hạ, làm cho nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội được đáp
ứng.
Tác động tiêu cực
Khi thực hiện cạnh tranh thiếu lành mạnh, cạnh tranh có thể dẫn tới các
tác động tiêu cực như:
Một là, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại môi trường kinh doanh.
Khi các chủ thể thực hiện các biện pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí
là các thủ đoạn xấu để tìm kiếm lợi thế sẽ làm xói mịn đến mơi trường kinh
doanh, thậm chí xói mịn giá trị đạo đức xã hội. Do đó, các biện pháp thủ
đoạn cạnh tranh thiếu lành mạnh cần được loại trừ.
Hai là, cạnh tranh khơng lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội. Để
dành ưu thế trong cạnh tranh, có thể có chủ thể chiếm giữ các nguồn lực mà
khơng phát huy vai trị của các nguồn lực đó trong sản xuất kinh doanh,
không đưa vào xác suất để tạo ra hàng hóa, dịch vụ cho xã hội. Trong những
trường hợp như vậy, cạnh tranh đã làm cho nguồn lực xã hội lãng phí.
Ba là, cạnh tranh khơng lành mạnh gây tổn hại phúc lợi của xã hội. Khi
các nguồn lực bị lãng phí, cạnh tranh khơng lành mạnh đã khiến cho phúc lợi
xã hội tổn thất. Thay vì nếu sử dụng hiệu quả, xã hội sẽ có nhiều cơ hội lựa
chọn hơn để thỏa mãn nhu cầu. Cho nên, khi các chủ thể sử dụng các biện
pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh, phúc lợi xã hội sẽ bị ảnh hưởng.



6

2. Độc quyền trong nền kinh tế thị trường
2.1. Khái niệm
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng thâu
tóm việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả
độc quyền, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Trong nền kinh tế thị trường, độc quyền có thể được hình thành một cách
tự nhiên, cùng có thể được hình thành bởi ý chí của nhà nước tạo ra các tổ
chức độc quyền.
2.2. Tác động của độc quyền đối với nền kinh tế thị trường
Tác động tích cực
Thứ nhất, độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và
triển khai các hoạt động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Độc
quyền là kết quả của q trình tích tụ, tập trung sản xuất ở mức độ cao. do đó,
các tổ chức độc quyền có khả năng tập trung được các nguồn lực, đặc biệt là
nguồn lực về tài chính trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa
học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Tuy nhiên, đây chỉ là khả năng, cịn
khả năng có thực hiện được hay khơng cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất
là phụ thuộc vào mục đích kinh tế thế của các tổ chức độc quyền trong nền
kinh tế thị trường.
Thứ hai, độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng
lực cạnh tranh của bản thân tổ chức độc quyền. Là kết quả của tập trung sản
xuất và sự liên minh các doanh nghiệp lớn, độc quyền tạo ra được ưu thế về
vốn trong việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ sản
xuất mới, hiện đại, dùng những phương pháp sản xuất tiên tiến đến, làm tăng
năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, do đó nâng cao được năng lực cạnh
tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.



7

Thứ ba, độc quyền tạo ra được sức mạnh kinh tế thế góp phần thúc đẩy
nền kinh tế phát triển theo hướng sản xuất lớn hiện đại.Với ưu thế tập trung
được sức mạnh kinh tế to lớn vào trong tay mình, nhất là sức mạnh về tài
chính, tọa cho độc quyền có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế trọng
tâm, mũi nhọn, do đố thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng
sản xuất tập trung, quy mô lớn, hiện đại.
Tác động tiêu cực
Thứ nhất, độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh khơng hồn hảo gây
thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội. Với sự thống trị của độc quyền và vì
mục đích lợi nhuận độc quyền cao mặc dù như đã phân tích ở trên, Độc
Quyền tạo ra sản xuất lớn, có thể giảm chi phí sản xuất và do đó giảm giá cả
hàng hóa, nhưng độc quyền khơng giảm giá, mà họ ln áp đặt giá bán hàng
hóa cao và giá mua thấp, thực hiện sự trao đổi không ngang giá, hạn chế khối
lượng hàng hóa,… Tạo ra sự cung cầu giả tạo về hàng hóa, gây thiệt hại cho
người tiêu dùng và xã hội.
Thứ hai, độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật theo đó kìm hãm
sự phát triển kinh tế xã hội. Độc quyền tập trung được các nguồn lực lớn, tạo
ra khả năng nghiên cứu, phát minh các sáng chế khoa học, kỹ thuật. Nhưng vì
lợi ích độc quyền, hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng chế chỉ được thực
hiện khi vì thế độc quyền của chúng khơng có nguy cơ bị lung lay. Do vậy,
mặc dù có khả năng nguồn lực tài chính tạo ra khả năng trong nghiên cứu,
phát minh các sáng chế khoa học, kỹ thuật, nhưng các tổ chức độc quyền
không tích cực thực hiện các cơng việc đó. Điều này chứng tỏ, độc quyền đã
ít nhiều kiềm hãm thúc đẩy sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, cho đó tìm hãm theo
sự phát triển kinh tế xã hội.
Thứ ba, khi độc quyền nhà nước bị chi phối bởi nhóm lợi ích cục bộ
hoặc khi độc quyền tư nhân chi phối các quan hệ kinh tế, xã hội sẽ gây ra



8

hiện tượng làm tăng sự phân hóa giàu nghèo. Với địa vị thống trị kinh tế của
mình và mục đích lợi nhuận độc quyền cao, độc quyền có khả năng và khơng
ngừng bành trướng sáng các lĩnh vực chính trị, xã hội, kết hợp với các nhân
viên chính phủ để thực hiện mục đích lợi ích nhóm, kết hợp với sức mạnh nhà
nước hình thành độc quyền nhà nước, chi phối cả quan hệ, đường lối nội bộ,
đối ngoại của quốc gia, vì lợi ích của các tổ chức độc quyền, khơng vì lợi ích
của đại đa số nhân dân lao động.
3. Quan hệ của cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường
3.1. Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do
Cạnh tranh và độc quyền là hai thái cực đối lập và có mối quan hệ nhân
quả trong cấu trúc thị trường. Nếu cạnh tranh gay gắt, cao độ và khơng có sự
kiểm sốt của Nhà nước sẽ dẫn đến tích tụ, tập trung và dẫn đến độc quyền,
hay độc quyền là hệ quả tất yếu của cạnh tranh. Ngược lại, độc quyền nếu
khơng có sự kiểm soát của Nhà nước sẽ là lực cản và có thể triệt tiêu cạnh
tranh, làm thay đổi cơ cấu và tương quan thị trường, gây hậu quả cho xã hội
và người tiêu dùng.
3.2. Độc quyền khiến cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt hơn
Trong nền kinh tế thị trường, nhìn chung, khơng chỉ tồn tại sự cạnh tranh
giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa mà cịn có thêm các loại
cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền, đó là:
Một là, là cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp
ngoài độc quyền. Các tổ chức độc quyền thường tìm cách để chi phối, thơn
tính các doanh nghiệp ngồi độc quyền, bằng nhiều biện pháp như: độc quyền
mua nguyên liệu đầu vào, độc quyền phương tiện vận tải, độc quyền tín
dụng,... để có thể loại bỏ các chủ thể chủ yếu thế hơn ra khỏi thị trường.
Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại hình cạnh
tranh này có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong



9

cùng một ngành, kết thúc bằng một sự thỏa hiệp hoặc bằng sự phá sản của
một bên cạnh tranh; cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác ngành có liên
quan với nhau về nguồn lực đầu vào,...
Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những doanh
nghiệp tham gia các tổ chức độc quyền cũng có thể cạnh tranh với nhau để
giành lợi thế trong hệ thống. Các thành viên trong các tổ chức độc quyền cũng
có thể cạnh tranh với nhau để chiếm tỷ lệ cổ phần khống chế, từ đó chiếm địa
vị trí phối và phân chia lợi ích có lợi hơn.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, cạnh tranh và độc quyền luôn cùng
tồn tại song hành với nhau. Mức độ khốc liệt của cạnh tranh và mức độ độc
quyền hóa phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nền kinh tế thị trường
khác nhau.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp trong nước
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ln muốn tối đa hố lợi nhuận
của mình mà khơng vấp phải những khó khăn cản trở nào. Do đó mà gây nên
những hành vi hạn chế cạnh tranh từ các doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp thông đồng cấu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong hội, để từ đó mà loại bỏ các doanh nghiệp
khác bằng cách ngăn cản không cho các doanh nghiệp khác tham gia hoạt
động kinh doanh, hạn chế việc mở rộng hoạt động. Bên cạnh đó các doanh
nghiệp thỏa thuận với nhau để phân chia địa bàn hoạt động, thị trường tiêu thụ
hàng hoá làm cho sự lưu thơng hàng hố trên thị trường bị gián đoạn, thị
trường trong nước bị chia cắt.
Hành vi lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp để chi phối thị trường xuất

phát từ một số tổng công ty độc quyền hoặc các cơng ty lớn có khả năng chi


10

phối thị trường. Các công ty này dựa vào thế mạnh của mình mà sử dụng các
biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để loại trừ đối thủ cạnh tranh, thao
túng thị trường. Việc này còn dẫn tới người tiêu dùng bị hạn chế lựa chọn và
khả năng kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên trong các lĩnh vực suy
giảm.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Từ khi nước ta phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong hoạt động kinh doanh đã xuất hiện và tồn tại một số biểu hiện về
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh đang ngày càng có chiều hướng gia tăng tại Việt Nam. Theo số liệu
tổng kết cuối năm 2018 của Cục và Bảo vệ người tiêu dùng, Việt Nam có đến
gần 400 hồ sơ khiếu nại vi phạm cạnh tranh và hơn 200 vụ việc được điều tra,
xử lý. Nếu như so với mức ngân sách nhà nước thu về từ xử lý vi phạm cạnh
tranh năm 2007 là 85 triệu đồng thì đến năm 2016 con số này đã lên đến
2,114 tỷ đồng.
Theo khảo sát, các hình thức vi phạm cạnh tranh tại Việt Nam phổ biến
nhất kể đến như: Xâm phạm thơng tin bí mật trong kinh doanh; Cung cấp
thông tin sai lệch về doanh nghiệp khác, ép buộc trong kinh doanh; Hành vi
lôi kéo khách hàng bất chính, Hành vi ép buộc trong kinh doanh; Bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành tồn bộ; Gây rối hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp khác…
Hiện nay nước ta chưa có khung pháp lý hồn chỉnh cho cạnh tranh nên
việc xác định, xử phạt các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh là khó khăn.
Điều đó tạo điều kiện cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng
phát triển mạnh.



11

2. Xu hướng sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp dẫn tới độc
quyền, nâng cao năng lực cạnh tranh
Việc thành lập các tổng công ty hoặc liên doanh là việc sáp nhập các
công ty thành viên lại với nhau, việc này diễn ra theo quyết định của nhà
nước. Các công ty sáp nhập hay liên doanh với nhau làm tăng mức độ tích tụ
hay tập trung của thị trường.
Việc sáp nhập, mua bán doanh nghiệp (M&A) của Việt Nam trong
những năm gần đây, nhất là giai đoạn cuối 2019 đầu 2020 thuộc về các tập
đồn tư nhân. Theo đó, trong thời gian từ tháng 6/2019 - 6/2020, các thương
vụ hoặc kế hoạch M&A đều đến từ các tập đoàn tư nhân: Điển hình là Tập
đồn Masan mua lại Vinmart, Vinmart+ và Vineco từ Tập đoàn Vingroup;
Kido Group lên kế hoạch sáp nhập các công ty thành viên cũng như kế hoạch
hợp tác với Vinamilk trong mảng đồ uống; Thaco Group tái cấu trúc và đầu tư
vào mảng nông nghiệp từ Hoàng Anh Gia Lai và Hùng Vương Group… Đây
là những doanh nghiệp tiên phong trong việc chủ động tìm kiếm các cơ hội
M&A mới cũng như tiến hành sắp xếp, tái cấu trúc doanh nghiệp của mình.
Các thương vụ M&A giúp cho các doanh nghiệp tái cấu trúc nguồn lực, đồng
thời là giải pháp đầu tư hiệu quả khi có thể tiếp cận thị trường một cách tối ưu
nhất.
Bên cạnh đó, những tháng đầu năm 2020, thị trường M&A Việt Nam
chứng kiến nhiều tập đoàn nước ngoài đã mua lại các doanh nghiệp, trong đó
có những doanh nghiệp lớn và có những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khá
nhạy cảm. Đơn cử, tập đồn Stark Corporation (Thái Lan) đã thơng báo mua
thành công 100% cổ phần của Công ty cổ phần Cáp điện Thịnh Phát (Thipha
Cables) và Công ty cổ phần Kim loại màu và nhựa đồng Việt Nam (Dovina),
một công ty do các cổ đông của Thịnh Phát thành lập, với giá trị 240 triệu

USD; Các dự án điện mặt trời ở Bình Thuận và Phú Yên cũng đã chính thức


12

rơi vào tay nhà đầu tư Thái Lan; Tập đoàn SCG (Thái Lan) đánh tiếng muốn
chi 400 tỷ đồng để mua Cơng ty Bao bì Biên Hịa...
Sự gia tăng mạnh mẽ dịng vốn góp, hay việc mua cổ phần của nhà đầu
tư nước ngoài trong tỷ lệ đăng ký đầu tư ở các dự án tại nhiều địa phương
đang thể hiện khả năng các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn “thâu tóm” các
doanh nghiệp nội địa. Chính vì vậy, trong một báo cáo gần đây, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã đề xuất việc bổ sung những cảnh báo về “nguy cơ doanh nghiệp
bị thâu tóm”, coi đây là một trong những thách thức lớn của nền kinh tế trong
những năm tới và đề nghị các địa phương cảnh giác, thận trọng trong vấn đề
này.
3. Cạnh tranh khơng bình đẳng các tổng cơng ty, tập đồn kinh tế lớn
Thực hiện đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong xu thế hội nhập quốc tế, việc tạo lập và phát triển các tổng
công ty, tập đồn kinh tế lớn có đủ tiềm lực cạnh tranh cả thị trường trong và
ngoài nước là mục tiêu chiến lược nhà nước Việt Nam. Đây là chủ trương lớn
trong đường lối kinh tế của đất nước ta.
Việc hình thành tập đồn kinh tế là một xu thế tất yếu, như khu vực tư nhân
nước ta gần đây đã có bước phát triển mạnh mẽ về quy mơ và số lượng bằng
cách tách thành các doanh nghiệp con, đầu tư thêm vào các lĩnh vực mới.
Hình thành cơng ty mẹ, công ty con mang dáng dấp của tập đoàn kinh tế.
Thực tế, Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có xu hướng xích lại gần nhau nhằm
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Ví dụ như trong
lĩnh vực phân phối phân phối, thời gian qua đã xuất hiện rất nhiều những tập
đoàn như Vincom, Big C, Metro…và sắp tới có thể sẽ xuất hiện thêm như
Lotte Shopping, Carrefour, Tessco, và đặc biệt là Wal-Mart. Mới đây, bốn

doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối Việt Nam là Satra, Hapro Mart, Saigon
Coop, và Phú Thái đã liên kết với nhau để tiến hành hoạt động kinh doanh…


13

Tuy các Tập đoàn kinh tế tạo ra sức mạnh quốc gia, nhưng cũng dễ phát
sinh trạng thái độc quyền nhờ vào tiềm lực vốn khổng lồ có thể mua lại hoặc
sáp nhập các doanh nghiệp khác, cấu kết và thông đồng với nhau để triệt tiêu
cạnh tranh, buộc người tiêu dùng phải trả giá cao hơn và lấy đi của họ quyền
được lựa chọn.
Thực tế, cho thấy rằng việc các tổng cơng ty, tập đồn kinh tế ra đời đã
phần nào gây cản trở cho môi trường cạnh tranh mà các tổng cơng ty đó hoạt
động. Tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa tổng cơng ty và các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh khác trong cùng một lĩnh vực.
4. Tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp
lý của mơ hình kinh tế trước đây vẫn cịn tồn tại và địi hỏi cần phải có những
giải pháp cụ thể để giải quyết trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần
giải quyết là tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước. Tồn tại quá
nhiều doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều trong số đó kinh doanh khơng hiệu
quả) và việc độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong nhiều lĩnh vực như:
điện, nước, xăng, viễn thơng,…
Thực tế ở Việt Nam hiện nay có hai loại hình độc quyền sau: Loại thứ
nhất là kết quả cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Nhưng như đã đề cập
ở trên, nền kinh tế thị trường Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của sự phát
triển, vì vậy, cho đến nay chỉ có một vài trường hợp liên quan đến độc quyền
là kết quả của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Chắc chắn trong tương
lai, loại hình độc quyền này sẽ phổ biến hơn. Loại thứ hai là loại hình độc

quyền được coi là phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay là độc quyền là kết quả
của cơ chế hành chính trước đây và một số quy định của pháp luật cũng như
các chính sách kinh tế hiện hành. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung


14

cao độ trước đây, chúng ta chỉ thừa nhận hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân khơng tồn tại trong thời gian đó. Chế độ công hữu này
đã tạo ra sự độc quyền nhà nước trong tất cả các ngành kinh tế. Nhà nước
thành lập các xí nghiệp quốc doanh để sản xuất và cung ứng sản phẩm cho
người tiêu dùng. Cơ chế quản lý kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính đã
hình thành nên các doanh nghiệp nhà nước độc quyền mà một số vẫn còn tồn
tại cho đến ngày nay.
Hơn nữa, hiện nay cịn có xu hướng độc quyền nhà nước biến thành độc
quyền doanh nghiệp. Việc nắm giữ đường trục viễn thông quốc gia sẽ tạo lợi
thế cho VNPT ngăn cản các công ty khác tham gia vào thị trường viễn thông,
bởi lẽ nếu các công ty khác muốn cung cấp dịch vụ viễn thông họ buộc phải
sử dụng đường trục viễn thông quốc gia do VNPT quản lý. Với lợi thế về thị
phần sẵn có từ trước cùng với các quy định của pháp luật, VNPT đã tính giá
dịch vụ viễn thông cung cấp cho người sử dụng cao hơn 30% so với các nước
ASEAN. Tình trạng này cũng tương tự như ở Tổng công ty điện lực Việt Nam
(EVN). Ở nước ta đã có một số doanh nghiệp sản xuất điện nhưng chỉ EVN
được nắm giữ hệ thống truyền tải điện. Trong thị trường điện lực, việc sản
xuất điện có liên quan mật thiết đến việc truyền tải điện. Điều này làm cho
các doanh nghiệp sản xuất điện phải phụ thuộc vào EVN - một đối thủ cạnh
tranh trên cùng thị trường. Chính vì vậy, độc quyền của EVN đối với việc
kinh doanh điện là điều không thể tránh khỏi.Nói tóm lại, viêc pháp luật quy
định nhà nước nắm độc quyền đối với các “phương tiện thiết yếu” như đường
trục viễn thông quốc gia, hệ thống dây tải điện hay các nhà ga sân bay, hệ

thống đường sắt nhưng khơng có sự tách biệt rõ ràng các yếu tố thuộc về cạnh
tranh tiềm năng và các yếu tố thuộc về độc quyền tự nhiên đã làm cho độc
quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp.
Vì thế, các doanh nghiệp tư nhân đang gặp nhiều khó khăn vì khả năng
cạnh tranh thấp do bị "che khuất" bởi những tập đồn, nhóm doanh nghiệp lớn


15

của Nhà nước, dù có nỗ lực đến mấy cũng chưa có điều kiện để tiếp cận các
nguồn lực kinh tế lớn, nên không thể đầu tư lâu dài để trở thành những doanh
nghiệp có quy mơ đáng kể hơn. Đó là ngun nhân vì sao cho tới nay các
doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn, dựa trên sản phẩm có sức cạnh tranh cao,
hay sản phẩm riêng biệt tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho xã hội gần như chưa
xuất hiện trong nền kinh tế nước ta. Có thể nói rằng: ở một chừng mực nhất
định, chính sách kinh tế đã trở thành rào cản tạo ra độc quyền trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP DUY TRÌ CẠNH TRANH VÀ CHỐNG ĐỘC
QUYỀN Ở VIỆT NAM
Để nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện q
trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới, địi hỏi
chúng ta cần có những biện pháp cụ thể để tăng cường việc duy trì cạnh tranh
và chống độc quyền một cách hiệu quả.
Về phía nhà nước
Trước hết cần hoàn thiện các quy định pháp luật, quy định các chế tài xử
lí hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh. Cần phải xem xét hệ thống pháp luật
về cạnh tranh không lành mạnh và sửa đổi các quy định khơng cịn phù hợp
với tình hình hiện nay. Thống nhất các quy định về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong các văn bản luật chuyên ngành và xem xét hình thức và mức
xử phạt hợp lí. Bên cạnh đó cần xác định đúng vai trò của nhà nước trong tạo

lập môi trường cạnh tranh phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phải cung cấp một môi trường thể chế
minh bạch và hiệu quả trong đó các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần cạnh
tranh với nhau một cách bình đẳng trên mọi mặt. Tiếp tục kiện toàn bộ máy
quản lí nhà nước về cạnh tranh. Hệ thống cơ quan cạnh tranh của Việt nam
cần phải hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng được yêu cầu và kỳ vọng của cộng


16

đồng doanh nghiệp và tồn xã hội. Khơng chỉ vậy, cần nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, cạnh tranh, chống độc quyền doanh
nghiệp. Cùng với đó, nâng cao chất lượng đào tạo lại nguồn nhân lực cho các
cơ quan quản lý cạnh tranh. Theo đó, chương trình đào tạo cần xây dựng tồn
diện cho từng loại đối tượng đào tạo, chú trọng đào tạo điều tra viên và hồn
thiện quy chế tài chính đối với hoạt động điều tra. Đây là một trong những
biện pháp cơ bản, quan trọng có tính chất quyết định đến hiệu quả trong
chống độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Cuối cùng, cần tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động cho cơ quan quản lý- cạnh
tranh nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng lớn của xã hội, cũng như tính chất
phức tạp trong hoạt động quản lý, chống độc quyền doanh nghiệp.
Về phía Hiệp hội nghề nghiệp
Cần thường xuyên xây dựng và ban hành quy tắc hợp tác chống cạnh
tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực. Đồng
thời, tuyên truyền để doanh nghiệp thành viên mới ra đời hay mới triển khai
dịch vụ, sản phẩm về các chỉ dẫn hàng hóa. Hiệp hội cần làm tốt vai trị là một
tổ chức thống nhất bảo vệ doanh nghiệp trước các hành vi vi phạm chỉ dẫn
gây nhầm lẫn đến từ các quốc gia khác
Về phía các doanh nghiệp
Cần tuân thủ các quy định của pháp luật về kinh doanh nói chung, các

chính sách về cạnh tranh và độc quyền. Trong xu thế mới, việc tuân thủ pháp
luật, cạnh tranh lành mạnh, đây cũng là một cách để xây dựng thương hiệu
trên thị trường. Đẩy mạnh quan tâm, xúc tiến việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
hàng hóa, kiểu dáng cơng nghiệp theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về các
nội dung thuộc chỉ dẫn hàng hóa. Mặt khác, tự xây dựng cho mình một chiến
lược cạnh tranh chuyên nghiệp và dài hạn như xây dựng và quảng bá thương


17

hiệu; xây dựng những kênh phân phối mới, các sản phẩm mới; khai thác lợi
thế cạnh tranh của riêng mình.
Về phía người tiêu dùng
Người tiêu dùng cần có cái nhìn đúng đắn và chính xác về hàng hóa, sản
phẩm mình sử dụng. Tuyệt đối không sử dụng và loại ra danh sách tiêu dùng
của mình những sản phẩm hàng hóa kém chất lượng, vi phạm pháp luật, có
dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh. Nếu phát hiện những sản phẩm, hàng
hóa là sản phẩm của hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh có thể lên án và vận
động người tiêu dùng khác không sử dụng, tạo sức ép cho doanh nghiệp vi
phạm, từ đó đẩy lùi các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Tuy nhiên, để thực hiện đồng bộ các giải pháp trên cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, doanh nghiệp cũng như sự quan tâm, đóng
góp của người tiêu dùng, từ đó tạo một cơ chế vững chắc hạn chế tối đa các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường.

KẾT LUẬN
Cạnh tranh là một quy luật, là một phần của nền kinh tế thị trường. Canh
tranh cũng có mặt trái của nó, cạnh tranh thường dẫn đến độc quyền, và nó
được đánh dấu bằng sự phá sản của một bên tham gia cạnh tranh, gây ra thất
nghiệp, tạo gánh nặng cho xã hội; hay độc quyền làm cho cạnh tranh trở nên

gay gắt hơn. Tuy nhiên xét trong một quá trình lâu dài và dựa vào tồn bộ lợi
ích của xã hội thì cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với nhau sẽ làm nguồn lực
của xã hội được phân bố và sử dụng có hiệu quả hơn. Những mặt trái do cạnh


18

tranh đem lại là điều không đáng ngại nếu như chúng ta có một chính sách
cạnh tranh và chống độc quyền hợp lý.
Đối với Việt Nam, thực trạng hiện nay cho thấy môi trường cạnh tranh,
độc quyền ở nước ta còn nhiều hạn chế còn nhiều tồn tại cần tháo gỡ. Đối với
chúng ta còn nhiều việc phải làm để có một mơi trường cạnh tranh lành mạnh,
nhưng trước mắt việc phải làm là Việt Nam cần có một chính sách cạnh tranh
hợp lý, cần phải có pháp luật về cạnh tranh hướng dẫn các doanh nghiệp khi
tham gia cạnh tranh, để cho cạnh tranh đúng với ý nghĩa của nó là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, 2019, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê nin.
2. Dương Văn Hậu, 2014, Tìm lời giải cho bài toán độc quyền và cạnh tranh.
/>3. Đào Ngọc Báu, 2004, Vấn đề độc quyền ở Việt Nam.
/>4. Thế Hải, 2018, Độc quyền còn lớn trong một số lĩnh vực then chốt.
/>5. Tạp chí kinh tế và phát triển: />6. Vũ Trọng Dung, 2005, Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia Hà Nội.



×