Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: SINH THÁI CÔNG NGHIỆP pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 35 trang )

Công nghiệp sinh thái
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
… …
TIỂU LUẬN
SINH THÁI PHÁT TRIỂN
ĐỀ TÀI:
“SINH THÁI CÔNG NGHIỆP”
GVHD: HV:
PGS.TS NGUYỄN KHOA L ÂN VÕ VĂN THIỆP
LỚP: ĐVH – K18
Huế, tháng 5 năm 2010
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
1
Công nghiệp sinh thái
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tiểu luận này, tôi
xin chân thành cảm ơn thầy giáo
PGS.TS Nguyễn Khoa Lân và thể lớp
động vật K18 đã giúp đỡ tôi hoàn
thành tiểu luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 19 tháng 5 năm 2010
HVTH:
Võ Văn Thiệp
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
2
Công nghiệp sinh thái
MỤC LỤC
PHẦN I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 4
PHẦN II. NỘI DUNG 5


2.1. Tổng quan về sinh thái công nghiệp 5
2.1.1. Khái niệm 5
2.3. Kinh nghiệm xây dựng KCNST từ các nước có nền CN phát triển 16
2.4. Khả năng ứng dụng mô hình KCNST ở Việt Nam 22
2.4.3. Xây dựng KCN mới 26
2.4.4. Triển vọng xây dựng KCNST ở Việt Nam 29
PHẦN 3: KẾT LUẬN 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
3
Công nghiệp sinh thái
PHẦN I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản là phải xây dựng cơ sở vật
chất và kỹ thuật của công nghiệp xã hội, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Vậy, muốn thực hiện thành công nhiệm
vụ quan trọng nói trên nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá.
Công nghiệp hoá là một việc cần thiết đi đôi với việc xoá đói giảm nghèo,
cùng với việc nâng cao mức sống của người dân.
Công cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII ở Châu Âu đã có sự tác
động tới toàn cầu, với sự tiến bộ trong khoa học kỹ thuật đã đưa đến quá trình
công nghiệp hoá trên toàn thế giới với các quá trình cơ khí hoá nông nghiệp, cơ
giới hoá và đô thị hoá. Công nghiệp là động lực của sự phát triển nhanh chóng trên
toàn thế giới. Những thành tựu của kỹ thuật mới như người máy, máy vi tính, ô tô,
vi điện tử, laze, công nghệ thông tin, nguyên liệu mới và công nghệ sinh học đã
cung cấp cơ sở và động lực cho sự hiện đại hoá nền công nghiệp truyền thống. Tái
sử dụng chất thải công nghiệp, sử dụng hiệu quả năng lượng và thay thế một số
loại nguyên vật liệu là xu hướng nổi bật trong lĩnh vụ công nghiệp hoá hiện đại
hoá [1].
Mặc dù có các tiến bộ quan trọng như vậy nhưng đồng thời công nghiệp

hoá lại đưa đến những mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn kinh tế giữa người với người,
mâu thuẫn sinh thái học giữa con người với thiên nhiên. Chính những mâu thuẫn
này đã phá hoại môi trường sống của chúng ta, nó làm ô nhiễm đất, nước, không
khí, gây ra tiếng ồn, mưa axit, hoang mạc hoá, sự ấm lên toàn cầu và phá huỷ tầng
ozôn…
Vậy làm thế nào vừa tiến hành công nghiệp hoá để phát triển kinh tế mà
không gây những ảnh hưởng xấu đến môi trường, đó là một vấn đề được cả thế
giới quan tâm nhằm tìm ra một câu trả lời thích hợp nhất. Một trong những câu trả
lời của bài toán hóc búa này chính là xây dựng khu công nghiệp sinh thái. Vậy
công nghiệp sinh thái là gì? Nó có những ưu điểm gì? Việt Nam và các nước trên
Thế giới đã xây dụng khu công nghiệp sinh thái như thế nào…?Dựa trên những
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
4
Công nghiệp sinh thái
cơ sở đó tôi đã chọn đề tài: “Công nghiệp sinh thái” làm đề tài tiểu luận của
mình.
PHẦN II. NỘI DUNG
2.1. Tổng quan về sinh thái công nghiệp
2.1.1. Khái niệm
Khái niệm Sinh thái công nghiệp hay công nghiệp sinh thái (STCN -
Industrial Ecology) được biết đến vài năm trước đây, đặc biệt từ khi xuất
hiện bài báo của Frosch và Gallpoulos phát hành theo số báo đặc biệt của tờ
Scientific American (Frosch và Gallpoulos, 1989). Khái niệm STCN thể
hiện sự chuyển hóa mô hình hệ công nghiệp truyền thống sang dạng mô hình
tổng thể hơn - hệ STCN (industrial ecosystem). Trong đó, chất thải hay phế
liệu từ quy trình sản xuất này có thể sử dụng làm nguyên liệu cho quy trình
sản xuất khác [2],[3],[7].
Trong công nghiệp sinh thái, cơ sở hạ tầng công nghiệp được thiết kế
sao cho chúng có thể tạo thành một chuỗi những hệ sinh thái hòa hợp với hệ
sinh thái tự nhiên trên toàn cầu. Khái niệm STCN còn được xem xét ở khía

cạnh tạo thành mô hình hệ công nghiệp bảo toàn tài nguyên là chiến lược có
tính chất đổi mới nhằm phát triển công nghiệp bền vững bằng cách thiết kế
những hệ công nghiệp theo hướng giảm đến mức thấp nhất sự phát sinh chất
thải và tăng đến mức tối đa khả năng tái sinh - tái sử dụng nguyên liệu và
năng lượng. STCN là một hướng mới tiến đến đạt được sự phát triển bền
vững bằng cách tối ưu hóa mức tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên và năng
lượng đồng thời giảm thiểu sự phát sinh chất thải. Hay nói cách khác, khái
niệm STCN còn được hiểu trên cơ sở nguyên lí 3R: giảm thiểu (reduction),
tái sử dụng (reutilization) và quay vòng (recycling) [1]; bao hàm tái sinh, tái
chế, tuần hoàn các loại phế liệu, giảm thiểu chi phí xử lý, tăng cường việc sử
dụng tất cả các giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm bao gồm cả sản xuất sạch hơn
và xử lý cuối đường ống. Ở đây sản xuất sạch hơn là hướng tới ngăn ngừa ô
nhiễm ở mức cơ sở sản xuất riêng lẻ, trong khi đó STCN hướng tới ngăn
ngừa ô nhiễm ở mức hệ công nghiệp. Mặc dù khái niệm STCN vẫn còn "non
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
5
Công nghiệp sinh thái
trẻ" và chưa có một định nghĩa thống nhất, tuy nhiên có thể thấy sự nhất trí
rằng khái niệm STCN thể hiện những quan điểm chính sau đây:
STCN là sự tổ hợp toàn diện và thống nhất tất cả các thành phần của
hệ công nghiệp và các mối quan hệ của chúng với môi trường xung quanh.
STCN nhấn mạnh việc xem xét các hoạt động do con người điều khiển sao
cho có thể phát triển công nghiệp theo hướng bảo tồn tài nguyên và bảo vệ
môi trường. STCN xem quá trình tiến hóa (cải tiến) công nghệ sản xuất là
yếu tố quan trọng để chuyển tiếp từ hệ công nghiệp không bền vững hiện tại
sang hệ STCN bền vững trong tương lai.
2.1.2. Hệ sinh thái công nghiệp [3], [8]
Hệ STCN được tạo thành từ tất cả các khâu sản xuất, chế biến, tiêu
thụ, kết hợp cả sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Bốn thành phần chính
của hệ STCN bao gồm: (1) cơ sở sản xuất nguyên vật liệu và năng lượng ban

đầu, (2) nhà máy chế biến nguyên liệu, (3) nhà máy xử lý/tái chế chất thải và
(4) tiêu thụ thành phẩm. Cơ sở sản xuất nguyên liệu và năng lượng ban đầu
có thể gồm một hoặc nhiều nhà máy cung cấp nguyên liệu ổn định cho hệ
STCN. Qua nhiều quá trình chế biến, ví dụ trích ly, cô đặc, phân loại, tinh
chế các nguyên liệu thô sẽ được chuyển hóa thành nguyên liệu cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc tái sinh tái chế (trong chính dây chuyền sản
xuất hiện tại của nhà máy hoặc ở những nhà máy khác). Sản phẩm, phế
phẩm, sản phẩm phụ sẽ được chuyển đến người tiêu dùng. Trong tất cả các
trường hợp, sản phẩm sau khi sử dụng sẽ được thải bỏ hoặc tái chế. Cuối
cùng, nhà máy xử lý chất thải sẽ thực hiện công tác thu gom, phân loại và xử
lý các vật liệu có khả năng tái chế cũng như chất thải. Một hệ STCN sẽ tận
dụng nguyên vật liệu và năng lượng thải bỏ của các nhà máy khác nhau
trong hệ thống và cả các thành phần không phải là cơ sở sản xuất, ví dụ từ
các hộ gia đình thuộc khu dân cư nằm trong khuôn viên của hệ thống đang
xét. Bằng cách này, lượng nguyên liệu và năng lượng tiêu thụ cũng như
lượng chất thải phát sinh sẽ giảm do chất thải/phế phẩm được sử dụng để
thay thế một phần nguyên liệu và năng lượng cần thiết.
Một hệ STCN sẽ tận dụng nguyên vật liệu và năng lượng thải bỏ của
các nhà máy khác nhau trong hệ thống và cả các thành phần không phải là
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
6
Công nghiệp sinh thái
cơ sở sản xuất, ví dụ từ các hộ gia đình thuộc khu dân cư nằm trong khuôn
viên của hệ thống đang xét. Bằng cách này, lượng nguyên liệu và năng
lượng tiêu thụ cũng như lượng chất thải phát sinh sẽ giảm do chất thải/phế
phẩm được sử dụng để thay thế một phần nguyên liệu và năng lượng cần
thiết. Có thể phân chia hệ STCN theo 5 dạng khác nhau dựa trên ranh giới
của hệ thống. Tiêu chí để xác định ranh giới của hệ STCN là dựa trên vị trí
địa lý hoặc chuỗi sản phẩm/nguyên liệu. Các loại hình hệ STCN này có thể
mô tả như sau :

- Hệ STCN theo chu trình vòng đời sản phẩm. Trong trường hợp này,
ranh giới của hệ STCN được xác định theo các thành phần kinh tế (cả nhà
sản xuất và người tiêu dùng) liên quan đến một loại sản phẩm cụ thể.
- Hệ STCN theo chu trình vòng đời nguyên liệu. Tương tự hệ sinh thái
theo chu trình vòng đời sản phẩm, ranh giới của hệ STCN theo chu trình
vòng đời nguyên liệu được xác định bởi các thŕnh phần liên quan đến một
loại nguyên liệu cụ thể.
- Hệ STCN theo diện tích/vị trí địa lý. KCN Burnside ở Halifax
(Canada), KCN Kalunborg (Đan Mạch) là những thí dụ điển hình về loại
hình hệ STCN này. Trong trường hợp này, ranh giới địa lý không kể đến khu
vực tiêu thụ sản phẩm.
- Hệ STCN theo loại hình công nghiệp. Theo cách phân loại này, một
nhóm các cơ sở sản xuất thuộc cùng loại hình công nghiệp hợp thành hệ
STCN. Trong thực tế, loại hình hệ STCN này được xây dựng theo định
hướng môi trường chung của từng loại hình công nghiệp.
- Hệ STCN hỗn hợp. Trong trường hợp này, khái niệm hệ STCN
không đề cập đến một ranh giới cụ thể mà chỉ xem xét mối tương quan giữa
các nhà máy có thể sử dụng phế phẩm/phế liệu của nhau. Đây là loại hình
thông dụng nhất.
2.1.3. Quá trình trao đổi chất trong hệ STCN [3], [4], [5], [8]
Cơ sở hình thành khái niệm STCN là dựa trên hiện tượng trao đổi chất
công nghiệp (industrial metabolism). Đó là toàn bộ các quá trình vật lý
chuyển hóa nguyên liệu và năng lượng cùng với sức lao động của con người
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
7
Công nghiệp sinh thái
thành sản phẩm, phế phẩm và chất thải ở điều kiện ổn định. Khái niệm này
giúp chúng ta hiểu được hoạt động của hệ công ghiệp và mối quan hệ tương
hỗ của chúng đối với môi trường xung quanh. Trên cơ sở đó, cùng với
những hiểu biết về hệ sinh thái, con người có thể hiệu chỉnh hệ công nghiệp

sao cho tương thích với hoạt động của hệ sinh thái tự nhiên. Bằng cách làm
như vậy, các cơ sở sản xuất công nghiệp có thể được tổ hợp thành những hệ
STCN. Những hệ STCN này sẽ bao gồm nhiều cơ sở sản xuất được tập hợp
sao cho chúng sử dụng sản phẩm và chất thải của nhau. Những kiến thức cơ
bản về quá trình trao đổi chất công nghiệp và hệ STCN là cơ sở để hiểu rõ
và ứng dụng những nguyên lý cơ bản của khái niệm STCN. Quá trình trao
đổi chất công nghiệp thể hiện sự chuyển hóa của dòng vật chất và năng
lượng từ nguồn tài nguyên tạo ra chúng, qua quá trình chế biến trong hệ
công nghiệp, đến người tiêu thụ và cuối cùng thải bỏ. Trao đổi chất công
nghiệp cung cấp cho chúng ta khái niệm cơ bản về quá trình chuyển hóa hệ
thống sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hiện tại theo hướng phát triển bền vững.
Đây là cơ sở cho việc phân tích dòng vật chất, xác định và đánh giá các
nguồn phát thải cũng như các tác động của chúng đến môi trường.
Quá trình trao đổi chất công nghiệp so với quá trình trao đổi chất sinh
học
Quá trình trao đổi chất sinh học đã có từ khi xuất hiện khoa học sinh học.
Khái niệm này được sử dụng để mô tả các quá trình chuyển hóa trong cơ thể
sinh vật sống. Trao đổi chất sinh học được sử dụng để mô tả các quá trình
hóa sinh xảy ra luân phiên trong các phân tử sinh học.
Sự giống nhau giữa quá trình trao đổi chất sinh học và trao đổi chất
công nghiệp là: "Các quá trình trao đổi chất có thể được chia thành 2 nhóm
chính: quá trình đồng hóa và quá trình dị hóa. Cũng như thế, một hệ STCN
tổng hợp vật chất, hay thực hiện quá trình đồng hóa, và phân hủy vật chất,
tức là thực hiện quá trình tương tự như quá trình dị hóa sinh học". Trong một
hệ sinh học, quá trình trao đổi chất xảy ra ở tế bào, ở các cơ quan riêng biệt
cũng như trong toàn bộ cơ thể sinh vật. Tương tự như vậy, quá trình trao đổi
chất công nghiệp cũng có thể xảy ra trong từng cơ sở sản xuất riêng biệt,
trong từng ngành công nghiệp và ở mức toàn cầu. Mặc dù có một số điểm
khác biệt giữa một sinh vật sống và một cơ sở sản xuất khái niệm trao đổi
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18

8
Công nghiệp sinh thái
chất công nghiệp có thể áp dụng đối với các cơ sở sản xuất. Điểm cốt yếu là
phải xác định rő phạm vi mà dòng vật chất và năng lượng tham gia vào quá
trình chuyển hóa
Trao đổi chất sinh học là quá trình tự điều chỉnh. Đối với từng sinh
vật, quá trình này được thực hiện bởi những cơ chế sinh học chung. Ở mức
hệ sinh thái, quá trình này xảy ra thông qua sự đấu tranh sinh tồn giữa các
sinh vật. Một hệ STCN cũng là một hệ tự điều chỉnh.
Trong hệ sinh thái tự nhiên, chu trình sinh học của vật liệu được duy
trì bởi 3 nhóm chính: sản xuất, tiêu thụ và phân hủy. Nhóm sản xuất có thể
là cây trồng và một số vi khuẩn có khả năng tự tạo ra nguồn thức ăn cần thiết
cho bản thân chúng nhờ quá trình quang hợp hoặc để cung cấp năng lượng
và protein cần thiết cho cơ thể chúng. Nhóm phân hủy có thể là nấm và vi
khuẩn. Nhóm này có khả năng chuyển hóa các chất hữu cơ thành nguồn thức
ăn cần thiết cho nhóm sản xuất. Do đó, nhóm phân hủy cũng đóng vai trò
của cơ sở tái chế. Với nguồn năng lượng là ánh nắng mặt trời, thế giới tự
nhiên có khả năng duy trì chu trình sản xuất - tiêu thụ- phân hủy một cách vô
hạn. Hay nói cách khác, một thực thể tồn tại độc lập nhỏ nhất cũng là một hệ
sinh thái.
Trong các hệ công nghiệp, hoạt động sản xuất bao gồm tạo ra năng
lượng và những sản phẩm khác. Nhóm tiêu thụ sản phẩm có thể là những
nhà máy khác, con người (thị trường) và động vật. Quá trình phân hủy bao
gồm xử lý, thu hồi và tái chế chất thải. Tuy nhiên, khác với hệ sinh thái tự
nhiên, hệ công nghiệp không thể dựa vào nhóm phân hủy để tái sản sinh
hoàn toàn vật liệu đã sử dụng trong quá trình sản xuất. Hiện tại, hệ công
nghiệp vẫn thiếu nhóm phân hủy và tái chế hiệu quả. Đó là lý do tại sao
những vật liệu không mong muốn (cả chất thải và phế phẩm) được thải ra
môi trường xung quanh. Theo khía cạnh này, hệ công nghiệp là một hệ
thống không hoặc ít khép kín. Để đạt tiêu chuẩn của một hệ STCN, các sản

phẩm phụ và chất thải phải được tái sử dụng và tái chế.
Dòng vật chất và năng lượng là hai yếu tố quan trọng trong quá trình
trao đổi chất công nghiệp. Trong hệ công nghiệp hiện tại, có hai hình thức sử
dụng nguyên liệu. Dạng thứ nhất gọi là hệ trao đổi chất một chiều. Trong hệ
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
9
Công nghiệp sinh thái
thống này không có sự liên hệ giữa nguyên vật liệu cung cấp cho hệ thống
và sản phẩm tạo thành. Quá trình sản xuất, sử dụng và thải bỏ vật chất xảy ra
không đi kèm theo hoạt động tái sử dụng hoặc thu hồi năng lượng và nguyên
liệu. Dạng thứ hai có đặc tính tái sử dụng tối đa dạng vật chất trong chu trình
sản xuất nhưng vẫn cần cung cấp nguyên vật liệu và vẫn tạo ra chất thải cần
thải bỏ. Trên cơ sở hiểu biết quá trình trao đổi chất công nghiệp, chúng ta có
thể tối ưu hóa hệ công nghiệp để tăng đến mức tối đa hiệu quả sản xuất,
giảm thiểu chất thải và hạn chế đến mức thấp nhất ô nhiễm môi trường bằng
cách tự tạo chu trình vật chất khép kín. Điều đó có nghĩa là chu trình vật
chất có thể được khép kín càng nhiều càng tốt theo phương thức mà vật liệu
không cần thiết phải di chuyển quá xa đến nơi sử dụng/tái sử dụng. Như vậy,
thị trường tiêu thụ phế phẩm/phế liệu/chất thải tại địa phương cần được phát
triển để chuyển hóa những vật liệu thải này thành sản phẩm có giá trị hơn.
Bảng 1: Đặc điểm quá trình trao đổi chất của hệ sinh thái tự nhiên và
hệ công nghiệp hiện đại
Đặc tính Hệ sinh thái tự nhiên Hệ công nghịêp hiện đại
Đơn vị cơ bản Sinh vật Nhà máy
Dòng vật chất Hệ khép kín Chủ yếu là biến đổi theo một
chiều
Tái sử dụng Hầu như hoàn toàn Thường rất thấp
Vật liệu Có khuynh hướng cô đặc,
chẳng hạn CO2 trong không
khí được chuyển hóa thành

sinh khối qua quá trình
quang hợp
Hầu như được sử dụng một
cách phung phí để chế tạo ra
vật liệu khác, vật liệu bị pha
loãng quá mức có thể tái sử
dụng, nhưng lại bị cô đặc đủ
để gây ô nhiễm
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
10
GIA CÔNG
CHẾ BIẾN
NGUYÊN LIỆU
XỬ LÝ
CHẤT THẢI
KHU VỰC
TIÊU THỤ
NGUYÊN LIỆU,
NĂNG LƯỢNG
NGUYÊN THUỶ
Công nghiệp sinh thái
Quá trình tái
tạo
Một trong những chức năng
chính của sinh vật lŕ sự tự
sinh sản
Sản xuất ra sản phẩm và cung
cấp dịch vụ là mục đích chủ
yếu của hệ công nghiệp
nhưng tái sản xuất không phải

là bản chất của hệ công
nghiệp
2.2. Xây dựng khu công nghiệp sinh thái (KCNST)
2.2.1. Khái niệm KCNST [3],[6],[8]
Khái niệm KCNST được hai nhà khoa học Mỹ là Frosch và
Gallopoupos đề xuất vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX. KCNST hình
thành trên cơ sở Sinh thái học Công nghiệp (STHCN), sản xuất sạch, quy
hoạch, kiến trúc và xây dựng bền vững, tiết kiệm năng lượng và hợp tác các
doanh nghiệp (DN).
Hình 1. Sơ đồ chức năng hệ sinh thái công nghiệp
Các nhà khoa học cho rằng: Hệ thống CN không phải là các thực thể
đơn lẻ mà là tổng thể các hệ thống giống như hệ sinh thái tự nhiên (STTN).
STHCN tìm cách loại trừ khái niệm "chất thải" trong SXCN. Sơ đồ trên hình
1 phản ánh mô hình hoạt động SXCN theo hệ thống, các dòng năng lượng và
vật chất luân chuyển tuần hoàn. Những bán thành phẩm, chất thải hoặc năng
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
11
Công nghiệp sinh thái
lượng thừa có cơ hội quay vòng tối đa ngay bên trong hệ thống, giảm đến
mức thấp nhất các chất thải phát tán vào môi trường tự nhiên.
Như vậy, KCNST là một “cộng đồng” các doanh nghiệp sản xuất và
dịch vụ có mối liên hệ mật thiết trên cùng một lợi ích: hướng tới một hoạt
động mang tính xã hội, kinh tế và môi trường chất lượng cao, thông qua sự
hợp tác trong việc quản lý các vấn đề về môi trường và nguồn tài nguyên.
Bằng các hoạt động hợp tác chặt chẽ với nhau, “cộng đồng” KCNST sẽ đạt
được một hiệu quả tổng thể lớn hơn nhiều so với tổng các hiệu quả mà từng
doanh nghiệp hoạt động riêng lẻ gộp lại.
2.2.2. Mục tiêu của KCNST [3], [7]
Mục tiêu của KCNST là cải thiện hiệu quả kinh tế của các DN tham
gia KCNST đồng thời giảm thiểu các tác động xấu lên môi trường. Cụ thể

là:
- Các cơ sở sản xuất thu được nguồn lợi về kinh tế do trao đổi, chuyển
nhượng hoặc bán các sản phẩm phụ của mình cho các XN khác trong cùng
hệ thống trong mối quan hệ cung - cầu, đôi bên cùng có lợi.
- Giảm đáng kể những chi phí xử lý, khắc phục sự cố môi trường đối
với chất thải.
2.2.3. Nguyên tắc xây dựng KCNST [8]
a) Phát triển KCNST theo quy luật của hệ sinh thái tự nhiên:
- Tạo sự cân bằng sinh thái từ quá trình hình thành đến phát triển của
KCN (lựa chọn địa điểm, quy hoạch thiết kế, thi công xây dựng, hệ thống
HTKT, lựa chọn doanh nghiệp, quá trình hoạt động, quản lý,…).
- Mọi hoạt động liên quan tới phát triển KCNST cần được tiến hành
đồng bộ, hợp nhất trên nguyên tắc bảo vệ môi trường và phù hợp với hệ sinh
thái tự nhiên.
b) Thiết lập hệ sinh thái công nghiệp (HSTCN) trong và ngoài
KCNST
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
12
Công nghiệp sinh thái
- Tạo chu trình sản xuất tuần hoàn giữa các doanh nghiệp trong KCN
cũng như giữa doanh nghiệp trong KCN với các doanh nghiệp hay các khu
vực chức năng khác ở bên ngoài.
- Giảm thiểu và tái sử dụng sử dụng các nguồn năng lượng, nước. Tận
dụng các nguồn năng lượng, nước thừa trong quá trình sản xuất. Sử dụng
rộng rãi các nguồn năng lượng tái sinh: mặt trời, sức gió, sức nước,
- Giảm thiểu sử dụng các nguồn tài nguyên, đặc biệt là các tài nguyên
không thể tái tạo được. Khuyến khích sử dụng các nguyên vật liệu tái sinh.
Hạn chế sử dụng các chất gây độc hại.
- Giảm thiểu lượng phát thải, đặc biệt là các chất thải độc hại.
- Thu gom và xử lý triệt để các chất thải bằng các công nghệ thân

thiện với môi trường. Tái sử dụng tối đa các chất thải.
c) Thiết lập “cộng đồng” doanh nghiệp trong KCNST
- Hợp tác mật thiết và toàn diện giữa các doanh nghiệp trong KCNST
cũng như với các doanh nghiệp bên ngoài, chia sẻ thông tin và các chi phí
dịch vụ chung như: quản lý chất thải, đào tạo nhân lực, hệ thống thông tin
môi trường cùng các dịch vụ hỗ trợ khác.
- Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất sạch và đổi mới công nghệ
thân thiện với môi trường.
- Khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân hợp tác tham gia bảo vệ,
phát triển môi trường sinh thái trong và ngoài KCN.
- Phát triển tổ hợp các chức năng (công nghiệp, dịch vụ, công cộng,
ở, ) và phát huy tối đa mối quan hệ tương hỗ giữa chúng.
2.2.4. Yêu cầu đối với KCNST [8]
- Phải tương thích về quy mô diện tích chiếm đất, sử dụng nguyên -
nhiên liệu, bán thành phẩm, chất thải,
- Giảm khoảng cách giữa các cơ sở sản xuất.
- Hạn chế thất thoát nguyên vật liệu trong quá trình trao đổi.
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
13
Công nghiệp sinh thái
- Kết hợp giữa phát triển CN với các Hệ STTN lân cận: vùng nông
nghiệp, cộng đồng dân cư.
2.2.5. Các tiêu chí của khu công nghiệp sinh thái [8]
Theo Ernest A. Lowe (2001), thành tựu của một KCNST là cải thiện
hiệu quả kinh tế của các công ty thành viên trong khi tối thiểu hoá các tác
động môi trường của các công ty này. Các thành tố của cách tiếp cận này
bao gồm các thiết kế xanh cho cơ sở hạ tầng và cây xanh (mới hoặc được
trang bị thêm); sản xuất sạch hơn, phòng chống ô nhiễm; sử dụng năng
lượng hiệu quả; và hợp tác liên công ty. Một KCNST cũng cố gắng mang lại
lợi ích cho cộng đồng xung quanh để bảo đảm rằng các tác động ròng của sự

phát triển là tích cực.
Một KCN sinh thái đúng nghĩa cần có nhiều hơn:
• Một quá trình trao đổi phụ phẩm đơn hoặc một mạng lưới trao đổi
phụ phẩm;
• Một cụm doanh nghiệp tái chế;
• Một tập hợp các công ty công nghệ môi trường;
• Một tập hợp các công ty sản xuất sản phẩm “xanh”;
• Một khu công nghiệp sinh thái được thiết kế trên nền thân thiện với
môi trường (VD: một khu công nghiệp sử dụng năng lượng mặt trời);
• Một khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng hoặc các công trình thân
thiện với môi trường;
• Một khu vực phát triển hỗn hợp(công nghiệp, thương mại, và khu
dân cư).
Một khu công nghiệp sinh thái có thể có mặt bất cứ yếu tố nêu trên;
tuy nhiên, để làm thành một khu công nghiệp sinh thái, nền tảng là sự phối
hợp giữa các doanh nghiệp thành viên và giữa các doanh nghiệp với môi
trường.
2.2.6. Lợi ích của việc phát triển KCNST [9]
Các KCNST đem lại lợi ích nhiều mặt, thiết thực, cụ thể:
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
14
Công nghiệp sinh thái
a. Đối với các DN thành viên và chủ đầu tư KCNST
- Giảm chi phí, tăng hiệu quả SX bằng cách tiết kiệm, tái chế, tái sử
dụng nguyên - vật liệu và năng lượng: tái chế và tái sử dụng chất thải.
- Đạt hiệu quả kinh tế cao hơn nhờ chia sẻ chi phí cho các dịch vụ
chung: quản lý chất thải, đào tạo nhân lực, nguồn cung cấp và hệ thống
thông tin môi trường cùng các dịch vụ hỗ trợ khác.
- Những lợi ích cho các Doanh nghiệp thành viên là làm tăng giá trị
bất động sản và lợi nhuận cho chủ đầu tư KCNST.

b. Đối với SXCN nói chung
- KCNST là một động lực phát triển kinh tế CN của toàn khu vực:
tăng giá trị SXCN, dịch vụ, thu hút đầu tư, cơ hội tạo việc làm cho người lao
động.
- Tạo điều kiện hỗ trợ và phát triển các ngành CN nhỏ địa phương,
làng nghề truyền thống cùng tồn tại và phát triển.
- Thúc đẩy quá trình đổi mới, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu
khoa học, tăng nhanh tốc độ triển khai công nghệ mới.
c. Lợi ích cho xã hội
- KCNST là một động lực phát triển kinh tế - xã hội mạnh của khu
vực lân cận, thu hút các tập đoàn lớn trong nước và nước ngoài. Tạo việc
làm mới trong các lĩnh vực CN và dịch vụ.
- Tạo động lực hỗ trợ các dự án phát triển mở rộng của địa phương về:
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, phát triển nhà ở, cải tạo và nâng cấp hệ
thống HTKT,
- Tạo bộ mặt mới, một môi trường trong sạch và hấp dẫn cho toàn khu
vực, thay đổi cách nhìn thiếu thiện cảm cố hữu của cộng đồng đối với SXCN
lâu nay.
- KCNST tạo điều kiện hợp tác với các cơ quan nhà nước trong việc
thiết lập các chính sách, luật lệ về môi trường và kinh doanh ngày càng thích
ứng với xu thế hội nhập và phát triển bền vững.
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
15
Công nghiệp sinh thái
d. Lợi ích cho môi trường
- Giảm các nguồn gây ô nhiễm cho môi trường, giảm lượng chất thải
cũng như giảm nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên thông qua các nghiên
cứu mới nhất về SXS, bao gồm: hạn chế ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng,
quản lý chất thải, tái tạo tài nguyên và các phương pháp quản lý môi trường
và công nghệ mới khác.

- Đảm bảo cân bằng sinh thái. Trong suốt quá trình hình thành và phát
triển KCNST: từ việc chọn địa điểm, quy hoạch, XD, tổ chức hệ thống
HTKH, lựa chọn doanh nghiệp, quá trình hoạt động, quản lý, đều phù hợp
với các điều kiện thực tế và đặc điểm sinh thái của khu đất XD và khu vực
xung quanh.
- Tất cả vì mục tiêu môi trường, mỗi KCNST có một mô hình phát
triển và quản lý riêng để không ngừng nâng cao đặc trưng cơ bản của nó về
BVMT.
* So sánh với mô hình KCN truyền thống
So sánh mô hình KCN truyền thống với mô hình KCNST cho thấy:
mô hình KCN truyền thống vận hành theo quy trình, phát sinh nhiều chất
thải là điều khó tránh khỏi. Trong khi đó, mô hình KCNST vận hành theo hệ
thống khép kín trên nguyên tắc: cộng sinh CN, thực hiện trao đổi chất, tái
sinh tái chế, tuần hoàn năng lượng và vật chất nhằm giảm thiểu chất thải,
đem lại lợi ích kinh tế đồng thời đạt được hiệu quả môi trường là không phủ
nhận.
Phân tích và tổng hợp các quan điểm về STCN của nhiều nhà khoa
học từ nhiều quốc gia, nhận thấy có sự đồng thuận: Các nhà khoa học không
nhìn nhận SXCN thông qua một công ty riêng lẻ hoặc viễn cảnh một dây
chuyền sản xuất đơn lập, mà nhận thức SXCN như là Hệ sinh thái của mọi tổ
chức - trao đổi thông tin, năng lượng và vật chất với nhau và với môi trường
của chúng.
2.3. Kinh nghiệm xây dựng KCNST từ các nước có nền CN phát
triển
2.3.1 Đan Mạch, KCNST Kalundborg [9]
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
16
Công nghiệp sinh thái
Hình 1: Vị trí địa lí và sơ đồ KCN Kalundborg
Thành phần chính trong hệ sinh thái công nghiệp này là Nhà Máy

Điện Asnaes công suất 1.500 MW. Hầu hết các trạm phát điện sử dụng
nhiên liệu hóa thạch, hiệu suất cực đại để chuyển hóa năng lượng từ quá
trình đốt than thành điện năng chỉ đạt 40%. 60% năng lượng còn lại được
thải ra môi trường bên ngoài dưới dạng nhiệt và phần lớn ở dạng hơi nước.
Bằng cách sử dụng năng lượng thất thoát sẵn có này vào những mục đích
khác, Nhà Máy Điện Asnaes đã sử dụng 90% năng lượng có từ than.
225.000 tấn hơi sinh ra hàng năm được tái sử dụng trong hệ thống cấp nhiệt
của khu vực, nhờ đó giảm được nhu cầu cung cấp nhiên liệu tương ứng với
19.000 tấn dầu/năm. Nhà Máy Điện Asnaes còn tái sử dụng nhiệt thừa để
vận hành các trang trại nuôi cá. Bùn từ các bể nuôi cá được thu hồi và bán
làm phân bón. 14.000 tấn hơi/năm cung cấp cho Nhà Máy Lọc Dầu Statoil
đã giảm được 40% nhiệt lượng cần cung cấp cho các bể và đường ống.
215.000 tấn hơi/năm cung cấp cho Nhà Máy Sản Xuất Dược Phẩm Và
Enzyme Novo Nordisk. Các sản phẩm phụ cũng được thu hồi và tái sử dụng
khá hữu hiệu. 80.000 tấn thạch cao (calcium sulphate)/năm từ hệ thống hấp
thu khí SO2 của Nhà Máy Điện Asnaes được thu hồi và cung cấp cho
Gyproc - một công ty sản xuất ván lát tường. Hàng năm, nhà máy Điện này
còn bán 170.000 tấn tro và xỉ sinh ra từ quá trình đốt than làm vật liệu xây
dựng và làm đường. Ethane và Methane sinh ra từ Nhà Máy Lọc Dầu Statoil
là nhiên liệu cho lò sấy của Công Ty Gyproc và các lò hơi của Nhà Máy
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
17

Công nghiệp sinh thái
Điện Asnaes. Công Ty Gyproc tiêu thụ 900 kg methane và ethane/giờ và
Nhà Máy Điện Asnaes có thể giảm được 30.000 tấn than cần sử dụng hàng
năm. Phần cặn từ hệ thống hấp thu lưu huỳnh của Nhà Máy Lọc Dầu Statoil
được dùng để sản xuất acid sulphuric. Bùn giàu chất dinh dưỡng từ Nhà
Máy Novo Nordisk được tái sử dụng làm phân bón cho các nông trường
xung quanh. Mô hình hệ sinh thái công nghiệp của KCN Kalundborg được

biểu diễn tóm tắt trong Hình.
Theo Jorgen Christensen, những nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho
sự hình thành quan hệ cộng sinh trong KCN Kalundborg bao gồm:
- Sự phù hợp giữa các ngành công nghiệp về phương diện “trao đổi
chất thải”
- Khoảng cách (về vị trí địa lý) giữa các nhà máy không quá lớn;
- Mỗi nhà máy đều nắm được thông tin liên quan đến các nhà máy
khác trong KCN;
- Động cơ thúc đẩy các nhà máy tham gia vào KCNST là sự phát triển
kinh tế bền vững;
- Sự phối hợp giữa các nhà máy là trên tinh thần tự nguyện và phù
hợp với quy định của cơ quan chức năng.
Thực tế vận hành KCNST Kalundborg, Đan Mạch từ những năm
1970 đến nay (2003) cho thấy mang lại những lợi ích thiết thực như sau
(Côté và Hall, 1995; Cohen-Rosenthal và McGalliard, 2003).
- Giảm sự tiêu thụ nguồn tài nguyên
+ Dầu : 19.000 tấn/năm;
+ Than đá : 30.000 tấn/năm;
+ Nước : 600.000 m
3
/năm.
- Giảm tải lượng khí thải phát sinh
+ CO
2
: 130.000 tấn/năm;
+ SO
2
: 3.700 tấn/năm.
- Tái sử dụng phế phẩm
+ Tro : 135 tấn/năm;

Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
18
Công nghiệp sinh thái
+ Sulphua : 2.800 tấn/năm;
+ Thạch cao : 80.000 tấn/năm;
+ Nitơ trong bùn : 800.000 tấn/năm.
2.3.2. Khu Công Nghiệp Sinh Thái Burnside, Nova Scotia, Canada [10]
KCN Burnside nằm ở Dartmouth, Nova Scotia (Côté và Hall, 1995),
chiếm diện tích khoảng 760 ha (Lambert và Boons, 2002). KCN này bắt đầu
được gọi là KCNST vào năm 1992. Đây là một trong năm KCN lớn nhất
Canada với khoảng 1.300 nhà máy và 17.000 công nhân (Côté, 2001). Các
loại hình công nghiệp đặc trưng của KCN Burnside được trình bày tóm tắt
trong Bảng 2.
Bảng 2: Các loại hình công nghiệp đặc trưng của KCN Burnside
Loại hình công nghiệp Loại hình công nghiệp
Nhà ở Phân phối
Keo dán Sản xuất cửa
Máy lạnh Thiết bị điện
Sửa chữa máy móc Dịch vụ môi trường
Sản phẩm nước giải khát Sản xuất đồ gia dụng
Vật liệu xây dựng Thiết bị trong công nghệ thực
phẩm
Trung tâm thương mại Thiết bị công nghiệp
Vật liệu làm thảm và sàn nhà Sản xuất thép
Sản xuất hóa chất Xưởng cơ khí
Máy hút bụi Dụng cụ y tế
Máy giặt Tái sử dụng sơn
Thiết bị truyền thông Sản phẩm giấy/carton
Lắp ráp và sửa chữa máy vi tính In
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18

19
Công nghiệp sinh thái
Xây dựng Xi mạ
Trong những năm qua, KCN Burnside được sử dụng như phòng thí
nghiệm về công nghiệp sinh thái. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu ứng
dụng chiến lược phát triển công nghiệp sinh thái, KCN này kết hợp với khu
đô thị nhằm làm biến đổi cơ sở hạ tầng và hoạt động của các cơ sở sản xuất
hiện tại cũng như trong tương lai. Sự cộng tác xảy ra ở các cấp khác nhau:
(1) giữa trường đại học và khu đô thị cùng tham gia nghiên cứu ứng dụng
thuyết sinh thái công nghiệp vào quá trình phát triển KCN; (2) giữa trường
đại học, công ty cấp điện tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước trong quá
trình hình thành Trung Tâm Hiệu Quả Sinh Thái (Eco-Efficiency Center);
(3) trao đổi chất thải giữa hai hoặc nhiều cơ sở sản xuất; (4) thành lập những
cơ sở sản xuất mới có khả năng tái sử dụng, cho thuê, sửa chữa, tái sinh và
tái chế. Hai yếu tố quan trọng cần được quan tâm trong tương lai là quản lý
chuỗi nguyên liệu cung cấp trong KCN và sự cộng tác trong quá trình thu
hồi phế liệu. Sự phối hợp giữa các cơ sở sản xuất và các cơ quan quản lý nhà
nước trong việc huấn luyện quản lý môi trường sẽ giúp nâng hiểu biết về lợi
ích của công nghiệp sinh thái.
Mặc dù sự quan tâm và tự nguyện tham gia phát triển công nghiệp
sinh thái đóng vai trò quan trọng để thực hiện dự án, yếu tố quyết định sự
thành công của dự án là sự tham gia liên tục của nhóm các đối tác từ chính
quyền, công nghiệp, viện nghiên cứu và các tổ chức quần chúng. Phát triển
công nghiệp sinh thái không phải là những hoạt động có thể hoàn tất trong
thời gian ngắn. Nếu không có sự tham gia liên tục của các đối tác nói trên,
dự án khó có thể duy trì được.
2.3.3. Thái Lan [8]
Đó là các KCNST: Amata Nakorn I.E, Khon Kean, Learm Chabang,
Pin Thong, Amata City I.E, Thái Lan đứng thứ hai trên thế giới về số
lượng KCNST (29) chỉ sau Mỹ (40). Thành công của mô hình KCNST Thái

Lan là bài học kinh nghiệm thiết thực cho phát triển các khu công nghiệp ở
Việt Nam.
2.3.4. Công ty Powerday, London (Anh) [12]
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
20
Công nghiệp sinh thái
Powerday plc đang phối hợp với London Remade để nâng cao nhận
thức về sử dụng chất thải và tái chế nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế.
Công ty có hệ thống đường sắt và đường thuỷ và Công ty Đường thuỷ của
Anh là đối tác của dự án. Powerday đã ký kết một Quy ước Thu mua xanh
với Thị trưởng thành phố.
London Remade đã tư vấn kinh doanh thực tiễn cho Powerday, giúp
họ tìm kiếm địa điểm tốt nhất để đặt nhà máy, hỗ trợ xin cấp vốn và hợp
đồng; nguyên liệu tại nguồn, liên kết với viện nghiên cứu và cung cấp vốn.
Công ty Powerday đã đầu tư khoảng 9 triệu pao, công ty dự kiến sẽ đạt mức
doanh thu này trong vòng 5 năm tới. Dự án sử dụng 3,2 ha đất ô nhiễm đã
xử lý và dự kiến sẽ kết thúc vào năm 2006. Hệ thống đường sắt và kênh đào
liên kết có nghĩa là sẽ có ít chất thải được vận chuyển bằng đường bộ, vì vậy
lưu lượng xe ít hơn nên ách tắc giao thông, phát thải các bon và ô nhiễm
tiếng ồn giảm.
Năm 2005 đã có gần 50000 tấn chất thải được xử lý tại nhà máy và
2,5 triệu tấn sẽ được xử lý và chuyển tới các bãi chôn lấp trong 5 năm tới.
London Remade đang quan tâm tới việc hỗ trợ Powerday trong tương lai,
xây dựng trên một địa điểm có diện tích 17 mẫu Anh (1 mẫu bằng 0,4 ha)
với số tiền 11 triệu pao – đây là địa điểm tái xử lý lớn nhất ở London đã
được cấp giấy phép hoạt động và có công suất là 1,6 triệu tấn/năm.
2.3.5. KCNST ở Quảng Đông, Trung Quốc[11]
Ở Trung Quốc, chính quyền tỉnh Quảng Đông đã chọn 6 thành phố để
thí điểm phát triển nền kinh tế tái chế. Sáu thành phố này sẽ chọn ra 300 xí
nghiệp và khu công nghiệp tham gia chương trình nhằm xây dựng một xã

hội bảo tồn tài nguyên và thân thiện với môi trường đảm bảo sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững.
Cho dù Quảng Đông là tỉnh có nền kinh tế thịnh vượng và với tốc độ
tăng trưởng cao, nhưng ở đây mức tiêu thụ tài nguyên, xả chất thải gây ô
nhiễm vẫn ở mức cao.
Sáu thành phố là Quảng Đông, Thẩm Quyến, Foshan, Doguan,
Jiangmen và Shantou được lựa chọn cho chương trình thí điểm vì đều là các
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
21
Công nghiệp sinh thái
tỉnh chủ yếu tiêu thụ năng lượng và tài nguyên. Các xí nghiệp được chọn sẽ
phải đáp ứng những tiêu chuẩn quốc gia về sản xuất sạch và tạo ra công
nghệ tái chế. Kể từ nghiên cứu thực nghiệm về sản xuất sạch bắt đầu năm
2003, chính quyền tỉnh đã kiểm tra 52 xí nghiệp đáp ứng được các tiêu
chuẩn cùng với 20 xí nghiệp nữa đang được xem xét. Đồng thời, các
KCNST sẽ được chuyển đổi hoặc được xây dựng để “giảm bớt, tái sử dụng
và tái chế”.
2.4. Khả năng ứng dụng mô hình KCNST ở Việt Nam
2.4.1 Tình hình phát triển các khu công nghiệp ở nước ta [9]
Hình 2: Sơ đồ các KCN ở nước ta
Qua mười lăm năm phát triển, đến nay Việt Nam đã có 135 khu công
nghiệp được cấp phép hoạt động, chưa tính hàng chục cụm công nghiệp nhỏ
và vừa khác [8]. Đặc biệt, trong một năm trở lại đây, số lượng khu công
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
22
Công nghiệp sinh thái
nghiệp được cấp phép tăng lên rất nhanh. Chưa kể, theo thừa nhận của một
quan chức Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hàng chục hồ sơ xin phép mở khu công
nghiệp vẫn tiếp tục được gửi về bộ. Điều này phần lớn là do việc quy hoạch
phát triển hệ thống khu công nghiệp không được xét trên bình diện tổng thể

của cả nước mà chỉ theo quy hoạch riêng của từng tỉnh thành đưa đến tình
trạng “nhà nhà làm khu công nghiệp”.
Bên cạnh đó, việc xây dựng các khu công nghiệp ở Việt Nam đang ở
trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp
hiện chỉ ở mức 52%, thậm chí nhiều khu công nghiệp chỉ lấp đầy 10-20%,
hoặc bỏ trống. Chưa kể nhiều diện tích đất đã được đăng ký sử dụng nhưng
việc đầu tư, triển khai dự án kéo dài. Nếu tính cả các khu kinh tế mở, tổng
diện tích đất đã được cấp là hơn 60.000 héc ta, và với tỷ lệ sử dụng như trên,
rõ ràng sự lãng phí là quá lớn.
Một bất cập khác là tình trạng chồng chéo trong quản lý. Hà Nội hiện
có 18 khu, cụm công nghiệp đang hoạt động theo bốn mô hình khác nhau.
Công tác quản lý nhà nước về khu công nghiệp còn chồng chéo giữa các sở,
ngành cũng như giữa thành phố và các quận, huyện. Cần thống nhất khuôn
khổ quản lý chung cho các loại hình khu công nghiệp cũng giống như luật
đầu tư chung cho các doanh nghiệp.
Việc quản lý các khu công nghiệp chỉ dừng ở mức cấp phép thành lập
chứ chưa chú ý đến vấn đề quy hoạch. Tại Hà Nội, sau hơn mười năm xây
dựng khu công nghiệp người ta mới giật mình nhận ra rằng quá nhiều khu
công nghiệp được xây dựng gần trung tâm thành phố như trường hợp các
khu công nghiệp Đài Tư, Sài Đồng Khi thành phố mở rộng, các khu công
nghiệp này nằm lọt ngay giữa trung tâm thành phố và một cuộc di dời tốn
kém lại được bắt đầu.
Các khu công nghiệp trên cả nước là tập trung đa ngành, vì vậy dẫn
đến một số khó khăn, chẳng hạn như xử lý việc ô nhiễm môi trường. Bất cập
này hiện đang được một số địa phương khắc phục bằng cách chỉ cho phép
thành lập các khu công nghiệp theo từng ngành.
Một vài con số
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
23
Công nghiệp sinh thái

135 Tổng số khu công nghiệp trong cả nước
20
7
Diện tích bình quân một KCN (héc ta)
81 Số khu công nghiệp đang hoạt động
52 Tỷ lệ diện tích cho thuê bình quân (%)
Đầu tư tại các KCN
2.400 Số dự án trong nước
116.000 tỉ
đồng
Số vốn của các
dự án
trong nước
2.200 Số dự án FDI
17,7 tỉ
USD
Số vốn của các dự án
FDI
1 triệu Tổng số lao động
2.4.2. Cơ hội và thách thức trong việc áp dụng mô hình KCNST[9]
a. Cơ hội
- Chuyển đổi từ mô hình KCN truyền thống thuộc VKTTĐPN sang
mô hình KCNST trên nền tảng của vị trí khu đất hiện có, không cần hình
thành trên một địa điểm mới, do vậy không ảnh hưởng tới quỹ đất đô thị và
không bị chi phối bởi sự bành trướng của quá trình đô thị hoá và không xâm
phạm tới đất đai nông nghiệp có giá trị.
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
24
Công nghiệp sinh thái
- Sử dụng có hiệu quả của hệ thống hạ tầng kỹ thuật có sẵn.

- Sử dụng mạng lưới giao thông vận chuyển hiện hữu của vùng, kết
nối với mạng lưới giao thông thuỷ, đường bộ, đường sắt và đường hàng
không quốc gia và quốc tế.
b. Thách thức
Trường hợp trên khu đất của KCN cũ:
- Khó xây dựng được Hệ STCN đối với bán thành phẩm, phụ phẩm,
chất thải nguyên liệu và năng lượng ở đầu vào, đầu ra, vận chuyển trong một
số DN hiện hữu và chuyển đổi thành công nghệ Bảo vệ môi trường.
- Khó giải quyết mâu thuẫn giữa các DN có sẵn hay tham dự mới vào
KCNST.
- Khó xác định chính xác năng lực của Hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện
hữu và các hệ thống dịch vụ khác để chuyển đổi sang Hệ thống hạ tầng kỹ
thuật theo chủ đề môi trường đã định. Thật sự khó khăn đối với các DN
không đủ tiêu chuẩn là DN thành viên của KCNST phải di dời hay chuyển
đổi ngành nghề SX để trở thành các STCN.
Trường hợp trên khu đất hoàn toàn mới:
- Thuận lợi triển khai hệ thống hạ tầng kỹ thuật theo chủ đề môi
trường đã định.
- Chi phí đầu tư cho hệ thống này sẽ rất cao và phụ thuộc rất nhiều
vào tiềm lực Hạ tầng kỹ thuật toàn vùng.
- Tối ưu hoá dòng năng lượng và nguyên liệu còn phụ thuộc khả năng
tổ chức.
c. Sự hỗ trợ
Xây dựng mô hình KCNST cho các Khu / Cụm CN hiện hữu đòi hỏi
sự hỗ trợ của Nhà nước về chính sách, chủ trương và các giải pháp cụ thể,
như:
- Miễn giảm chi phí thuê đất cho các DN và người thuê đất.
Học viên thực hiện: Võ Văn Thiệp. ĐVH – K18
25

×