Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tìm Hiểu Về Công Nhân Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.62 KB, 17 trang )

T×m HiÓu VÒ C«ng Nh©n ViÖt Nam Hoµng §×nh ChiÓu
Muc lục
Trang
Chương I : Khái niệm giai cấp công nhân 1
Chương II : Những chuyển biến của giai cấp công nhân Việt Nam 3
Chương III: Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam 10
Tài liệu tham khảo 16

1
T×m HiÓu VÒ C«ng Nh©n ViÖt Nam Hoµng §×nh ChiÓu
Chương I
Khái niệm giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: giai cấp
vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa việc bán sức lao động của mình,
lao động làm thuê ở thể kỉ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công
nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp… như những cụm đồng
nghĩa để biểu thị một khái niệm giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất
tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như htế
nào đi nữa thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ
bản:
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công
nghiệp hoá ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao
động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị
nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Căn cứ hai thuộc tính nói trên chúng ta có thể định nghĩa: Giai cấp
công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát


triển của lực lượng sản xuất có tíng chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực
lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ
công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái
xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực
lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
Ở Việt Nam, Giai cấp công nhân ra đời đầu thể kỉ XX do chính sách
khai thác thuộc địa của tư bản thực dân Pháp. Trong thời kì này, dưới sự
bóc lột của thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam mang cả hai
thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân. Sau khi lãnh đạo toàn dân hoàn
2
T×m HiÓu VÒ C«ng Nh©n ViÖt Nam Hoµng §×nh ChiÓu
thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dưng
đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thì giai cấp công nhân
Việt Nam là những người nắm trong tay tư liệu sản xuất và chỉ mang đăc
trưng chủ yếu bằng thuộc tính thứ nhất của giai cấp công nhân. Cho đến
nay tuy giai cấp công nhân đã có những chuyển biến tích cực nhưng còn
có nhiều nhược điểm: số lượng ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công
nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp…
3
T×m HiÓu VÒ C«ng Nh©n ViÖt Nam Hoµng §×nh ChiÓu
Chương II
Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam
Hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhận thức rừ tầm quan trọng của vấn
đề này, Đảng và Nhà nước ta đó đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội
ngũ giai cấp công nhân. Nhờ đó, giai cấp công nhân Việt Nam đó cú bước
phát triển lớn mạnh, trưởng thành về chất và có những đóng góp to lớn
vào quá trỡnh đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, giai cấp công
nhân nước ta đang phải đối mặt với không ít thách thức, những con số
khảo sát dưới đây thực sự là những vấn đề rất đáng để chúng ta suy ngẫm.
Chất lượng nguồn nhân lực - thỏch thức của quỏ trỡnh phỏt triển.

Cùng với sự tăng trưởng nhanh của dũng vốn đầu tư nước ngoài và xu thế
phát triển của các doanh nghiệp trong nước, đội ngũ công nhân nước ta
đang bộc lộ dấu hiệu hụt hẫng và bất cập. Tỡnh trạng thiếu hụt lao động có
tay nghề cao và cỏc chức danh quản lý cú trỡnh độ đang là hiện thực. Số
liệu khảo sát tại tỉnh Đồng Nai cho thấy, 72,55% công nhân lao động trong
các doanh nghiệp có độ tuổi từ 18 - 35. Tuyệt đại bộ phận đều là học sinh
phổ thông và xuất thân từ nông thôn, trong đó lao động phổ thông chiếm
đến 43%; 27% có tay nghề đáp ứng được yêu cầu của công việc đang đảm
nhận nhưng đại đa số chưa qua đào tạo và không có bằng cấp. Số đó qua
đào tạo có bằng cấp chỉ chiếm 30%, trong số đó được đào tạo, tỷ lệ có tay
nghề cao cũng rất ít. Bậc 1- 3 chiếm tỷ lệ 66,51%, bậc 4 - 5 chiếm tỷ lệ
25,01%, bậc 6 và 7 chiếm chỉ có 6,88%. Không cần phải cảnh báo, với tốc
độ thu hút FDI và xu thế phát triển như 2 năm gần đây (2006 - 2007), vấn
đề thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề sẽ càng trở nên trầm trọng. Giai
cấp công nhân nước ta không những bất cập so với yêu cầu phát triển
chung của thời đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu phát triển
của bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Ý thức giai cấp và phẩm chất chính trị của đội ngũ công nhân còn
thấp. Chúng ta không phủ định mặt tích cực và những đóng góp chung to
4
T×m HiÓu VÒ C«ng Nh©n ViÖt Nam Hoµng §×nh ChiÓu
lớn của đội ngũ giai cấp công nhân nước ta, bởi họ là lực lượng đang vận
hành những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của
xó hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế,
nhưng trước mặt trái của cơ chế thị trường và diễn biến phức tạp của tỡnh
hỡnh thế giới, nhiều cụng nhõn lao động có biểu hiện phai nhạt về chính
trị, một bộ phận chỉ lo lắng nhiều đến những vấn đề thiết thực trước mắt, ít
quan tâm đến những vấn đề lâu dài có tính chiến lược như định hướng xó
hội chủ nghĩa, vai trũ vị trớ của giai cấp cụng nhõn...
Khảo sát tại Đồng Nai cho thấy: 95% công nhân trả lời chỉ quan tâm đến

việc làm và thu nhập, có 40% công nhân được hỏi có quan tâm tới vấn đề
định hướng xó hội chủ nghĩa, 3,5% cụng nhõn khụng trả lời. Tỷ lệ cụng
nhõn là đảng viên rất thấp, năm 2003 là 7,69%, năm 2004 là 8,18%, năm
2005 là 6,87%. Tổ chức đảng được đánh giá là hoạt động tốt chỉ chiếm
35,7%, Công đoàn 45,5%, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chỉ có
24,6%, Hội Cựu chiến binh 5,9%. Cũng theo số liệu khảo sát tại 13 doanh
nghiệp khác nhau với 5.400 công nhân, cho thấy chỉ có 38,2% công nhân
thường xuyên được học tập các nghị quyết của Đảng. Trong đó doanh
nghiệp nhà nước có tỷ lệ 51,9%, doanh nghiệp liên doanh 40%, công ty cổ
phần 37,5%, công ty tư nhân 32,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chỉ có 24,9%. Bản thân công nhân cũng không thường xuyên cập
nhật thông tin. Khảo sát 100 cụng nhõn Cụng ty Giầy Thỏi Bỡnh về WTO
chỉ cú 10% trả lời cú nghe núi về WTO nhưng không hiểu WTO là gỡ.
Rừ ràng, nếu bản thõn người công nhân chưa giác ngộ về mục tiêu lý
tưởng, non yếu về bản lĩnh chính trị cộng với trách nhiệm của các cấp và
công tác đào tạo chăm lo như hiện nay, thỡ sẽ rất khú vượt qua được áp
lực của toàn cầu hóa và hội nhập.
Cường độ lao động, việc làm, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần
đang xuất hiện nhiều vấn đề nghịch lý. Nước ta hiện đang thuộc nhóm
quốc gia có số lượng lao động thất nghiệp cao, nhiều công nhân thiếu việc
làm. Tuy thiếu việc làm nhưng nhỡn chung cường độ làm việc của công
5
T×m HiÓu VÒ C«ng Nh©n ViÖt Nam Hoµng §×nh ChiÓu
nhân tại các doanh nghiệp lại rất căng. Hầu hết các doanh nghiệp đều tăng
ca để bảo đảm kế hoạch và tăng doanh thu. Điều đáng nói là Luật Lao
động quy định công nhân làm việc không quá 200h/người/năm, nhưng
trong nhiều doanh nghiệp công nhân đó phải làm việc bỡnh quõn tới 500 -
600h/người/năm.
Ở khía cạnh đời sống, tuy người công nhân vẫn đang chấp nhận được với
mức lương hiện nay, nhưng không phải lĩnh vực này không có vấn đề. Tại

Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước, thu
nhập của khối cán bộ, công chức hành chính, giáo dục bỡnh quõn 1,3
triệu/người/tháng; khối doanh nghiệp nhà nước 1,425 triệu/người/tháng;
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1,4 triệu/người/tháng; khối văn
phũng và cụng nhõn kỹ thuật cao 4 triệu/người/tháng. Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh 1,15 triệu/người/tháng. Ở cỏc tỉnh Bỡnh Dương, Đồng Nai,
Bà Rịa- Vũng Tàu...cũng cú những số liệu khụng mấy cỏch biệt.
Không ít các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt siêu lợi nhuận,
nhưng công nhân Việt Nam vẫn chỉ nhận được những đồng lương rất ít ỏi.
Như vậy, nếu so với đóng góp chung và với cường độ lao động hiện nay,
cộng với sự tăng lên của giá cả và các loại dịch vụ, đời sống của công
nhân lao động trực tiếp sản xuất vẫn cũn rất nhiều khú khăn.
Đời sống vật chất là như vậy, điều kiện làm việc về tinh thần cũn đáng lo
ngại hơn thế nhiều. Phải khẳng định nhiều doanh nghiệp chưa thực sự
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân tương xứng với quan
điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Số lượng các khu công
nghiệp gia tăng rất nhanh, nhưng đến nay chỉ có khoảng 2% công nhân ở
các khu công nghiệp, khu chế xuất được thuê nhà ở do các doanh nghiệp
xây dựng. Tuyệt đại bộ phận cũn lại phải tự lo thuờ lấy nhà ở trong những
điều kiện chật chội, thiếu thốn, không đủ tiện nghi sinh hoạt và điều kiện
an sinh tối thiểu về văn hóa, thẩm mỹ và môi trường sống. Cũn ở tại cỏc
doanh nghiệp, điều kiện làm việc cũng không như mong muốn. Do đa
phần công nghệ thiết bị ở nước ta thuộc thế hệ cũ, người lao động phải
6

×