Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TH32

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.2 KB, 12 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THÀNH PHỐ MỸ THO
TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM ĐỒNG
Tổ Bốn, Năm

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Phường 6, ngày 27 tháng 02 năm 2017

BÀI KIỂM TRA BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2016 - 2017
Họ và tên : Nguyễn Sĩ Tuấn
Nhiệm vụ được phân công: Giáo viên dạy lớp Năm.1
NỘI DUNG BỒI DƯỠNG 3
MODULE 32: DẠY HỌC PHÂN HÓA Ở TIỂU HỌC
PHẦN I: TRẢ LỜI CÂU HỎI (5 điểm)
Câu 1: Khái niệm dạy học phân hố. Vai trị của dạy học phân hóa ở Tiểu
học?
a) Khái niệm dạy học phân hóa là:
- Dạy học phân hóa khơng đơn thuần là phân loại người học theo năng lực,
nhận thức, mà ở đây là phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng người học,
tức là trên cơ sở am hiểu từng cá thể, giáo viên tiếp cận người học ở tâm lý, năng
khiếu, nguyện vọng, mong muốn trong cuộc sống … Có thể nói trong PP dạy học
phân hóa, giáo viên phải “tìm để giảng dạy và hiểu để giáo dục”.
- Dạy học phân hóa là PP dạy học có tính đến sự khác biệt của người học (cá
nhân) hoặc nhóm người học. Ở tiểu học, dạy học phân hóa thường được thể hiện ở
việc lấy Chuẩn kiến thức, kĩ năng làm nền cơ bản, ngoài kế hoạch dạy học (KHDH)
thơng thường, phân hóa để có những KHDH phù hợp nhằm đưa HS yếu kém đạt
chuẩn và giúp các đối tượng đã đạt chuẩn hoặc khá, giỏi phát triển ở mức cao hơn.
Ngoài ra, ở một số nơi, dạy học phân hóa cịn thể hiện ở việc tổ chức cho HS học


theo chương trình tự chọn mơn học.
- Theo tác giả Nguyễn Bá Kim, dạy học phân hóa có thể được thực hiện theo
hai hướng “dạy học phân hóa trong” và “dạy học phân hóa ngồi”. Dạy học phân
hóa trong (hay cịn gọi là phân hóa nội tại) là sử dụng những biện pháp phân hóa
thích hợp với các đối tượng khác nhau trong cùng một lớp học, trong cùng khoảng
thời gian, đảm bảo thống nhất một chương trình và KHDH. Nhìn bề ngồi dạy học
phân hóa trong khơng có gì khác biệt so với các lớp học thơng thường. Cịn dạy học
phân hóa ngồi là sử dụng những biện pháp phân hóa thích hợp để phân hóa rõ rệt
về nội dung và cả hình thức tổ chức dạy học, tức là hình thành những nhóm ngoại
khóa, lớp chọn, trường chuyên, sử dụng chương trình chuyên biệt, nội dung và
KHDH không lệ thuộc chặt chẽ vào SGK.


- Trong thực tiễn dạy học hiện nay, thường có hai hình thức dạy học phân hóa
như sau: Thứ nhất, dạy học phân hóa dựa trên sự thống nhất của mục tiêu dạy học
cho tất cả đối tượng HS, sau đó mỗi HS có thể chọn mơn học, hay một số mơn học
mà mình ưa thích hoặc có sở trường để học chuyên sâu theo chương trình và tài liệu
riềng. Hình thức này ở tiểu học được gọi là dạy theo chương trình tự chọn. Thứ
hai,dạy học phân hóa diễn ra ở cấp độ tổ chức hoạt động dạy học. Trong cùng một
nội dung học tập, GV vận dụng các PP và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo cơ hội cho
HS được học tập phù hợp với nhịp độ phát triển của cá nhân, nhằm đạt hiệu quả học
tập cao nhất ở mỗi HS.
b) Vai trò của dạy học phân hóa ở tiểu học:
- Yêu cầu khách quan của dạy học phân hóa ở tiểu học:
+ Nhu cầu của xã hội đối với việc đào tạo nguồn nhân lực có những điểm
giống nhau về nhân cách người lao động trong cùng một xã hội, lại vừa có sự khác
nhau về trình độ phát triển, về khuynh hướng và tài năng
+ HS trong cùng độ tuổi vừa có sự giống nhau, lại vừa có sự khác nhau về khả
năng tư duy, nhân cách và hồn cảnh gia đình, nền nếp gia đình, khả năng kinh tế,
nhận thức của cha mẹ về giáo dục, ...

- Ý nghĩa của dạy học phân hóa:
+ Phát hiện và bù đắp lỗ hổng kiến thức, tạo động lực thúc đẩy học tập.
+ Khơi gợi và phát triển tiềm năng trong mỗi HS.
+ Biến niềm đam mê trong cuộc sống thành động lực trong học tập.
+ Dạy học phân hóa là con đường hữu hiệu nhất để đi tới mục tiêu chung mà
mọi HS cần đạt được.
Câu 2: Các hình thức dạy học phân hóa và các khâu tiến hành dạy học phân
hóa ở Tiểu học ?
a) Các hình thức dạy học phân hóa:
* Dạy học phân hóa trong các giờ học chính khóa:
Tiến hành dạy học phân hóa trong các giờ học chính khóa cần dựa trên những
tư tưởng chủ đạo sau đây:
- Lấy trình độ phát triển chung của HS trong lớp làm nền tảng.
- Tìm cách đưa diện yếu kém lên trình độ chung
- Tìm cách đưa diện khá, giỏi đạt những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã đạt
được những u cầu cơ bản.
Trong các giờ học chính khóa, có thể sử dụng 1 số biện pháp phân hóa sau
đây:


- Đối xử cá biệt ngay trong những giờ dạy học đồng loạt dựa trên trình độ
phát triển chung, ví dụ: giao nhiệm vụ phù hợp với từng loại đối tượng, khuyến
khích HS yếu kém khi các em tỏ ý muốn trả lời câu hỏi, phân hóa việc giúp đỡ, kiểm
tra, đánh giá HS.
- Ra bài tập có phân bậc hoặc ra thêm bài tập để đào sâu, nâng cao cho HS
khá, giỏi.
- Phân hóa sự giúp đỡ của thầy, HS yếu kém được giúp đỡ nhiều hơn HS khá,
giỏi.
- Tác động qua lại giữa các HS, lấy chỗ mạnh của HS này điều chỉnh nhận
thức cho HS khác.

- Phân hóa bài tập về nhà theo số lượng bài tập, nội dung bài tập, theo yêu cầu
về tính độc lập. Ra riêng bài tập cho HS yếu kém và ra riền bài tập cho HS khá, giỏi.
* Hoạt động ngoại khóa:
- Hoạt động ngoại khóa có tác dụng bổ sung, hỗ trợ cho dạy học nội khóa (gây
hứng thú học tập bộ môn, bổ sung., đào sâu mở rộng kiến thức, ... HS tham gia hoạt
động ngoại khóa dưới hình thức tự nguyện, khơng ép buộc.
- Các hình thức hoạt động ngoại khóa gồm có: nói chuyện ngoại khóa, tham
quan, sinh hoạt câu lạc bộ, báo, tạp chí, ...
* Bồi dưỡng HS giỏi:
- Trong q trình học tập một mơn học, có những HS có trình độ kiến thức, kĩ
năng và tư duy vượt trội so với các HS khác, có khả năng hồn thành nhiệm vụ mơn
học một cách dễ dàng, đó là những HS giỏi bộ mơn đó.
- Việc bồi dưỡng những HS này một mặt được tiến hành trong những giờ học
đồng loạt bằng những biện pháp phân hóa, mặt khác được thực hiện bằng cách bồi
dưỡng tách riêng những HS diện này trên nguyên tắc tự nguyện.
Nội dung bồi dưỡng nhóm HS giỏi bao gồm:
- Nghe thuyết trình những tri thức bộ mơn bổ sung cho nội khóa.
- Giải những bài tập nâng cao.
- Học chuyên đề (bổ sung cho nội khóa, nâng cao tầm hiểu biết).
- Tham quan, thực hành và ứng dụng môn học.
- Làm nịng cốt cho những sinh hoạt ngoại khóa bộ môn.
* Giúp đỡ HS yếu kém:
Đứng trước yêu cầu dạy học đồng loạt ở 1 bộ môn, một số HS gặp khó khăn,
kết quả kiểm tra thường xuyên ở mức dưới trung bình, đó là những HS yếu kém bộ


mơn đó. Sự yếu kém trong học tập một bộ mơn có nhiều biểu hiện, nhưng tựu trung
lại thì có 3 điểm cơ bản sau:
- Nhiều lỗ hổng về kiến thức, kĩ năng.
- Tiếp thu chậm.

- Phương pháp học tập bộ môn chưa tốt.
Tương tự như việc bồi dưỡng HS giỏi, việc giúp đỡ HS yếu kém 1 bộ môn
được tiến hành bên cạnh những giờ học đồng loạt bằng các biện pháp phân hóa,
đồng thời cần tách riêng diện HS này để giúp đỡ. Nội dung giúp đỡ HS yếu kém cần
theo hướng sau đây:
- Luyện tập vừa sức HS yếu kém (gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và
mức độ, sử dụng bài tập phân bậc mịn, ...)
- Lấp “lỗ hổng” về kiến thức và kĩ năng.
- Đảm bảo những tiền đề về kiến thức, kĩ năng cho những tiết lên lớp.
- Bồi dưỡng PP học tập bộ mơn.
* Phân hóa trong những hoạt động giáo dục khác:
Trong khi tổ chức các hoạt động giáo dục HS, cần phải quán triệt quan điểm
phân hóa. Nếu trong nhà trường có tập thể HS có khả năng tốt về nhiều lĩnh vực, cần
phải tạo điều kiện để các em thể hiện và phát huy những khả năng tiềm tàng của
mình. Những hướng cần tập trung là:
- Tổ chức các hoạt động giáo dục đa dạng trong nhà trường.
- HS là chủ thể của những hoạt động đó, nhà trường là người định hướng,
giúp đỡ, tạo điều kiện.
b) Các khâu tiến hành dạy học phân hóa ở Tiểu học là:
- Đánh giá, phân loại HS. Để tiến hành dạy học phân hóa, yêu cầu đầu tiên là
phải hiểu đối tượng, thấy được mặt mạnh và mặt hạn chế còn tồn tại của đối tượng
dạy học. Việc đánh giá, phân loại HS là cơ sở để xác định mục tiêu dạy học hợp lý,
phù hợp với đối tượng.
Trong thực tế, để thực hiện tốt khâu đầu tiên này, GV cần kết hợp linh hoạt và
đa dạng các hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối tượng HS theo
trình độ cụ thể.
+ Kết hợp kiểm tra định kỳ, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học: GV
cần thận trọng khi đưa ra kết luận về một HS nào đó thuộc nhóm trình độ nào. Do
vậy cần phải kết hợp nhiều hình thức kiểm tra trong dạy học để có kết quả khách
quan và chính xác. Ngồi việc KTĐK và KTTX, GV nên có sổ tay ghi chép kết quả

quan sát, theo dõi hàng ngày, trong đó lưu ý đến những trường hợp đặc biệt, hoặc
quá xuất sắc hoặc quá yếu, để tiến hành dạy học phân hóa phù hợp.


+ Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho HS tự đánh giá: Hiện
nay, GV thường chỉ thiết kế đề kiểm tra theo độ khó. Để có thể phân loại sâu hơn,
GV cần thiết kế đề kiểm tra kết hợp độ khó và độ nhanh, tức là tăng số lượng bài tập
trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá không theo thang điểm 10 mà là GV ghi
nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, HS làm đúng được bao nhiêu bài. Cách
làm này khuyến khích HS phát huy hết khả năng của mình đồng thời có thể tự đánh
giá khả năng của mình so với bạn.
- Xác định mục tiêu cho nhóm đối tượng hoặc từng đối tượng đặc biệt.
- Lựa chọn nội dung, PP, hình thức tổ chức cho các nhóm đối tượng/từng đối
tượng.
- Tổ chức thực hiện theo mục tiêu đã xác định với các nội dung, PP, hình thức
tổ chức đã lựa chọn.
- Kiểm tra, đánh giá và tổ chức cho HS tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học
tập/hoạt động của các nhóm đối tượng/đối tượng. Khâu này giúp cho GV thu được
những thông tin ngược ý nghĩa để có sự điều chỉnh kịp thời và hiệu quả.
- Điều chỉnh hồn thiện chương trình/phương pháp/cách thức dạy học phân
hóa đã tiến hành để thu được hiệu quả cao hơn trong những lần tiếp theo.
Câu 3: Hãy trình bày những thuận lợi và khó khăn khi tổ chức dạy học phân
hóa?
Trả lời: Những thuận lợi và khó khăn khi tổ chức dạy học phân hóa là:
a) Thuận lợi:
- Đại đa số bộ phận giáo viên đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi
mới dạy học và dạy học theo quan điểm “ Dạy học phân hóa” là tất yếu khách quan,
phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc quản lý chương trình dạy học ở trường
được thực hiện nghiêm túc, có các biện pháp kiểm tra thường xuyên. Hầu hết các
giáo viên đều thực hiện đúng tiến độ, bám sát phân phối chương trình và thực hiện

đăng ký bài giảng đều đặn.
- Ngay từ đầu năm học, chuyên môn đã đề ra kế hoạch dạy học phù hợp với
thực tế của nhà trường, có những quyết định đúng, kịp thời, tổ chức thực hiện kế
hoạch tương đối hợp lý, khoa học. Chú ý coi trọng việc phân công giảng dạy cho
giáo viên trên cơ sở năng lực, hoàn cảnh, nguyện vọng, phù hợp với nhiệm vụ chính
trị của nhà trường.
- Hàng năm đều tổ chức bồi dưỡng cho GV về chuyên môn, nghiệp vụ như
việc thực hiện chương trình, tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp, đổi mới phương pháp
dạy học… Việc dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm bài giảng, đánh giá kết quả bài
giảng theo quan điểm phân hóa đã được tổ chức. Tổ chun mơn đã phát huy hết vai
trị trong việc quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên. Dự giờ, thống nhất nội
dung bài giảng theo quan điểm phân hóa, góp ý rút kinh nghiệm giờ dạy.


- Duy trì chế độ kiểm tra, thanh tra chuyên mơn, phối hợp với các tổ chức như
cơng đồn, đội để kiểm tra đánh giá việc thực hiện nề nếp dạy và học ở các lớp. Xây
dựng tiêu chí thi đua ngay từ đầu năm học.
- Nhà trường, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường, Ban đại diện cha mẹ
học sinh đã tích cực phối hợp với nhau tạo sự gắn kết trong công tác giáo dục.
- Hầu hết trước khi bước vào đầu năm học mới, đội ngũ GV đều được tập
huấn bồi dưỡng chuyên môn môn nghiệp vụ trong đó chú trọng vào đổi
mới phương pháp dạy học, trang bị cho GV một số kỹ thuật dạy
học tích cực đáp ứng yêu cầu dạy học theo quan điểm dạy học
phân hóa.
b) Khó khăn
- Trong dạy học phân hóa giáo viên phải phân loại được từng
đối tượng HS để từ đó mới có kế hoạch dạy học cho phù hợp. Kế
hoạch dạy học phải chi tiết, cụ thể cho từng đối tượng HS, do đó
GV cảm thấy vất vả hơn khi lập kế hoạch dạy học.
- Nhiều giáo viên còn lúng túng, bối rối, chưa tự tin trong việc

thiết kế các tiết dạy theo kiểu phân hóa cho từng đối tượng HS.
Nếu quan tâm nhiều đến HS yếu, khơng có thời gian để định hướng
cho HS giỏi, khá phát huy năng lực của bản thân; HS giỏi, khá dễ bị
nhàm chán.
- Việc sử dụng phương tiện dạy học cịn hạn chế do trình độ sử
dụng của giáo viên chưa linh hoạt, tự tin.
- Sĩ số lớp học hiện nay khá đông (mỗi lớp thường trên 35 HS), nên việc dạy học
phù hợp với từng đối tượng HS rất khó. Chưa kể đến việc HS có thể học tốt mơn này
nhưng chưa tốt mơn khác nên cần phải có nhiều cách chia nhóm, phân loại đối
tượng HS phù hợp theo từng mơn học.
- Cơ sở vật chất cịn thiếu thốn; thiếu chương trình, tài liệu tham khảo; thiếu
phương tiện kĩ thuật, đồ dùng dạy học,...
- Trình độ đào tạo và năng lực sư phạm của đội ngũ GV tiểu học hiện nay chưa
đồng đều, chưa có nhiều GV có năng lực và kinh nghiệm trong việc DHPH.
- GV tiểu học phải dạy nhiều mơn nên khó khăn trong việc chuẩn bị kế hoạch bài
dạy theo định hướng phân hóa.
- Có thể xuất hiện những biểu lộ mất tự tin hay mặc cảm về tâm lí đối với HS
đầu cấp khi bị xếp vào nhóm yếu, kém cũng như tâm lí lo lắng của phụ huynh HS.
.......................................................................................................................................
PHẦN II: VẬN DỤNG (5 điểm)
Câu 4 : Từ thực tế dạy và học hiện nay, anh (chị) đã vận dụng những điều
kiện nào để dạy học phân hóa ở tiểu học có hiệu quả cao. Cho ví dụ minh họa.
Trả lời:
a) Từ thực tế dạy và học hiện nay, tôi đã vận dụng những điều kiện để dạy
học phân hóa ở tiểu học có hiệu quả cao là:


Với ý nghĩa đảm bảo cho việc thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất
cả HS đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của cá
nhân trong quá trình học tập, dạy học phân hóa (DHPH) đang được xem là một giải

pháp phổ biến hiện nay.
DHPH là phương pháp dạy học có tính đến sự khác biệt của người học (cá
nhân) hoặc nhóm người học. Ở tiểu học DHPH thường được thể hiện ở việc lấy
chuẩn kiến thức kỹ năng làm nền cơ bản, ngồi kế hoạch dạy học thơng thường phân
hóa để có những kế hoạch dạy học phù hợp đưa HS yếu kém đạt chuẩn và giúp các
đối tượng đã đạt chuẩn hoặc khá, giỏi phát triển ở mức cao hơn. Ngoài ra, ở một số
nơi DHPH thể hiện ở việc tổ chức cho HS học theo chương trình tự chọn môn học.
Trong thực tiễn DH hiện nay, thường có hai hình thức DHPH gọi là “DHPH
trung gian” và “DHPH bộ phận”. DHPH trung gian là DHPH dựa trên sự thống nhất
của mục tiêu dạy học cho tất cá các đối tượng HS, sau đó, HS có thể chọn một mơn
học hay lĩnh vực học tập mà mình ưa thích hoặc có sở trường để học chun sâu
theo chương trình và tài liệu riêng. Hình thức này ở tiểu học được gọi là dạy học
theo chương trình tự chọn. DHPH bộ phận là DHPH diễn ra ở cấp độ tổ chức hoạt
động dạy học. Trong cùng một nội dung học tập, tôi vận dụng các phương pháp và
kỹ thuật dạy học tích cực để tạo cơ hội cho HS được học tập phù hợp với nhịp độ
phát triển của cá nhân, nhằm đạt hiệu quả học tập cao nhất ở mỗi HS.
b) Ví dụ minh họa (DHPH mơn Tốn ở tiểu học)
* Quy trình thực hiện DHPH trong mơn toán ở TH thường diễn ra như
sau: Đánh giá, phân loại trình độ, năng lực học tốn của HS ; Xây dựng kế hoạch,
nội dung và lựa chọn hình thức, PPDH cho phù hợp với từng nhóm đối tượng hoặc
từng đối tượng đặc biệt ; Tổ chức triển khai thực hiện, Kiểm tra, đánh giá và điều
chỉnh, hoàn thiện.
* Một số biện pháp về nghiệp vụ sư phạm để thực hiện dạy học phân hóa mơn
tốn ở tiểu học đạt hiệu quả là:
- Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối
tượng HS theo trình độ
- Kết hợp kiểm tra định kỳ, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học: GV
cần thận trọng khi đưa ra kết luận một HS nào đó thuộc nhóm trình độ nào. Do
vậy cần phải kết hợp nhiều hình thức kiểm tra trong dạy học để có kết quả khách
quan và chính xác. Ngồi việc kiểm tra định kỳ và kiểm tra thường xuyên, GV nên

có sổ tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi hàng ngày, trong đó lưu ý đến những
trường hợp đặc biệt, hoặc quá xuất sắc hoặc quá yếu để tiến hành DHPH phù hợp.
- Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho HS tự đánh giá: Hiện
nay GV thường chỉ thiết kế đề kiểm tra theo độ khó. Để có thể phân loại sâu hơn,
GV thiết kế đề kiểm tra kết hợp độ khó và độ nhanh, tức là tăng số lượng bài tập
trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá không theo thang điểm 10 mà là GV ghi
nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, HS làm đúng được bao nhiêu bài. Cách
làm này khuyến khích HS phát huy hết khả năng của mình đồng thời có thể tự đánh
giá khả năng của mình so với các bạn.
* Phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế kế hoạch bài dạy


- DHPH trong mơn tốn thường được vận dụng vào khâu dạy kiến thức
mới; thực hành giải bài tập toán và giao bài tập về nhà.
* Phân bậc nhiệm vụ học tập đối với nội dung mang tính lý thuyết:
- Kỹ thuật cơ bản cho việc thiết kế này là chia nhỏ nội dung học tập ra thành
nhiều nhiệm vụ. HS khá giỏi sẽ thực hiện nhiệm vụ khó hơn hoặc nhiều nhiệm vụ
hơn hoặc thực hiện khơng có sự hướng dẫn. HS TB hoặc yếu sẽ thực hiện ít nhiệm
vụ đơn giản hơn hoặc ít hơn, hoặc được những chỉ dẫn, hỗ trợ nhiều hơn
- Đối với dạng bài tốn có lời văn, kỹ thuật nâng dần độ khó thường dùng là:
+ Giữ nguyên bài toán mẫu thay đổi số liệu
+ Thay tình huống bài tốn bằng tình huống tương tự cùng bản chất về mối
quan hệ
+ Thay một dữ liệu đã cho bằng một bài toán đơn sau đó kết nối bài tốn đã
cho thành bài tốn phức hợp hơn.
+ Kết hợp nhiều bài toán đơn để tạo ra bài tốn phức hợp hơn.
+ Cho tình huống mở, HS tự điền dữ liệu và thực hiện.
+ Cho dữ liệu, HS tự đặt tình huống (ngữ cảnh) và thực hiện.
Về phân loại mức độ khó xét về mục đích dạy học toán để rèn luyện và phát
triển tư duy cho HSTH, có thể phân ra làm 3 dạng theo mức độ từ dễ đến khó như

sau:
Dạng 1: Các bài tập rèn luyện các thao tác tư duy cơ bản. Chẳng hạn các bài
tập dạng cơ bản đại trà như đọc số, viết số, so sánh số, tính tốn thuần túy trong
bảng hoặc ngồi bảng, đếm số hình, đổi đơn vị đo, giải bài tốn đơn,...)
Ví dụ: Đọc số 195080126 (Tốn 4, tr.160, bài 3)
HS đọc Một trăm chín mươi lăm triệu khơng trăm tám mươi nghìn một trăm
hai mươi sáu.
GV hỏi: Để đọc được số này, em thực hiện phân lớp như thế nào? ( phân lớp
đơn vị, lớp nghìn, lớp triệu.
Chữ số 9 trong số trên có giá trị là bao nhiêu? (90000000), chữ số 8 trong số
trên có giá trị bao nhiêu? (80000)...
Dạng 2: Các bài tập này có ưu thế trong việc rèn luyện và phát triển tư duy
hình thức (như các kỹ năng trình bày, diễn đạt, suy luận logic...). Chẳng hạn các
dạng toán “ Tìm số thỏa mãn điều kiện cho trước, các bài tốn có lời văn điển hình,
các bài tốn có nội dung hình học gắn liền thực tiễn, bài tốn suy luận đơn giản,...
Với dạng toán này, khi tổ chức thực hiện GV cần chú ý đến yêu cầu HS trình
bày những lâp luận logic để giải bài tốn. Ví dụ: Tìm x biết 57 < x < 62 và a) x là số
chẵn; b) x là số lẻ; c) x là số tròn chục.
Sau khi HS thực hiện câu a) với kết quả là 58, 60. GV có thể đặt câu hỏi Vì
sao x khơng thể là 59 và 61 ? (vì x phải là số chẵn) Hoặc x cần tìm thỏa mãn mấy
điều kiện. Đó là những điều kiện nào?
Dạng 3: Một số bài tập có ưu thế trong việc rèn luyện tư duy phê phán, tư duy
thuật giải, tư duy sáng tạo,... Chẳng hạn như dạng toán phát hiện lỗi sai và chữa lại
cho đúng, tính nhanh, giải bài toán bằng nhiều cách, bài toán mở , ...)
Khi tổ chức DHPH nội dung thực hành luyện tập và sửa bài tập toán, thường
yêu cầu cao về năng lực tổ chức và quản lý lớp học của người GV. Do đó GV cần


dự kiến về thời gian và biện pháp sao cho phù hợp nhất để phát huy khả năng của
từng HS.

* Linh hoạt trong tổ chức hoạt động nhóm khi DHPH
Tùy theo mục tiêu dạy học, việc chia nhóm có thể theo nhiều cách: Nhóm đơi
(nhóm đối ngẫu), nhóm ngẫu nhiên, nhóm hỗn hợp và nhóm phân theo trình độ.
Trong DHPH, nhóm hỗn hợp được sử dụng khi nhiệm vụ của các nhóm là như nhau,
với mục đích là HS giỏi sẽ giúp đỡ HS yếu hơn. Nhóm theo trình độ được sử dụng
khi mức độ yêu cầu của nhiệm vụ từng nhóm khác nhau, như ví dụ nêu ở trên hoặc
trong thực hành giải bài tập để mỗi nhóm được yêu cầu làm những bài tập với độ
khó khác nhau.
* Giao tiếp trong dạy học phân hóa .
Đối với GV, lời nói của GV trong dạy học hoặc giao tiếp với HSTH rất có ý
nghĩa vì đặc điểm tâm lý cơ bản của lứa tuổi này là rất vô tư và hồn nhiên, các em
đặt rất nhiều niềm tin vào giáo viên. Do vậy GV cần có kỹ thuật nói rõ ràng, tốc độ
vừa phải dễ nghe, thân thiện nhưng nghiêm túc và ln khuyến khích. Khơng nên
gay gắt hay nặng lời với những HS yếu kém. Với mỗi trường hợp, cần tìm hiểu
ngun nhân để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ HS phù hợp.
Đối với HS, GV nên khuyến khích HS nói lại bằng ngơn ngữ của mình khi
hiểu một nội dung học tập nào đó. Ví dụ như mô tả lại cách hiểu các mối quan hệ
trong một bài toán, cách thực hiện các bước giải một bài toán, ... để giúp HS hiểu
sâu sắc và ghi nhớ tốt hơn, đồng thời giúp GV có cơ sở để đánh giá HS trung thực
hơn.
Để DHPH thành công, trong giao tiếp hàng ngày với HS, GV cần lưu ý về sự
tinh tế trong ứng xử đối với các nhóm HS để tạo điều kiện cho mọi HS đều cố gắng
vươn lên phát triển tối đa và tối ưu khả năng của mình, đồng thời cũng lưu ý đến sự
“phân biệt” làm tổn thương về mặt tâm lý đối với HS khi DHPH. Do đó GV cũng
lưu tâm đến giáo dục cảm xúc trí tuệ và giáo dục giá trị cho HS như cần phải yêu
thương, giúp đỡ nhau trong học tập, biết trung thực trong học tập, biết tôn trọng kết
quả của mình và của người khác, khơng coi thường người khác khi mình giỏi hơn,
khơng bi quan khi mình chưa giỏi như bạn ... Ngồi ra GV cũng cần tăng cường trao
đổi và giao tiếp tốt với phụ huynh HS hoặc các tổ chức giáo dục ngoài trường để
phối hợp trong việc giáo dục toàn diện cho HS nói chung và mơn tốn nói riêng.

Điểm
Cá nhân tự chấm

Phần I

Phần II

Tổng cộng



3.5 đ

8.5 đ

Xếp loại

Tổ trưởng chấm
HĐGK chấm
PHÓ TỔ TRƯỞNG

Người viết


Nguyến Thị Kim Chi

Nguyễn Sĩ Tuấn
HĐGK TRƯỜNG

* Các khâu của q trình dạy học (QTDH) theo quan điểm lí luận dạy học:

Xét một các khái quát, logic của QTDH diễn ra theo các khâu cơ bản sau:
- GV đề xuất vấn đề, gây cho HS ý thức, nhiệm vụ học tập. Mở đầu 1 vấn đề
mới, GV khéo léo đề xuất nhiệm vụ học tập bằng cách tạo nên tình huống có vấn đề,
nhờ vậy mà HS ý thức được nhiệm vụ đó một cách sâu sắc và tích cực, hứng thú
tham gia giải quyết vấn đề.
- Tổ chức, điều khiển HS lĩnh hội tri thức mới. Để lĩnh hội tri thức mới, trước
tiên phải tổ chức cho HS tri giác cảm tính tài liệu cần thiết. Ở khâu này, tùy theo nội
dung tài liệu, GV tổ chức cho HS quan sát trực tiếp sự vật và hiện tượng, hoặc có
thể dùng PP đàm thoại làm cho HS nhớ lại những biểu tượng, những kinh nghiệm đã
có, những tri thức đã lĩnh hội, tìm ra mối liên hệ gần gũi với sự vật và hiện tượng
mới. Từ đó xây dựng những biểu tượng chính xác làm cơ sở cho việc hình thành
khái niệm. Tiếp đó GS tổ chức cho HS tiến hành các thao tác tư duy như phân tích,
tổng hợp, so sánh, đối chiếu, trừu tượng hóa, khái quát hóa để hình thành những
khái niệm và qua đó các thao tác tư duy được hoàn thiện hơn. Nắm được khái niệm,
HS lại vận dụng những khái niệm đó, kết hợp chúng với nhau thành những phán
đoán và từ các phán đoán này xây dựng nên các suy luận. Trên cơ sở đó lại hình
thành những khái niệm, phán đốn ở mức độ cao hơn. Khái niệm, phán đoán, suy
luận đều được diễn đạt dưới hình thức ngơn ngữ bằng những định nghĩa, định lí,
định luật, nguyên tắc, học thuyết. Việc hình thành khái niệm có thể tiến hành bằng
con đường quy nạp hoặc suy diễn.
Tổ chức đúng đắn việc lĩnh hội tri thức mới sẽ giúp HS nắm được PP cơ bản
của tư duy logic và từ đó rèn luyện cho họ kĩ năng độc lập lĩnh hội tri thức mới.
- Tổ chức, điều khiển HS rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo. Trong quá trình học tập,
HS cần phải chuyển hóa tri thức thành kĩ năng, kĩ xảo mới có thể vận dụng những
điều đã học vào thực tiễn. Biện pháp rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thể hiện ở những mức
độ khác nhau. Mức độ đầu tiên là luyện tập một cách có hệ thống thơng qua vận
dụng những tri thức vào việc giải quyết các bài tập với độ khó khăn và phức tạp tăng
lên. Trong quá trình đó, chú ý uốn nắn những sai lệch, sự thiếu chính xác trong việc
hiểu tri thức lý thuyết, những thao tác tư duy hoặc động tác chân tay. Mức độ cao là
vận dụng tri thức nhằm giải thích những hiện tượng, giải quyết những vấn đề do



thực tiễn đề ra một cách vừa sức ; qua đó dần dần phát huy tính độc lập, sáng tạo của
HS từ mức thấp đến mức cao.
- Tổ chức, điều khiển, kiểm tra, đánh giá việc nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo một cách có hệ thống của HS và tổ chức cho HS tự kiểm tra, đánh giá. Trong
việc thực hiện khâu này, phải quán triệt cá nguyên tắc kiểm tra và đánh giá, phối
hợp nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá. Ngoài ra, cần đặc biệt bồi dưỡng cho HS ý
thức và năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập của mình. Điều đó góp
phần quan trọng trong việc hình thành ở HS phẩm chất và năng lực tự học, giúp các
em có thể học liên tục suốt đời, đáp ứng được những yêu cầu của thời đại hiện nay.
- Phân tích kết quả từng giai đoạn, từng bước nhất định của QTDH. Sau khi
kiểm tra, đánh giá việc hoàn thành một bước, một giai đoạn nhất định nào đó của
QTDH, thầy cũng như trị phải nhìn lại hoạt động của mình, đối chiếu kết quả thu
được với mục đích, nhiệm vụ đã đề ra để phát hiện những ưu, nhược điểm, nguyên
nhân của chúng, từ đó đề ra phương hướng và biện pháp giải quyết.
Các khâu này trong toàn bộ QTDH đều phải thực hiện, nhưng tùy theo từng giai
đoạn với nhiệm vụ cụ thể của nó mà thực hiện chúng ở những mức độ khác nhau.
Hơn nữa trong quá trình dạy học, khơng nhất thiết phải thực hiện đúng theo trình tự
các khâu đó mà có thể thực hiện xen kẽ vào nhau tùy theo tình hình, yêu cầu cụ thể.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×