Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

tap viet 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.4 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI

***************

MÃ SKKN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY - HỌC MÔN TẬP VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 2

Thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt
Cấp học: Tiểu học

NĂM HỌC 2015 - 2016


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
2.Mục đích nghiên cứu
3.Đối tượng nghiên cứu
4.Nhiệm vụ nghiên cứu
5.Phương pháp nghiên cứu
6.Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Những nội dung lí luận có liên quan trực tiếp về vấn đề nghiên
cứu tổng kết kinh nghiệm:
1.1.Một số căn cứ khoa học của đề tài nghiên cứu:
1.2.Một số khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu
2.Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
3. Phân tích mơ tả các giải pháp:


3.1. Mục đích
3.2 Nội dung và cách tiến hành thực nghiệm khoa học
4.Kết quả thực hiện.
5.Bài học kinh nghiệm.
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHÞ
1.Kết luận chung.
2.Khuyến nghị
3.Đề nghị:
Tài liệu tham khảo

1
1
3
3
3
3
3
5
5
5
5
5
7
7
7
19
20
22
22
22

23
24


CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Đất nước ta đang ở trong thời kỳ đổi mới. Sự phát triển kinh tế xã hội
đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục các cấp.
Trong đó giáo dục Tiểu học được xác định là bậc học nền tảng thế nên
nền có vững chắc thì hiệu quả đào tạo ở các bậc học trên mới đạt yêu cầu. Vì
vậy muốn xây dựng nền tảng vững chắc ở bậc Tiểu học, người giáo viên phải có
ý thức xây dựng những kiến thức cơ bản đạt yêu cầu cho từng môn học được
quy định trong chương trình. Trong đó mơn Tiếng Việt là mơn học có tầm quan
trọng bậc nhất trong các môn học ở Tiểu học. Và chữ viết được coi là phương
tiện ưu thế nhất trong giao tiếp, có vị trí quan trọng khơng thể thiếu được trong
chương trình mơn Tiếng Việt ở bậc tiểu học. Có đọc thơng viết thạo, hiểu được
nội dung văn bản thì mới nắm được thơng tin và giải quyết những vấn đề mà văn
bản nêu ra. Nghĩa là học tốt mơn Tiếng Việt thì mới học tốt các môn học khác,
mà cần biết sử dụng Tiếng Việt với hoạt động giao tiếp, góp phần phát triển tư
duy hình thành và phát triển nhân cách cho các em.
Chữ viết đẹp của học sinh là vấn đề được mọi người trong và ngoài ngành
Giáo dục Đào tạo quan tâm. Người xưa có đã nói: “nét chữ nết người” là hàm ý
hai vấn đề: Thứ nhất, nét chữ thể hiện tính cách con người; thông qua rèn luyện
chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Vì vậy phong trào “giữ vở sạch –
viết chữ đẹp” vừa là mục đích, vừa là phương tiện trong quá trình rèn luyện học
sinh viết đúng, dẫn tới việc viết đẹp cho học sinh, nó góp một phần vào việc
giáo dục tồn diện cho học sinh ngay từ ở lớp đàu cấp tiểu học.
Ở bậc Tiểu học, phân mơn Tập viết chiếm vị trí quan trọng. Không phải
ngẫu nhiên mà ở Tiểu học Tập viết cịn được bố trí thành một phân mơn độc lập
(thuộc mơn Tiếng Việt) có tiết dạy riêng. Giống như các phân mơn khác, tính

nổi bật của phân mơn Tập viết là tính thực hành, chỉ có hình thành kỹ năng, kỹ
xảo cho học sinh thông qua việc thực hành và luyện tập.
Phân mơn Tập viết trong nhà trường có nhiệm vụ giúp học sinh nắm
vững các quy tắc và hình thành kỹ năng viết, nói cách khác giúp học sinh hình
thành năng lực và thói quen viết đúng, viết đẹp.
Trước kia, chất lượng của học sinh còn yếu, tỉ lệ đỗ đại học còn thấp do
kiến thức về tri thức, khả năng trình bày của các em trên bài thi còn hạn chế.
Mục tiêu giáo dục đào tạo là đào tạo con người cẩn thận kiên trì cần cù
chịu khó có lịng u nước, u lý tưởng xã hội chủ nghĩa có phẩm chất đạo đức


tốt để cống hiến cho đất nước với tất cả lịng nhiệt tình và trí óc thơng minh sáng
tạo.
Chúng ta thấy các em rất thơ ngây trong trắng ngay thẳng xinh đẹp nhưng
thực tế hiện nay chữ viết của các em bị mai một cẩu thả nếu không luyện cho
các em thì các em trở thành thói quen khó mà sửa được nên chúng ta phải cho
các em thấy được:
Người ngay thẳng sao chữ lại xiêu vẹo?
Người đẹp xinh sao chữ chẳng như người ?
Hãy luyện chữ như luyện hồn, luyện tính
Nét chữ - Nết người tâm hồn đẹp.
Là người giáo viên được phân công dạy vùng nông thôn điều kiện nhận
thức của dân trí cịn kém điều kiện giúp các em học tập còn hạn chế nên đòi hỏi
người giáo viên phải có tính kiên trì nhẫn nại.
Muốn đạt được mục tiêu ấy trước hết người giáo viên phải thực sự chú ý
rèn cho học sinh một cách toàn diện ngay từ buổi đầu tiên cắp sách đến trường.
Trong thực tế mỗi cấp học, lớp học có một chương trình giáo dục riêng nhưng ta
biết rằng chiếc chìa khố để giúp các em khám phá kho tàng tri thức của nhân
loại là ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết. Vì vậy người giáo viên phải giáo dục cho
các em thấy được sự giàu đẹp cuả Tiếng Việt để từ đó tạo cho các em lịng tự

hào về Tiếng Việt, chữ viết của nước mình. Đặc biệt ở cấp tiểu học việc rèn đọc,
rèn viết cho học sinh một cách thành thạo là một việc khá quan trọng. Do ảnh
hưởng của môi trường sống, của tập tục địa phương mà ngơn ngữ Tiếng Việt đã
có những biến đổi trong cách phát âm dẫn đến viết không đúng chuẩn mực làm
ảnh hưởng đến vẻ đẹp của Tiếng Việt.
Rèn cho học sinh viết đúng, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em
tính cẩn thận lịng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô và bạn đọc bài
vở của mình.
Trong những năm gần đây cùng với việc đổi mới về nội dung, chương
trình và phương pháp dạy học các chuyên đề giới thiệu chữ mới được tổ chức
liên tiếp từ cấp cơ sở đến cấp huyện. Trường tôi cũng đã tổ chức phong trào
“Vở sạch chữ đẹp” trong nhiều năm nhưng kết quả thu được không như mong
muốn. Vẫn cịn có em cịn viết xấu, chưa đúng mẫu, còn thiếu dấu. Nhất là đối
với học sinh từ lớp 1 đến lớp 2.
Học sinh từ thời gian tập viết, bước sang thời kỳ tự viết, giai đoạn này hầu
như các em được thả nổi dẫn đến viết ẩu, viết cẩu thả, mất nét hoặc dính nét trở


thành thói quen. Là giáo viên giảng dạy lớp 2 tơi thiết nghĩ việc viết đúng, viết
đẹp trong giờ chính tả cho học sinh lớp 2 là thực sự cần thiết. Đây chính là lý do
tơi chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy – học mơn Tập
viết cho học sinh lớp 2”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này, tơi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất
lượng dạy học môn Tập viết để tìm ra phương pháp giúp giáo viên rèn luyện cho
học sinh lớp 2 trường tôi viết đẹp hơn, đặc biệt viết chữ hoa tốt hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập viết lớp 2.
4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm:
Tìm hiểu đối tượng học sinh. Hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn

thành.
Khảo sát chất lượng chữ viết. Loại A ,B ,C.
Biện pháp rèn chữ. Rèn trong suốt năm học.
Đánh giá kết quả.Theo từng tháng.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Nhằm giúp học sinh học viết đẹp hơn, tôi thường sử dụng các phương pháp
sau:
Phương pháp nghiên cứu, lí luận:
Đọc các tài liệu cần thiết.
Tìm hiểu sách giáo khoa, sách giáo viên, chương trình liệu bồi dưỡng giáo
viên, sách tham khảo.
Phương pháp điều tra quan sát.
Truyền đạt, phỏng vấn giáo viên.
Điều tra học sinh, các loại vở bài tập.
Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả:
Kiểm tra chất lượng qua mỗi giai đoạn.
Thống kê kết quả ở từng giai đoạn.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Giáo viên rút kinh nghiệm cho mình, tổng kết thành các bài học cơ bản.
6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
Năm học: 2015 – 2016


Rèn học sinh viết bằng cách dạy từ đơn giản đến phức tạp, từ viết ít đến
viết nhiều, từ viết chậm đến viết nhanh, từ viết đúng đến viết đẹp.
Khi chữ xấu trở thành chữ đẹp
Ta thấy mình sang trọng hẳn lên
Khi chữ xấu trở thành chữ đẹp
Ta thấy mình hạnh phúc tự tin.



CHƯƠNG 2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Những nội dung lí luận có liên quan trực tiếp về vấn đề nghiên cứu
tổng kết kinh nghiệm:
1.1. Một số căn cứ khoa học của đề tài nghiên cứu:
Giáo dục tiểu học là mơi trường đầu tiên hình thành thói quen chữ viết
cho học sinh. Việc dạy chữ viết đẹp ở bậc tiểu học được quan tâm đúng mức thì
sẽ tạo nên những thế hệ viết chữ đẹp.
Rèn viết chữ đẹp trước hết học sinh phải viết đúng. Học sinh tiểu học là
nền tảng của nền giáo dục phổ thông, đọc thông viết thạo là cơ sở để tiếp thu
kiến thức.
Phong trào rèn chữ giữ vở cần được gìn giữ và phát huy thể hiện sáng tạo
hơn trong cuộc sống.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu
Khả năng viết chữ và thực trạng dạy Tập viết của giáo viên Tiểu học hiện
nay: Về cơ bản, giáo viên Tiểu học chữ viết đạt chuẩn theo mẫu. Tuy nhiên tỷ lệ
giáo viên viết chữ đẹp chưa cao. Có những giáo viên cịn viết theo thói quen của
mình. Việc chuẩn bị cho một giờ dạy Tập viết của giáo viên cũng như việc cho
điểm và nhận xét trong vở học sinh cũng chưa được chu đáo mà việc dạy Tập
viết của giáo viên ở các lớp Tiểu học phải được tiến hành theo hai khâu cơ bản
sau:
Soạn giáo án Tập viết:
Thực hiện giáo án trong giờ dạy trên lớp.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
Tìm hiểu về đối tượng học sinh đầu năm học 2015 – 2016.
Để nắm được thực trạng của việc dạy Tập viết và cụ thể hơn là phần
hướng dẫn áp dụng về phương pháp, luyện viết cho học sinh, tơi tự đánh giá lại
q trình dạy học của mình kết hợp với việc dự giờ các giáo viên trong khối và
rút ra nhận xét sau:
Ưu điểm:



Nhìn chung học sinh ngay từ lớp 1 đã nắm được quy định viết, biết cách
viết chữ ghi âm Tiếng Việt về cơ bản các em đã viết đúng mẫu, các chữ cái ghi
âm, vần tiếng, từ và đảm bảo đúng cỡ chữ qui định.
Phần lớn học sinh nắm khá chắc luật chính tả và viết đúng chính tả. Khi
viết nhiều em thể hiện được tính thẩm mĩ biết cách trình bày một bài viết theo
yêu cầu thể loại (văn xuôi, thơ) tốc độ viết cũng đã đạt được và vượt mức yêu
cầu qui định.
Tồn tại:
Một bộ phận không nhỏ là học sinh viết chữ chưa đúng mẫu, không đúng
cỡ, ghi dấu thanh khơng đúng vị trí, sai lỗi chính tả do cách phát âm.
Ví dụ: học sinh thường viết sai mẫu chữ nhất là những chữ dễ lẫn: n/l,
tr/ch, s/x, r/d/gi.
Dấu thanh khơng ghi đúng vị trí như: Trường Trưởng...
Một vài học sinh chưa nắm chắc luật chính tả nên hay viết sai lỗi chính tả
như c/k/q, g/gh, ng/ngh.
Phần lớn học sinh viết chữ chưa đẹp, các nét chữ, con chữ chưa hài hoà
mềm mại, chữ viết ngả nghiêng viết một cách tuỳ tiện.
Một số học sinh chưa biết cách trình bày một bài viết vừa đảm bảo tính
khoa học, vừa thể hiện tính thẩm mĩ chưa biết cách trình bày một bài văn xi
khác với trình bày một bài thơ. Thơ lục bát khác với thơ tự do.
Nguyên nhân:
Một số bậc phụ huynh còn cho rằng chữ viết không cần thiết lắm chỉ cốt
sao học sinh giỏi là được nên chưa thực sự quan tâm đến chữ viết của con em
mình. Ở lớp 1, 2 lỗi chính tả của học sinh hầu như do phát âm không đúng học
sinh còn phát âm lầm lẫn giữa các âm s/x, tr/ch dẫn đến viết sai chính tả.
Do quên mặt chữ ghi âm, ghi tiếng, ghi từ.
Do không nắm được nghĩa của từ.
Do nghe hiểu còn hạn chế.

Do chưa nắm thật chắc chính tả nên biết khi nào viết r, khi nào viết d, khi
nào viết gi, khi nào viết c, khi nào viết k, khi nào viết q.
Chưa nắm được luật viết hoa và cách viết hoa.
Do giáo viên quá tham cho nhiều bài tập mở rộng, nâng cao so với yêu cầu
cho nên buộc học sinh phải tăng tốc độ viết trong giờ học, giờ làm bài nên chữ


viết của học sinh khơng được nắn nót khơng đúng qui định kích cỡ khoảng cách
giữa các chữ khơng đều, viết sai nét, thiếu dấu, đánh sai vị trí dấu,...
Chưa nghiêm khắc với học sinh, khi viết các em ngồi không đúng tư thế,
cách để vở dẫn đến chữ viết cẩu thả, tuỳ tiện.
Khảo sát chất lượng đầu năm học:
Đầu năm học

Tổng số học sinh

Xếp loại A

Xếp loại B

Xếp loại C

2015 - 2016

28

9em=32%

11em=39%


8em=29%

3. Phân tích, mơ tả các giải pháp:
3.1. Mục đích:
Ở tiểu học các em được học 2 buổi trên ngày. Trong những giờ tập viết
buổi hai các tiết luyện chữ Tôi đã chia ra 5 phần , mỗi phần đều chia ra các
nhóm chữ đặt tên các nhóm các phần vào kế hoạch giảng dậy để ôn luyện được
tốt.
3.2. Nội dung và cách tiến hành thực ghniệm khoa học:
Bước vào tiếp xúc với chương trình lớp 2, việc rèn luyện chữ cho các em
viết phải thật cẩn thận, đúng và đẹp là điều mà tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Vì vậy,
tơi đã nghiên cứu, học hỏi đồng nghiệp để đưa ra những biện pháp giúp học sinh
viết chữ đẹp. Sau đây là một số suy nghĩ và việc mà tôi đã làm:
Những điều kiện về cơ sở vật chất:
Ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế của học sinh:
Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc viết chữ và sức khoẻ
của học sinh. Hiện nay hầu hết các trường Tiểu học trong nội thành đều đảm bảo
các yêu cầu cơ bản, nhất là đối với trường tôi – một trường tiên tiến xuất sắc cấp
thành phố nhiều năm. Anh sáng theo tiêu chuẩn học đường có bảng chống lố,
có dịng kẻ rõ ràng, bàn ghế đúng kích cỡ tiêu chuẩn đối với học sinh cấp lớp 2.
Đồ dùng học tập của học sinh:
Từ loại bút và mực thích hợp đến cách chọn vở, chọn bảng và phấn viết
cũng được tôi lưu tâm đến. Hướng dẫn học sinh, phụ huynh tìm mua cho các em
những quyển vở có đường kẻ tin đều, rõ ràng và khi viết không bị nhoè mực.
Được sự ủng hộ từ phía nhà trường, có vở của nhà trường được sản xuất với chất
lượng cao, giấy không bị thấm mực. Đối với vở tập viết có nhãn vở, có tờ lót tay
khi viết để thấm mồ hôi ở tay ra giấy trong mùa hè, mùa thu.


Thực tế dạy viết hiện nay cho thấy sử dụng bảng con trong việc rèn chữ

cho học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 1 vẫn là tối ưu nhất. Có nhiều học sinh
được bố mẹ mua cho bảng làm chất liệu mêca màu trắng, dùng bút dạ viết bảng.
Dùng loại bảng và bút này có nhiều hạn chế: bảng trơn, học sinh viết không chủ
động, mực ra đậm nhạt khơng đều, khi xố dễ gây bẩn, mất vệ sinh. Hơn nữa, do
bút to quá cỡ tay cầm bút của học sinh khiến các em khó điều khiển ngịi bút khi
viết chữ.
Cho nên trong buổi họp phụ huynh đầu năm, tơi đưa ra những quyển vở,
bút chì, bút mực để phụ huynh tham khảo. Riêng bảng con thì tơi thống nhất
tồn lớp để tránh tình trạng của em này thì có ơ to, bảng của em kia thì có ơ nhỏ
sẽ gây khó khăn khi dạy Tập viết.
Sử dụng các đồ dùng trực quan khi dạy học Tập viết:
Những đồ dùng dạy Tập viết hiện nay:
Trong luyện viết cho học sinh thì đồ dùng trực quan có tác dụng khơng
nhỏ, nó hỗ trợ và là phương tiện giúp cho việc luyện viết của học sinh. Những
đồ dùng này nhằm mục đích là giúp học sinh khắc sâu những biểu tượng về chữ
viết, có ý thức viết đúng mẫu và tạo khơng khí sơi nổi, phấn chấn trong q trình
dạy viết chữ theo hướng “Đổi mới phương pháp dạy học”. Đồ dùng trực quan có
thể sử dụng trong q trình dạy bài mới, luyện tập hoặc củng cố bài học.
Mẫu chữ trong khung chữ phóng to theo bảng mẫu chữ hiện hành treo
trên lớp. Bảng mẫu chữ cần cố định thường xuyên để giáo viên có thể chủ động
sử dụng khi cần thiết không chỉ trong giờ Tập viết mà ngay trong cả những mơn
học khác khi có học sinh viết chưa đúng mẫu chữ.
Bộ mẫu chữ in theo quy định cho giáo viên.
Đồ dùng tự làm đạt hiệu quả trong việc dạy - học Tập viết:
Để việc dạy Tập viết có hiệu quả, giáo viên có thể nghiên cứu tự làm các
loại đồ dùng trực quan rất hữu ích cho việc dạy học Tập viết như: chữ mẫu phần
từ ứng dụng để học sinh nhìn rõ cách viết, điểm đặt bút từ đâu đến đâu để viết
cho liền mạch và giúp cho thao tác của giáo viên được nhanh hơn.
Hay loại đồ dùng tự làm cũng rất tiện lợi cho các loại bảng con có đính
nam châm ở sau để viết trực tiếp lên bảng cho học sinh lên viết để học sinh ngồi

dưới dễ dàng nhận xét.


Đồ dùng lật từng trang hiện ra từng nét (dùng để phân tích chữ mẫu):
Mục đích sử dụng của đồ dùng: Giúp học sinh nắm rõ cấu tạo, kích thước
của con chữ:
Cấu tạo gồm những nét nào?
Kích thước cao, rộng bao nhiêu ơ?
Cách làm đồ dùng:
Giấy bìa cứng khổ A4 (1 tờ).
Các tờ nhựa trong khổ A4 (số lượng tuỳ thuộc vào số nét chữ trong con
chữ).
Giấy đề can màu đỏ để cắt từng nét chữ rồi dàn lên từng tờ nhựa trong.
Một đến hai gáy xoắn bằng nhựa mềm để đóng các tờ nhựa trong lại.
Màu dạ để kẻ ô vuông lên tờ bìa cứng.
Cách sử dụng: Dùng trong phần giảng bài mới: Viết chữ hoa, chữ thường:
Giáo viên dùng que chỉ chỉ vào từng nét chữ trên trang nhựa cứng.
Giáo viên nói đến nét nào thì lật từng nét ấy minh họa cho học sinh nhìn
rõ.
Giáo viên giới thiệu xong nét nào, yêu cầu học sinh nhắc lại tên nét chữ
ấy và giáo viên chốt lại bằng câu hỏi: “Để hồn thành một con chữ thì các con
cần viết mấy nét và đó là những nét nào?”
Tác dụng của đồ dùng:
Giúp giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách rõ ràng, dễ
hiểu, sinh động, hấp dẫn.
Giúp học sinh nắm rõ cấu tạo, kích thước của con chữ cần viết.
Giáo viên cũng có thể dùng đồ dùng này hướng dẫn học sinh cách viết một
con chữ hồn chỉnh.
Ví dụ: Trong bài Tập viết “Chữ hoa A” (lớp 2), giáo viên dùng que chỉ và
đưa ra hệ thống câu hỏi:

(?) Các con nhìn lên bảng và cho cơ biết đây là chữ gì? (chữ A hoa)
(?) Chữ A hoa được cấu tạo bởi mấy nét? (gồm 3 nét)
(?) Cho cô biết nét thứ nhất của chữ A hoa là nét gì? (nét 1 gần giống nét
móc ngược (trái) và hơi lượn ở phía trên và nghiêng về phía bên phải).
(?) Nét thứ 2 là nét gì? (giáo viên lật trang thứ ba ra và yêu cầu học sinh
nêu: nét 3 là nét lượn ngang)


Giáo viên chốt lại bằng câu hỏi: “Chữ A hoa gồm mấy nét chữ ghép lại?”
Đồ dùng viết hoàn chỉnh một chữ cái bằng cách di chuyển nam châm (dùng để
hướng dẫn các nét tạo thành con chữ):
Mục đích sử dụng của đồ dùng: Giúp học sinh điều chỉnh 1 chữ cái đúng
yêu cầu từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc.
Cách làm đồ dùng:
Một tờ bìa cứng khổ A4 có in mẫu chữ hoa hoặc thường theo đúng quy
định.
Hai viên nam châm trịn, một viên có dán giấy màu đỏ ở trên, một viên để
nguyên.
Cách sử dụng đồ dùng:
Giáo viên dùng thao tác viết ở phía sau tờ bìa bằng cách di chuyển viên
nam châm khơng có giấy màu đỏ. Di chuyển viên nam châm đúng theo quy trình
viết một con chữ từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc nét bút để viên nam châm có
dán giấy màu đỏ phía trước đúng khi giáo viên viết một con chữ cái.
Ví dụ: Hướng dẫn bài Tập viết “Chữ A hoa”
Giáo viên giảng: Từ điểm đặt bút ở đường kẻ ngang thứ 3, viết nét móc
ngược (trái) từ dưới lên, nghiêng về bên trái và lượn ở phía trên, dừng bút ở
đường kẻ 6. Từ điểm dừng bút của nét 1, chuyển hướng bút viết nét móc ngược
phải, dừng bút ở đường kẻ ngang 2, (vừa nói, giáo viên vừa di chuyển viên nam
châm ở phía sau tờ bìa).
(?) Đến đây, cô đã viết xong chữ A chưa?

Giáo viên giảng tiếp: Cô lia bút lên khoảng giữa của thân chữ (trên đường
kẻ ngang thứ 3 một chút), viết nét lượn ngang mềm mại chia đôi con chữ.
Tác dụng của đồ dùng:
Giúp học sinh biết cách viết liền nét từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc nét
bút mà không nhấc bút.
Giúp học sinh hình dung rõ quy trình viết hồn chỉnh một con chữ mà
không hề bị tay hay người của giáo viên trong quá trình viết che khuất.
Đồ dùng sinh động với sự di chuyển chấm đỏ trên chữ mẫu rất thu hút sự
chú ý của học sinh.
Phần 1: Tập viết nét: Nét cong


Nét thẳng
Nét thắt
Nét xuyên
Phần 2: Viết chữ thường: Gồm các nhóm chữ
Nhóm giọt sương trĩu nặng: o, c, a, d, đ, q, g.
Nhóm kem que: l, b, h, k.
Nhóm nhị hoa: v, s, r.
Nhóm san hơ: tr, th, ph, kh, nh, ng, gh, ngh.
Nhóm thì là: e, m, n, x.
Nhóm gậy thần như ý: p, i, t, u, y.
Phần 3: Tập viết liền nét: oc, oi, oe, ve, me.
Phần 4: Tập viết chữ hoa: gồm các nhóm chữ
Nhóm sóng lượn: A, M, N.
Nhóm nốt nhạc: B, D, R, P.
Nhóm trăng khuyết: C, L, G, E, Ê, S.
Nhóm cánh chim câu: H, K, V, T, I, V.
Nhóm ốc biển: O, Q, G.
Nhóm Ngưu lang - Chức nữ: X, M, N, Y, U.

Phần 5: Ơn tập
Tơi thường tự tay kẻ bảng và viết mẫu cho học sinh và cũng có khi cùng
học sinh viết từng từ từng tiếng từng câu . Để các em yêu thích luyện chữ và viết
đúng viết đẹp khi dậy mỗi nhóm tơi cho các em đọc những bai diễn ca về chữ
viết của nhóm đó.
Nhóm quả nho: o, c, a, d, đ, q, g.
Đây nhóm quả nho
Căng trịn mọng nước
Tay bút đưa đều
Chẳng lo nho méo.
Nhóm kem que: l, h, b, k.
Đây nhóm kem que
Cái lưng rất thẳng
Mở dù thật nhẹ
Tiếp đất an tồn.
Nhóm nhị hoa: v, s, r.
Đây nhóm nhị hoa
Nhỏ xíu nhỏ xíu


Nhị thẳng chụm sang
Nhị nghiêng chụm xuống.
Nhóm thì là: e, m, n, x.
Thì là ….đến lạ!
Nét xiên thì thấp
Nét uốn thì trịn
Lưng tựa lưng nhau.
Nhóm gậy thần như ý: p, i, t, u, y.
Đây nhóm gậy thần
Đặt gần, đặt gần

Chẳng phải đặt xa
Mới là như ý.
Nhóm san hơ: tr, th, ph, kh, nh, ch, qu, gi, gh, ng, ngh.
San hô đẹp xinh
Mn màu khoe sắc
Chẳng đứng một mình
Bên nhau đồn kết.
Khi dậy đến phần 4: Viết chữ hoa trước khi viết các em cũng đọc những
bài diễn ca bổ trợ cho nhóm đó.
Nhóm lướt sóng: A, M, N.
Lượn ở mặt nước
Lượn ở đáy sơng
Bạn có nhớ khơng
Thân thẳng, sóng lượn.
Nhóm nốt nhạc vui: P, B, R, D.
Đây nốt nhạc vui
Mũ đội ngang tai
Đội cho ngay ngắn
Thật đều mỗi bên.
Nhóm vầng trăng khuyết: C, S, L, G, E.
Đây vầng trăng khuyết
Làm bạn với mây
Nghiêng nghiêng vầng trăng
Làm duyên với bạn.
Nhóm cánh chim: I, K, H, V, T.


Cánh chim bồ câu
Tung bay no gió
Thật nhẹ thật mềm

Trên nền trời xanh.
Nhóm ốc biển: O, Q.
Ốc biển dễ yêu
Cuộn trịn mềm mại
Mạnh xuống nhẹ lên
Xốy đều xốy đều.
Nhóm Ngưu Lang – Chức Nữ: X, M, N, V, U, Y.
Ngưu Lang Chức Nữ
Chung nhịp cầu ô
Quạ đen đã bắc
Nhịp cầu thương nhớ.
-Rèn viết đúng, viết đẹp trong giờ tập viết qua tư thế ngồi viết và cầm bút
đúng. Rèn luyện cho học sinh thói quen ngồi đúng tư thế là ngồi viết ngay ngắn
khoảng cách giữa vở và mắt vừa phải. Cầm mẫu bút cho học sinh cầm theo.
Trong mọi giờ học tôi phải quan sát và nghiêm túc trong vấn đề này, uốn nắn
kịp thời những học sinh ngồi viết chưa đúng. Trước khi các em thực hành viết
tôi thường cho cả lớp đọc bài diễn ca để nhắc các em ngồi đúng tư thế, cầm bút
đúng quy cách một cách tế nhị.
* Tư thế ngồi và cách cầm bút:
Để giúp các em viết được những nét chữ, đúng mẫu, đẹp tôi đã hướng dẫn
cả lớp tư thế ngồi viết: “Con phải ngồi tư thế ngay ngắn, lưng thẳng, khơng được
tì ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, mắt cách trang giấy khoảng 25 – 30 cm”. Tư
thế ngồi viết không nay ngắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết. Ngồi nghiêng
vẹo sẽ kéo theo chữ viết không thẳng, bị lệch dịng. Khơng những thế cịn có hại
cho sức khoẻ: sẽ bị cận nếu chúi sát vở, vẹo cột sống, gù lưng, phổi vị ảnh
hưởng... nếu ngồi viết không ngay ngắn. Trước mỗi giờ viết bài, đặc biệt là giờ
học Tập viết tôi thường yêu cầu các em nhắc lại tư thế ngồi viết câu hỏi: “Muốn
viết đẹp con phải ngồi thế nào?”. Dần dần, các em sẽ có thói quen ngồi đúng tư
thế.



Hình 1: Ngồi viết đúng tư thế.
Một việc hết sức quan trọng giúp cho việc viết chữ đẹp là cách cầm bút và
cách đặt vở trên bàn. Điều này các em được tôi hướng dẫn kỹ càng: “Khi viết,
các con cần cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay
phải, Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón giữa phía bên trái, phía bên phải
của đầu bút tựa vào đầu đốt giữa ngón tay giữa”. Tôi cũng lưu ý các em cầm bút
vừa phải. Vì nếu cầm bút sát ngịi hoặc q xa ngịi bút thì việc điều khiển bút
khi viết sẽ khó khăn, làm cho chữ xấu mà mực dễ bị giây ra tay, ra vở. Cịn vở
viết khi viết bài, tơi cũng luôn hỏi lại học sinh cầm bút và cách đặt vở. Những


yếu tố tưởng chừng không quan trọng nhưng thực chất đã góp phần tích cực vào
việc rèn chữ cho học sinh.

Hình 2: Cách cầm bút.


Tư thế ngồi và cách cầm bút
* * *
Nhắc bạn, nhắc bạn
Lưng thẳng, đầu cúi
Chẳng cầm sát ngịi
Cầm cho xi xuống
Bạn nhớ thực hành
Để chữ đẹp nhanh.
Khi các em viết nhưng không sao tránh khỏi một số căn bệnh viết chữ xấu
như viết chữ khơng đủ li cịn gọi là bệnh (cớm nắng ) viết khơng liền nét (bệnh
thiếu đồn kết) viết không bằng chân chữ (bệnh luộm thuộm). Tôi cho các em
đọc những bài diễn ca để nhắc nhở các em khắc phục các loại bệnh này.

Mỗi khi cớm nắng
Bạn nhớ vươn cao
Đón ánh mặt trời
Như hoa hướng dương
*

*

*

Bệnh thiếu đồn kết
Là khi giận hờn
Nối vịng tay lớn
Là hết bệnh ngay
*

*

*

Đôi khi luộm thuộm
Áo ngắn quần dài
Xuất phát đúng điểm
Ngại chi bệnh này.
Rèn viết đúng, viết đẹp là bồi dưỡng cho học sinh lòng say mê và tinh
thần quyết tâm rèn viết đúng, viết đẹp trong giờ tập viết kể cho học sinh nghe
những mẩu chuyện, gương rèn viết đúng, viết đẹp của những học sinh mà tôi
dạy những năm học trước bằng cách tôi lưu lại những cuốn vở chính tả cho các
em xem mà học tập. Tơi kể lại quá trình luyện viết đúng, đẹp cho cả lớp nghe
những học sinh viết đúng viết đẹp. Những tấm gương về các thầy cô giáo trong

trường, trong huyện viết đúng, viết đẹp.
Tăng cường cho học sinh tự giác để học sinh nhận chữ viết qua đường thị
giác của các em.


Ngoài thời gian học sinh viết tập viết yêu cầu học sinh tập chép viết chính
tả ghi nhớ mặt chữ một cách chắc chắn sẽ giúp học sinh hạn chế tình trạng mắc
lỗi do các em quên mặt chữ và học tập được mẫu chữ viết qua các bài tập chép
của giáo viên hay những bài viết chữ đẹp của bạn.
Khắc phục và hạn chế đàm thoại nói nhiều trong giờ chính tả nhất là giờ
chính tả so sánh với đặc trưng phân mơn chính tả nói nhiều chưa hẳn đã là ưu
điểm nhất là trong tình trạng các em học sinh chưa thể vượt qua âm hưởng của
các ngôn ngữ để viết chính tả.
Rèn cho học sinh viết đúng, đẹp thông qua việc viết đúng các mẫu chữ
cái.
Giáo viên phải phân ra thành từng loại: Từng nhóm chữ như nhóm chữ
như nhóm chữ 1li và nhóm chữ 2 ly. Các chữ cái viết 1 li: o, a, u, ư... những chữ
cái viết 2,5 li: k, h, g... Dựa vào sự giống nhau giữa các chữ cái và đặc điểm cấu
tạo của từng loại chữ cái để hướng dẫn học sinh. Hướng dẫn viết nét thanh nét
đậm nét thanh thì hất nhẹ nét đậm hơi miết mạnh bút.
Hướng dẫn tỉ mỉ cho học sinh cách đánh dấu thanh, dấu mũ trong các em
chữ phải đều, đẹp mắt, chính xác. Các chữ trong một vần phải sát liền nhau
không được tách rời các con chữ trong một tiếng.
Mỗi bài chính tả giáo viên phải yêu cầu học sinh viết đạt được các yếu tố
sau: Tròn chữ, đều nét, bám chân vào dòng kẻ, nét hất gọn thể hiện rõ các nét
cong, nét khuyết, nét móc của các loại chữ. Từ đó nhìn bài viết chữ đều đẹp mắt.
Giáo viên tạo điều kiện để học sinh tự chữa lỗi thì sự ghi nhớ sẽ vững chãi
và lâu bền hơn.
Khi chấm chữa bài chính tả giáo viên có thể nêu ra câu hỏi: Bài chính tả
vừa qua em mắc những lỗi nào? những lỗi đó thường nằm ở bộ phận nào của

tiếng?.
Từ câu trả lời các em sẽ thấy được cái sai của mình để khắc phục.
Cung cấp cho học sinh từ trong ngữ cảnh giúp các em hiểu nghĩa của từ.
Từ đó giúp học sinh viết đúng chính tả.
Phân tích âm tiết trong viết chính tả giúp cho học sinh thao tác viết từ,
viết chữ trong cụm từ, khoảng cách giữa các chữ, cách nối liền các con chữ viết
để tạo nên hiệu quả viết đúng, viết đẹp.
Duy trì rèn luyện tốc độ viết trong giờ viết chính tả phù hợp với khối lớp
đã quy định.


Rèn cho học sinh thói quen vừa nghe, vừa nhìn, vừa nhẩm trong đầu đánh
vần để viết. Hướng dẫn thật tỉ mỉ cho học sinh cách cầm bút, cách rẽ bút, cách
nối liền các con chữ trong một tiếng và khoảng cách giữa các chữ trong một từ.
Giáo viên cần có ngữ điệu đọc rõ ràng, chính xác đọc theo kiểu (tổng phân - hợp). Giáo viên cần đọc 3 lần: lần thứ nhất cho học sinh nghe, lần thứ
hai cho học sinh viết, lần thứ ba cho học sinh sốt lại.
Khi viết bảng tơi ln phải đứng mẫu trong bất kỳ giờ học nào.
Chấm chữa bài cho học sinh gạch chân lỗi sai viết lại lỗi sai lên bên trên
chỗ trống.
Đối với học sinh yếu kém tơi có thể chép, viết mẫu cho học sinh cả bài yêu
cầu học sinh nhìn chép cho thật đúng mẫu của cơ, viết đi viết lại nhiều lần.
Những nét nào chưa đúng mẫu cơ có thể cầm tay học sinh để viết cho thật đúng.
Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và phụ huynh học sinh. Ngay từ đầu
ngày họp đầu tiên phụ huynh học sinh tôi đã thống nhất với phụ huynh học sinh
số lượng vở viết trên lớp là bao nhiêu cho những môn học nào, thống nhất viết
cùng một loại bút và cùng một loại mực.
Hàng tháng xếp vở sạch chữ đẹp gửi về từng gia đình và xin ý kiến nhận
xét của phụ huynh.
Thi viết chữ đẹp hàng tháng nhà trường tổ chức động viên, nhắc nhở học
sinh chữ viết chưa đẹp một cách kịp thời.

Rèn kỹ năng viết cho học sinh:
Trong quá trình dạy Tập viết và trong các hướng dẫn học, tôi sẽ củng
cố, nhắc lại và khác sâu cho các em nhớ lại cách viết tử những ngày đầu các em
cầm bút ở lớp 1. (Tay phải cầm chắc bút bằng 3 ngón tay (cái, trỏ, giữa). Đầu
ngón trỏ cách đầu ngịi bút chừng 2,5cm. Mép bàn tay là điểm tựa của cánh tay
phải khi đặt bút xuống bàn viết. Lúc viết, điều khiển cây bút bằng các cơ cổ tay
và các ngón tay.)
Trước tiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhó các đường kẻ trong
bảng con và trong vở Tập viết. Việc này góp phần quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng dạy viết chữ.
Bảng con:
1. Đường kẻ ngang trên 3. Đường kẻ ngang dưới 2. Đường kẻ ngang giữa 4.
Đường kẻ ngang phía dưới



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×