Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quản lý công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên trường đại học quy nhơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.33 MB, 167 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

ĐÀO PHƯƠNG HOA

QUẢN LÝ CƠNG TÁC GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 8140114

Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Quang Sơn


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn, tơi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Phòng Đào tạo Sau đại học Trường Đại học
Quy Nhơn đã tham gia giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt
q trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS. Lê
Quang Sơn đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện
luận văn.
Đồng thời, tơi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các cán bộ,
giảng viên và sinh viên Nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi để tơi khảo sát,
nghiên cứu và hồn thành luận văn.


Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng luận văn chắc chắn khơng tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ
quý thầy cơ để luận văn được hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Bình Định, tháng 3 năm 2020
Học viên
Đào Phương Hoa


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dưới tác động của tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thế giới đương đại
đang có những chuyển biến, tác động sâu sắc trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội. Trước những biến động phức tạp của tình hình kinh tế - chính trị thế giới, sự
tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, âm mưu “diễn biến hịa bình” của các
thế lực thù địch,… đã và đang làm cho một bộ phận sinh viên dao động về lập
trường, suy thoái về đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, mất dần phương hướng. Biểu
hiện cụ thể ở lối sống thực dụng, ích kỷ, mưu cầu danh lợi, ngại học tập chính
trị, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp, xa rời lý tưởng,…
Vì vậy cơng tác bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ mà trọng tâm là cơng tác
giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên luôn được coi là nhiệm vụ vừa cơ
bản, vừa cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Công tác này đã và đang trở
thành mối quan tâm thường xuyên không chỉ của các nhà quản lý giáo dục mà
cịn là của tồn xã hội. Bởi lẽ thế hệ trẻ nói chung cũng như sinh viên nói
riêng là những người đóng vai trị then chốt trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Là những người sẽ quyết định vận mệnh tương lai của
đất nước phát triển ra sao, vị thế như thế nào trên trường quốc tế.
Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên đòi hỏi phải được

tiến hành một cách liên tục, thường xuyên và là nội dung không thể thiếu
trong nhà trường nói chung và các trường đại học nói riêng. Chúng ta cần
phải giáo dục cho sinh viên lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội, có ý thức
vươn lên trong học tập, rèn luyện để lập thân, lập nghiệp,… trở thành những
chủ nhân tương lai của đất nước. Đây được xem là một trong những nhiệm vụ
rất vinh dự và cũng không kém phần nặng nề của các trường đại học trong
công tác đào tạo sinh viên.


2
Cùng với chủ trương chung của Đảng và Nhà nước, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã ban hành rất nhiều văn bản hướng dẫn nhiệm vụ giáo dục chính tư
tưởng cho sinh viên, tăng cường giáo dục, tuyên truyền các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và của ngành giáo
dục đối với học sinh, sinh viên. Thơng tin về mục đích, ý nghĩa, chủ trương
của Đảng, Nhà nước trong việc thảo luận, tiếp thu ý kiến của nhân dân về dự
thảo Luật đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt. Thực hiện chuyên đề học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2018 “về xây dựng
ý thức tơn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân”,
vận dụng cụ thể vào từng đơn vị trường học; tổ chức giáo dục chuẩn mực đạo
đức, nghề nghiệp cho HSSV phù hợp ngành đào tạo gắn với trách nhiệm của
HSSV giai đoạn hiện nay; ….
Ý thức được vai trị, vị trí và sứ mệnh chính trị của mình trong thời kỳ
mới, Trường Đại học Quy Nhơn ln quan tâm đến cơng tác giáo dục chính
trị tư tưởng cho sinh viên nhà trường. Phịng Cơng tác chính trị - Sinh viên là
đơn vị tham mưu cho lãnh đạo nhà trường về các hoạt động này. Bên cạnh
những kết quả đạt được, cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
của Trường ĐH Quy Nhơn vẫn còn nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến chất
lượng và hiệu quả đào tạo của Trường. Nguyên nhân là do nhà trường chưa
thật sự chú trọng và chưa có được những giải pháp mang tính đột phá nhìn từ

góc độ quản lý.
Là một chun viên hiện đang cơng tác tại Phịng Cơng tác chính trị Sinh viên – đơn vị có liên quan đến cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho
sinh viên nhà trường nên tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý
cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên Trường Đại học Quy
Nhơn” với mong muốn góp phần giải quyết những vấn đề cịn hạn chế trong
cơng tác này.


3
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý giáo dục chính trị tư tưởng
cho sinh viên ở trường đại học và đánh giá thực trạng quản lý giáo dục chính
trị tư tưởng cho sinh viên hiện nay ở Trường Đại học Quy Nhơn, đề tài sẽ đề
xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả của cơng tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
đào tạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn
hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: công tác GDCTTT cho sinh viên ở các
trường đại học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: quản lý công tác GDCTTT cho sinh viên ở
Trường Đại học Quy Nhơn.
3.3. Giới hạn đề tài: Quản lý cơng tác GDCTTT cho SV chính qui
Trường ĐH Quy Nhơn.
3.4. Phạm vi: đề tài khảo sát tập trung vào thực trạng cơng tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho sinh viên tại Trường ĐH Quy Nhơn giai đoạn 2018 2020 và đề xuất biện pháp cho giai đoạn 2020 - 2025.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được cơ sở lý luận và đánh giá đúng thực trạng công tác
GDCTTT cho sinh viên Trường Đại học Quy Nhơn hiện nay thì có thể đề
xuất được các biện pháp quản lý công tác GDCTTT cho sinh viên một cách

hợp lý và khả thi, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này ở
Trường ĐH Quy Nhơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý GDCTTT cho sinh viên
5.2. Đánh giá thực trạng quản lý GDCTTT cho SV ở Trường ĐH Quy
Nhơn


4
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý GDCTTT cho sinh viên ở Trường
ĐH Quy Nhơn
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hố,
khái quát hoá trong nghiên cứu các nguồn tài liệu lý luận và thực tiễn có
liên quan đến cơng tác quản lý GDCTTT cho SV, đó là:
Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, các văn kiện của
Đảng, Nhà nước, tư tưởng Hồ Chí Minh có liên quan đến đề tài.
Các tác phẩm về khoa học Quản lý giáo dục, Tâm lý học, Giáo dục
học, Xã hội học trong và ngồi nước.
Các cơng trình nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục của các nhà lý
luận, các nhà quản lý giáo dục, các nhà giáo,… có liên quan đến đề tài, các
luận văn, các báo cáo khoa học, các chuyên khảo, các bài báo.
Các tài liệu trên được phân tích, nhận xét, tóm tắt và trích dẫn phục
vụ trực tiếp cho việc giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
6.2 . Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Có 2 loại : Phiếu điều tra dành cho sinh viên, phiếu điều tra dành cho
cán bộ quản lý và giảng viên.
Sử dụng phiếu thăm dò ý kiến dành cho CBGV và SV nhằm thu thập

thông tin về thực trạng công tác GDCTTT và QL công tác GDCTTT của Nhà
trường.
6.2.2. Phương pháp quan sát
Tiến hành quan sát các hoạt động liên quan đến công tác GDCTTT cho
sinh viên để ghi chép lại thực trạng công tác GDCTTT và sự quan tâm của
Nhà trường đối với công tác này.


5
6.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Xin ý kiến chun gia bằng phiếu hỏi để thăm dị tính cấp thiết và tnhs
khả thi của các biện pháp đề ra.
6.2.4. Nghiên cứu hồ sơ lưu trữ
Tiến hành nghiên cứu hồ sơ lưu trữ, tham khảo tài liệu để thu thập
thông tin, tìm hiểu và đánh giá thực trạng QL cơng tác GDCTTT của Nhà
trường.
6.3 . Phương pháp bổ trợ
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu của phiếu điều
tra; thống kê, phân tích các số liệu và thông tin liên quan.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục chính trị tư tưởng cho
sinh viên ở trường đại học
Chương 2: Thực trạng quản lý cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho
sinh viên Trường Đại học Quy Nhơn
Chương 3: Các biện pháp quản lý cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng
cho sinh viên Trường Đại học Quy Nhơn


6


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO SINH VIÊN Ở
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về giáo dục chính trị tư tưởng từ xưa đến nay đã có rất
nhiều tác phẩm, tác giả. Tuy nhiên, tùy theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau
mà các tác giả, tác phẩm cũng có cách đánh gia và nhìn nhận khác nhau.
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Tư tưởng giáo dục, chính trị của Khổng Tử
Tư tưởng xuyên suốt của Khổng Tử chính là chữ “nhân”, ơng lấy chữ
“nhân” làm gốc và cho rằng nó gắn bó chặt chẽ với đạo – đạo đức – lòng yêu
thương con người, yêu thương vạn vật. Theo Khổng Tử, gốc của nhân là hiếu
đễ lễ nghĩa, trung thực vị tha, vì người chính là vì mình. Nhân theo Khổng Tử
cịn là “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” nghĩa là biết coi trọng tình người, tự đặt
mình vào hồn cảnh người khác, tự bụng mình mà suy ra bụng người, lúc nào
cũng lấy cái tâm đức trong sáng để nghĩ về sự việc đã xẩy ra, sự việc liên
quan đến người khác mà có cách xử sự đầy tình người. Để thực hiện được
Nhân, Khổng Tử cho rằng con người phải có lễ. Lễ là các quy phạm đạo đức
hợp thành một hệ thống qui tắc xử thế. Trong suốt cuộc đời làm thầy của
mình, bên cạnh dạy chữ, bao giờ Khổng Tử cũng chú trọng vào dạy người, ở
đây đề cao thuyết đức trị. [7, tr.45]
Từ nội dung của học thuyết mà Khổng Tử đã áp dụng vào giáo dục
mang tính nhập thế và tích cực. Ơng đề xướng “thuyết tơn hiền”. Những tư
tưởng ấy của Khổng Tử trong bối cảnh rối ren của xã hội đương thời rất khó
thực hiện, song đó là những quan điểm có giá trị được thế hệ sau kế thừa, phát
triển và đến nay vẫn còn đáng trân trọng về nội dung, chủ trương và cả


7

phương pháp giáo dục.
Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph. Ăngghen
Hệ tư tưởng Đức là một trong những tác phẩm do C.Mác và
Ph.Ăngghen viết chung vào cuối năm 1845 đầu năm 1846, đánh dấu một mốc
quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của triết học Mác. Đây
khơng chỉ là tác phẩm lý luận quan trọng trong thời kỳ hình thành triết học
Mác, mà cịn là tác phẩm đầu tiên thể hiện sự trưởng thành đến độ chín muồi
của chủ nghĩa Mác. Trong Hệ tư tưởng Đức, các ông đã đề cập đến một loạt
vấn đề lý luận quan trọng; đặc biệt, ở đây, lần đầu tiên, quan niệm duy vật về
lịch sử - một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác, được trình bày một cách
tương đối toàn diện và sâu sắc. Với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tạo cơ sở lý luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư
tưởng về cách mạng vơ sản và đặt nền móng cho chủ nghĩa cộng sản khoa
học.
Với quan niệm duy vật về lịch sử, trong “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng cơ sở lý luận vững chắc cho sự phát triển tư tưởng
về cách mạng vô sản. Theo các ông, cách mạng vô sản là một quy luật tất yếu
mà lịch sử phải trải qua trong tiến trình vận động, phát triển của nó. Những
tiền đề vật chất của cuộc cách mạng đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất
và sự hình thành giai cấp vơ sản. Về tính chất, nó là cuộc cách mạng triệt để,
toàn diện và sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại. Có thể khẳng định rằng, cho
đến nay, những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong “Hệ tư tưởng Đức”
về cách mạng vơ sản vẫn cịn ngun giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn.
Tư tưởng chính trị của Lênin
Lênin là người tích cực đấu tranh cho chủ nghĩa quốc tế vô sản, thành
lập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) để lãnh đạo phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, tập hợp mọi lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh chống


8

chủ nghĩa đế quốc. Lênin đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác vào giải quyết mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế
trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Lênin đã phát triển vấn
đề dân tộc của chủ nghĩa Mác thành vấn đề dân tộc và thuộc địa trong thời kỳ
đế quốc chủ nghĩa; đề ra những ngun tắc có tính cương lĩnh của giai cấp vơ
sản về vấn đề dân tộc; coi phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận của
cách mạng vô sản thế giới; phê phán chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi cũng như chủ
nghĩa sô vanh nước lớn. Khẩu hiệu của Mác "Vơ sản tồn thế giới liên hiệp
lại" đã được Lê-nin phát triển thành "Vơ sản tồn thế giới và các dân tộc bị áp
bức đoàn kết lại!".
Dưới ngọn cờ của Lê-nin, Liên bang Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa
Xơviết và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới được hình thành; chủ nghĩa
phátxít bị tiêu diệt; các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập dân tộc, làm
cho hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc tan rã. Tên tuổi của Lênin đã
gắn liền với những cải biến cách mạng vĩ đại nhất trong xã hội loài người từ
đầu thế kỷ XX đến nay. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Lênin là
người đã thực hiện và phát triển chủ nghĩa Mác. Là người cha của cách mạng
vô sản và cách mạng dân tộc giải phóng. Là người thầy đã tạo ra những chiến
sĩ cách mạng khắp thế giới, chẳng những bằng lý luận cách mạng khoa học
nhất, mà còn bằng đạo đức cách mạng cao cả nhất". [24]
Một số tác phẩm nước ngoài
Đã có nhiều học giả Liên Xơ bàn về cơng tác tư tưởng lý luận nói
chung, cũng như GDLLCT nói riêng. Đã có khá nhiều trong số đó đã được
dịch sang tiếng Việt, tiêu biểu như một số cuốn sách: Phương pháp luận cơng
tác tư tưởng của D.A. Vơncơgơnốp ; Hình thành niềm tin cho thế hệ trẻ của
V.A. Xukhômlinxki; Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô của
X.I. Xurơnitrencô;… đã tập trung nhấn mạnh một số nội dung chính cần phải


9

giáo dục như: chủ nghĩa Mác - Lênin; đường lối, chủ trương của Đảng Cộng
sản Liên Xơ; chính sách, luật pháp của Liên bang Cộng hịa XHCN Xơ Viết;
giáo dục bản chất cách mạng của Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội… từ
đó, hình thành và củng cố niềm tin tuyệt đối của đảng viên và quần chúng vào
Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Dưới góc độ nghiên cứu về cơng tác giáo dục đạo đức cho sinh viên có
nhiều đề tài nghiên cứu khoa học như: “Quan điểm về đạo đức và lối sống của
sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chi Minh” (Võ Xuân Đàn,
Đoàn Văn Điều, Võ Thị Ngọc Châu – 2003). “Biện pháp giáo dục nếp sống
văn hóa cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kế hoạch Đà Nẵng” (Huỳnh
Ngọc Thời – 2012).
Nghiên cứu về vấn đề GDCTTT cho sinh viên có một số cơng trình như:
“Các biện pháp quản lý nhằm tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức
cho sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế tài chính tỉnh Thái Nguyên (Chu Mạnh
Cường – 2009). “Giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống cho sinh viên
Trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập và phát triển” (
Huỳnh Công Ba – 2011). “Cơng tác giáo dục chính trị tưởng cho sinh viên tại
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” (Nguyễn Văn Kiên – 2014).
Đặc biệt, có một cơng trình nghiên cứu về vấn đề này tương đối lớn,
mang tầm cấp nhà nước. Tuy nhiên cơng trình này đã được thực hiện cách
đây khá lâu, đó là đề tài: “Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng
chính trị, lối sống cho thanh niên, học sinh, sinh viên trong chiến lược phát
triển tồn diện con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” (Trần Kiều, Vũ Trọng Rỹ, Hà Nhật Thăng, Lưu Thu Thủy – thực hiện
từ năm 1999 đến 2001). Đề tài đã tiến hành khảo sát 2.271 học sinh, sinh viên
và 176 cán bộ, giáo viên tại ba thành phố lớn Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ


10

Chí Minh. Kết quả của đề tài đã đề xuất được nhiều giải pháp cho công tác
GDCTTT và đạo đức cho học sinh, sinh viên trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
1.2. Các khái niệm chính của đề tài
1.2.1. Giáo dục chính trị - tư tưởng
Thuật ngữ “Chính trị” có lẽ được nhắc đến lần đầu tiên trong lịch sử
nhân loại bởi Aristotle - một triết gia Hi Lạp cổ đại. Chính trị ở đây có nghĩa
là nghệ thuật cai trị và quản lý thành bang của một nhà lãnh đạo lỗi lạc, xuất
chúng hay là khoa học giành và nắm giữ vương quyền trong thiên hạ.
Hay nói cách khác, chính trị là tồn bộ những hoạt động liên quan đến
các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà
cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà
nước, sự tham gia vào cơng việc của nhà nước; sự xác định hình thức tổ chức,
nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước.
Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm làm ra,
gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực
tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh
những luật lệ chung đó.
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ
của con người với thế giới chung quanh. Tư tưởng khơng phải là những cái có
sẵn hay đã được đóng khung từ trước. Nó có thể được sinh ra và phát sinh
trong quá trình trao đổi, suy nghĩ và nhận thức của con người. Tư tưởng được
mọi người tiếp thu có chọn lọc dưới dạng lĩnh hội lẫn phê phán.
Theo đó tư tưởng là gì? Đó là cái gì đó khơng giới hạn, nó ln được hình
thành trong quá trình tiếp thu của con người. Tư tưởng có thể có dạng tích cực
và tiêu cực.
Theo từ điển Giáo dục học thì giáo dục được định nghĩa như sau: “Giáo


11

dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp
tác động nhằm truyền thụ bằng tri thức và khái niệm, rèn luyện kỹ năng và lối
sống bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng giúp hình thành
và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu
chuẩn bị cho đối tượng tham gia hoạt động sản xuất và đời sống xã hội”. [11]
Theo Phạm Đình Nghiệp: “Giáo dục là hình thái xã hội, là quá trình tác
động có mục đích, có kế hoạch, ảnh hưởng tự giác chủ động đến con người
đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức nhân cách”. [17]
Còn theo quan điểm triết học của Trần Sỹ Phán: “Giáo dục là một q
trình hai mặt, một mặt đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục
(sự tác động của giáo dục tri thức, văn hóa nhân loại thơng qua nhà sư phạm
đến đời sống của học sinh, sinh viên); mặt khác (và chủ yếu hơn là) thông qua
sự tác động này mà làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hồn
thiện, tự nâng mình lên qua giáo dục”. [18]
Qua các định nghĩa, khái niệm, quan điểm của các nhà khoa học ta thấy
được, giáo dục là một hoạt động của xã hội lồi người và nó mang tính tất
yếu, bởi thơng qua hoạt động này lồi người mới có thể tiếp tục tồn tại, cải
hố thế giới và phát triển, hồn thiện mình trong đời sống xã hội. Giáo dục có
nội hàm rất rộng, nên được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa
rộng, giáo dục được hiểu là quá trình trao đổi và chuyển giao tri thức của con
người theo một quy củ đã được định sẵn. Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là
một quá trình hình thành nên nhân cách của con người dưới ảnh hưởng của
hoạt động có mục đích của nhà giáo dục.
Về bản chất: “Giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống hoạt động và
giao lưu cho đối tượng giáo dục, nhằm giúp họ nhận thức đúng tạo lập tình
cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc
sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội” [22]


12

Từ nội hàm và bản chất của giáo dục, ta thấy được, để hình thành nên
nhân cách của một con người theo đúng như chuẩn mực xã hội, nhà giáo dục
phải có cả một hệ thống các phương diện để giáo dục, chính vì vậy, giáo dục
có rất nhiều phương diện hợp thành: Giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục
đạo đức, giáo dục pháp luật, giáo dục kinh tế, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục
thường thức, giáo dục sinh thái, giáo dục về giới… Như vậy, có thể thấy, giáo
dục chính trị tư tưởng là một phương diện hợp thành không thể thiếu khi đào
tạo giáo dục một con người.
Thuật ngữ chính trị tư tưởng là từ ghép chính trị và tư tưởng được sử
dụng ở đây như một bổ ngữ của công tác giáo dục nhằm phân biệt rõ nội dung
của giáo dục.
Về bản chất của giáo dục chính trị tư tưởng là q trình tác động có
mục đích, có hệ thống của một Đảng, một giai cấp, một tổ chức vào quần
chúng, nhằm giác ngộ nâng cao nhận thức tư tưởng của họ về quan điểm,
đường lối chính trị, để quy tụ, tập hợp quần chúng tham gia vào quá trình đấu
tranh giành và bảo vệ, thực thi quyền lực chính trị, đáp ứng thỏa mãn các nhu
cầu về lợi ích.
Từ sự phân tích trên, có thể rút ra kết luận, giáo dục chính trị tư tưởng ở
nước ta hiện nay được tiến hành dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, do đó nội dung của nó phải đạt được mục đích cơ bản là truyền bá, giáo
dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần làm cho nó trở
thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, giúp cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân xây dựng thế giới quan và phương pháp luận
đúng đắn, nhân sinh quan cộng sản, để từ đó khắc phục những tư tưởng lạc
hậu, nâng cao nhận thức chính trị. Đồng thời, nhằm giáo dục đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm cho họ ngày
càng nắm chắc và biết vận dụng vào thực tế cuộc sống, thực hiện thắng lợi


13

đường lối, nhiệm vụ chính trị, cổ vũ, động viên khơi dậy nhiệt tình cách
mạng, tinh thần tự giác và tính tích cực trong q trình cải tạo, xây dựng xã
hội mới – xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, có thể xác định khái niệm giáo dục chính trị tư tưởng như sau:
Đó là q trình tác động vào nhận thức của khách thể những vấn đề cơ bản về
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thông qua một hệ thống các biện
pháp, nhằm từng bước xây dựng thế giới quan và phương pháp luận khoa học
đúng đắn, nâng cao bản lĩnh chính trị, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Quản lý giáo dục
1.2.2.1. Quản lý
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý. Dưới đây là một số khái
niệm chủ yếu:
Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động,
phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật
lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm
đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất. [12, tr.15]
Quản lý là tác động của chủ thể quản lý vào đối tượng quản lý trong
một tổ chức (hay một hệ thống xã hội) với những phương pháp vừa có tính
khoa học lại vừa có tính nghệ thuật, nhằm đạt mục tiêu chung cũng như mục
tiêu riêng của các đối tượng trong tổ chức. [9, tr.9]
1.2.2.2. Quản lý giáo dục
Theo tác giả Trần Kiểm thì khái niệm “quản lý giáo dục” có hai cấp độ
chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô. [13, tr.36]
Đối với cấp vĩ mô:
Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có


14

mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất
cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà
trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành Giáo dục.
Hay Quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm
huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát,…một cách có hiệu quả các
nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển
giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với cấp vi mô:
Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản
lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và
các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Cũng có thể định nghĩa quản lý giáo dục thực chất là những tác động
của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể giáo
viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình
thành và phát triển tồn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của
nhà trường.
1.2.2.3. Quản lý nhà trường
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “Quản lý trường học là thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa
nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. [19]
Như vậy, quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục nhưng trong một
phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục nền tảng, đó là nhà trường. Quản lý
nhà trường về cơ bản khác với quản lý các lĩnh vực khác. Những tác động của


15

chủ thể quản lý là những tác động của công tác tổ chức sư phạm đến đối tượng
quản lý nhằm giải quyết nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. Đó là hệ thống tác
động có phương hướng, có mục đích, có mối quan hệ qua lại lẫn nhau.
Quản lý nhà trường phải vận dụng tất cả các nguyên lý chung của
quản lý giáo dục để đẩy mạnh hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào
tạo. Quản lý nhà trường là phải quản lý toàn diện nhằm phát triển và hoàn
thiện nhân cách của thế hệ trẻ một cách hợp lý, khoa học và hiệu quả, do vậy
muốn thực hiện có hiệu quả cơng tác quản lý giáo dục phải xem xét đến
những điều kiện đặc thù của mỗi nhà trường, phải chú trọng thực hiện việc cải
tiến công tác quản lý giáo dục đối với nhà trường, nền tảng của hệ thống giáo
dục quốc dân.
Tóm lại, quản lý nhà trường là một bộ phận của quản lý giáo dục. Quản
lý nhà trường là một hệ thống những tác động sư phạm khoa học và có tính
định hướng của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực
lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm làm cho nhà trường vận hành
theo đúng đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng trong thực tiễn Việt
Nam. Người quản lý nhà trường phải làm sao cho hệ thống các thành tố vận
hành chặt chẽ với nhau, đưa đến kết quả mong muốn.
1.2.3. Quản lý công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
Quản lý công tác GDCTTT cho sinh viên là một nội dung rất quan trọng
trong công tác quản lý của Nhà trường. Việc quản lý công tác GDCTTT cho sinh
viên được xem là công việc thường xuyên, liên tục và vô cùng phức tạp.
Chủ thể quản lý cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên bao
gồm Hiệu trưởng Nhà trường, cán bộ phòng CTCT-SV, cán bộ quản lý các
khoa, phòng, cán bộ giảng viên, các tổ chức trong và ngồi nhà trường.
Từ đó ta có thể thấy quản lý cơng tác GDCTTT cho sinh viên chính là
thực hiện những tác động có kế hoạch và mục đích rõ ràng của nhà quản lý


16

lên tập thể, cán bộ, giảng viên, sinh viên, những lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường để huy động họ quan tâm và tham gia vào công tác
GDCTTT cho sinh viên nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu GDCTTT
đã đề ra, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho sinh viên.
Quản lý công tác GDCTTT bao gồm: QL mục tiêu GDCTTT cho
sinh viên, QL các nội dung GDCTTT, QL các phương pháp, hình thức
GDCTTT, QL các lực lượng GDCTTT và QL các điều kiện, phương tiện
phục vụ GDCTTT cho sinh viên. Trong đó, QL mục tiêu GDCTTT cho
sinh viên sẽ giúp nhà QL có những định hướng rõ ràng và thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ của mình. QL nội dung cơng tác GDCTTT bao gồm
QL các công việc như chỉ đạo xây dưng nội dung, cụ thể hóa nội dung
thành các chương trình giáo dục, …. QL các phương pháp, hình thức
GDCTTT bao gồm việc QL các phương pháp phù hợp với nội dung, đổi
mới phương pháp, QL GDCTTT thông qua các chương trình ngoại khóa,
chính khóa,… QL các lực lượng GDCTTT cho sinh viên bao gồm QL
nhóm chủ thể lãnh đạo, quản lý. QL nhóm chủ thể hỗ trợ và QL nhóm đối
tượng GDCTTT. QL các điều kiện phục vụ cơng tác GDCTTT bao gồm QL
các chính sách, cơ sở vật chất, tài chính,…
1.3. Lý luận về giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
1.3.1. Mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
Trải qua bao thập kỷ, Đảng và Nhà nước ta luôn xem giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Điều đó có nghĩa là sự nghiệp giáo dục và chính sách giáo dục
của Đảng và Nhà nước ta có tầm quan trọng hàng đầu. Sau Hội nghị Trung
ương 8, Khóa XI vào tháng 10/2013, vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo được coi như là một trong những nội dung vừa chiến lược, vừa
cấp thiết. Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước, Việt Nam
đang cần một quyết sách toàn diện, căn bản, xứng tầm với lĩnh vực quan trọng


17

hàng đầu này. Đây là sứ mệnh thiêng liêng, đồng thời cũng vô cùng nặng nề
để Việt Nam bước vào hàng ngũ các nước phát triển.
Giáo dục đại học là một thành tố vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo
dục quốc dân, Luật giáo dục đã chỉ ra mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục đại học
là “đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân
dân, có kiến thức và năng lực thục hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ
đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [3]
Bên cạnh đó, Luật giáo dục cũng nhấn mạnh mục tiêu và nhiệm vụ cao
cả nhất của cơng tác GDCTTT cho sinh viên chính là thực hiện được mục tiêu
chung của giáo dục: “đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [3]
Hay nói cách khác, cơng tác GDCTTT là giáo dục cho sinh viên sống
có lý tưởng và trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng. Bồi dưỡng cho
sinh viên lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, thế giới quan cách mạng, nhân sinh
quan đúng đắn. Giúp các em nắm được các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế của nhà trường,…Từ đó, rèn luyện,
nâng cao bản lĩnh, ý chí và hình thành ý thức trách nhiệm cho bản thân.
1.3.2. Nội dung giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
Đưa chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đến gần hơn với
sinh viên, giúp các em hình thành thế giới quan cách mạng và phương pháp
luận khoa học. Góp phần đào tạo nên những con người “vừa hồng, vừa
chuyên” phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Giúp sinh viên có niềm tin tuyệt đối vào Đảng và Nhà nước. Nhận diện
được những quan điểm sai trái, thù địch, đi ngược lại với quan điểm, đường
lối của Đảng, Nhà nước. Khẳng định tính đúng đắn, cách mạng và khoa học


18

của hệ tư tưởng Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. [25]
GDCTTT cịn giáo dục cho sinh viên những truyền thống, lịch sử, văn
hóa tốt đẹp của dân tộc. Từ đó góp phần xây dựng và bồi dưỡng những tình
cảm đúng đắn của sinh viên đối với quê hương đất nước.
GDCTTT cho sinh viên góp phần tạo động lực cho các em nỗ lực phấn
đấu vươn lên trong học tập, rèn luyện, phát huy tính chủ động, sáng tạo của
bản thân. Hình thành trong sinh viên thói quen tự giác thực hiện các chuẩn
mực về đạo đức cũng như những hiểu biết về pháp luật.
1.3.3. Phương pháp giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cách phân chia các phương pháp
giáo dục. Tùy thuộc vào mục đích, nội dung, đối tượng khác nhau mà người
giáo dục có thể lựa chọn những phương pháp khác nhau để thực hiện. Cụ thể:
Nhóm phương pháp giáo dục dùng lời nói và chữ viết
Trong nhóm phương pháp này có 3 phương pháp thường được sử dụng
đó là phương pháp thuyết trình, phương pháp vấn đáp và phương pháp sử
dụng tài liệu.
Phương pháp thuyết trình là phương pháp dung lời nói để trình bày tài
liệu học tập cho người được giáo dục một cách có hệ thống, Phương pháp này
thường được sử dụng khi trình bày, làm sáng tỏ một vấn đề mới, khó và phức
tạp hoặc khi cần hệ thống hóa, khái quát hóa, tổng kết một vấn đề. Thơng
thường thuyết trình có ba hình thức cơ bản là giảng thuật, giảng giải và giảng
diễn. Ưu điểm của phương pháp này là chỉ trong khoảng thời gian ngắn có thể
truyền tải được nội dung giáo dục một cách có hệ thống với lượng người tiếp
nhận lớn. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là người học sẽ tiếp
thu thụ động, nhanh chán và khó thu được thơng tin ngược.
Phương pháp vấn đáp là phương pháp hỏi, đáp giữa người truyển tải và
người tiếp thu kiến thức nhằm làm sáng tỏ vấn đề, tìm ra các tri thức mới. Các


19

phương pháp vấn đáp cơ bản như vấn đpá gợi mở, vấn đáp củng cố, vấn đáp
tổng kết, vấn đáp kiểm tra. Ưu điểm của phương pháp này là phát huy được
tính tính cực của người được giáo dục, tăng khả năng diễn đạt và tạo ra khơng
khí thoải mái, sơi nổi trong q trình giáo dục. Tuy nhiên, nhược điểm của
phương pháp này nếu vận dụng không khéo sẽ dẫn đến việc tranh luận tay
đôi, gây mất thời gian.
Phương pháp sử dụng tài liệu là phương pháp vô cùng quan trọng và
cần thiết. Đối với phương pháp này, người được giáo dục sẽ sử tài liệu để tự
nghiên cứu ở nhà như một nguồn thông tin quan trọng bổ sung cho các bài
học trên lớp.
Nhóm phương pháp giáo dục trực quan
Phương pháp quan sát là phương pháp nhận thức cảm tính tích cực,
được sử dụng rộng rãi, nhằm rút ra những kết luận có cơ sở thực tiễn.
Phương pháp trình bày trực quan là phương pháp sử dụng các phương
tiện trực quan trong quá trình giáo dục để giúp người được giáo dục lĩnh hội
tri thức.
Nhóm phương pháp giáo dục thực hành
Phương pháp làm thí nghiệm là phương pháp giúp người học nắm được
tri thức một cách vững chắc, tin tưởng vào tính chính xác của khoa học.
Phương pháp luyện tập là phương pháp lặp đi lặp lại nhiều lần những
hành động nhất định nhằm hình thành và củng cố kỹ năng, kỹ xảo cần thiết.
Phương pháp ôn tập là phương pháp giúp người học nắm vững tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo; tạo khả năng cho người dạy sửa chữa những sai lầm, lệch lạc
trong nhận thức của người học.
Phương pháp trị chơi có nhiều loại khác nhau như trị chơi sắm vai, trị
chơi trí tuệ, trị chơi nghệ thuật,…Phương pháp này sử dụng trò chơi như là
một cách để giúp người học lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và kỹ năng hoạt


20

động sáng tạo điển hình.
Việc lựa chọn phương pháp giáo dục nói chung cũng như phương pháp
GDCTTT cho sinh viên nói riêng ln phụ thuộc vào một số đặc điểm sau:
phương pháp giáo dục phụ thuộc vào nội dung giáo dục; phương pháp giáo
dục phụ thuộc vào đặc điểm tâm, sinh lý của người được giáo dục; phương
pháp giáo dục phụ thuộc vào các yếu tố khác như phương tiện giáo dục, hình
thức giáo dục,… [21, tr.81]
Vì vậy, để quá trình giáo dục nói chung và GDCTTT cho sinh viên nói
riêng đạt kết quả tốt thì người giáo dục phải biết lựa chọn và kết hợp các
phương pháp với nhau một cách khéo léo.
Trong công tác GDCTTT cho sinh viên, bên cạnh các phương pháp trên
thì người thực hiện giáo dục cần phải quan tâm chú trọng đến các phương
pháp tuyên truyền, giáo dục, động viên khuyến khích. Đồng thời, phải coi
trọng phương pháp thanh tra, kiểm tra, bắt buộc, xử phạt. Phương pháp
GDCTTT vừa phải coi trọng kinh nghiệm truyền thống, vừa phải tăng cường
khai thác sử dụng những phương pháp, phương tiện kỹ thuật hiện đại.
1.3.4. Hình thức giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
Hình thức GDCTTT cho SV có vai trị đặc biệt quan trọng, quyết định
đến chất lượng, hiệu quả công tác GDCTTT. Trên cơ sở của mục tiêu, nội
dung, phương pháp của công tác GDCTTT mà nhà trường đã xác định, nhà
trường sẽ tiến hành lựa chọn hình thức giáo dục phù hợp, một mặt đáp ứng
được nhu cầu của SV, một mặt làm cho những nội dung tưởng khô khan của
công tác GDCTTT trở nên hấp dẫn, lôi cuốn đối với SV. Cơng tác GDCTTT
cho sinh viên có thể được thực hiện thơng qua các hình thức khác nhau như:
Thơng qua chương trình học chính khóa với các bộ mơn khoa học: Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,…
Thơng qua các hoạt động của Đoàn – Hội: giao lưu, diễn đàn; các hội


21

thi; các buổi nói chuyện về thời sự, chính trị; các buổi sinh hoạt chuyên đề;
các hoạt động ngoại khóa văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao,…
Vì vậy, nhà trường cần phải quản lý chặt chẽ các hình thức GDCTTT
cho sinh viên, đồng thời tích cực sử dụng những hình thức hiện đại, khơng
ngừng đổi mới hình thức GDCTTT để công tác GDCTTT không bị rập khuôn
và trở nên nhàm chán.
1.3.5. Các lực lượng giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
Sinh viên là đối tượng không thể thiếu trong công tác GDCTTT. Họ là
những người trẻ, luôn tiên phong trong mọi hoạt động. Họ là những con
người đang phát triển mạnh về thể chất và tinh thần, giàu ước mơ hồi bão,
ln có mong muốn vươn lên nắm bắt tri thức của nhân loại để tự hoàn thiện
mình về mọi mặt.
Sinh viên nhìn chung đều xuất thân từ các giai tầng khác nhau của mọi
miền đất nước, với mức thu nhập của gia đình rất khác nhau, tập trung về các
trung tâm kinh tế, chính trị các thành phố và thị xã để sống và học tập. Về cơ
bản họ mới tốt nghiệp trung học phổ thông, vừa ra khỏi sự quản lý của thầy
giáo, cô giáo ở nhà trường và gia đình, để sống cuộc sống tập thể trong ký túc
xá, hoặc trọ học xung quanh các trường đại học và cao đẳng. Tức là với họ
vừa mới có cuộc sống tự lập, tự quản và tập thể. Sinh viên thường khá nhanh
nhạy trong việc tiếp thu các thông tin mới, cũng như những luồng tư tưởng
mới trong xã hội, song khả năng phân tích và chọn lọc cịn có những hạn chế.
Trong thực tế, nhiều sinh viên cịn chưa hiểu sâu về chính trị, lập trường tư
tưởng chưa vững vàng, nên dễ dao động, dễ bị lôi kéo...
Lực lượng GDCTTT cho sinh viên là những người tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp đến công tác này. Lực lượng GDCTTT cho sinh viên gồm có
lực lượng giáo dục trong nhà trường (Ban giám hiệu, giảng viên, cán bộ
phịng ban, Đồn Thanh niên, Hội sinh viên,…) và lực lượng giáo dục ngoài


22

nhà trường (gia đình và xã hội). Các lực lượng này tạo nên 3 mơi trường giáo
dục lớn, có ảnh hưởng đến việc giáo dục sinh viên, đó là Nhà trường – Gia
đình – Xã hội. GDCTTT cho sinh viên là nhiệm vụ của tồn Đảng, tồn xã
hội. Trong đó, sự phối hợp giữa ba lực lượng gia đình – nhà trường – xã hội là
vô cùng quan trọng.
Một thực tế hiện nay cho thấy phần lớn phụ huynh lại có tư tưởng cho
rằng khi con đã là sinh viên, học xa nhà thì trách nhiệm giáo dục sẽ thuộc về
nhà trường và hồn tồn phó thác trách nhiệm giáo dục đó cho nhà trường và
xã hội. Họ nghĩ rằng, gia đình chỉ có bổn phận lo đủ cơm ăn, áo mặc, tiền bạc
cho con học hành là đủ. Bên cạnh đó, một số phụ huynh lại có sự quan tâm
q mức, khi con cái địi hỏi gì cũng đáp ứng mà thiếu đi sự kiểm tra, uốn nắn
kịp thời, khiến khơng ít sinh viên trở nên hư hỏng, vơ tổ chức, vô kỷ luật. Lỗi
này một phần do sự thiếu ý thức của các em, nhưng phần quan trọng là do gia
đình. Việc thiếu sự phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc quản lý, giáo
dục, đó là căn nguyên dẫn đến sự buông thả, hư đốn của các em.
Từ thực tế trên ta có thể thấy vấn đề GDCTTT cho thế hệ trẻ hiện nay
đặc biệt là đối với sinh viên rất cần sự góp sức từ gia đình. Nếu gia đình
khơng có một phương pháp giáo dục đúng đắn thì gia đình nói riêng và xã hội
nói chung phải gánh chịu những hậu quả khơng thể lường trước được. Bên
cạnh đó, gia đình cần kết hợp với nhà trường, xã hội trong việc GDCTTT cho
các em, khơng nên phó mặc trách nhiệm giáo dục con em mình cho nhà
trường và xã hội. Các bậc phụ huynh phải đầu tư nhiều thời gian hơn nữa, kết
hợp trao đổi thông tin với nhà trường để kịp thời động viên thành tích của các
em, cũng như kịp thời ngăn chặn các hành vi mang tính tiêu cực.
Nói tóm lại, gia đình là nơi có trách nhiệm chăm sóc, ni dưỡng, khơi
dậy cho bản thân mỗi sinh viên những truyền thống tốt đẹp của gia đình, từ đó
giáo dục các em trở thành những con người hiếu thảo. Gia đình còn là nơi tạo



×