Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 22 trang )

MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài

2
2

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu

3

4

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

4

5. Phương pháp nghiên cứu. 4
II. PHẦN NỘI DUNG: 4
1. Cơ sở lí luận: 4
2. Thực trạng:

4

2.1 Thuận lợi, khó khăn:

5

2.2 Thành cơng, hạn chế: 6
2.3 Mặt mạnh, mặt yếu:



6

2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến việc nghiên cứu đề tài:

7

2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.

7

3. Giải pháp, biện pháp:

11

3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 11
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: 11
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp: 20
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:

21

4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
21
III/ KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: 21
1/ Kết luận:

21

2/ Kiến nghị:


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO

25


I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ khi cịn ngồi trên ghế nhà trường, tơi đã có ước mơ trở thành một cơ
giáo, một người lái đị chở những ước mơ hoài bảo của các em học sinh. Và với bao
nỗ lực học hành, ước mơ đó đã thành hiện thực. Thế nhưng, ngay lần cầm lái con đị
đầu tiên, tơi đã vấp phải biết bao khó khăn. Mặc dù bản thân tôi thừa biết rằng
“Nhất quỹ nhì ma, thứ ba học trị”, song tơi vẫn khơng thể lường trước được rằng
việc dạy dỗ, giáo dục những mầm xanh của đất nước lại khó khăn đến thế, nhất là
khi tôi được nhà trường phân công làm chủ nhiệm lớp. Là giáo viên bộ môn, dạy
cho các em kiến thức đã khó, làm chủ nhiệm lớp lại khó khăn gấp bội phần. Trải qua
bao năm làm công tác chủ nhiệm, với mn vàn khó khăn, phức tạp, có niềm vui
nhưng cũng khơng ít nỗi buồn, có thành cơng nhưng không hiếm lần thất bại. Bởi
lẽ, mỗi lớp chủ nhiệm đều có một đặc thù riêng, nào là học sinh cá biệt về học tập,
hay vi phạm nội qui trường lớp, nào là học sinh có hồn cảnh gia đình khó khăn,
con mồ cơi hay bố mẹ khơng hạnh phúc, nào là lớp có tỉ lệ học sinh dân tộc thiểu số
quá cao,…
Thế nhưng, điều làm tôi trăn trở nhất chính là ý thức đạo đức của các em học
sinh khối 9, lứa tuổi mà theo suy nghĩ ban đầu của tơi thì các em đều đã lớn, đã biết
định hướng cho bản thân, đã biết lo lắng cho tương lai. Do đó, chắc chắn các em
phải ngoan hơn, phải biết nghe lời bố mẹ, thầy cô, biết chăm lo học hành… Nhưng
không, năm học 2010 - 2011, lần đầu tiên tôi được nhà trường phân công dạy khối 9
và làm chủ nhiệm lớp 9, tôi đã nhận ra những suy nghĩ ban đầu của tôi là sai. Lớp

9B tơi chủ nhiệm năm đó có rất nhiều đối tượng học sinh, cũng có em ngoan, học
giỏi, nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều em chưa ngoan, thường xuyên vi pham nội
quy trường lớp, cá biệt có những em cịn bị bạn xấu rủ rê sa vào tệ nạn, hút thuốc,
uống rượu, nói dối bố mẹ, thầy cơ, trốn học đi chơi Game, thậm chí có em vướng
vào u đương dẫn đến bỏ học giữa chừng...Tôi nhận thấy một điều, học sinh lớp 9,
lứa tuổi mà các em luôn tự coi mình là đã lớn, có thể giải quyết mọi việc, thích thể
hiện nhưng thực tế thì các em vẫn cịn rất non nớt, suy nghĩ chưa chín chắn nên rất
dễ mắc sai lầm. Từ thực tế đó, tơi nhận thấy rằng, việc nắm rõ thực trạng và đề ra
biện pháp về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, nhất là học sinh lớp 9 là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng của người làm công tác giáo dục.
Chính vì vậy, qua nhiều năm làm cơng tác chủ nhiệm, đặc biệt là chủ nhiệm lớp
9, trải qua không ít lần phải tiếp xúc và trực tiếp xử lí những trường hợp vi phạm
đạo đức, tôi đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm trong việc giáo dục đạo đức cho
học sinh, nhất là đối với học sinh khối 9. Và trong khuôn khổ sáng kiến kinh
nghiệm này, tôi xin được trao đổi cùng quý đồng nghiệp một vài kinh nghiệm trong
cơng tác chủ nhiệm, đó là “ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH LỚP 9”.


2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu:
Tìm ra một số biện pháp tối ưu nhất giúp giáo dục đạo đức cho học sinh, mà cụ
thể là học sinh lớp 9. Giúp các em nhận thấy rằng cần làm cho hành vi ứng xử của
mình phù hợp với lợi ích của xã hội, giúp các em có lí tưởng đạo đức cũng như
nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức phù hợp. Giúp các em rèn luyện thói quen hành
vi đạo đức làm cho chúng trở thành bản tính tự nhiên của cá nhân và duy trì lâu bền
các thói quen đó để ứng xử đúng đắn trong mọi hồn cảnh. Để từ đó giúp các em
khơng mắc phải những sai phạm về đạo đức hay vi phạm về nội quy về nền nếp của
trường lớp hay những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Giúp các em không sa vào
những tệ nạn ngày càng nhiều trong xã hội, để các em có một cuộc sống lành mạnh,

đạo đức trong sáng từ đó giúp các em có định hướng đúng đắn hơn cho cuộc đời
mình.
Nhiệm vụ:
- Xác định rõ từng đối tượng học sinh với những vi phạm đạo đức thường gặp
của các em.
- Tìm hiểu nguyên nhân vi phạm những đạo đức đó.
- Lựa chọn các biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh và lập
kế hoạch giáo dục giúp các em khắc phục những sai phạm về đạo đức.
- Thực hiện kế hoạch giáo dục giúp các em khắc phục những sai phạm về đạo
đức.
- Đúc rút kinh nghiệm trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh lớp mình chủ
nhiệm.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu về những vi phạm đạo đức của học sinh lớp chủ nhiệm nhằm đưa ra
một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 9A trường THCS Lê Quý Đôn, xã Đray Sáp, huyện Krông Ana
năm học 2015-2016.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp điều tra thực tế, thống kê.
- Phương pháp vấn đáp.
- Phương pháp trao đổi thông tin giữa giáo viên và học sinh, gia đình học
sinh…


II. PHẦN NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận:
Dựa trên cơ sở lý luận giáo dục đạo đức, tiến hành điều tra thực trạng của công
tác giáo dục đạo đức học sinh của lớp, phân tích ngun nhân, tìm ra những yếu tố

liên quan đến công tác giáo dục đạo đức học sinh. Qua đó đề ra biện pháp giáo dục
đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là học sinh lớp 9A trường
THCS Lê Quý Đôn năm học 2015-2016.
2. Thực trạng:
Để có sự nhìn nhận tồn diện đúng đắn về vấn đề đạo đức của lớp và của từng
học sinh trong lớp, ngay từ đầu năm khi nhận lớp, tơi đã tìm hiểu về kết quả hạnh
kiểm của các em trong năm học trước:
TỐTKHÁ
TRUNG BÌNH
GHI CHÚ
SLTLSLTL SL TL
11
36,7%
12
40% 7 23,3%
Sau một năm áp dụng đề tài, kết quả thu được của lớp chủ nhiệm năm học 2014 –
2015 như sau:
TỐTKHÁTRUNG BÌNH
GHI CHÚ
SLTLSLTL SL TL
14
46,7%
13
43,3% 3 10%
Mặc dù kết quả thu được khá cao, song vẫn còn một số thiếu sót, tơi muốn sáng
kiến của mình hồn chỉnh hơn. Vì vậy, năm học 2015-2016, khi được phân công chủ
nhiệm lớp 9A, tôi tiếp tục nghiên cứu để hồn thiện đề tài. Tơi đã điều tra kết quả
đầu năm của lớp như sau:
TỐT KHÁ TRUNG BÌNH
GHI CHÚ

SL TL SL TL SL
TL Huỳnh Vĩnh Quang, Lê Quang Huy,
H Mah Ayun, Trương Thành Nhựt,
Nguyễn Văn Vũ, Hòa Tú Tài,
1438,7%1541,7% 7
19,6%
Y Buni Niê bị
xếp loại hạnh kiểm trung bình
Ngồi ra, tơi cịn gặp giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ mơn và cán sự lớp cũ
để tìm hiểu nhằm nắm bắt tình hình đặc điểm và hồn cảnh gia đình của từng học
sinh trong lớp.
Từ những tìm hiểu ban đầu cùng với việc trị chuyện nhằm nắm bắt thơng tin
trực tiếp từ các em, tôi nhận thấy những thuận lợi và khó khăn như sau:


2.1 Thuận lợi, khó khăn:
* Thuận lợi: Đa số những học sinh có năng lực học tập khá, giỏi và những học
sinh được gia đình quan tâm thì thường ngoan ngỗn, ít vi phạm đạo đức.
*Khó khăn: Với đặc điểm lứa tuổi lớp 9, các em dễ bị thu hút bởi các tác động
xấu bên ngồi, các em thích khám phá những điều mới mẽ nhưng chưa phân biệt
được đúng sai. Một số học sinh cuối năm học trước đã có biểu hiện nghiện game
nặng như học sinh Trương Thành Nhựt, Huỳnh Vĩnh Quang, Trần Đăng Mua,
Nguyễn Văn Vũ…Hay có học sinh chán học có ý định nghỉ học như học sinh
Huỳnh Vĩnh Quang, H’Mah Ayun. Đời sống nhân dân chủ yếu là làm nơng nghiệp,
dân trí thấp, một số học sinh có bố mẹ đi làm ăn xa, một số gia đình cịn chưa quan
tâm nhiều đến con em mình, một số thơn bn có nhiều thanh thiếu niên hư hỏng,
các quán internet mọc lên xung quanh trường nhiều, nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến việc
học sinh bị lôi kéo đến các tệ nạn xã hội và ảnh hưởng đến việc giáo dục đạo đức.
2.2 Thành công, hạn chế:
* Thành cơng: Với sự nhiệt tình, tận tụy và những kinh nghiệm có được qua

nhiều năm chủ nhiệm, tơi đã uốn nắn kịp thời những học sinh có biểu hiện vi phạm
nội quy, giảm sút về đạo đức. Nhiều em học sinh đã biết sữa chữa và có sự tiến bộ
vượt bậc so với năm trước. Các em ngoan hơn và biết nghe lời hơn.
* Hạn chế: Việc xử lí vi phạm của học sinh chưa được triệt để. Vẫn còn hiện
tượng học sinh hút thuốc, học sinh bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi điện tử, bi da.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chưa được chú trọng, dẫn đến tình trạng
các em bị mơ hồ và dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn làm tha hóa đạo đức. Ngồi ra, mối
quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục đạo đức của học
sinh chưa thực sự hiệu quả.
2.3 Mặt mạnh, mặt yếu:
Mặt mạnh: Học sinh được tạo cơ hội nhìn nhận những vi phạm về đạo đức của
bản thân để từ đó có thể sữa chữa những sai lầm của mình. Giáo viên chủ nhiệm
thường xuyên tiếp xúc và xử lí những vi phạm đạo đức của học sinh có thêm nhiều
kinh nghiệm trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Mặt yếu: Việc giáo dục đạo đức phải trải qua thời gian rất dài nhưng hiệu quả
mang lại vẫn chưa cao. Đối tượng học sinh người đồng bào dân tộc ít người rất khó
hịa đồng với học sinh trong lớp, các em thường có tính cách nóng nãy nên rất khó
khun bảo. Mặt khác, gia đình thường hay phó mặc cho nhà trường và xã hội nên
rất khó khăn trong việc trao đổi với gia đình về vấn đề đạo đức của học sinh.
2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến việc nghiên cứu đề tài:
Là một giáo viên bộ môn đồng thời cũng là một giáo viên nhiều năm chủ
nhiệm, trong quá trình giảng dạy tiếp xúc với nhiều đối tượng học sinh và phải


thường xuyên xử lí những vi phạm đạo đức của học sinh nên tôi đã đúc rút được
nhiều kinh nghiệm cho bản thân trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Bản thân ln ln nhiệt tình bám sát tình hình của lớp, quan tâm đến từng đối
tượng học sinh, kịp thời phát hiện những vi phạm của học sinh và nguy cơ tiềm ẩn
để kịp thời ngăn chặn.
Tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên bộ môn để kịp thời động viên, giúp đỡ

và khuyến khích những học sinh có dấu hiệu lơ là mơn học. Đồng thời trao đổi với
phụ huynh học sinh để tìm ra những biện pháp khắc phục những khó khăn mà các
em đang gặp phải để giúp các em tiến bộ hơn trong học tập.
Ngồi ra, tơi ln trao đổi với các giáo viên chủ nhiệm có học sinh vi phạm
nhằm mục đích tìm ra những giải pháp tối ưu trong việc giáo dục đạo đức học sinh.
Đồng thời, với sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo trong và ngồi
trường đã giúp bản thân tơi hồn thành nhiệm vụ của mình.
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Mục tiêu của giáo dục hiện nay là thơng qua q trình đào tạo của mình mà
giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ
năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người.
Muốn làm được điều này, chỉ riêng giáo viên ráng sức thì chưa đủ mà cần có sự
tích cực tiếp nhận của học sinh với nguyên tắc “Học sinh tích cực, chủ động” thì
giáo dục tính tự giác, tạo được niềm say mê cho các em. Nhưng thật đáng lo ngại,
có khơng ít học sinh học hành như điều bắt buộc, miễn cưỡng thực hiện yêu cầu của
giáo viên. Nhiều em cịn chây lười, khơng chịu học bài, làm bài, vi phạm nền nếp,
đạo đức như hút thuốc, nói dối bố mẹ, thầy cô, trốn học đi chơi điện tử, đánh nhau,



Hình 1: Nhiều học sinh hút thuốc lá
(Ảnh minh họa – Nguồn Internet)


Hình 2: Học sinh trốn học đi chơi điện tử

( Ảnh minh họa – Nguồn Internet)
Hình 3: Học sinh đánh nhau

( Ảnh minh họa – Nguồn Internet)

- Công tác giáo dục đạo đức học sinh của lớp 9A
Hoạt động giáo dục ngoại khóa:


Tham gia các hoạt động giáo dục theo quy định của biên chế năm học: Sinh
hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm từng tháng của năm học. Sinh hoạt dưới cờ,
thực hiện các phong trào thi đua có liên quan đến các hoạt động giáo dục trong nhà
trường. Nhưng đơi khi một số hoạt động cịn mang tính hình thức, chưa phát huy
được tác dụng giáo dục đạo đức học sinh.
Các hoạt động giáo dục lao động
Học sinh lớp lao động vệ sinh trong và ngoài lớp học, lao động theo kế hoạch
của ban lao động, thu dọn vệ sinh môi trường, cải tạo cảnh quan sư phạm: Trồng và
chăm sóc cơng trình măng non của chi đội mình theo quy định của liên đội.
Sự tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh của các giáo viên bộ môn
Giáo viên bộ môn liên hệ giáo dục đạo đức học sinh thông qua bài học, tiết
học. Nhắc nhở uốn nắn những sai phạm của học sinh trong giờ học
Tuy nhiên, vẫn có một số giáo viên q gị bó, đơn điệu khi lồng ghép liên hệ
giáo dục đạo đức thơng qua bài học. Vẫn cịn những giáo viên coi việc giáo dục đạo
đức học sinh là trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm.
Công tác giáo dục đạo đức của giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm là người quản lí mọi hoạt động của lớp học, là người triển
khai các hoạt động của nhà trường đến từng học sinh. Trong năm học giáo viên chủ
nhiệm thực hiện đầy đủ các loại sổ sách, lên kế hoạch hoạt động cụ thể hàng tuần,
tháng, năm theo chỉ tiêu của các đoàn thể, chuyên môn, liên Đội cũng như của nhà
trường và Phịng giáo dục.
Kết hợp được nhiều hoạt động, đồn thể trong công tác giáo dục đạo đức học
sinh.
- Chất lượng đạo đức của học sinh
Kết quả đạt được về phía học sinh là phần lớn các em có được những hiểu biết
ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức, có lịng tự trọng, tự tin vào khả năng

của bản thân, có trách nhiệm với hành động của mình, chăm ngoan, lễ phép với thầy
cơ giáo, hịa nhã với bạn bè, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của lớp, nội quy
của trường.
Bên cạnh đó vẫn cịn một số bộ phận học sinh như: Huỳnh Vĩnh Quang,
Trương Thành Nhựt, Hòa Tú Tài, Y Buni Niê, H Mah Ayun…chưa ngoan, thường
hay vi phạm đạo đức, có biểu hiện chán nản, khơng thích học, thường xun gây
mất trật tự trong lớp, nói tục, vơ lễ với thầy cơ, nói dối thầy cô và bạn bè, cúp tiết
giao lưu với đối tượng xấu bên ngoài đi chơi điện tử, bi da gây gỗ đánh nhau… Khi
thầy cô nhắc nhở lại tỏ thái độ chống đối, không nghe.
* Nguyên nhân chủ yếu là:
Thiếu sự phối kết hợp thường xuyên với Cha mẹ học sinh để giáo dục các em.
Một số học sinh vi phạm đạo đức mà nhà ở buôn Tuor, khi giáo viên chủ nhiệm
đến gia đình để phối hợp giáo dục thường là ban ngày mà gia đình đi làm nương rẫy
nên không gặp.


Địa bàn của trường đa số người dân nghèo, học sinh ngồi việc học cịn phải
theo cha mẹ làm việc như: chăn trâu, tưới cà phê để giúp gia đình, cụ thể là em Y
Buni.
Trình độ nhận thức của một số phụ huynh còn hạn chế và ý thức chưa cao,
chưa thấy được tầm quan trọng của việc học tập và giáo dục con em nên khi giáo
viên chủ nhiệm đến nhà để kết hợp giáo dục thì quá thờ ơ và đưa ra nhiều lí do để
bao biện cho con cái “Ở nhà nó rất ngoan và chăm chỉ” cụ thể là em Hịa Tú Tài.
Nhiều phụ huynh khơng quan tâm đến con em mình, khơng tham gia họp phụ
huynh, khơng đến gặp giáo viên chủ nhiệm khi có giấy mời, thậm chí có phụ huynh
khi giáo viên gọi điện thoại hay đến nhà để trao đổi tình hình học tập của học sinh
cịn tỏ thái độ khó chịu vì bị làm phiền.
Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong cơng tác giáo dục đạo
đức học sinh chưa chặt chẽ và liên tục.
3. Giải pháp, biện pháp:

3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Thông qua nhiều mối quan hệ để tìm hiểu nguyên nhân học sinh vi phạm đạo
đức để từ đó tìm ra biện pháp giáo dục đạo đức học sinh.
Kết hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn, ban nề nếp và các tổ chức đồn thể
để cùng tìm ra biện pháp thích hợp nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi
vi phạm đạo đức của học sinh.
Thường xuyên liên hệ với gia đình học sinh để thơng báo kịp thời tình hình của
học sinh để cùng gia đình phối hợp giáo dục đạo đức con em mình.
Phát huy tích cực sự phối hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội
nhằm hạn chế việc học sinh bị lôi cuốn tham gia vào các tệ nạn xã hội làm suy giảm
đạo đức.

3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
* Giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp, của từng học
sinh:
Ngay từ khi nhận lớp chủ nhiệm, tôi đã thu thập đầy đủ thông tin về học sinh
như: Lực học, động cơ học tập, tình hình sức khỏe, đạo đức, mối quan hệ, thái độ
với cha mẹ,với thầy cô giáo, bạn bè…Như đặc điểm tình hình của một số học sinh
sau:
Học sinh Y Buni Niê năm học 2014-2015 là một học sinh người dân tộc thiểu
số, gia đình khó khăn, bố mẹ ít quan tâm nên ở nhà em thích làm gì thì làm, khơng
ai quản lí. Do đó, khi lên lớp em thường tỏ thái độ ngang bướng không hợp tác với
thầy cô và bạn bè, cuối năm bị xếp loại học lực yếu, hạnh kiểm trung bình, được lên
lớp sau khi rèn luyện trong hè.


Học sinh Huỳnh Vĩnh Quang năm học 2018 -2019 là một học sinh đã nghiện
game nặng, thường xuyên cúp tiết, nói dối bố mẹ, thầy cơ, học lực giảm sút, có ý
định bỏ học, cuối năm bị xếp loại học lực yếu, hạnh kiểm trung bình, được lên lớp
sau khi rèn luyện trong hè.

Học sinh H Mah Ayun năm học 2018-2019 là một học sinh người dân tộc thiểu
số, bố mẹ lớn tuổi ít quan tâm, nhiều năm ở lại lớp nên lớn tuổi hơn so với các bạn
trong lớp, đang tuổi dậy thì em đã sớm vướng vào chuyện u đương nên hay đi
chơi khuya, khơng ai quản lí. Em thường xuyên lơ là, bỏ bê việc học, có ý định bỏ
học, cuối năm bị xếp loại học lực yếu, hạnh kiểm trung bình, được lên lớp sau khi
rèn luyện trong hè.
Những thơng tin đó giúp tơi có thể hiểu rõ ngun nhân hình thành đạo đức của
học sinh.
Ngồi ra, tơi cũng tìm hiểu kĩ về đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh lớp
9 và những hoạt động yêu thích ở lứa tuổi của các em điều đó giúp mối quan hệ
giữa giữa cơ trị ngày càng thân thiết để các em cởi mở hơn khi nói chuyện hay giải
bày tâm sự. Tơi đã dành thời gian gặp trực tiếp riêng các em học sinh hay vi phạm
sau những giờ học hay giờ ra chơi tâm sự với tư cách là “Người bạn, người chị,
người mẹ” để khuyên bảo, động viên. Từ đó, các em thấy được những điều chưa tốt
của mình để khắc phục, qua đó các em thấy cơ khơng ghét mình mà cịn tạo cơ hội
cho mình sửa chữa. Khi đó các em khơng có ý nghĩ tiêu cực mà trái lại có ý nghĩ,
thái độ tích cực hơn để hồn thiện mình.
Gặp các bạn thân của học sinh trên, những học sinh ở gần nhà và các học sinh
trong ban cán sự lớp nhắc nhở các em luôn chú ý quan tâm động viên tạo điều kiện
giúp đỡ những học sinh hay vi phạm bằng các hình thức như đơi bạn cùng tiến,
nhóm học tập, câu lạc bộ học tập. Từ đó các em thấy mình khơng bị xa lánh, mặc
cảm vì những hành vi vi phạm nội quy trường, lớp của mình mà tạo cho các em có
tinh thần thương u và tương trợ lẫn nhau tăng thêm tinh thần đoàn kết giữa các
học sinh.
* Xây dựng truyền thống tốt đẹp và công tác đánh giá xếp loại công bằng
khách quan:
Các hoạt động của lớp sẽ trở thành truyền thống nếu nó được lặp đi lặp lại và
trở thành thói quen. Là GVCN, tôi luôn đề cao cho học sinh thấy cần phải trân trọng
và giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của lớp đồng thời khuyến khích các em tạo ra
những truyền thống tốt đẹp khác. Tơi nói với các em: “Chúng ta là những học sinh

lớp 9, đây là năm học cuối cùng của các em ở ngôi trường nay. Các em hãy để lại
nơi đây những kĩ niệm thật đẹp, để sau này khi nhắc đến lớp chúng ta, mọi người sẽ
nhớ đến những gì tốt đẹp nhất”.


Hình 4: Tập thể lớp 9A cùng GVCN thể hiện sự quyết tâm trong buổi đại hội chi
đội.

Để xây dựng một lớp học có truyền thống tốt đẹp, cần có một bộ phận ban cán
sự năng nổ, nhiệt tình có trách nhiệm. Vì vậy, ngay từ khi nhận lớp, tơi đã gặp giáo
viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn cũ tìm hiểu để biết được những học sinh có năng
lực, sở trường, có tố chất lãnh đạo. Cho nên, trong đại hội chi đội đầu năm tôi đã
định hướng cho lớp bầu ra một ban cán sự, ban chỉ huy chi đội có tinh thần trách
nhiệm và là những tấm gương sáng để các học sinh khác noi theo như lớp trưởng:
Lê Thị Huyền My, lớp phó học tập: Tạ Thị Kim Dung, chi đội trưởng: Nguyễn
Khuê... đều là những học sinh học khá, giỏi, có ý thức trách nhiệm cao trong nhiều
năm liền. Từ đó, tơi đã dành một số thời gian để huấn luyện ban cán sự, để các em
có thể tự quản và biết đánh giá, xếp loại hạnh kiểm, xếp loại thi đua một cách khách
quan.
Hình 5: Đại hội chi đội 9A năm học 2015-2016


Mỗi tuần mỗi học sinh đều có 100 điểm ban đầu, số điểm tăng lên hay giảm
xuống là do các em thực hiện tốt nội quy, tham gia tốt các hoạt động hay vi phạm
nội quy, vi phạm đạo đức. Và tùy vào số điểm các em đạt được mà xếp loại hạnh
kiểm của tuần, của tháng, của học kì. Ngồi ra, tơi cịn đưa ra hình thức khen
thưởng những học sinh có điểm cao trong từng tháng . Khơng những thế, cứ cuối
tuần sau khi tổng kết xếp loại, tôi đề nghị mỗi tổ bầu ra những học sinh có sự tiến
bộ trong tuần để khen thưởng. Bất kì một học sinh nào chỉ cần trong tuần có sự tiến
bộ so với tuần trước và được các bạn ghi nhận thì đều được nhận một phần thưởng

của lớp. Hình thức thi đua này được các em học sinh hưởng ứng rất nhiệt tình, các
em ln ln cố gắng thực hiện tốt hơn tuần trước để được nhận phần


thưởng.

Hình 6: Học sinh tổng hợp kết quả cuối tuần
Hình 7: Học sinh có sự tiến bộ trong tuần lên nhận phần thưởng

* Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ mơn, các tổ chức đồn thể trong việc
giáo dục đạo đức học sinh:
Thường xuyên trao đổi với giáo viên bộ mơn và các tổ chức đồn thể về tình
hình học sinh lớp mình chủ nhiệm để đưa ra những biện pháp thích hợp kịp thời uốn
nắn những hành vi vi phạm của các em. Cùng với các tổ chức đoàn thể trong nhà
trường như Đội TNTP, Đoàn thanh niên tổ chức những hoạt động lồng ghép trong


các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp, những chuyên đề mang tính giáo dục như:
Tun truyền về phịng chống tai nạn thương tích, tuyên truyền về tác hại của Game
Online, tác hại của chất gây nghiện, Chuyên đề: xây dựng tình bạn đẹp, nói khơng
với bạo lực học đường... Ở lứa tuổi của các em, tình cảm khác phái là một vấn đề
nhạy cảm, kích thích sự tị mị tìm hiểu, có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng
nếu thiếu hiểu biết. Nên GVCN cần khéo léo, tế nhị nhắc nhở các em đồng thời phối
hợp với các đoàn thể nhà trường tổ chức chuyên đề giáo dục giới tính cho các em.
Hưởng ứng nhiệt tình các hoạt động như trồng và chăm sóc cơng trình măng non,
trang trí lớp học thân thiện, đêm hội trăng rằm, làm ống cuốn thư,... Từ các hoạt
động đó giáo dục cho học sinh tinh thần đồn kết, đồng thời lơi cuốn các em tham
gia nhằm tránh xa các tệ nạn xã hội.
Hình 8: Hoạt động ngồi giờ lên lớp: Trồng cây lưu niệm



Hình 9: Cơng trình măng non của chi đội 9A

Hình 10: Một góc lớp học thân thiện

Cùng với lớp bình chọn những học sinh ưu tú của lớp tham gia học lớp cảm
tình đồn. Phối hợp với Đồn thanh niên nhà trường tổ chức các hoạt động để học
sinh tìm hiểu về Đoàn, tham gia các hoạt động ý nghĩa do đồn trường và đồn xã
phát động: Ngày tình nguyện xanh, lao động cơng ích con đường thanh niên,… Các
em đã rất cố gắng hoàn thiện bản thân để được đứng trong hàng ngũ của Đoàn.


Hình 11: học sinh lớp 9 trong buổi lễ trưỡng thành Đội

Phối hợp chặt chẽ với ban nề nếp trong việc xử lí những học sinh vi phạm. Báo
cáo kịp thời với nhà trường những trường hợp vi phạm có tính chất nghiệm trọng
như nghiện Game nặng, đánh nhau, sử dụng chất gây nghiện...để nhà trường có hình
thức xử lí thích hợp.
* Giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu đặc điểm tình hình của gia đình của từng
học sinh:
Về gia đình, tơi tìm hiểu một số đặc điểm như: Nơi ở, nghề nghiệp cha, mẹ,
hồn cảnh sống, kinh tế gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, mối quan
hệ với hàng xóm láng giềng. Có được những thơng tin đó giúp tơi có thể kết hợp tốt
với gia đình học sinh trong việc giáo dục đạo đức học sinh. Ngay trong cuộc họp
phụ huynh đầu năm, tôi đề nghị phụ huynh cùng với GVCN đưa ra những biện pháp
để cùng giáo dục con em mình. Tất cả các biện pháp đưa ra tôi đều yêu cầu ghi rõ
vào biên bản đồng thời cam kết thực hiện để phụ huynh thấy được tầm quan trọng.
Tôi cũng yêu cầu phụ huynh cung cấp số điện thoại để tiện liên lạc trong những tình
huống cấp bách. Tơi và các bậc phụ huynh đã bầu ra một ban chấp hành hội đại diện
cho các thơn bn ln nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cùng với giáo viên

chủ nhiệm kịp thời liên lạc với các gia đình có học sinh vi phạm để cùng với gia
đình giáo dục các em, giúp các em không bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội và ảnh
hưởng đến việc học tập của các em. Đối với những phụ huynh không quan tâm đến
con em mình, khơng tham gia họp phụ huynh, tơi đến nhà gặp và phân tích cho phụ
huynh hiểu ra các vấn đề rằng việc giáo dục đạo đức cho con em là sự chăm lo cho
tương lai của các em sau này.


Để công tác giáo dục đạt kết quả cần phải có sự phối kết hợp giữa nhà trường –
gia đình và xã hội. Họp BCH hội phụ huynh lớp theo từng tháng, nhờ các bậc phụ
huynh ở từng khu vực cùng giáo viên đến nhà học sinh vi phạm để trao đổi. Hoặc có
khi tơi trực tiếp gặp trưởng thơn bn trình bày tình hình của học sinh, nhờ họ đưa
ra cuộc họp thôn buôn, phổ biến, động viên để phụ huynh có ý thức trách nhiệm đối
với việc giáo dục đạo đức cho con em mình.
Từ những cố gắng của mình và sự phối kết hợp giáo dục giữa đồng nghiệp, gia
đình và xã hội, những học sinh hay vi phạm đạo đức trong lớp đã có ý thức hơn,
tình trạng vi phạm đạo đức có xu hướng giảm rõ rệt.
Cụ thể như em Huỳnh Vĩnh Quang là một học sinh cá biệt, em vắng học ngay
trong buổi học đầu tiên, buổi học thứ hai em có mặt nhưng khơng khăn qng,
khơng đóng thùng và khi tơi hỏi về nguyên nhân vắng học thì em tỏ thái độ bất hợp
tác. Ngày hơm sau Quang nghỉ học khơng lí do, khi tìm hiểu ngun nhân từ các
học sinh khác, tơi được biết em không muốn đến trường nữa. Thế là ngay buổi trưa
hôm ấy, tôi đến nhà gặp mẹ em và được biết, Quang đã quyết định nghỉ học và lên
phố làm thêm từ sáng sớm. Mẹ em cịn nói: “Ơi dào, cơ giáo khơng phải đến nhà
nữa đâu, nó đến trường cũng có học đâu, suốt ngày nói dối bố mẹ đi chơi điện tử,
tơi nói nhiều mà nó nào có nghe, thơi thì cho nó nghĩ học đi làm cho biết thế nào là
cực khổ”. Tôi đã cố gắng dùng lời lẽ giải thích cho mẹ Quang hiểu rằng em còn
nhỏ, để em bỏ học sớm như thế là khơng nên, liệu em có chịu khó đi làm hay lại sa
vào tệ nạn xã hội… Tơi phân tích cho mẹ Quang hiểu ít nhất em cũng cần phải học
xong lớp 9, có bằng cấp 2 rồi có thể đi học nghề. Tôi cũng hứa với mẹ em sẽ phối

hợp với gia đình giáo dục em, động viên, giúp đỡ em… Sau đó, tơi hỏi mẹ em số
điện thoại và địa chỉ nơi em làm thêm, tôi đã trực tiếp đi gặp, động viên và khuyên
em về tiếp tục học hành. Sau nhiều lần gặp riêng em, cùng với việc phối hợp với
thôn trưởng đến nhà vận động, Quang đã thân thiện với tôi hơn, em hứa sẽ trở lại
lớp học và sẽ cố gắng học tốt để không phụ lịng của cơ.
Khi lên lớp, tơi nhờ một số học sinh thường xuyên gần gũi giúp đỡ, động viên
Quang, tiếp thêm nghị lực cho em tiếp tục đến trường. Mặc dù sau đó, em vẫn lại
tiếp tục vi phạm một số lỗi như vắng học khơng lí do, cúp tiết, đi học muộn, khơng
học bài,… Nhưng nhờ có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và địa
phương, đặc biệt là sự quan tâm của giáo viên chủ nhiêm và các bạn trong lớp đã
thường xuyên đến nhà động viên, khuyến khích em để giúp em có động lực đi học,
vì vậy Quang đã khơng cịn ý định bỏ học, cúp học đi chơi điện tử, ít vi phạm nề
nếp và có thái độ học tập tích cực hơn. Nhưng vì thời gian vắng học nhiều làm cho
kiến thức em bị hổng, dẫn đến lực học kém, cuối kì bị khống chế nên hạnh kiểm xếp
loại trung bình.
Ngồi ra, một số học sinh khác cũng có sự tiến bộ thấy rõ như: Trương Thành
Nhựt, Hòa Tú Tài, Y Bu Ni Niê, H Mah Ayun…


3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
Để thực hiện những tốt những giải pháp, biện pháp nêu trên thì:
+ Địi hỏi người giáo viên phải nắm vững những đặc điểm Tâm – Sinh lý lứa
tuổi của học sinh, nắm vững cá tính, hồn cảnh sống, hồn cảnh gia đình cụ thể của
từng em để định ra sự tác động thích hợp.
+ Việc giáo dục đạo đức là quá trình lâu dài, địi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải
kiên trì, liên tục, có niềm đam mê nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao đối với
học sinh.
+ Giáo dục đạo đức cho học sinh trong thực tiễn xã hội và địa phương. Phải
nhạy bén với tình hình chuyển biến của địa phương, đưa những thực tiễn đó vào
những tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp, vào những hoạt động của lớp để giáo dục

học sinh.
+ Giáo dục đạo đức theo nguyên tắc tập thể: Dìu dắt mỗi học sinh trong tập
thể, một tập thể lớp có truyền thống tốt đẹp, có sự đồn kết nhất trí thì sẽ góp phần
rất lớn vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi
hỏi GVCN phải xây dựng được bộ phận cán bộ lớp năng nổ, nhiệt tình, có trách
nhiệm, tổ chức tốt các phong trào xây dựng các nhóm, tổ, đơi bạn cùng tiến…
+ GVCN phải phối hợp chặt chẽ với gia đình, nhà trường, giáo viên bộ mơn và
các tổ chức đồn thể trong nhà trường và ngoài xã hội.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Các giải pháp, biện pháp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong một tình
huống chúng ta có thể vận dụng nhiều giải pháp, biện pháp khác nhau để đem lại
hiệu quả tốt nhất.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Từ những cố gắng của mình và sự phối kết hợp giáo dục giữa đồng nghiệp, gia
đình và xã hội, những học sinh hay vi pham đạo đức trong lớp đã có ý thức hơn,
khơng cịn tình trạng vi phạm đạo đức.
Nhìn chung, các em đã tiến bộ rõ rệt, biết yêu trường mến lớp hơn, phụ huynh
đối với trường và cô giáo ngày càng thân thiết gắn bó hơn.
Tuy đạt được một số kết quả đáng khích lệ về chất lượng đạo đức, song một số
em vẫn bị xếp loại hạnh kiểm trung bình là do những học sinh này mặc dù có sự
chuyển biến tích cực về đạo đức nhưng các em lại bị khống chế do học lực yếu kém.
* Kết quả hạnh kiểm học kì I – năm học 2015 – 2016 của lớp 9A như sau:
ĐẦU NĂM HỌC
CUỐI HỌC KỲ I
Tốt
Khá
TB
Tốt
Khá
TB

SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)

14

38,7

15

41,7

7

19,6

18

50

15

41,7

3

8,3


III/ KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1/ Kết luận:
Vấn đề đạo đức hiện nay của học sinh trường THCS có chiều hướng giảm sút

và đáng lo ngại. Giáo dục cho học sinh là địi hỏi sự quan tâm, chung sức của tồn
xã hội.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài về giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9A
trường THCS Lê Quý Đôn đã giúp tôi, người làm công tác giáo dục xác định được
tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở nhà trường.
Để có được kết quả đó, địi hỏi người giáo viên phải có lịng kiên trì bền vững
thường xun trong suốt năm học. Cần kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường – gia đình
và xã hội.
Giáo viên phải có lịng u nghề, mến trẻ với khẩu hiệu “Trường học thân
thiện, học sinh tích cực”.
2/ Kiến nghị:
Năm học 2015 – 2016 là năm tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Mà cơng tác giáo dục là trách nhiệm của
toàn xã hội, mọi người, mọi nhà đều phải có trách nhiệm đó là mục tiêu “Xã hội
hóa giáo dục”. Để thực hiện được mục tiêu này cần phải có sự kết hợp giữa gia đình
– nhà trường và xã hội:
a. Đối với nhà trường:
BGH phải xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh ngay từ đầu năm
học.
Nhà trường phải thường xuyên tổ chức các phong trào và hoạt động để cuốn
hút học sinh vào việc học tập.
Thành lập ban nề nếp có nhiệt tình, có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lí
và xử lí vi phạm của học sinh. Tổ chức họp, tham khảo để lấy ý kiến của hội đồng
giáo viên để đưa ra nôi quy nhà trường cụ thể và hình thức kĩ luật rõ ràng đối với
những hành vi vi phạm của học sinh
Đoàn đội phải chủ động phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chủ
nhiệm, giáo viên bộ môn tổ chức tốt phong trào thi đua học tập, tổ chức sinh hoạt
NGLL theo chủ điểm đạt hiệu quả.
b. Đối với gia đình:
Tạo điều kiện cho các em có điều kiện học tập tốt. Quán xuyến và giáo dục

con em mình ở nhà, đặc biệt là phải phân “Thời gian biểu”.
Kết hợp với giáo viên để giáo dục khi học sinh có biểu hiện sa sút về nề nếp
đạo đức, tác phong một cách kịp thời.
c. Đối với xã hội:


Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, đầu tư ngân sách để cải tạo cảnh quan sư
phạm…Kết hợp với chính quyền địa phương giải tỏa các hàng quán trước cổng
trường, các điểm vui chơi giải trí và truy cập internet xung quanh trường.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân đã áp dụng trong năm học
qua. Qua bài viết này tơi rất mong được sự góp ý xây dựng, giúp đỡ và trao đổi.
Nếu trong quá trình thực hiện đề tài có gì sơ suất, mong được đón nhận sự đóng góp
chân thành của mọi người.
Đraysáp, ngày 19 tháng 02 năm 2021
Người viết

Phan Thị Hà

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN


CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

Tên tài liệu
1
Một số vấn đề giáo dục đạo đức cho
học sinh
2
Một số phương pháp tiếp cận giáo
dục đạo đức.
3
Lý luận giáo dục
4.
Nguồn Internet
5.
Tài liệu tập huấn công tác xã hội
trong trường học
6.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em

Tác giả- nhà xuất bản
Đặng Vũ Hoạt - Viện nghiên cứu
khoa học giáo dục.
NXB giáo dục H, 1999.
Ths. Nguyễn Thị Cúc
Bộ Giáo dục và đào tạo
Bộ GD&ĐT



×