Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tìm hiểu chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới: Gắn kết văn hóa với chính trị và kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.84 KB, 7 trang )

Trường Đại học Giao thông vận tải

Hội nghị Khoa học cơng nghệ lần thứ XXII

TÌM HIỂU CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG
NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI:
GẮN KẾT VĂN HĨA VỚI CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ
Nguyễn Thị Tâm1*
1

Trường Đại học Giao thông Vận tải, Số 3 Cầu Giấy, Hà Nội
*Email:

Tel: 006115979

Tóm tắt. Thời kỳ đổi mới đất nước, văn hóa phải thơi thúc con người tự nhận thức
được trách nhiệm của mình và thực thi trách nhiệm đó một cách tốt nhất trong mọi lĩnh
vực hoạt động. Cần phải làm cho văn hóa thẩm thấm vào mọi mặt của đời sống xã hội
và vào từng con người; vào kinh tế với tư cách là văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh
nghiệp và quản trị doanh nghiệp; vào lĩnh vực chính trị với tư cách là văn hóa chính
trị,... Chính vì vậy, bên cạnh ba trụ cột phát triển bền vững kinh tế, xã hội và mơi
trường thì sự phát triển của bất cứ một quốc gia nào trong thời hiện đại cũng cần phải
có sự phát triển bền vững về văn hóa.
Từ khóa: Văn hóa, văn hóa Việt Nam, chính trị, kinh tế - xã hội, chủ nghĩa xã hội, bản
sắc dân tộc.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay, việc phát triển bền vững đất nước phụ thuộc vào việc giải quyết hài hòa và hợp lý
các mối quan hệ lớn mà Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã nêu là nhiệm vụ quan
trọng, trong đó có mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, chính trị và phát triển văn hóa.


Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn
Đảng là then chốt với nhiệm vụ khơng ngừng nâng cao văn hố – nền tảng tinh thần
của xã hội. Mọi hoạt động của văn hoá đều phải nhằm vào xây dựng con người Việt
Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng
tạo, có lối sống văn hố, quan hệ hài hồ trong gia đình và xã hội. Nhận thức toàn diện
và sâu sắc về mối quan hệ này trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay là vấn
đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
2. NỘI DUNG
2.1. Khái niệm văn hóa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: “Văn hóa là tổng thể
sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ,
-530-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thông vận tải

hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị
hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [1]. Định nghĩa này nhấn
mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển
có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính
nhân văn phổ qt, đồng thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng
dân tộc. Cũng chính vì thế văn hóa biểu trưng cho sự phát triển của loài người qua các
thế hệ. Một đất nước giàu truyền thống văn hóa là một đất nước giàu có về tinh thần.
Văn hoá Việt Nam là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp trong quan hệ giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội và thiên nhiên; được đúc kết từ cuộc
sống và thực tiễn đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta qua hàng ngàn
năm lịch sử, tiếp thu những tinh hoa văn hố nhân loại. Đó là nền văn hố tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản

là đại chúng, dân tộc, hiện đại và nhân văn” [2].
Văn hóa khơng phải là thứ tồn tại bên ngồi xã hội, càng khơng phải là thứ vốn
có sẵn trong tự nhiên, đồng thời, văn hóa cũng khơng phải là cái bất biến. Trái lại, văn
hóa ln ln được phát triển, bổ sung, được làm giàu thêm, và cùng với thời gian,
được các thế hệ sau kế thừa có chọn lọc. Theo nghĩa rộng nhất, văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Như vậy, văn hóa
là một trong những nét đặc trưng tiêu biểu, hay là thuộc tính đặc trưng cơ bản nhất của
lồi người và chỉ có ở con người. Điều đó có nghĩa là văn hóa vừa mang tính người,
vừa mang tính xã hội và phản ánh đậm nét trình độ phát triển mọi mặt của một xã hội,
của một cộng đồng người và của một dân tộc. Trong một quốc gia dân tộc cũng có thể
tồn tại các dịng văn hóa khác nhau, song vẫn có sự thống nhất trong đa dạng.
Xã hội càng phát triển ở trình độ cao thì trình độ văn hóa càng cao, hoặc có thể
nói, trình độ văn hóa cao vừa là điều kiện, vừa là động lực, vừa là kết quả của sự phát
triển của xã hội. Nếu coi toàn bộ những “sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng”[4] là văn hóa thì văn hóa
khơng những khơng tách rời cuộc sống thường nhật của con người, mà còn thấm sâu
vào tất cả các lĩnh vực của kiến trúc thượng tầng. Trong thời đại tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, xét cả trên bình diện quốc gia lẫn khu vực và quốc tế,
hơn bao giờ hết, văn hóa ngày càng gắn bó hơn, quyện chặt hơn với chính trị và kinh tế.
Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan tâm từ rất sớm. Ngay từ khi chưa giành chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhận thức được sự cần thiết phải gắn kết phát triển văn hóa với xây dựng, phát triển kinh
tế - xã hội; phải xây dựng văn hóa trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong
Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống.
2.2. Văn hóa gắn kết với chính trị
Trong mối quan hệ với chính trị, văn hố phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và ở
trong chính trị. Mục tiêu đầu tiên cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải giải phóng
-531-



Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thơng vận tải

được về chính trị, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
có giải phóng được về chính trị thì mới tạo điều kiện cho văn hóa được giải phóng, tạo
tiền đề cho văn hóa phát triển. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc để
giành chính quyền, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Người
nói: “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân
ta bị nơ lệ thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được”[5].
Văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cách mạng trên lĩnh vực văn hóa là một nhiệm vụ quan
trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là
một mặt trận”, “Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể đứng
ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”[6]. Tính chất mặt trận của văn nghệ khơng
phải chỉ chống giặc ngoại xâm, mà cịn phải chống giặc nội xâm. Mà chống giặc nội
xâm khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều. Cho nên, văn nghệ cần phải dũng cảm phê bình
rất nghiêm khắc những thói xấu như tham ơ, nhũng lạm, lãng phí, lười biếng, quan liêu...
Mặt trận văn nghệ khơng phải chỉ có “chống” mà cịn phải “xây”, mà xây là chính và lâu
dài. Để làm tròn nhiệm vụ này, chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng
đúng, phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Nói đến chính trị là nói đến những hoạt động liên quan đến mối quan hệ giữa các
tầng lớp, các giai cấp và các tộc người trong mỗi quốc gia. Nói đến chính trị thì cần
phải nhấn mạnh vai trị của việc giành lấy chính quyền, giữ được chính quyền, củng cố
và xây dựng chính quyền; đến việc sử dụng quyền lực nhà nước, huy động sức mạnh
và sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào các công việc của đất nước; xác
định các nhiệm vụ và nội dung hoạt động cụ thể của nhà nước trong từng giai đoạn cụ
thể nhất định cũng như xuyên suốt trong nhiều năm. Vì vậy, nói đến một nền chính trị

lành mạnh, tiến bộ là nói đến một nền chính trị vì dân, vì nước, vì sự phát triển khơng
ngừng và sự trường tồn của dân tộc và của đất nước. Nói đến nền chính trị hiện đại
không thể không đề cập đến hai trụ cột rất quan trọng là quyền lãnh đạo, cầm quyền
của đảng chính trị và hiệu lực quản lý của nhà nước. Với một nhà nước pháp quyền
hiện đại khi mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân thì vai trị của văn hóa và trình độ
văn hóa, nhất là văn hóa pháp luật, văn hóa quản lý, văn hóa tổ chức và văn hóa ứng
xử của chính quyền với người dân càng có vai trị quan trọng. Trong thế giới tồn cầu
hóa hiện nay, khơng một quốc gia nào có thể đứng đơn độc, đứng một mình, tự tách
mình ra khỏi cộng đồng thế giới hoặc không tiến hành giao thiệp, khơng trao đổi, bn
bán với các nước khác, vì thế chính trị cịn là mối quan hệ giữa các quốc gia trong
cộng đồng quốc tế.
Do đó, muốn tạo được sự hài hịa về lợi ích trong tồn xã hội thì cần có chính
sách đủ thơng minh để khơng ai trong số họ phải chịu thiệt thòi, cảm thấy bị đối xử
khơng cơng bằng. Một chế độ chính trị nếu khơng tạo được sự bình đẳng và sự cơng
bằng một cách thực chất về tất cả các mặt, nhất là nếu để diễn ra tình trạng phân cực
giàu nghèo quá mức, mất kiểm sốt thì nguy cơ bất ổn xã hội là điều rất dễ xảy ra. Một
chính sách hài hịa về lợi ích địi hỏi khơng chỉ tính khoa học mà cịn cả tính nhân văn,
tính văn hóa. Nghĩa là, mọi chính sách của một thể chế chính trị tiến bộ trong thời đại
-532-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thông vận tải

hiện nay đều phải nhằm mục tiêu cao nhất là phục vụ con người với tính cách vừa
là chủ thể, vừa là khách thể thật sự và chân chính của xã hội.
Nói cách khác, trong thế giới đương đại, văn hóa cần và phải thấm sâu vào chính
trị ngay từ bước hoạch định đường lối lâu dài cùng các chính sách cụ thể, cũng như
trong suốt cả chặng đường hiện thực hóa các chính sách đó. Muốn tạo được công bằng

xã hội và tránh được sự phân cực giàu nghèo thì văn hóa trong chính trị đương đại phải
coi con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể của thể chế chính trị. Qua đó vừa khơi
dậy được sức mạnh tiềm ẩn của họ, vừa phục vụ họ một cách tốt nhất. Đó chính là một
nền chính trị và thể chế chính trị thơng minh, tất cả đều do con người và vì con người.
Đó cũng là chỗ dựa quan trọng hàng đầu tạo nên sự bền vững lâu dài của chế độ.
Trong điều kiện thế giới hiện nay, đối với bất cứ chế độ xã hội nào, dù chế độ đó
là do một đảng duy nhất cầm quyền hoặc có nhiều đảng cùng đua tranh giành quyền
lãnh đạo, để cầm quyền một cách vững chắc không thể thiếu một cơ quan quản lý nhà
nước trong sạch và hiệu quả khi thực thi đường lối của đảng cầm quyền. Cơ quan quản
lý nhà nước ấy phải được hình thành từ những người ưu tú đại diện cho đảng cầm
quyền và cho cả xã hội. Họ phải là những người có văn hóa quản lý điều, hành tốt, văn
hóa pháp luật vững vàng, trình độ văn hóa tổ chức cao để hồn thành trách nhiệm
trước đảng của họ và trước đất nước. Đây là điều chúng ta cần học hỏi, rút kinh
nghiệm và thực hiện để khơng lãng phí thời gian, tiền của và mất niềm tin của nhân
dân.
Tại những nước có trình độ dân chủ và văn minh cao nếu người nào đó sau khi
được bầu hoặc được bổ nhiệm vào một cương vị nhất định mà khơng đáp ứng được
u cầu cơng việc thì người đó sẽ tự nguyện xin từ chức hoặc sẽ bị cách chức. Có thể
nói, văn hóa từ chức là một nét nổi bật và khá phổ biến của nền chính trị hiện đại thế
giới. Những người làm chính trị có văn hóa cần hiểu rằng, việc họ được giao đảm
nhiệm một chức trách nào đó chính là để gánh vác công việc chung của đất nước, chứ
không phải để thu lợi, để làm giàu bất chính, cho nên khi cảm thấy bản thân mình
khơng đủ năng lực, hoặc mắc những thiếu sót làm mất niềm tin của nhân dân,... thì
việc họ xin khơng tiếp tục chức trách đó nữa là chuyện bình thường và rất đáng trân
trọng. Ngược lại, một khi có ai đó bị cách chức, bị miễn nhiệm do năng lực yếu kém,
do vi phạm pháp luật hoặc do mất tín nhiệm, do mất lịng tin của nhân dân thì đó chính
là sự nghiêm minh của pháp luật, sự trong sạch và sức mạnh thật sự của bộ máy nhà
nước.
Trong một nhà nước pháp quyền việc thay thế người thiếu năng lực hoặc có tỳ
vết được coi là bình thường nhằm mục đích nâng cao năng lực, hiệu quả, uy tín của cơ

quan quản lý nhà nước và của đảng cầm quyền, đặc biệt là để thu phục nhân tâm, tạo
sự đồng thuận trong xã hội. Đó là lý do vì sao ở các nhà nước pháp quyền tiên tiến sự
trì trệ ít khi kéo dài và thường thay đổi quyền lãnh đạo, quyền cầm quyền. Có thể nói,
ở những nước này văn hóa từ chức là một trong những động lực góp phần thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Thiết nghĩ, đã đến lúc nước ta cần áp dụng văn hóa từ chức trong
tồn xã hội, trước hết là trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp.
-533-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thơng vận tải

Những điều trình bày trên đây cho thấy, trong điều kiện thế giới hiện nay, cũng
như từ thực tiễn đất nước ta, văn hóa vơ cùng cần thiết cho chính trị; chính trị khơng
thể tách rời văn hóa và khơng thể thiếu văn hóa; chính trị có văn hóa sẽ là động lực
thúc đẩy việc xây dựng một xã hội ổn định, tự do, công bằng, nhân văn và phát triển
bền vững. Sức mạnh của chế độ, của chính quyền, của đảng chính trị cầm quyền được
tạo nên và dựa trên các cơ sở quan trọng này.
2.3. Văn hóa gắn kết với kinh tế
Trong mối quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ
tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Từ đó, Người yêu cầu phải chú trọng xây
dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn
hố. Có kinh tế mới đảm bảo cho nền văn hóa phát triển, khơng thể xây dựng một nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa khi kinh tế chưa đảm bảo, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, đời
sống nhân dân chưa ổn định. Trong mối quan hệ với văn hóa, kinh tế phải đi trước một
bước, Người viết “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn
hóa. Vì sao khơng nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới
vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước” [7]. Để tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có cả
vật chất lẫn tinh thần, song con người là quyết định; để đưa đất nước đi lên, không thể

không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con
người và thước đo trình độ con người chính là văn hóa.
Tuy vậy, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khơng
nhấn mạnh một chiều về sự phụ thuộc của văn hóa vào kinh tế, khơng chờ kinh tế phát
triển rồi mới quan tâm đến văn hóa. Theo Người, văn hóa có tính tích cực, chủ động,
đóng vai trị to lớn như một động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị.
Người nói “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh
công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân
dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hịa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[8]. Tăng trưởng kinh tế phải đi đơi với phát triển
văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu
duy nhất thì chẳng những mơi trường văn hóa - xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế
cũng khơng đạt được. nói cách khác, văn hóa phải ở trong kinh tế và thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế.
Để phát triển đất nước, bên cạnh một nền chính trị lành mạnh, một xã hội ổn
định, tiến bộ, còn cần phải tập trung đầu tư phát triển kinh tế, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, ngày nay không thể phát triển kinh tế bằng mọi
giá, nhất là không thể vì các chỉ số tăng trưởng kinh tế mà hy sinh môi trường sống.
Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trong các kế hoạch phát triển kinh tế, nhất là phát
triển cơng nghiệp, chúng ta đã thiếu tầm nhìn xa, thiếu kiến thức văn hóa sinh thái.
Hơn 40 năm trước đây đã có nhà nghiên cứu đưa ra nhận định mang tính cảnh báo
rằng: khi xây dựng nhà máy, xí nghiệp chúng ta chưa chú ý đến việc bảo vệ môi
trường, cịn nặng tính chất tự phát, nặng về kinh tế đơn thuần chứ chưa có quy hoạch
sinh thái. Trong nhận thức, ta chưa thấy rằng môi trường sống và thiên nhiên của
chúng ta không chỉ thuộc về thế hệ hôm nay mà còn thuộc về nhiều thế hệ mai sau.
-534-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII


Trường Đại học Giao thơng vận tải

Hậu quả của tình trạng đó giờ đây đã rất rõ ràng và chắc chắn sẽ cịn nặng nề hơn
trong tương lai nếu khơng kịp thời có các giải pháp hiệu quả. Chính vì vậy, tiếp nhận
đầu tư, tiến hành cơng nghiệp hóa nhất thiết phải theo hướng hiện đại, khơng tách cơng
nghiệp hóa ra khỏi hiện đại hóa. Dù là cơng nghiệp hóa nơng nghiệp cũng phải theo
hướng hiện đại, trên cơ sở sử dụng cơng nghệ hiện đại. Hãy cẩn trọng với tình trạng
“tham bát bỏ mâm” như các dự án kéo dài nhiều năm, đội vốn lên rất lớn so với khi
duyệt thầu đang chình ình trước mắt bàn dân thiên hạ.
Văn hóa cũng chưa thấm sâu vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; văn hóa kinh
doanh và văn hóa doanh nghiệp chưa được coi trọng, chưa được coi là điều kiện cốt tử
cho sự phát triển bền vững của đất nước. Càng đáng ngại hơn là trình độ văn hóa
doanh nghiệp và doanh nhân của chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh
trong điều kiện tồn cầu hóa hiện nay. Kinh tế đất nước, và nói chung cả những mặt
khác của đất nước, sẽ không thể nào phát triển bền vững nếu trình độ văn hóa kinh
doanh khơng được kịp thời nâng lên, nếu văn hóa kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp
khơng được coi trọng đúng mức.
Dễ dàng nhận ra, hiện nay, bên cạnh các nhà sản xuất và các doanh nhân chân
chính, có đạo đức và có văn hóa thì tình trạng sản xuất, kinh doanh chộp giật, thiếu
đạo đức, phản văn hóa vẫn đang tràn lan dường như ở tất cả các lĩnh vực, kể cả lĩnh
vực liên quan đến sức khỏe và tính mạng con người.
Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, sở dĩ tình trạng sản xuất và kinh doanh thiếu văn
hóa này có thể diễn ra trong một thời gian dài như vậy, ngoài lỗi của các doanh nhân,
còn là do lỗi của các cơ quan công quyền, của các cơ quan thực thi pháp luật và do cả
việc thiếu luật, do luật pháp của chúng ta không theo kịp hiện thực cuộc sống. Cũng có
thể nói, tình trạng sản xuất, kinh doanh phản văn hóa có thể tồn tại cơng khai như hiện
nay cịn do nạn tham nhũng chưa được ngăn chặn có hiệu quả; do lợi ích nhóm tiêu
cực của khơng ít những kẻ thối hóa, biến chất mà pháp luật và các cơ quan thực thi
pháp luật chưa kiểm soát được. Đây chính là bằng chứng nổi bật về sự gắn bó chặt chẽ
giữa công tác quản lý nhà nước các cấp với hoạt động kinh tế, giữa chính trị và kinh tế

với văn hóa.
3. KẾT LUẬN
Trong thời kỳ mới, văn hóa phải thôi thúc con người tự nhận thức được trách
nhiệm của mình và thực thi trách nhiệm đó một cách tốt nhất trong mọi lĩnh vực hoạt
động. Văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với chính trị và kinh tế; phải, thường xuyên quan
tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế, đồng thời văn hóa phải góp phần ngăn chặn, đẩy
lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, công chức, đảng viên để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Quốc gia
nào đạt được tất cả những mục tiêu đó cũng đồng nghĩa với việc quốc gia ấy sẽ có
được sự phát triển nhanh hơn, mạnh mẽ hơn và bền vững hơn. Trong sự phát triển này,
văn hóa đóng vai trị hết sức quan trọng, bởi vì cả chính trị lẫn kinh tế đều khơng thể
thiếu văn hóa và đều địi hỏi phải có văn hóa. Nói cách khác, trong điều kiện thế giới
hiện nay và trong thời kỳ mới của đất nước ta, văn hóa phải thấm sâu vào cả chính trị
lẫn kinh tế. Phải gắn kết thật chặt chẽ văn hóa với chính trị và với kinh tế nhằm thực
-535-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thông vận tải

hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Văn hóa khơng thể
đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị.
LỜI CẢM ƠN
Cảm ơn Trường Đại học Giao thông vận tải đã tổ chức Hội nghị Khoa học công
nghệ lần thứ XXII để các thầy cơ giáo, trong đó có tác giả được chia sẻ bài báo của
mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.78 - 126.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng, Lưu
hành nội bộ, tháng 7-2000, tr. 281.
[3]. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
[4]. Nguyễn Trọng Chuẩn: Chủ động đề phòng nạn ơ nhiễm mơi trường trong q
trình cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tạp chí Triết học, số 2-1977.
[5]. Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.434.
[6]. Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr.368-369.
[7]. Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.10, tr.59.
[8]. Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr 281 -282.

-536-



×